NGÀI SĪVALĪ
 

Cuộc sống của nhân loại trên hành tinh này nói chung, sự tồn tại của các đoàn thể tổ chức, sức sống của mỗi gia tộc, và ngay cả sức khỏe của mỗi cá nhân đều vận hành theo chu kỳ. Ví dụ, lịch sử địa chất thổ nhưỡng chẳng hạn, cũng vận hành theo chu kỳ. Có những biến chuyển trong các địa tầng trái đất, trong các lớp vỏ trái đất cộng với khí hậu thời tiết mà tạo ra các môi trường sinh thái khác nhau, làm cho hành tinh này có những diện mạo khác nhau và từ đó muôn loài mới sanh sôi nảy nở tùy thời kỳ khác nhau. Tôi bắt đầu về ngài Sīvali một cách lạc đề như vậy. Có thời khủng long sống được nhưng có thời chúng phải tuyệt chủng nhường chỗ cho những loài khác. Đó là nói về thế giới sinh học. Xă hội cũng vậy, từ đời sống nhân loại, các đoàn thể và cả sức khỏe, lục phủ ngũ tạng của ḿnh cũng sinh hoạt theo chu kỳ, có lúc hưng thịnh và có lúc suy vong dần dần. Sự tồn vong của Phật Pháp cũng không nằm ngoài định luật của chu kỳ ấy. Khi Phật c̣n th́ giới, định, tuệ đều được quan tâm. Khi Phật c̣n th́ c̣n cả pháp học, pháp hành và pháp thành. Nghĩa là, về giáo lư th́ rất nhiều người quan tâm học hỏi. Chuyện hành tŕ giữ giới tu tập Chỉ Quán cũng có rất nhiều người quan tâm hành tŕ. Về sự chứng đắc thần thông đạo quả th́ cũng rất nhiều người chứng đắc. Nhưng theo năm tháng th́ sự tồn tại của giáo pháp cũng đi theo chu kỳ biến diệt từ từ.

Ngày xưa khi Phật c̣n th́ những cái đặc điểm của giáo pháp như là trí tuệ, giới luật, tri kiến, thiền định được xem trọng. Đến đời của chúng ta th́ pháp môn hành tŕ chỉ c̣n lại đức tin thôi, rồi th́ chỉ c̣n bái sám, cúng dường, hành hương vậy thôi. Ngày xưa tu Phật người ta cầu trí tuệ, cầu giải thoát, cầu đạo hạnh; ḿnh bây giờ th́ cầu buôn mua may bán đắt. Cái ǵ cũng có chu kỳ hết. Ông sư bây giờ đi tu mong có được cái chùa, có được đệ tử đông đông, có đồng ra đồng vô, đi nước này nước nọ, sống sung sướng vui vẻ, đó là mục đích của đời tu bây giờ.

Nói qua Miến Điện, Thái Lan; Miến Điện c̣n khá hơn một chút chứ Thái Lan th́ thấy toàn là bái sám. Một trong những cái đáng buồn là không thấy người ta nhắc nhở ǵ tới mấy vị mà cao đồ đệ tử số một của Đức Phật như ngài Ānanda, ngài Ca Diếp, ngài Xá Lợi Phất, ngài Mục Kiền Liên, ngài Ca Chiên Diên, ngài Câu-Hy-La v.v... mà chỉ toàn nhắc nhiều đến ngài Sīvali. Tại sao vậy? V́ ḿnh nghèo lâu rồi. Do chiến tranh, do cơ chế chính trị xă hội từ đó dẫn tới cơ chế kinh tế, nên trong khu vực ḿnh nghèo và đất nước ḿnh cũng nghèo. V́ nghèo cho nên khi biết đạo rồi vẫn thấy ngài Xá Lợi Phất, ngài Ānanda, ngài Mục Kiền Liên không quan trọng, mà cứ ngài Sīvali là quan trọng. Chùa chùa, nhà nhà, sư sư, người người, ai cũng thờ ngài Sīvali. Thật ra th́ ḿnh thờ theo cái máu thương mại. Bữa hổm tôi có nói rồi, mỗi cái biệt hạnh của các vị đệ tử Phật là một góc nhỏ của vườn hoa chánh pháp. Hành tŕ đúng đắn chỉn chu rốt ráo lời Phật th́ ta sẽ có trí tuệ, có thiền định, có thần thông, có phước lộc, có sức khỏe, có trí nhớ; ta sẽ có khả năng tinh tấn, kham nhẫn, ly dục, tri túc, đầu đà. Nếu một người tu tập hoàn chỉnh lời dạy của chư Phật th́ đều có khả năng đó hết.

Đức Phật Chánh Đẳng Giác khác Thinh Văn chỗ nào? Đó là tất cả các hạnh lành của Ngài đều đạt đến chỗ tận cùng hết nên nên khi Ngài thành rồi cái ǵ Ngài cũng tṛn trịa hết. Thinh Văn th́ không, lư tưởng cầu giải thoát th́ đúng rồi đó nhưng cái hướng để nghiêng nặng, để xem trọng th́ mỗi vị mỗi khác.

Hôm nay Phật pháp đă đến giai đoạn của hậu kỳ rồi, ḿnh không c̣n màng nữa chuyện tu tập giải thoát, trí tuệ, giáo lư, mà ḿnh chỉ màng một góc nhỏ nhỏ của kinh điển. Ví dụ như vị nào có tài lộc, vị nào có học tṛ đệ tử th́ ḿnh thấy thờ vị đó ngó bộ có lư hơn mấy vị khác. Thật ra cái hạnh của ngài Sīvali không có tệ. V́ sao, v́ một người học đạo hiểu đạo và hành đạo th́ tự nhiên có tâm hồn hào sảng, đó là chuyện tự nhiên thôi. Học đạo, hiểu đạo mà c̣n bón rít bủn xỉn th́ đó là chưa có hiểu. Người học đạo hiểu đạo và hành đạo đúng mức th́ tự nhiên ḷng hào sảng; mà hễ có ḷng hào sảng th́ tự nhiên nó sẽ tạo ra cái phước tài lộc. Chỉ là chuyện tự nhiên thôi. C̣n ḿnh th́ lại hiểu lầm, ḿnh cứ tưởng cắm đầu thờ ngài Sīvali là sẽ giàu có trong khi đó lại quên bố thí, quên trau dồi cái tâm hào sảng. Hôm nay ḿnh học về cuộc đời của ngài Sīvali, ḿnh cứ cắm đầu lạy mà không hiểu ǵ hết.

Mỗi đời Phật Chánh Đẳng Giác có mấy chục đệ tử có những biệt hạnh khác nhau, đệ nhất này đệ nhất kia. Đức Phật của ḿnh cũng vậy, Ngài cũng có các vị đệ tử cao đồ đệ nhất này đệ nhất kia, ngài Xá Lợi Phất là biểu tượng cho Tuệ học, ngài Mục Kiền Liên là biểu tượng cho Định học, ngài Ca Diếp là biểu tượng cho tinh thần ly dục tri túc, mỗi vị là một biểu tượng, riêng ngài Sīvali (đệ nhất tài lộc) là biểu tượng cho tinh thần xả tài. Chuyện đời ngài Sīvali là tấm gương xả tài chứ không phải là h́nh tượng thần tài. Chúng ta phải xem lại ḿnh thờ có đúng không, thờ thần tài hay thờ tinh thần xả tài. Xả tài không phải là cúng tám tỷ mười lăm tỷ, mà xả tài ở đây là tâm hồn xả tài, coi t́nh người, ḷng hào sảng quan trọng hơn chuyện tích lũy, nắm bắt.

Đời xửa đời xưa ngài thấy một Đức Phật quá khứ tuyên dương một vị tỳ kheo là Đệ nhất tài lộc, ngài thích lắm. Thích ở đây là thích tinh thần xả tài, giống như nhiều người thờ Quán Âm là thờ tinh thần từ bi, lắng tai nghe cuộc đời xem ai cần th́ giúp chứ không phải thờ để réo. Tây có câu: Cầu nguyện lúc nguy cơ không phải để thoát nạn mà để có thêm b́nh tĩnh lúc nguy cấp. Tất cả các chuyên gia cứu hộ trên thế giới đều có chung nhận định như nhau là trong tất cả t́nh huống nguy hiểm khẩn cấp, đường tơ kẽ tóc, chỉ mành treo chuông, khả năng thoát nạn của người b́nh tĩnh cao hơn nhiều so với người hoảng loạn. Cầu nguyện thông minh là cầu nguyện trong nhận thức là cầu để có b́nh tĩnh, và trong sự b́nh tĩnh đó th́ mới thoát nạn, và nếu có ra đi th́ cũng ra đi bằng sự b́nh tĩnh và thanh thản. (Chứ đừng ra đi mặt tái mét, lúc người ta liệm nh́n xấu lắm nghen.)

Ngài Sīvali thấy vị tỳ kheo có hạnh xả tài đó, ngài thích quá mới nguyện đời sau sanh ra có dịp nào đó sẽ là một vị tỳ kheo Đệ nhất xả tài. VN ḿnh thờ lộn! Từ xả tài quẹo qua thần tài. Người ta tu buông c̣n ḿnh th́ tu nắm. Khi ḿnh nguyện cái ǵ th́ kể từ ấy trở đi ta bèn có kiểu sống, kiểu suy tư, kiểu hành động, và khi ta có một sinh phong, sinh thức tương ứng với cái hạnh nguyện đó th́ ta được gọi là Bồ Tát. Ví dụ khi nguyện hạnh trí tuệ th́ từ đó ḿnh phải thiết tha học hỏi cầu đạo, thiết tha tham vấn. Cầu thần thông th́ phải thiết tha đến định học, không sống phóng dật thất niệm nữa. Nguyện rồi phải hành. Bồ đề tín, bồ đề nguyện, bồ đề hạnh phải ăn khớp với nhau. Khi bắt đầu nguyện Đệ nhất xả tài, đời đời sanh ra thấy hễ người ta thiếu thốn khố khó là ngài giúp liền.

Người có nhiều phước bố thí th́ đời đời sinh ra giàu có nhưng không phải là luôn luôn. Bởi v́ đôi lúc trên đường sinh tử cũng có lúc ḿnh có tâm bủn xỉn. Mỗi lần có một tâm bủn xỉn xuất hiện trong ṿng 3 giây, 6 giây, tâm đó sẽ gieo mầm nghèo khó cho ḿnh trong một kiếp nào đó. Ví dụ như ba ngàn kiếp liên tục tôi là người hào sảng nhưng có một đôi lần tôi kẹo, thấy cho uổng quá hoặc cho là tiếc. Ba ngàn kiếp hào sảng giúp cho tôi sanh ra trên đống bạc đống vàng nhưng chính đôi lần có cái uổng tiếc này mà có những kiếp sanh ra tôi nghèo le lưỡi luôn. Ngài Sīvali cũng vậy, kể từ phát nguyện đệ nhất tài lộc là có hạnh xả tài. Có hạnh xả tài th́ hưởng không hết. Tuy nhiên, dù có hạnh xả tài nhưng cũng có lúc nghèo. Đi địa ngục, làm thú c̣n có nữa huống chi là làm con nhà nghèo. Lúc đó, nhằm kiếp Phật Tỳ Bà Thi ra đời, ngài nghèo quá đi làm công cho người ta, thấy thiên hạ cúng dường trai tăng c̣n ḿnh th́ không có ǵ để cúng, chỉ có cái tà lỏn mà rách tùm lum như cái rổ. Ngài đi làm thuê làm mướn được trả công một hũ mật ong. Ngài đem về cúng cho Đức Phật và chư tăng trong lễ trai tăng của người ta, và nguyện: “Xin cho con mai mốt đừng nghèo nữa, nghèo quá cái khó bó cái khôn con không tính ǵ được hết. Gia tài con chỉ có một hũ mật ong, v́ hôm nay con dốc túi xả tài nên đời đời con đừng gặp cảnh dốc túi nữa.” V́ cái câu con dốc túi mà con cúng nên đời sau đừng bao giờ con bị cảnh dốc túi nữa. Làm phước khôn như vậy đó. Luân hồi nhiều kiếp, đến đời Phật Ca Diếp ngài là một tỳ kheo chuyên tu tinh tấn, đạo hạnh kiêm ưu. Bữa đó ngài đi trai tăng ở nhà Phật tử, người ta cúng dường bữa ăn thật ngon lành, trên đường về ngài gặp một con chó cái gầy trơ bộ xương cách trí, cả bầy chó con bu lại rúc bú nhưng làm ǵ có sữa.

Tôi nhớ hồi nhỏ ở chùa, sư cả - sư phụ của tôi, lâu lâu về, mấy ông sư chúng tôi bu lại hỏi: “Sư ơi có sữa không sư.” Chúng tôi hồi xưa giấc chiều đói dữ lắm. Sư cả đi Sài G̣n về thế nào cũng có sữa. Là sữa Ông Thọ đó, nhưng tụi tôi nói tắt. Bữa đó Sư mệt quá Sư nói: Trời đất ơi, tui ốm dzầy mà sữa đâu, khổ quá! Tôi nhớ chuyện đó tới bây giờ. Nói vậy thôi, lần nào về không có là Sư móc túi đưa tiền cho người ra mua sữa về cho mấy ông thầy chùa con uống.

Ngài Sīvali thấy con chó mẹ như vậy, thương quá, ngài nghĩ bụng, bây giờ ḿnh không có ǵ, thôi móc cổ mửa ra cho nó. Gia tài của ông thầy chùa một ngày có một bữa ăn đó thôi, lâu lâu mới có được bữa ăn ngon bổ dưỡng, vậy mà không cầm ḷng khi thấy con chó đói. Móc họng mửa ra hết cho con chó mẹ ăn có sức nuôi bầy con. Trong room này, biết bao nhiêu người giàu có, nghe chuyện thấy gớm chết. Nhưng bố thí đó mới là xả tài, bán mạng mà bố thí, tận tuyệt, dốc ḷng, bố thí không cầu danh không cầu lợi, không cần thiên hạ hay biết. Khi con người sống hết t́nh như vậy, đời đời sanh ra tràn trề no đủ. Đến đời Đức Phật Thích Ca Mâu Ni, ngài sanh ra là một hoàng tử (sanh vào bụng một bà hoàng – công chúa Suppavasa). Tuy nhiên, có một chuyện lấn cấn, trong đời quá khứ một lần đó ngài là vua và bà mẹ hiện tại là thái hậu. Khi cất quân đi đánh xứ người, dân xứ đó ở trong thành lũy kiên cố, đánh hoài không được. Thái hậu bàn với vua, công thành không được, bỏ đi th́ mất mặt, thôi cứ bao vây, bên trong đói thế nào cũng đầu hàng. Thế là bao vây 7 ngày, dân trong thành người lớn con nít kiệt sức dần dần. Thám báo về báo tin như vậy, hai mẹ con bà động ḷng thấy tội nghiệp và rút quân. Người dân bị nhốt 7 ngày trong thành th́ biết bao nhiêu là vấn đề, đói không có ăn, bệnh hoạn không có thầy thuốc… Thế là hai mẹ con chết rồi đọa địa ngục. Từ đó trở lên, kiếp nào cũng cứ bị cầm tù, kẹt đ̣ kẹt phà, bị giam bị nhốt nhiều đời. Đời cuối cùng, bà mẹ là công chúa tên là Suppavasa, lấy chồng có mang bảy năm bảy tháng. Chửa trâu th́ mười một mười hai tháng, c̣n ở đây chửa bảy năm bảy tháng. Thầy thuốc bắt mạch thấy thai ok, không phải thai lưu. Đủ 7 năm 7 tháng th́ công chúa Suppavasa chuyển dạ, nhưng ngài không chịu chui ra, cứ ra đến cửa là nằm ngay đó. Công chúa Suppavasa đau thấu trời, nói chồng vô lạy Phật và thưa rằng Suppavasa đau quá không vô đảnh lễ Thế Tôn được. Ông chồng vô thưa với Thế Tôn, Suppavasa đau quá không vào đảnh lễ Phật được. Đức Phật nói: “Mong cho Suppavasa mẹ tṛn con vuông.” Ngay khi Thế Tôn nói câu đó lập tức ở nhà Suppavasa lâm bồn và sinh ra cậu bé cực kỳ thông minh đĩnh ngộ, tóc tai đầy đủ. Hôm sau gia đ́nh quyết định thỉnh chư tăng về nhà cúng dường. Xui một chỗ là khi đến thỉnh Phật hôm sau trai tăng th́ Phật từ chối, Ngài nói có một đệ tử của ngài Mục Kiền Liên thỉnh một tuần lễ rồi. Họ nói: “Bạch Thế Tôn, duyên sự đặc biệt quá, chúng con xin thương lượng không biết được hay không.” Đức Phật bảo hăy đi đến gặp ngài Mục Kiền Liên. Họ đến gặp ngài Mục Kiền Liên và ngài Mục Kiền Liên nói với đệ tử: “Cái duyên sự của người ta như vậy, mang thai lâu như vậy, đứa bé là đại Thinh Văn chứ không phải thường, nhường người ta được không.” Người đệ tử nói: “Sư phụ kêu con nhường th́ con nhường. Nhưng con nhường lỡ sau 7 ngày con không có cơ hội làm phước th́ sao, thôi con sẽ nhường nhưng xin ngài bảo đảm cho con ba chuyện: Thứ nhất, con có sống hơn bảy ngày nữa không.” Ngài Mục Kiền Liên nhíu mày nhập định và xuất định biết ngay: “Được, chuyện đó ta bảo đảm, ngươi sẽ sống trăm tuổi chứ không phải là bảy ngày, đến lúc Phật tịch rồi ngươi cũng c̣n”. “Thứ hai, tôn giả bảo đảm sau bảy ngày tài sản của con cũng c̣n nguyên, không bị chiến tranh, táng gia bại sản không?”. Ngài Mục Kiền Liên nhíu mày một cái: “Rồi, ta bảo đảm tài sản của ngươi ăn ba kiếp không hết.” “Thứ ba, ngài bảo đảm bảy ngày nữa đức tin của con cũng ok, lỡ lúc đó con không tin Tam bảo nữa, đoạn kiến vô thần, phỉ báng Phật pháp th́ sao.” Tới đây th́ ngài Mục Kiền Liên không c̣n nhíu mày nữa. Đọc chỗ này ḿnh mới thấy đặc biệt, chỗ này gặp mấy ông phàm tăng dùng thần thông th́ ok, nhưng chỗ này ngài không muốn dùng, ngài muốn dạy cho ông một bài học. Ngài nói: “Không, ta chỉ bảo đảm cho con sống trăm tuổi, tánh mạng ok, tài sản ok, nhưng đạo tâm tín tâm của con th́ con phải tự liệu lấy. Không có thầy nào liệu cho con hết. Trên đời này mà có chuyện người này bảo đảm đạo tâm của người kia th́ thế giới này đâu như con thấy.” Nghe như vậy, người đệ tử quỳ sụp xuống: “Dạ con hiểu, điều thứ ba này con xin bảo đảm, bảy ngày nữa con vẫn ok.”

Sau đó ngài Mục Kiền Liên về báo lại cho vợ chồng Suppavasa biết. Suppavasa bắt đầu tổ chức lễ trai tăng, thiết lễ trai viên cúng dường Thế Tôn và tăng chúng suốt bảy hôm. Cậu bé Sīvali chạy lăng xăng. Ngày Xá Lợi Phất hỏi: “Bảy năm trong đó con có thấy ngán lắm không, con có thấy sợ luân hồi không, con có muốn đi xuất gia không?”. Cậu bé Sīvali gật đầu liền: “Bảy năm trong đó con sợ lắm con không muốn tái diễn chuyện đó nữa.” Suppavasa đứng hầu cơm chư tăng thắc mắc không biết con ḿnh nói ǵ với tướng quân chánh pháp. Chưa quen biết ngày nào mà líu lo líu lo. Suppavasa lại gần hỏi ngài Xá Lợi Phất: “Nó nói ǵ vậy, bạch ngài?” Ngài Xá Lợi Phất nói nó sợ quá không muốn đầu thai nữa, nó muốn đi tu. Suppavasa nói, “Dạ nếu nó muốn xin ngài cho nó đi tu.” Suppavasa là Phật tử đắc Tu-đà-hoàn mà. Thế là cậu bé Sīvali đi tu và trở thành vị Đệ nhất tài lộc. Đi tu rồi th́ bất cứ nơi đâu mà có ngài th́ thức ăn, y áo, chỗ ở, thuốc men được cúng dường tấp nập. Nhân sự kiện Đức Phật và chư tăng đến khu rừng keo thăm ngài Revata (ḿnh vừa học ngày hôm qua), sau chuyến đi, Đức Thế Tôn trở về chùa Kỳ Viên và long trọng tuyên bố trước mặt bốn chúng rằng: “Trong các đệ tử của ta, Đệ nhất tài lộc là Sīvali. Trong những hoàn cảnh đệ nhất ngặt nghèo, ai cũng buông xuôi niềm tin, hễ có Sīvali là mọi việc suôn sẻ, đặc biệt là về vật chất là không có ǵ phải lo. Dù sa mạc, hoang đảo, rừng sâu núi cao, ở đâu có Sīvali th́ ở đó có tài lộc.”

Một lần đó ngài Sīvali muốn thử. Ngài nói, “Bạch Thế Tôn, con muốn biết trên đỉnh núi cao hoang vắng không người con có thể lo liệu đời sống của năm trăm tỳ kheo được hay không, xin Thế Tôn cho phép.” Đức Phật nói: “Được, muốn th́ cứ làm.” Với ngài Mục Kiền Liên có thần thông th́ đi chỗ này chỗ kia, c̣n ngài Sīvali th́ muốn thử một lần, ngài đem 500 tỳ kheo lên núi cao, cao đến nỗi vắng bóng chim bay, mây xám mù mịt, nơi đệ nhất ma thiêng nước độc. Vậy mà khi ngài đem 500 tỳ kheo lên đó th́ một thị trấn bỗng dưng th́nh ĺnh xuất hiện trên đó với nhà cao cửa rộng. Chư thiên, long vương, Càn-thát-bà, Dạ Xoa, các chúng thiên long bát bộ đều xuất hiện để cúng dường cho ngài và năm trăm tỳ kheo y như dưới phố. Lúc đó ngài mới xác định ḿnh đúng là Đệ nhất tài lộc.

Cũng giống như chuyện ngài Xá Lợi Phất, buổi chiều đó ngài nhập thiền Quả, rồi ngài xuất định; rồi ngài suy tư về Phật pháp, ngược xuôi, xuôi ngược, suy tư mấy chục ngàn vấn đề trong một buổi chiều đó. Rồi ngài xác định: Đây đúng là đỉnh cao của trí tuệ Thinh Văn mà ta đă đạt được trong Tam thiên đại thiên thế giới. Ngoài Thế Tôn không ai có thể làm được việc như ta vừa làm, tuy nhiên ta vẫn chỉ là một đệ tử của Thế Tôn. Rồi ngài suy nghĩ thêm. Một bậc đạo sư như Thế Tôn th́ chắc chắn chư Phật quá khứ cũng chỉ bằng chứ không hơn và chư Phật vị lai cũng chỉ bằng chứ không hơn. Nghĩ như vậy, ngài vào lạy Phật, ngài nói: “Bạch Thế Tôn, chiều nay trong lúc xả thiền con đă suy tư về giáo pháp của Thế Tôn theo các chiều thuận nghịch, ngược xuôi. Bữa nay là bữa mà con sống hết ḿnh với trí Thinh Văn của con và con mới nhận ra là con đă có một bậc đạo sư là Thế Tôn. Một bậc đạo sư mà con nghĩ chư Phật ba đời mười phương chỉ bằng chứ không hơn.” Bằng cái tâm t́nh cái suy nghĩ của một người như chúng ta nghe vậy th́ một là gật đầu, hai là rất là vui, vui ra mặt, vui kín đáo. Nhưng Đức Phật th́ không. Ngài hỏi ngài Xá Lợi Phất: “Xá Lợi Phất biết ǵ về chư Phật quá khứ, vị lai, Xá Lợi Phất có hiểu ǵ về sở hành và công hạnh của chư Phật ba đời mười phương mà Xá Lợi Phất nói như vậy. Xá Lợi Phất có bao giờ thử t́m hiểu về cảnh giới của các đấng Như Lai Toàn giác hay không?”. Ngài Xá Lợi Phất trả lời “Dạ không, con không có khả năng đó.” Đức Phật nói, “Ngươi không có khả năng đó vậy mà ngươi nghĩ rằng không ai hơn ta th́ đó là đại ngôn, là bạo ngôn.” Ngài không nói là ngài Xá Lợi Phất nói sai, mà đó là tiếng gầm của sư tử. Ngài Xá Lợi Phất nói: “Dạ, con nghĩ là con đại ngôn nhưng không sai, tất cả chư Phật ba đời mười phương đều phải đoạn trừ năm triền cái mới đắc được tận cùng thiền Chỉ. Tất cả chư Phật ba đời mười phương đều phải thấy rơ Bốn Đế, 12 Duyên khởi th́ mới đắc thành Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác. Tất cả chư Phật ba đời mười phương đều phải hoàn măn 37 phẩm Trợ đạo mới trở thành Chánh Đẳng Chánh Giác, con nghĩ đó là con đường tất cả chư Phật đă đi, không có khác nữa. Nếu không có ǵ khác, th́ con dựa vào đó mà nói không ai hơn được Thế Tôn.” Tôi vừa giảng theo chú giải của Kinh Tự Hoan Hỉ.

----------------------------
 

Thờ phụng được nhắc đến trong kinh là sự chiêu niệm công đức người được thờ, không phải thờ để cầu nguyện khấn vái điều chi. Đứng trước xá lợi của một vị thánh hay của Đức Phật, người ta nghĩ tưởng đến ân đức của người để lại di cốt này. Ví dụ trong kinh nói ngài Cūlanāga – thần tài sau thời Phật, phước nhiều như ngài Sīvalī, bất cứ nơi đâu dầu cho hạn hán đói kém thiên tai mất mùa, núi lửa sóng thần… miễn là có ngài th́ chư thiên cũng nghĩ cách nào để cho ngài và người chung quanh được ấm no.

Lần đó chư tăng ở xứ xa rủ nhau đi về Bodh Gaya để đảnh lễ xá lợi Đức Phật. Họ đi bộ, trong đoàn có ngài Cūlanāga, ai cũng yên tâm v́ cho dù trời có sập nhưng khi có ngài th́ không bao giờ bị đói. Một chiều kia trên đường đi, ngài họp chư tăng nói:

-Nhân duyên của tôi với anh em tới đây đă măn, khuya nay tôi Niết bàn, thấy anh em tha thiết nên tôi mới đi chung để hỗ trợ mấy ngày.

Chư tăng nói:

-Ỷ y có ngài chúng tôi mới đi theo, giờ ngài thăng thiên th́ chúng tôi thật tiến thoái lưỡng nan.

Ngài nói:

-Anh em cứ thiêu tôi xong rồi lấy xương chia ra mỗi người một miếng bỏ b́nh bát. Đi tới nơi về tới chốn là luôn được ăn uống no đủ không bao giờ thiếu. Anh em chỉ nh́n xương tôi mà nghĩ tưởng đến công đức của tôi rồi tùy hỷ nhờ vậy cũng được phước lây.

Không phải như bây giờ, người ta cứ kéo nhau qú lạy ś sụp tượng ngài Sīvalī rồi cầu xin trúng đề.

Khi cắt hoa cúng Phật, tôi nghĩ: “Đời đời sinh ra xin cho con dễ nh́n như hoa, khỏe mạnh như hoa và ḷng con luôn nở hoa giới hoa định, hoa tuệ”. Khi để b́nh hoa trước tượng Sīvalī tôi chỉ nghĩ một chuyện: ngài từng là một tỳ kheo đi trai tăng nhà Phật tử về, trên đường thấy con chó mẹ cho con bú mà gầy trơ xương, ngài thương quá, ngài móc cổ để nôn ra cho con chó mẹ ăn. Nhờ phước đó đời đời sinh ra không đói. Mỗi lần nh́n tượng của ngài ḿnh nghĩ, có con người lâu lâu được Phật tử mời ăn một lần mà lại dám móc họng ra cho chó ăn, con người như vậy th́ tấm ḷng thật vĩ đại. Cứ mỗi lần cúng hoa th́ nghĩ đến chuyện đó mà tùy hỷ, chớ đừng cái kiểu mong ngài phù hộ, thờ thánh mà như thờ thần là tào lao.

https://www.facebook.com/photo/?fbid=10208044084044885&set=gm.1317699738253028
(Trích bài giảng Kinh Đại Bát Niết Bàn, Sư Toại Khanh giảng, Nhị Tường ghi chép)

 

 

 

BACK

 

Home