PHÁP MÔN TỊNH ĐỘ TRONG KINH ĐIỂN PĀLI

Toại Khanh

 

Người Phật tử Việt Nam xưa nay thường biết đến khái niệm Tịnh độ qua các kinh nói về Phật Di Đà (Amitābhasutra và Sukhavativyūhasutra) từ Hán tạng, vốn được phiên dịch từ kinh điển Sanskrit. Ở đó, cơi Tịnh độ hay Cực lạc (Phạn ngữ Sukhavat́) được mô tả là cảnh giới tuyệt vời với tất cả những sự thù thắng, trang nghiêm. 

Con đường dẫn đến cơi này có thể chỉ gói gọn trong công phu tŕ niệm hồng danh Phật Di Đà. Ngoài sự thanh tịnh có được từ việc nhất tâm niệm Phật Di Đà, oai lực của Ngài cũng thừa sức tiếp dẫn vong linh người niệm Phật văng sinh về thế giới Tịnh độ để họ tiếp tục tu hành trong điều kiện thuận lợi hơn xưa gấp triệu lần. Cơi ấy giữa người với người không hề biết tương tranh, thù hận v́ ở đó không có chuyện chiếm hữu lợi danh như ở cơi Ta bà nhiều kiếp nạn này. 

Nhưng đó là theo kinh điển Hán tạng, nguồn giáo lư chủ đạo của Phật giáo Bắc truyền. Trong bài viết này ta thử t́m hiểu vấn đề qua kinh điển Pāli, nguồn giáo lư căn bản của Phật giáo Nam truyền. Dĩ nhiên, trong Tam tạng Pāli cũng có khái niệm Tịnh độ (nếu ta muốn gọi thế) với những tŕnh bày thật rơ ràng về cảnh giới này, những cư dân ở đó và con đường dẫn đến cảnh giới Tịnh độ, tức phép cầu văng sanh theo kinh điển Nam truyền. 

CƠI TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PĀLI 

Trước hết, cơi Tịnh độ được biết đến trong kinh điển Pāli qua danh từ Suddhāvāsa, c̣n được dịch là Tịnh cư, theo lối chiết tự Suddha (thanh tịnh) và Āvāsa (chỗ ở). Vậy Suddhāvāsā cũng có thể được dịch là Tịnh độ, Tịnh thổ. Thậm chí chữ Pāli này c̣n gần gũi với chữ Tịnh độ, Tịnh thổ hơn là Sukhavati (chốn An lạc), một chữ chỉ có thể xem là tương đương với từ Sugati (Lạc cảnh, Thiện thú) trong kinh điển Pāli, chỉ chung cho các cơi nhân thiên. 

Theo các chú sớ A Tỳ Đàm, có tất cả 5 cơi Tịnh độ, nằm trong 16 cơi Phạm thiên Hữu sắc, và là chỗ tái sanh của các bậc Thinh văn Bất lai hay c̣n gọi là A na hàm (Anāgāmi người không c̣n trở lại các cơi dục giới). Tuy cảnh giới này chỉ gồm toàn các vị Bất lai và A-la-hán (chứng A-la-hán sau khi sanh về đây), nhưng trên căn bản v́ vẫn là cơi Hữu sắc nên ở 5 cơi Tịnh độ này vẫn có những lâu đài, hoa viên rất trang nghiêm, dĩ nhiên không phải là nơi chốn hưởng thụ, mà đó chỉ là những dấu vết tối thiểu của một cơi Ngũ uẩn (1). Về tuổi thọ, chư Thánh Bất lai ở cơi thấp nhất trong 5 cơi Tịnh độ là cơi Vô phiền (Avihā) có thọ mạng 1.000 đại kiếp, kế đến là cơi Vô nhiệt (Ātappā) có thọ mạng 2.000 đại kiếp, cơi thứ ba là Thiện hiện (Sudassā) có thọ mạng 4.000 đại kiếp, cơi thứ tư là Thiện kiến (Sudasś) có thọ mạng 8.000 đại kiếp và cơi Sắc cứu cánh (Akanittha) có thọ mạng 16.000 đại kiếp. 

Do có những lúc trải qua một thời gian dài không có chư Phật ra đời độ sinh nên dân số trên 5 cơi Tịnh độ chỉ có giảm mà không được bổ sung, do vậy cũng có những thời điểm 5 cơi này không tiếp tục tồn tại. 

CƯ DÂN TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PĀLI 

Trước tiên là tŕnh bày đại lược về 4 tầng Thánh trí làm nên 4 bậc Thánh nhân và chính Đức Phật cũng được kể vào đó. Sơ quả hay Tu đà hoàn (Sotāpatti, Dự lưu), c̣n được gọi là Thất lai, người không thể tái sanh quá 7 lần, là vị đă chấm dứt hoàn toàn 3 thứ phiền năo thân kiến ( nôm na là chấp kiến trong 5 uẩn), hoài nghi (nghi ngờ về Phật pháp nói chung) và giới cấm thủ (chấp trước các tín điều mù quáng). Ở một số vị, thánh trí Sơ quả chỉ là một giai đoạn thoáng qua trước khi hoàn tất các tầng thánh trí cao hơn. Như trường hợp Đức Phật hoặc các vị Thanh văn tốc chứng. Nhưng cũng có lúc giai đoạn này kéo dài trong nhiều giờ, nhiều ngày, nhiều năm hoặc vài kiếp sống (dĩ nhiên không quá 7 kiếp). Sớ giải Trường Bộ ghi rằng Thiên vương Đế Thích hiện nay là một vị Thánh Sơ quả. Khi hết tuổi thọ, ngài sẽ sinh xuống nhân gian làm Chuyển luân vương và chứng đắc Nhị quả Tư đà hàm. Sau đó sanh lên Đao Lợi thiên chứng Tam quả A na hàm và lần lượt tái sanh ở đủ 5 cơi Tịnh độ, bắt đầu là cơi Vô phiền, cuối cùng ngài sẽ chứng quả A-la-hán và nhập diệt ở cơi Sắc cứu cánh. 

Tầng Thánh trí thứ hai là Nhị quả Tư đà hàm. Ngoài 3 phiền năo đă chấm dứt ở tầng thánh trước, quả vị này c̣n làm giảm nhẹ dục ái và sân hận. Do chỉ c̣n có thể tái sanh cơi Dục giới một lần nữa thôi, nên quả vị này c̣n được gọi là Nhất lai (Sakadāgāmī). 

Tầng Thánh thứ ba là Tam quả A na hàm (Anāgāmi), nghĩa là bậc Bất lai, người không c̣n trở lui các cơi dục giới nữa (có tất cả 11 cơi Dục giới). Theo A Tỳ Đàm tạng Pàli th́ do đă chấm dứt dục ái (niềm tham luyến trong ngũ trần) và sân hận nên vị Thánh Tam quả trong trường hợp không thể chứng A-la-hán rồi nhập diệt ngay đời này th́ có hai con đường để đi: 

Nếu đă chứng đắc Ngũ thiền th́ sẽ tùy theo khả năng mạnh yếu của Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ mà sanh về một trong năm cơi Tịnh độ. Tín nổi trội th́ sanh về cơi Vô phiền, Tấn hùng hậu th́ về cơi Vô nhiệt, Niệm hùng hậu về cơi Thiện hiện, Định hùng hậu th́ về cơi Thiện kiến, Tuệ thâm hậu th́ sanh về cơi Sắc cứu cánh (Pāli gọi là Akanittha, Không thứ ǵ yếu kém). Ở cơi Tịnh độ thứ năm này toàn bộ Tín, Tấn, Niệm, Định, Tuệ đều được sung măn; v́ đây là nơi chốn sau cùng để một vị Bất lai chứng quả A-la-hán và nhập diệt. 

Trong trường hợp vị Thánh Bất lai chưa chứng qua một tầng thiền định nào, tức chỉ có trí tuệ Thiền quán (Vipassanā) mà không từng tu tập Thiền chỉ (Samātha) th́ lúc mạng chung, vị này do khả năng ly dục vô sân tuyệt đối nên tối thiểu cũng thành tựu Sơ thiền trước khi mạng chung ở cơi Dục giới và như vậy cũng đủ để sanh về cơi Phạm thiên thấp nhất là Phạm thiên Sơ thiền. 

Do túc duyên và tŕnh độ tu chứng có khác nhau nên giữa các bậc Thánh Tam quả cũng có vài sai biệt. Theo Manorathapurani, Chú sớ Tăng Chi Bộ (phần Tika): 

– Antarāparinibbāyī (Tiền bán Niết bàn): Vị Bất lai chứng A-la-hán khi chưa sống hết phân nửa thọ mạng ở cơi Tịnh độ nào đó trong 5 cơi. 

– Upahaccaparinibbāyī (Hậu bán Niết bàn): Chứng A-la-hán sau khi sống hơn nửa thọ mạng ở cơi Tịnh độ nào đó. 

– Uddhamsoto Akanitthagāmī (Luân lưu Niết bàn): Do căn tánh không xuất sắc, có vị Bất lai phải lần lượt sanh đủ 5 cơi Tịnh độ mới chứng quả A-la-hán rồi nhập diệt ở cơi Tịnh độ cao nhất. 

– Asankhāraparinibbāyī (Bất lao Niết bàn): Vị Bất lai có thể chứng A-la-hán mà không cần nhiều cố gắng. 

– Sasankhāraparinibbāyī (Cần lao Niết bàn): Vị Bất lai phải nhiều nỗ lực mới có thể chứng A-la-hán. 

Tầng Thánh trí thứ tư chính là quả vị A-la-hán, người chấm dứt toàn bộ phiền năo. Theo A Tỳ Đàm Pàli th́ có 3 quả vị A-la-hán: Chư Phật Chánh Đẳng Giác (Sammāsambuddha hay Sabbannubuddha- Toàn Giác) cũng là những vị A-la-hán nhưng do tự ḿnh chứng đắc và là đạo sư hướng dẫn cho những người hữu duyên chứng đắc A-la-hán. Những vị A-la-hán đệ tử này được gọi là Thanh văn giác (Sāvakabuddha). Quả vị A-la-hán thứ ba là Độc Giác Phật (Paccekabuddha), những vị tự ḿnh chứng ngộ A-la-hán nhưng không thể hướng dẫn người khác chứng ngộ A-la-hán. Kinh điển Hán tạng c̣n gọi Độc Giác Phật là Duyên Giác Phật v́ cho rằng các Ngài nhờ liễu ngộ nguyên lư Duyên khởi mà giác ngộ (cách nghĩ này bắt nguồn từ những giai thoại về chư Phật Độc Giác trong Chú sớ Tiểu Bộ Kinh, một trong những bộ phận kinh điển làm nền tảng cho nhiều kinh luận hậu tác, đọc kỹ các bộ A Hàm sẽ thấy rơ điều này). Kỳ thực, nếu đọc kinh Đại Duyên trong Trường Bộ kinh, ta sẽ thấy lư Duyên khởi và lư Tứ đế (vẫn bị hiểu lầm là dành riêng cho Thanh văn) vốn dĩ chỉ là một. Trong Trung Bộ kinh, Đức Phật đă xác định ai thấy lư Duyên khởi chính là thấy Pháp và ngược lại. Đồng thời, không hề có chuyện một người giác ngộ lư Tứ đế mà lại mơ hồ về lư Duyên khởi hay ngược lại. Tất cả quả vị A-la-hán vừa nêu trên đây luôn giống nhau về khía cạnh giác ngộ các pháp cần yếu (như Tứ đế, Duyên khởi…), chỉ khác ở hai điểm chính: Tự ḿnh hiểu ra hay phải nhờ thầy hướng dẫn và điểm thứ hai là ngoài trí tuệ giác ngộ c̣n có khả năng hiểu biết sâu rộng những ǵ nằm ngoài lư tưởng giác ngộ hay không. Xét về khía cạnh này, chỉ có chư Phật Chánh Đẳng Giác là viên măn. Tuy nhiên, trong bài viết này, chúng ta chỉ đặc biệt nhấn mạnh quả vị Bất lai, v́ đề tài ở đây là các cơi Tịnh độ. 

PHÉP VĂNG SANH TỊNH ĐỘ THEO KINH ĐIỂN PĀLI 

Văng sanh vẫn được dùng song song với chữ siêu sanh, nhưng theo tinh thần A Tỳ Đàm Pāli th́ siêu sanh c̣n có thể được hiểu là vượt thoát tái sanh, một điều chỉ thực hiện được bởi một vị A-la-hán. Như vậy trong trường hợp vị Bất lai sanh về các cơi Tịnh độ chỉ có thể gọi là văng sanh. Và nếu phải trả lời câu hỏi về con đường văng sanh Tịnh độ, th́ như tất cả những ǵ vừa nêu trên, ta hoàn toàn có thể nói rằng văng sanh Tịnh độ chỉ là một phần đường trên hành tŕnh giải thoát của một vị Thanh văn, và như thế pháp môn Tịnh độ hay con đường văng sanh trong trường hợp này cũng đồng nghĩa với hành tŕnh Tam học, Tứ niệm xứ, Bát chánh đạo, nói chung là hành tŕnh 37 Bồ đề phần. Các pháp trong 37 Bồ đề phần đối với nhau chỉ là mối quan hệ tương tức; cái này chính là cái kia, trong cái kia có cái này. 

Như vậy, lời đáp cho câu hỏi về con đường văng sanh là toàn bộ những ǵ mà ta vẫn gọi là Phật pháp và theo cách hiểu này, pháp môn Tịnh độ cần thiết cho tất cả mọi người. Đồng thời, chiếu theo tinh thần căn bản của Phật giáo mà nói th́ khi nhắc đến pháp môn Tịnh độ, cầu văng sanh không hề có nghĩa là chờ đợi sự tiếp dẫn của bất cứ ai, mà phải là sự lên đường bằng chính đôi chân của ḿnh. 

 

 

TÀI LIỆU THAM KHẢO 

(1) Theo A Tỳ Đàm Pàli, trong cái gọi là thế giới này gồm có 31 cơi với 11 cơi Dục giới (có đủ 5 uẩn), 16 cơi Sắc giới (trong đó có cơi Vô tưởng, chỉ có Sắc uẩn mà thôi), và 4 cơi Vô Sắc ( chỉ có 4 uẩn Thọ, Tưởng, Hành, Thức). 

(2) Xin xem thêm trong các sách ABHIDHAMMATTHASANGAHA (thắng PHÁP tập yếu luận, bản dịch của NGÀI MINH CHÂU), THE ESSENCE OF BUDDHA ABHIDHAMMA của Giáo sư MEHM TI MON, CHÚNG SANH VÀ SINH THÚ của Ngài JOTIKÀCARIYA (bản tiếng việt của Toại Khanh)..

 

 

BACK

 

Home