KHÁI NIỆM QUÁN THẾ ÂM THEO KINH ĐIỂN PALI


Toại Khanh

Quán Âm hay Quán Thế Âm là tên gọi của một vị Bồ Tát nổi tiếng trong hệ thống Phật giáo Bắc Truyền (vẫn được thậm xưng là Đại Thừa) khắp các xứ Trung Hoa, Hàn quốc, Nhật Bản, Tây Tạng, Mông Cổ và cả Việt Nam. Chữ Phạn của tên gọi này là Avalokitvesvara, thường được dịch sát là Quán Tự Tại. Chữ Tự Tại (Isvara) này không hề mang nghĩa thanh thản độc lập như nhiều người vẫn nghĩ. Nó là một từ tố thường thấy ngay sau tên gọi của các vị thần Ấn Độ, một chút dấu vết của Ấn Giáo, xa hơn một tí là Bà La Môn giáo thời xưa. Nói mấy cũng không đủ, với phương tiện Internet ngày nay, người muốn biết xin cứ Online th́ rơ. Năy giờ chỉ nói cái tên, cái ư nghĩa hay vai tṛ của khái niệm Quán Thế Âm mới là quan trọng.

Nguồn gốc của h́nh tượng Quán Âm xuất phát từ Ấn Độ qua các kinh luận hậu tác như Đại Bổn A Di Đà (quyển thượng), Vô Lượng Thọ Kinh (quyển hạ), Hoa Nghiêm (phẩm Nhập Pháp Giới, thứ 39, quyển IV), Lăng Nghiêm (quyển 6) và Pháp Hoa (phẩm Phổ Môn). Thời điểm ra đời của các kinh ngày nay không c̣n là chuyện mật nữa. Và h́nh tượng Quán Âm lúc đầu tại Ấn Độ chỉ là h́nh ảnh nhân cách hoá ḷng từ bi của Phật giáo qua h́nh ảnh một vị thần mặt nữ ḿnh nam. Từ sau lúc các kinh văn trên đây du nhập vào các xứ ngoài như Trung Hoa, Hàn Quốc, Việt Nam th́ ta mới có thêm các giai thoại Quan Âm Diệu Thiện, Quan Âm Thị Kính. Người Tây Tạng c̣n cho các thần Tara (và cả đức Đạt Lai Lạt Ma) là hoá thân của vị Bồ Tát này. Dù ở đâu th́ Bồ Tát Quán Âm cũng được thờ cúng, xưng tụng như một hộ thần linh hiển và nhiều từ bi, sẳn sàng ứng hiện kịp lúc để cứu người mắc nạn. H́nh ảnh này rất đẹp, nhưng đă ngẫu nhiên dẫn đưa không ít thiên hạ ngày một xa rời lư tưởng giác ngộ của Phật giáo qua nhiều cách hiểu bất cập:

Trước hết, thay v́ học hạnh từ bi xả kỷ qua h́nh tượng đó, người ta chỉ nghĩ nhiều về chuyện cầu khẩn. Những đồn thổi về sự linh ứng của Bồ Tát Quán Âm đă xui nhiều người hồn nhiên cho rằng sống sao cũng được, miễn là gặp chuyện th́ cầu. Thay v́ chiếu lư mà nói, cầu khẩn hay phụng thờ h́nh tượng Quán Âm không sao sánh được với việc trau dồi từ tâm.

Điều đáng tiếc thứ hai, nếu nói Bồ Tát linh hiển th́ xin hỏi có phải bất cứ ai cầu khẩn Ngài cũng đều được giúp đỡ cả hay không? Chắc chắn là không rồi. C̣n nếu bảo chỉ ai tu hành ngon lành hay có phước duyên sao đó mới được cứu th́ xin hỏi sao lại phải cần đến sự giúp đỡ của ai nữa chứ, cứ lo tự tu là đủ rồi!

Điều thứ ba, ai học Phật cũng biết rằng muốn thành Phật th́ phải có đủ các hạnh lành như từ bi, trí tuệ, kham nhẫn….Và không hề có một vị Bồ Tát nào thiếu ḷng từ bi mà có thể thành Phật. Nếu vậy, có hợp lư không khi cho rằng chỉ có Quán Âm Bồ Tát mới tầm thinh cứu khổ, nghe cầu th́ tới ? Hoá ra các Bồ Tát khác không được sẳn ḷng như vậy hay sao? Cả kinh điển Nam Tông lẫn Bắc Truyền đều nh́n nhận rằng trong thế giới này luôn có vô lượng Bồ Tát, những vị sẽ thành Phật sau này, nếu chỉ có một vị Bồ Tát chịu khó tầm thinh cứu khổ th́ xin hỏi các vị kia sao có thể gọi là Bồ Tát ?

Như vừa thưa ở trên, đă là Bồ Tát Bất Thối (người chắc chắn sẽ thành Phật) th́ phải có ḷng đại bi giống nhau và cái được gọi là sự giúp đỡ của ai đó, kể cả của các Bồ Tát thực ra chỉ là một cách nói. Nói nôm na là hồn ai nấy giữ. Chẵng hạn ta không thể nói những kẻ bạo ngược được giàu sang là do các Bồ Tát pḥ hộ và những người hiền lành bị khốn khó là do không cầu nguyện hoặc bị các Bồ Tát bỏ quên. Và nếu vậy việc réo gọi tên họ của các Bồ Tát có c̣n cần thiết không và càng vô lư khi chỉ réo tên một hai vị nào đó mà thôi ? Làm vậy đúng là bỏ nhiều lấy ít. Đó cũng là trường hợp niệm Phật Di Đà, một vị Phật bên nhánh Bắc Truyền. Thay v́ tŕ niệm Nam Mô Vô Lượng Phật (Namo amitabuddhànam), người ta chỉ thích chọn một vị thôi. Thế là chỉ c̣n Vô Lượng Thọ (Namah amitàyubuddhàya) hay Vô Lượng Quang (Namo amitàbhabuddhàya). Đó là lư do v́ sao bên Nam Tông khi nhắc riêng một vị Phật th́ là đức Bổn Sư Thích Ca, ngoài ra th́ phải là chư Phật nói chung. Ở đây có ít nhất 2 điều cần lưu ư: Thứ nhất, đức Phật Thích Ca là vị Phật hiện tại trong thế giới này (ta đang tu theo lời Ngài) và thứ hai là h́nh tượng ấy hoàn toàn có thể được hiểu là h́nh ảnh chung của chư Phật ba đời mười phương. Ai muốn xác tín điều này xin t́m đọc nghi thức lễ bái Tam Bảo của Phật Giáo Nam Tông th́ rơ.

Điều đáng tiếc tiếp theo, hầu hết Phật tử Bắc Truyền đều có một công thức buồn cười sau đây khi nói về Phật giáo Nam Tông: Nam Tông là Tiểu Thừa v́ người nhánh này chỉ biết tự tu, tự tu là ích kỷ, là tiêu nha bại chủng, mạ khô giống thối. Vấn đề hiểu lầm đă nảy sinh ngay từ ban đầu. Người tu mà chỉ biết có riêng ḿnh, không kể đến ai th́ mới gọi là ích kỷ. C̣n nếu tự tu là tự vận dụng năng lực bản thân, không nhờ cậy tha lực th́ đó là tự giác. Một người độc cư thiền định, tu tập với riêng ḿnh không phải là ích kỷ. Chỉ khi nào ḷng thấy chán ghét tha nhân th́ mới là ích kỷ. Nếu anh lặng lẽ sống tốt th́ đó cũng là một kiểu lợi tha, v́ khi một người không làm bậy th́ đă là một đóng góp cho đời rồi, không cần phải chiêng trống om ṣm để thông báo cho ai về chuyện tu hành của ḿnh. Chỉ một chút mắc míu này mà anh em chẵng nh́n mặt nhau bấy lâu nay, dù ai cũng đều thờ Phật. Buồn lắm vậy thay !

Điều cuối cùng, theo kinh điển Pàli (và thậm chí cả kinh sách Bắc Truyền) th́ trong trời đất này luôn có vô số những vị thiện thần sống ở khắp nơi, từ ngọn cây đầu cỏ đến núi rừng sông biển, và không ít trong số đó luôn có ḷng giúp đỡ những người lâm nạn. Họ thấy thương th́ giúp, c̣n chuyện giúp được hay không c̣n tùy ở phước nghiệp của bản thân người bị nạn. Những người từng nghe qua Bồ Tát Quán Âm, hay bà Maria, Thiên Hậu cứ thấy sự lạ th́ đổ hết cho các vị này. Từ những người đi biển đến kẻ trên cạn ai cũng phải có một địa chỉ để réo. Nói thiệt, cứ theo lối tin tưởng dân gian kiểu đó, cộng thêm sự tuyên truyền có chủ ư của một số người, chừng trăm năm nữa có thể Phật giáo chỉ c̣n lại những khái niệm thờ cúng và cái tinh hoa Phật Pháp vốn là kết tinh trí tuệ của một vị Phật dưới gốc Bồ Đề năm xưa sẽ là một vệt mờ trong ḷng nhân loại. Tôi không là một người tu học ngon lành, nhưng tôi tin chắc một điều rằng bao nhiêu vấn đề lớn nhỏ của chúng sinh đều nằm trong chính mỗi cá nhân và nếu từng người không biết Tự Xử th́ không ai ngoài ta có thể làm được chuyện đó. Nếu chư Phật làm được th́ ngay lúc độc giả ngồi đọc những ḍng chữ này của tôi thế giới đă không như ta đang nh́n thấy, và bản thân quư vị cũng đâu có khổ như bây giờ !

Nói vậy, tôi muốn thưa ǵ qua mấy ḍng trên ? Trước hết, chúng tôi tuyệt không phủ nhận sự trợ duyên, giúp đỡ của người này cho người kia, nhưng tôi cũng không hề tin rằng chỉ riêng tấm ḷng của người giúp đỡ là đă đủ. Anh phải ra sao để có thể đón nhận sự giúp đỡ của người ta. Anh không thể đổ hết mọi sự cho một phía và bao giờ phần nỗ lực của riêng anh cũng phải là chính yếu. Điều thứ hai, người tu Phật không thể lấy hư làm thực khi lầm tưởng biểu tượng là thực thể, cũng như không lấy ít bỏ nhiều khi suy tôn một hạt cát nào đó trong sa mạc.

Bao nhiêu vẽ vời về h́nh tượng Quán Âm Bồ tát có lẽ cần được hiểu là những mô tả sinh động về cái diệu dụng của tấm ḷng Bồ Tát ở người cầu Phật Đạo. Quá nặng ḷng với những chi tiết đó h́nh như ta đă đi quá xa. Như trái tim là biểu tượng của t́nh yêu, bồ câu trắng tượng trưng cho hoà b́nh, hoa hồng đại biểu cho t́nh cảm,…Biểu tượng phải được hiểu là biểu tượng th́ ta mới đi xa được. Một khi chất hết những tranh tượng trái tim, bồ câu hay hoa hồng lên bàn thờ để quỳ lạy cầu nguyện và xưng tụng là những thần thánh nào đó th́ có lẽ người ta đă lạc đường rồi. Ngay cả việc thờ lạy tranh tượng đức Phật cũng cần được hiểu là việc ngắm nh́n một biểu tượng đẹp để tu học chứ không phải để van xin khấn vái nọ kia.

Theo những ǵ vừa tŕnh bày, và cả tư tưởng Đại Thừa rất mực mênh mông, th́ quanh ta có biết bao là những Bồ Tát. Và đă học hạnh Bồ Tát th́ ai cũng phải có ḷng đại bi. Kẻ sơ cơ th́ thương người một ít, kẻ tu hành thâm hậu th́ dẹp hết giới tuyến. Đă học hạnh Bồ Tát th́ thấy ai khổ cũng thương, giúp ai được th́ giúp, chẵng cần người ta phải lên tiếng réo gọi. Kiểu nói “con có khóc th́ mẹ mới cho bú ” là dành cho phần đông thiên hạ chưa học đạo Bồ Tát. Bồ tát thứ thiệt luôn thương hết chúng sinh, không cần ai kêu, chỉ cần biết ai khổ th́ tùy sức mà cứu, nhưng về kẻ muốn được cứu th́ cũng đừng quá kỳ vọng vào ai khác ngoài ra bản thân. Một khi ta làm toàn những chuyện tự hại ḿnh th́ ba đời mười phương Bồ Tát cũng bó tay. Và nói vậy, quanh tôi lúc nào cũng có vô số Bồ Tát. Một số trong đó là tầm thinh cứu khổ (nghe kêu th́ cứu), một số trong đó là cứu mà chẵng cần nghe kêu và một số th́ có nghe kêu nhưng chưa hề cứu, phước tôi mỏng hay người ta có ḷng mà không sức ?

Thấy trong pḥng sách của tôi có một bức tượng Quán Âm tuyệt đẹp, nhiều người lấy làm lạ, hỏi. Tôi luôn trả lời rằng đó là h́nh ảnh chung của tất cả Quán Âm trên đời. Tôi đặt bức tượng này trong pḥng chỉ v́ đó là bức tượng duy nhất mà tôi có. Theo kinh điển Pàli th́ không riêng một Bồ Tát nào giàu ḷng đại bi, và như vậy th́ vị Bồ Tát nào cũng có thể là một Quán Âm cả. Tôi thờ Vô Lượng Phật chứ không chỉ một vị Vô Lượng Thọ hay Vô Lượng Quang, tôi thờ tất cả Quán Âm chứ không riêng một Diệu Thiện, Thị Kính hay Nam Hải Quán Âm nào hết. Đặc biệt từ sau ngày người Tàu muốn giành trọn 80% biển Đông mà họ vẫn gọi là Nam Hải ǵ đó th́ tôi càng ít muốn nhắc về vùng biển này. Mong sao tất cả những người tin Phật muốn tu phải học, học để hiểu đúng, và hiểu đúng để chẵng tu lầm. Mong lắm vậy thay!

 

TOẠI KHANH

 

 

BACK

 

Home