Bản T́nh Ca Duy Nhất Trong Kinh Điển Pāli


Toại Khanh  

  

Măi đến tận giờ, có lẽ ít người ngờ rằng Ḥa thượng Thích Minh Châu ngoài phong cách một học giả có văn phong cổ kính, nghiêm túc và khô khan nhất trong làng Phật giáo Việt Nam, c̣n là một ng̣i bút tân kỳ và thơ mộng đáng bậc thầy của không riêng Phật giáo. Tác phẩm Trước Sự Nô Lệ Của Con Người, xuất bản giữa thập niên 1960 đă chứng minh điều đó. Nhưng vẫn chưa hết, cái duyên ngầm trong chữ nghĩa của Ḥa thượng càng kinh người hơn khi ta có dịp so sánh các bài kệ trong bản dịch Kinh Tạng với nguyên tác Pāḷi hay qua bản dịch tiếng Anh. Từng chữ trong lời Việt của Ḥa thượng cứ như một ḥn giả sơn tái hiện tận lực cái không khí cổ phong của một thứ ngôn ngữ của ngàn năm trước. Giữ lại cái hồn của một tiếng nói thiên cổ đă khó, trung thành được với ngôn phong ngữ khí của một bậc đại thánh như đức Phật lại càng thiên nan vạn nan. Dĩ nhiên không phải ai cũng làm được việc đó. 

Có bản dịch kinh văn cố tự chuốt cái phong vận bác học, đọc xong cứ tưởng đó là lời thuyết giảng của một giáo sư Tây phương vừa mới phát biểu trong một giảng đường đại học ngày hôm qua. Có bản dịch gượng gạo, tàn khuyết như lời lảm nhảm của ông đạo khoai, đạo chuối nào đó. Và dường như chỉ có bản dịch tài hoa và tâm huyết như của Ḥa thượng Thích Minh Châu mới đủ khiến người đọc có được cùng lúc hai cảm giác thành kính và mát ruột. Thành kính v́ qua đó cứ như nghe được cả giọng nói Phạm Âm của đức Phật và mát ruột v́ độc giả cứ mơ hồ thấy ra một phương trời Cổ Ấn thái b́nh thạnh trị có bầy nai hiền tung tăng giữa một cánh rừng trụ xứ của các bậc Sa-môn hiền thánh. Từng trang kinh lúc này đă ra một đạo tràng tinh khiết chẳng nặng mùi khói nhang tín ngưỡng của đời mạt pháp. 

Nói quẩn quanh chỉ để thưa rằng tôi đă yêu mê lời dịch của Ḥa thượng Thích Minh Châu qua các bộ Kinh Tạng tiếng Việt. Và nếu ngay bây giờ phải trưng dẫn vài ba trong vô số lời dịch trác tuyệt kia, tôi có thể kể ngay ba bài kệ mà tôi đă thuộc nằm ḷng. Đó là kệ Nhất Dạ Hiền Giả trong Trung Bộ tập 3, kệ kết thúc bài kinh Ratthapāla trong Trung Bộ II và bản t́nh ca duy nhất của kinh điển Pāḷi trong bài kinh Đế Thích Sở Vấn của Trường Bộ III (đều là các bản in trước 1975). 

Chuyện bắt đầu từ một ngày thiên vương Đế Thích chợt nhận ra ḿnh không c̣n sống được bao lâu nữa. Ngài cảm thấy bất an và người đầu tiên ngài nghĩ đến chính là đức Phật, lúc đó đang tại thế. Thiên vương xuống trần hầu Phật và cùng đi với ngài là một vị tiên ngoan đồng tên Pañcasikhā. Gọi là ngoan đồng v́ vị này có ngoại h́nh như một tiên đồng kháu khỉnh, trên đầu có năm chỏm tóc đào, lư do của ngoại hiệu Pañcasikhā. Sớ ghi dưới thời Phật Ca-diếp vị này từng là một cậu bé chăn ḅ có ḷng kính tin Tam Bảo, độ tŕ chúng tăng. Nhờ công đức đó mà cậu bé kia được sanh thiên, nhưng vẫn chưa bỏ tính ham chơi. Tập khí trẻ con đă tạo cho vị tiên cái nhân dáng đúng như ư thích. Điều trớ trêu là ḷng phàm trước sau ǵ cũng vướng lụy, chàng đă trộm yêu một tiên nữ tên Suriyavacasā, con gái của một đại lực tiên ông tên Timbaru, người chưởng quản làng ca vũ nhạc kịch của Đạo Lợi Thiên. Oái oăm thay, người trong mộng của Suriyavacasā không phải là chàng Pañcasikhā giống hệt trẻ con. Nàng đă phải ḷng cậu con trai của tiên ông Mātali, người đánh xe cho thiên vương Đế Thích. 

Đau đớn quá, Pañcasikhā âm thầm một cơi đi về và sáng tác một nhạc khúc để hát cho riêng ḿnh nghe. Do căn khí tu hành nhiều kiếp, những chồi non Bồ-đề cứ vô t́nh nảy lộc trong từng lời hát của chàng. Pañcasikhā từng học đạo, nên trong nỗi riêng xé ḷng vẫn không quên được lối về bến giác, dù rất mờ nhạt và liên tục bị chàng phung phá với những tục niệm đan xen: 

“Như gió cho kẻ mệt

Như nước cho kẻ khát

Nàng là t́nh của ta

Như pháp với Ứng Cúng”. 

Đem cái t́nh của ḿnh so sánh với tất cả những ǵ là thiết yếu sinh tử của nhân gian, rồi th́ cả gan so sánh với cả đạo nghiệp giải thoát của một vị La-Hán đă thoát ṿng tục lụy – th́ quả là độc đáo và “thấm thía tương chao” lắm thay! 

Tôi trộm nghĩ đến cả Ḥa thượng dịch giả khả kính của chúng ta, có lẽ cũng phải se ḷng khi dịch đến chỗ này của bài kinh Đế Thích Sở Vấn. Rơ ràng, Ḥa thượng đă ít nhiều đem cái t́nh riêng mà cùng tham dự vào nguyên tác, để chia sẻ nỗi đau thất t́nh của người bạn đồng tu lăng mạn đó. Dĩ nhiên Pañcasikhā cũng là bạn tu của tất cả chúng ta. 

Tôi chưa hề có ư học thuộc bài hát này của Pañcasikhā, nhưng chuyện đời thiệt lạ: Hữu ư bồi hoa, hoa bất phát. Vô tâm tháp liễu, liễu thành âm. Cố t́nh vun vén th́ cây tàn hoa lụi, nhưng hạt ném bên đường nhiều khi lại ra cây xanh tốt xum xuê. 

“Thiện nữ! Ta van nàng

ôi hiền nữ suối tóc

ái dục ta có bao

nhưng nay đă tăng bội

như đồ chúng La-hán

mọi công đức ta làm

dâng lên bậc La-hán

ôi kiều nữ toàn thiện

nàng là quả cho ta...” 

Bài hát đó không ít lần đă như câu thần chú giúp tôi vùng thoát cái mặc cảm phàm t́nh chất ngất của ḿnh. Ừ th́ tục lụy th́ đâu đă sao, ǵ cũng chỉ là hoa bướm trên đường vạn lư cả thôi. Cái cốt lơi là phút cuối quay đầu thấy bờ, phóng hạ đồ đao lập địa thành Phật. Mà nói cho cùng, đâu phải ai đọc bài hát đó cũng phải yếu đuối điên mê. Xin đọc kỹ một lần đi. Thương lắm. Chàng nhận ḿnh là một Phật tử, biết vui khi nh́n ngắm thánh chúng của đức Phật ngày một đông đảo. Nhưng yêu nàng quá, chàng tạm thời chỉ mong bao kiếp tu hành của ḿnh hăy giúp ḿnh gần được người đó. Vậy mà cũng chẳng xong. Quả Bồ-đề cao vợi là thế mà công đức hữu lậu c̣n dẫn tới được, th́ sá ǵ một phút ghé bến trầm luân chứ. Con xin phát thệ chân thành, rong chơi đôi hôm rồi cũng sẽ quay về với Phật. Sinh tử ai lại không sợ, nhưng đột ngột dứt áo ra đi lúc này th́ kể cũng có phần khe khắt. Mai mốt đă Niết-bàn th́ làm sao có buổi quay về lần nữa. 

Pañcasikhā làm riêng bài hát này cho ḿnh, nhưng thật ly kỳ khi Thế Tôn lại là người đầu tiên nghe chàng độc tấu bài hát này. Lúc đó ngài vừa thành Phật không bao lâu. Th́ ra chuyện thất t́nh của Pañcasikhā đă có từ ngày ấy. Chàng như đứa bé, chơi thua bạn th́ chạy về mách mẹ. Nhiều năm sau, tôi nghĩ lời hát đă được Pañcasikhā thay đổi ít nhiều. Chàng xuống trần học đạo để t́m quên và dù chưa quên được, nhưng lời kinh đă đi vào lời hát như một chuẩn bị cho chủng tử giải thoát ngày sau. 

Đêm nay, theo chân thiên vương Đế Thích xuống trần hầu Phật lần nữa, Pañcasikhā lại ôm đàn hát lại nhạc khúc đó như một cách cúng dường. Lễ phẩm chàng có được lúc này cũng chỉ là một nỗi đau thất t́nh được phổ vào bài hát đem dâng lên bậc Điều Ngự, người dạy chúng sinh giải thoát t́nh trần. Có lẽ chỉ có phàm phu mới nghĩ ra được kiểu cúng dường nghịch thiên bội địa này thôi. 

Vậy mà Thế Tôn cũng lặng lẽ ngồi nghe với một niềm bi mẫn vô bờ, như người mẹ hiền kiên nhẫn ngồi dỗ đứa bé khóc nhè. Với đôi mắt nh́n khắp muôn cơi và tấm ḷng nghĩ thấu ngàn đời, đức Phật đă lắng nghe rồi ngỏ lời khen Pañcasikhā bằng một câu hỏi: Ngươi đă học ở đâu lời hát pha trộn cả hai thứ giải thoát và tục lụy đó? Một câu hỏi hàm ư cùng lúc nhiều vấn đề quan trọng. Giải thoát và tục lụy là hai cực đối lập, không thể song hành. Một câu hỏi chứa đựng cả bốn Thánh Đế và gợi ư cả Giáo Lư Duyên Khởi trùng điệp. 

Pañcasikhā đă thưa lại với Thế Tôn chuyện ḷng tan nát của ḿnh, và nhắc lại chuyện cũ dưới gốc Bồ-đề ngày trước khi chàng lần đầu hầu Phật và hát cúng dường Ngài nhạc khúc năo ḷng đó. 

Kinh nói sau khi vào hầu Phật, thiên vương Đế Thích được nghe Pháp và chứng quả Dự Lưu. Ngay lúc đó tuổi trời đă măn, thiên vương mạng chung trước mặt Thế Tôn và lập tức tái sanh trở lại với ngôi vị thiên vương của ḿnh. Sự việc chớp nhoáng này chỉ có đức Phật và thiên vương biết được mà thôi. 

Để cảm tạ Pañcasikhā, thiên vương Đế Thích hứa với chàng là sẽ t́m cách dàn xếp để Pañcasikhā cưới được Suriyavacasā trong giải pháp thỏa đáng nhất. 

Lời hứa của thiên vương đă khép lại một chuyện t́nh thơ mộng bậc nhất của kinh điển Phật giáo, và chúng ta có lẽ cũng nên cảm ơn cô nàng Suriyavacasā đă là nguồn cảm hứng cho một bản t́nh ca quán tuyệt cổ kim, có âm vang xông thấu đôi miền tiên tục và đă từng là một lễ phẩm cúng dường một bậc đại thánh như đức Phật. Và vẫn chưa hết, bản t́nh ca đó của Pañcasikhā c̣n có tác dụng của một lời khuyến tu thú vị: Có rong chơi đến bao xa xin cũng nhớ quay về. V́ tục lụy muôn đời chỉ là một cội cây sống bằng nước mắt kẻ trầm luân...

Ô hô! Pañcasikhā tiên ông thượng hưởng!

 

 

TOẠI KHANH

 

 

BACK

 

Home