Cẩm Nang Tuệ Quán
Nguyên tác Thái Ngữ: Achahn Naeb
Bản dịch tiếng Việt: Tỳ khưu Giác Nguyên
Thuật ngữ Vipassanā (Tuệ Quán) phải được hiểu là tên gọi của thứ
trí tuệ thấy rơ Tam Tướng trong Danh Sắc. Sự đào dưỡng trí tuệ này chính
là công phu quan trọng nhất trong Phật Giáo mà cứu cánh rốt ráo là sự
chấm dứt phiền năo, chứng ngộ Niết Bàn, giải thoát tất cả đau khổ.
Một hành giả muốn bắt đầu tu tập Tuệ Quán, trước hết phải biết qua những
điều căn bản cần thiết như về 6 Tuệ Xứ (Vipassanābhūmi), 4
Niệm Xứ, … Nhờ vậy trong việc tu tập sẽ không bị mơ hồ, nhầm lẩn. Tôi
vừa nói là chỉ tŕnh bày vắn tắt, nhưng nội dung vắn tắt đó chính là
những ǵ tôi vừa giới thiệu. Trước hết, thế nào là 6 Tuệ Xứ (Vipassanābhūmi)?
Nguyên nghĩa chữ Bhūmi này là nơi chốn, địa điểm, nhưng ở đây ta có thể
xem nó là chữ đồng nghĩa với Đề Mục, Án Xứ (Kammaṭṭhāna) hay cảnh
sở tri – đối tượng tri nhận (Ārammana). Người tu Tuệ Quán nhất
thiết phải biết qua 6 Tuệ Xứ này. Đó là:Năm Uẩn, mười hai Xứ, mười
tám Giới, hai mươi hai Quyền, Bốn Đế và mười hai Duyên Khởi. Nói gọn
lại, toàn bộ 6 Tuệ Xứ này chỉ là Danh Pháp và Sắc Pháp mà
thôi. C̣n 4 Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna) th́ là 4 chỗ an trú của Chánh
Niệm. Chánh Niệm ở đây là sự ghi nhớ đặc biệt thù thắng có thể
dẫn tâm chứng nghiệm Niết Bàn. Bốn Niệm Xứ bao gồm 4 thể tài căn bản: Thân
Niệm Xứ, Thọ Niệm Xứ, Tâm Niệm Xứ và Pháp Niệm Xứ.
A- THÂN NIỆM XỨ có
12 đề mục (pabba) để hành giả ghi nhận:
1.
Ānāpānapabba: Sự ghi nhớ từng hơi thở ra vào.
2.
Iriyāpathapabba: Sự ghi nhớ từng động tác đi, đứng, nằm, ngồi.
3.
Sampajaññapabba: Sự ghi nhớ trong từng sinh hoạt nhỏ nhặt như bước tới,
bước lui, nh́n ngang liếc dọc, đắp y, mang bát, tiểu tiện, ...
4.
Patikūlapabba: Quán tưởng 32 thứ uế trược trong thân thể như tóc, lông,
móng, răng, da, ...
5.
Dhātupabba: Quán tưởng bốn thành tố đất, nước, lửa, gió trong thân.
6-12. Asubhapabba: Quán tưởng thây người chết từ lúc mới tắt thở đến các
giai đoạn śnh trương, rĩ nước, phân hủy cho tới khi chỉ c̣n là xương
trắng.
B- THỌ NIỆM XỨ gồm
có chín đề mục để ghi nhận, mà nói gọn lại là ba cảm giác Khổ, Lạc, Xả
của thân tâm trong các trường hợp có hay không có liên hệ đến vật dục (āmisa)
C- TÂM NIỆM XỨ gồm
có 16 đề mục ghi nhận (tâm ḿnh đang ra sao th́ biết rơ như vậy):
1. Sarāgaṃ:
Tâm có ái nhiễm.
2.
Vītarāgaṃ: Tâm không có ái nhiễm.
3. Sadosaṃ:
Tâm có sân hận.
4.
Vītadosaṃ: Tâm không có sân hận.
5. Samohaṃ:
Tâm có si mê.
6.
Vītamohaṃ: Tâm không có si mê.
7.
Sankhittaṃ: Tâm có trạng thái hôn thụy.
8.
Vikkhittaṃ: Tâm phóng dật.
9.
Mahaggataṃ: Tâm đang trú trong thiền Sắc hay Vô Sắc Giới.
10. Amahaggataṃ: Tâm không an trú trong loại thiền định nào.
11. Sa-uttaraṃ: Tâm Dục Giới.
12. Anuttaraṃ: Không phải tâm Dục Giới.
13. Samāhitaṃ: Tâm có Định.
14. Asamāhitaṃ: Tâm không có Định.
15. Vimuttaṃ: Tâm không có phiền năo.
16. Avimuttaṃ: Tâm chưa thoát phiền năo.
D- PHÁP NIỆM XỨ có
5 đề mục:
1.
Nivaranapabba: Quán xét về năm triền cái.
2.
Khandhapabba: Quán xét về năm Uẩn.
3.
Āyatanapabba: Quán xét về 12 Xứ.
4.
Bojjhangapabba: Quán xét về 7 Giác Chi.
5.
Saccapabba: Quán xét về 4 Đế.
Trong tất cả đề mục vừa kể trên đây, có những thứ chỉ có thể là án xứ
cho pháp môn Tuệ Quán (Vipassanā) nhưng có những đề mục thích hợp
cho cả pháp môn Chỉ Tịnh (Samatha). Ở đây, đề mục Tứ Oai Nghi (Iriyāpathapabba),
đề mục Tỉnh Giác (Sampajaññāpabba) và đề mục Tứ Đại (Dhātupabba)
chỉ có thể là án xứ Tuệ Quán. Đề mục về Hơi Thở (Ānāpānapabba)
có thể áp dụng cho cả Chỉ Quán. Hai đề mục Thể Trược (Patikūlapabba)
và Tử Thi (Asubhapabba) cần được tu tập Chỉ trước Quán
sau. Riêng về Thọ Niệm Xứ, Tâm Niệm Xứ và Pháp Niệm Xứ th́ chỉ có thể là
án xứ Tuệ Quán mà thôi.
Bốn Niệm Xứ phân tích theo năm Uẩn th́ như sau: Thân Niệm Xứ thuộc
về Sắc Uẩn (Sắc Pháp-Rūpadhamma). Thọ Niệm Xứ thuộc Thọ
Uẩn (Danh Pháp -Nāmadhamma). Tâm Niệm Xứ thuộc Thức
Uẩn (Danh Pháp). Pháp Niệm Xứ thuộc cả năm Uẩn, nên vừa là
Danh Pháp vừa là Sắc Pháp.
BỐN NIỆM XỨ VÀ CÁC CƠ TÁNH (CARITA) CHÚNG SANH
Đề mục tu tập và khuynh hướng tâm lư của hành giả luôn có một quan hệ
rất đáng kể. Đó là lư do phải có thêm phần dẫn giải này. Ở đây các ngài
đặc biệt nhấn mạnh hai khuynh hướng phiền năo ở các hành giả là Khát Ái
và Tà Kiến.
Thân Quán Niệm Xứ rất thích hợp cho người nhiều tham ái và ít trí tuệ.
Thọ Quán Niệm Xứ thích hợp cho người nhiều tham ái nhưng cũng có nhiều
trí tuệ.
Tâm Quán Niệm Xứ thích hợp cho người nhiều tà kiến và kém trí tuệ.
Pháp Quán Niệm Xứ thích hợp cho người nhiều tà kiến nhưng cũng nhiều
trí tuệ.
CÁC NGHỊCH KIẾN (VIPALLĀSA)
Đây là những quan điểm tư tưởng có tác hại căn bản là khiến chúng sinh
phàm phu không thấy ra được bản chất như thật của các pháp. Có tất cả ba
thứ Nghịch Kiến: Do Tà Kiến (diṭṭhi), do ngộ nhận (citta)
và do tưởng chấp (saññā). Chính do Ngă Nghịch Kiến nên chúng sinh
phàm phu thấy ra các cảnh sai trái chân lư: Thấy Danh Sắc vô ngă là Ngă.
Do Lạc Nghịch kiến nên họ thấy Danh Sắc khốn khổ là Lạc. Do Tịnh Nghịch
Kiến nên họ thấy Danh Sắc là đẹp, là Tịnh. Do Thường Nghịch Kiến nên họ
thấy Danh Sắc vô thường là Thường.
Bốn ảo ảnh này hoàn toàn do Tham ái và Tà Kiến gây tạo nên khiến chúng
sinh thấy sai sự thật. Và v́ chúng vốn sinh ra từ 3 thứ nghịch kiến vừa
nêu ở trên, nên nhân lại với nhau thành ra có đến 12 nghịch kiến. Chúng
h́nh thành trong tâm tưởng chúng sinh do cách nh́n ngộ nhận về thực
tướng Danh Sắc. Bản tướng của chúng rất tinh vi, kín khuất nên không thể
được giải trừ bằng hai công phu Giới Học, Định Học. Trong trường hợp
này, pháp môn Tuệ Quán chính là giải pháp tối ưu và duy
nhất. V́ Tuệ Quán chính là thứ trí tuệ có
công năng khám phá, phát hiện, nhận diện bản tướng Danh Sắc.
Nói vậy có nghĩa là muốn tu Tuệ Quán phải có hiểu biết đại lược về Danh
Sắc và sự hiểu biết đó nhất thiết phải y cứ theo phương thức Tứ Niệm Xứ
v́ chỉ có vậy hành giả mới t́m thấy con đường đối trừ phiền tương ứng và
hữu hiệu nhất:
Thân Niệm Xứ đối trừ mỹ cảm trong Danh Sắc (Subhavipallāsa).
Thọ Niệm Xứ đối trừ Lạc Tưởng trong Danh Sắc (Sukhavipallāsa).
Tâm Niệm Xứ đối trừ ảo tưởng về sự trường cửu của Danh Sắc (Nicca-vipallāsa)
Pháp Niệm Xứ đối trừ ư niệm ngă chấp trong Danh Sắc (Attavipallāsa).
Nói vậy th́ tu tập Tuệ Quán hay tu tập bốn Niệm Xứ chỉ
là một và tu tập bốn Niệm Xứ cũng có nghĩa là sự tu tập
cùng lúc cả Tam Học (Giới Định Tuệ) vậy. Pháp môn Tuệ Quán cũng
c̣n có thể gọi bằng nhiều tên gọi khác:
Là con đường tu tập Bát Thánh Đạo hay Trung Đạo, v́ tinh thần chủ lực
của pháp môn này là ba yếu pháp Tinh Cần (Ātāpī), Trí
Tuệ (Sampa-jāno) và Chánh Niệm (Satimā), theo
câu Ātāpī sampajāno satimā vineyya loke abhijjhādomanassaṃ trong kinh Tứ
Niệm Xứ (Tinh cần, tỉnh giác và chánh niệm đoạn trừ tham ưu ở đời).
Là con đường thu thúc lục căn hoàn măn nhất, như trong Tương Ưng Bộ
đức Phật đă dạy: Cattāro satipatthānā bhāvitā bahulīkatā indriyasīlaṃ
paripūrenti (Bốn niệm xứ được tu tập, trưỡng dưỡng, sẽ làm sung măn
khả năng pḥng hộ căn môn).
Chính sự thu thúc lục căn của hành giả lúc tu tập bốn Niệm Xứ đă là Tăng
Thượng Giới Học trong ba Vô Lậu Học, tức Giới Tịnh trong Thất
Tịnh và chính sự kết hợp giữa Tinh Cần với Chánh Niệm đă
là Tăng Thượng Định Học trong ba Vô Lậu Học mà cũng là Tâm
Tịnh trong Thất Tịnh. C̣n Trí Tuệ hay Tỉnh Giác (Sampajañña)
trong quá tŕnh tu tập bốn Niệm Xứ th́ trong ba Vô Lậu Học chính là Tăng
Thượng Tuệ Học mà cũng làKiến Tịnh trong Thất Tịnh.
Như vậy, tu tập Tứ Niệm Xứ cũng chính là tu tập Tam Học,
tu tập Bát Thánh Đạo, tu tập con đường Trung Đạo, tu tập Thất
Tịnh và nói rốt ráo th́ pháp môn Tuệ Quán Tứ Niệm Xứ chính là con
đường Chỉ Quán Song Tu.
Vấn đề quan trọng mà năy giờ tôi vẫn chưa đi sâu sát vào, đó chính là
của 6 Tuệ Xứ pháp môn Tuệ Quán. 6 Tuệ Xứ này có nội dung
quan hệ mật thiết với công phu Tuệ Quán và nếu một hành giả không biết
ǵ về 6 Tuệ Xứ này th́ rất dễ bị lầm lạc và thậm chí không thể
t́m ra được mối hỗ tương quan trọng giữa pháp học với pháp hành và cả
cứu cánh chứng ngộ. 6 Tuệ Xứ có nội dung khá sâu rộng như
vậy, nhưng kể gọn lại chỉ là 2 pháp thực tính Sắc và Danh Pháp.
Trong đó hành giả phải thông thuộc bản tướng Sắc Pháp trước rồi đến
Danh Pháp như một tŕnh tự cần thiết cho công phu khám phá ư nghĩa
Vô Ngă của vạn pháp.
Điều cần nhớ rằng đề tài Danh Sắc tuy là công án căn bản cho trí tuệ Tuệ
Quán, nhưng trí tuệ ấy luôn có nhiều cấp độ khác nhau:
1. Tự ḿnh
thấm thía thể nghiệm th́ gọi là Bhāvanāpaññā (Trí Tuệ Thực Chứng, tức
trí tu). Chính tŕnh độ Trí tuệ này mới có đủ công năng tuyệt trừ
phiền năo.
2. Trường
hợp thứ hai là trí tuệ nhận thức tam tướng trong Danh Sắc qua công phu
suy diễn, tư lường (anumāna) th́ chỉ là Trí Tuệ suy luận (Cintamayāpaññā,
tức Trí Tư). Trí tuệ này chỉ có tác dụng đối trừ phiền năo một cách
hạn chế, chẵng khác những phút giây tiêu sầu của người đang có chuyện ưu
tư. Những buồn lo sau đó vẫn c̣n nguyên vẹn.
3. Trường
hợp trí tuệ thứ ba là sự nhận thức bản chất Danh Sắc hoàn toàn dựa theo
kiến thức chữ nghĩa. Thuật ngữ Phật Học gọi đây là Kiến thức hay Trí Văn
(Sutamayāpaññā). Sự học hỏi giáo lư sẽ giúp người tu giải trừ
những ngộ nhận do dốt nát. Tuy sự hiểu biết này không thể đưa đến cứu
cánh giác ngộ rốt ráo, nhưng luôn đặc biệt tối cần cho một công phu Tuệ
Quán chính chắn, không sai lời Phật. Chính các kiến giải Phật Học là
phần lư thuyết (Pariyatti) cần có cho công phu tu tập (Patipatti)
và sự tu tập sẽ là con đường dẫn đến mục đích chứng ngộ (Pativedha).
Mối tương quan này tuyệt đối không thể thiếu được trong toàn bộ hành
tŕnh tu tập Tuệ Quán. V́ rơ ràng nếu không có học hỏi giáo lư, hành giả
không thể biết đến 6 Tuệ Xứ và từ đó sẽ không thể nhận rơ bản tướng Danh
Sắc trong 6 Tuệ Xứ được. Mà không thấy rỏ ư nghĩa Danh Sắc th́ hành giả
sẽ tu tập Tuệ Quán thế nào được v́ không xác định được án xứ mà ḿnh
phải tri nhận. Nói tóm lại, không có học hỏi giáo lư về Danh Sắc th́
không thể tu tập Tuệ Quán. Học và hành luôn tương thuộc nhau.
Nói cho dễ hiểu, 6 Tuệ Xứ là bản thân Danh Sắc và việc tu tập 4 Niệm Xứ
là sự tri nhận đối tượng Danh Sắc ấy. Sự kết hợp nầy được gọi là con
đường Tuệ Quán (Vipassanā). Chỉ có Tuệ Quán mới là con đường tri
nhận Tam Tướng và qua từng tŕnh độ tiếp nối, các tầng thiền tuệ như
Danh Sắc Phân Tích Trí (Nāmarūpaparicchedañāna) lần lượt thành
tựu. Qua từng giai đoạn thể nghiệm ngày một tinh tế chính xác về Tam
Tướng trong Danh Sắc như vậy, các phiền năo dần dần tiêu ṃn. Chính sự
lắng yên phiền năo này trong nội tâm hành giả, các tầng thiền tuệ mặc
nhiên được gọi tên là các giai đoạn trong Thất Tịnh, mà bắt đầu là Kiến
Tịnh (Diṭṭhivisuddhi). Sự hoàn măn các giai đoạn trong Thất Tịnh
chính là con đường chứng ngộ thánh trí, Niết Bàn và giải thoát tri kiến
(tức 19 Phản Khán Trí).
Tất cả những dẫn giải năy giờ chỉ nhằm mục đích mở ra cho quư vị những
vấn đề thiết yếu và căn bản cho hành tŕnh tu tập Tuệ Quán, khả dĩ giúp
ta học đúng và hiểu đúng những then chốt mà qua đó công phu tu
tập sẽ được hữu hiệu và thuận ứng với tinh thần giáo lư văn nghĩa cụ túc
của Tam Tạng Phật Ngôn. Và như vậy tiếp theo đây tôi sẽ tŕnh bày những
chỗ gặp nhau của lư thuyết kinh điển và thực tế tu chứng theo từng mối
tương quan.
PHẦN HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
Công phu Tuệ Quán trước hết phải là sự học hiểu về Danh Sắc qua Cảnh Ghi
Nhận (Ārammana) và Tứ Oai Nghi (Iriyāpatha). Đó là cách
dẫn giải ngắn gọn nhất dành cho những hành giả ít học giáo lư, không
từng biết qua 6 Tuệ Xứ vốn sâu rộng khó nhớ, khó hiểu. Hiểu không
chính chắn th́ sẽ không thể thực hành đúng đắn. Do đó, nếu không
thông thuộc 6 Tuệ Xứ th́ ta hăy rút gọn vấn đề vào hai điểm chính yếu
là chuyên tâm quán niệm Danh Sắc qua Cảnh Ghi Nhận và Tứ Oai Nghi.
Chừng đó cũng đủ là toàn bộ nội dung của 6 Tuệ Xứ đă nói ở trước rồi. Và
tuy mới nghe qua th́ hai đề mục nầy quá đơn giản, nhưng kỳ thực công phu
Tuệ Quán qua đó chính là con đường duy nhất đưa đến sự giải trừ tất cả
những khái niệm ngộ nhận mê lầm về những ǵ gọi là Thường, Lạc, Ngă,
Tịnh trong Danh Sắc. Sau đây là phần phân tích về Danh Sắc qua Lục Căn
và Lục Cảnh:
H́nh ảnh và thần kinh thị giác (Cakkhupasāda) là Sắc Pháp, khả
năng nh́n thấy là Danh Pháp.
Âm thanh và thần kinh thính giác (Sotapasāda) là Sắc Pháp, khả
năng nghe tiếng là Danh Pháp.
Các thứ mùi và thần kinh khứu giác (Ghānapasāda) là Sắc Pháp,
khả năng ngửi được các mùi là Danh Pháp.
Các vị chất và thần kinh vị giác (Jīvhāpasāda) là Sắc Pháp, khả
năng nếm biết các vị chất la Danh Pháp.
Các ngại tướng nóng lạnh, cứng mềm, trơn nhám, ... và thần kinh xúc
giác (Kāyapasāda) là Sắc Pháp, khả năng ghi nhận chúng là danh
Pháp.
Đi, đứng, nằm, ngồi, co duỗi, ... là Sắc Pháp. Khả năng ghi nhận và
điều động chúng là Danh Pháp.
NHỮNG ĐIỀU KIỆN THUẬN LỢI ĐỂ TU TẬP
Sau khi có khái niệm về Danh Sắc qua 12 Căn Cảnh như vậy, bước tiếp theo
hành giả cần biết thêm về bảy điều kiện (Sappāyadhamma) cần thiết
cho công phu Tuệ Quán:
ĐIỀU KIỆN VỀ CHỔ Ở (Senāsanasappāya): Hành giả nên tránh những
trú xứ có thể bị phương hại đến sức khỏe và nhu cầu tu tập, như chổ có
nhiệt độ quá khắc nghiệt, hay độc trùng ác thú, người xấu, kể cả sự văng
lai thường xuyên của thiên hạ. Chổ ở thích hợp là nơi có thể an tâm toạ
thiền, kinh hành.
ĐIỀU KIỆN VỀ ẨM THỰC (Āhārasappāya): Trong thực phẩm thường
ngày cần tránh những thức ăn có thể gây bệnh hoặc dị ứng với ḿnh về màu
sắc, mùi vị. Tu hành phải thanh đạm, nhưng ăn uống cẩu thả là điều không
tốt. Ăn uống không ổn th́ sức khỏe sẽ không ổn, từ đó khả năng tu tập
cũng sẽ có vấn đề.
ĐIỀU KIỆN VỀ ĐỀ MỤC (Dhammasappāya): Như đă nói ở trước, đề mục
Tuệ Quán cần được hướng dẫn qua hai khuynh hướng phiền năo của chúng
sinh để việc tu tập có thể hữu hiệu hơn:
Hạng người đa tham thiểu trí.
Hạng người đa tham đa trí.
Hạng người tà kiến thiểu trí.
Hạng người tà kiến đa trí.
Xin xem lại phần trên về bốn Niệm Xứ và Cơ Tánh chúng sanh.
ĐIỀU KIỆN VỀ NHÂN SỰ (Puggalasappāya): Hành giả nên tránh những
thầy bạn đồng trú không có khả năng giúp đỡ ḿnh phát triển sự định tỉnh
và trí tuệ qua nếp sống hay ngôn ngữ cũa họ.
Và có thể nói thêm ở đây rằng để có được những tiến bộ trong công phu
Tuệ Quán, hành giả cần biết hạn chế tối đa những tương giao không thật
sự cần thiết với thế giới chung quanh mà ở đây tôi gọi là nếp sống độc
cư hay khép kín:
Nên tự tạo điều kiện để được sống một ḿnh, từ những sinh hoạt thường
nhật như ăn uống, ngủ nghỉ. Tránh tiếp xúc, gần gũi người khác càng
nhiều càng tốt.
Hạn chế tối đa chuyện nói năng trao đổi. Khi có chuyện cần nói th́
phải luôn giữ chánh niệm.
Hạn chế việc ngủ nghỉ an dưỡng. V́ thói quen hưởng nhàn này sẽ khiến
hành giả trở nên thụ động, biếng lười và đây là những chướng ngại cho
trí tuệ, thiền định.
Hạn chế những công việc không thật sự cần thiết. Nghĩa là ngoài những
sinh hoạt mang tính cấp thiết như ăn uống, tắm rữa, thể dục (trong mức
cần thiết), … th́ hành giả không nên tự tạo ra những công chuyện mang
tính cách tham công tiếc việc.
Tất cả thời gian và công phu của hành giả cần được dành trọn cho việc
ghi nhận Danh Sắc v́ tất cả phiền năo lậu hoặc đều khởi sinh từ những
ngộ nhận mê lầm trong Danh sắc, và ghi nhận Danh Sắc ở đây là nh́n ngắm
từng giây phút hiện hữu của chúng trong h́nh thức Tam Tướng (Vô Thường,
Khổ, Vô Ngă).
Sau đây là những yếu lư của pháp môn Tuệ Quán mà tôi muốn từng bước
tŕnh bày theo tŕnh tự tu chứng của một hành giả từ những ngày tháng sơ
cơ nhất. Và các vấn đề sẽ được nêu ra qua từng mục nhỏ.
1. Tuệ Quán
(Vipassanā) là ǵ? Đó là trí tuệ thấy rơ Danh Sắc luôn Vô Thường,
Khổ và Vô Ngă. Cái cần thấy trong lúc tu tập phải là vậy. Những ảo ảnh
về h́nh Phật, chư thiên, các cảnh giới siêu đọa,… đều không phải là cảnh
tri nhận của hành giả. Những cảnh sở tri nào nằm ngoài Tam Tướng
trong Danh Sắc đều là tà đạo.
2. Cảnh ghi
nhận của trí Tuệ Quán phải là Danh Sắc ngay trong hiện tại, là
những ǵ diễn ra trước mắt, không phải những ǵ do suy diễn hay hồi
tưởng.
3. Tác dụng
của trí Tuệ Quán là giải trừ phiền năo mà cụ thể là kiến chấp sai lầm về
năm Uẩn.
4. Lư tưởng
của pháp môn Tuệ Quán là phá tan các nghịch kiến Thường Lạc Ngă Tịnh
trong Danh Sắc và giúp thể chứng Niết Bàn.
Pháp môn Tuệ Quán chỉ y cứ vào một nội dung duy nhất là giáo lư Tứ Niệm
Xứ, con đường tri nhận Chân Đế Pháp để thấy rơ bản tướng vạn Pháp
theo đúng lời dạy của đức Phật. Chữ Niệm Xứ (Satipaṭṭhāna) ở đây
nghĩa là tất cả những ǵ khả dĩ là đối tượng an trú Chánh Niệm và Chánh
Niệm này khi được song hành với trí tuệ (Sampajāno) cùng tinh tấn
(Ātāpī) một cách đúng mức sẽ đưa đến cứu cánh giải thoát. Đối
tượng tri nhận của bốn Niệm Xứ như ta đă biết, gói gọn trong 4 thể tài
Thân, Thọ, Tâm, Pháp. Từ trên công phu tri nhận 4 vấn đề này, hành giả
sẽ thấy được Tam Tướng (Vô thường, Khổ và Vô Ngă) trong Danh Sắc.
Bản chất Tam Tướng thực ra là những thuộc tính cố hữu của Danh Sắc,
nhưng sở dĩ chúng ta không nh́n thấy được là do bị ngăn ngại bởi ít nhất
ba vấn đề:
1. H́nh
thức kết nối tương tục (santati) của các chuỗi Danh sắc khiến ta
không thấy được tính Vô Thường của chúng. Nghĩa là trong suốt mọi thời
điểm, Danh Sắc luôn tiếp nối nhau sinh diệt không ngừng nghỉ với một tốc
độ cực nhanh, đủ để ta không kịp nh́n thấy từng chổ biến diệt của chúng.
Giữa cái cũ và cái mới cơ hồ không có ranh giới và cứ vậy, chúng ta dễ
dàng ngộ nhận rằng Danh Sắc là hằng tại, trường cửu. Và đă như vậy th́
làm sao ta có thể hiểu được chúng là vô thường. Chúng ta có thể hiểu nôm
na rằng các hiện tượng Danh Sắc mà ta vẫn nh́n thấy là vật nọ vật kia
chẵng qua cũng là những ǵ mang tính lắp ráp giống hệt như những h́nh
ảnh trong phim vậy. Những h́nh thể xuất hiện trên đó vốn được ghép nối
bằng biết bao cảnh rời, và nói chuyên môn hơn, th́ tất cả những ảnh
tượng đó chỉ là vô số hạt ánh sáng cấu thành. Người xem phim thường chỉ
hồn nhiên thấy đó là ông này bà nọ, hoa lá trăng sao, viên măn hoàn
chỉnh, có ai bận tâm chi đến những kỷ xảo điện ảnh đàng sau đó. Nhờ vậy
thiên hạ xem phim mới có thể buồn vui, khóc cười theo những gợi ư t́nh
sầu thương hận trong đó được. Bản chất của Danh Sắc cũng giống thế thôi.
Và trên bản tướng thật sự, tốc độ sinh diệt của Danh Sắc c̣n mau lẹ hơn
những h́nh sắc mà ta nh́n thấy trên phim ảnh rất nhiều. Chính v́ vậy
việc ghi nhận được tính biến diệt của danh Sắc càng bội phần khó khăn và
từ đây đă dẫn đến ngộ nhận rằng Danh Sắc là trường cửu, bền vững. Thuật
ngữ Phật học gọi đó là Niccavipallāsa (nghịch kiến hay điên đảo kiến về
một sự truờng tồn ảo giác).
2. Chướng
ngại cho khả năng thấu suốt bản chất đau khổ trong Danh Sắc chính là
t́nh trạng buông ḿnh theo các tư thế sinh hoạt (Iriyāpatha-thường
được dịch là các oai nghi). Bản chất của Danh Sắc thật ra chỉ là một
chuỗi dài tiếp nối của từng nổi bức bách về tâm lư hay sinh lư. Nhưng
do mỗi khi thấy có vẻ bất kham trong thân tâm th́ ta luôn thay đổi
các tư thế, động tác sinh hoạt nên chưa kịp thấy trọn vẹn cái khổ trong
tư thế cũ th́ đă có ngay tư thế, động tác mới và do vậy tự cho là ḿnh
đang được an lạc, thoải mái. Sự ngộ nhận này được gọi là
Sukhavipallāsa (tạm dịch là nghịch kiến hay ảo giác về hạnh phúc). Và ta
cũng hiểu rằng tất cả mọi ngộ nhận về Danh Sắc đều bắt nguồn từ Tà Kiến
(Micchādiṭṭhi) và Tham Ái (Taṇhā). Chính chúng đă khiến
ta luôn nghĩ đến giải pháp trốn khổ t́m lạc bằng các h́nh thức thay đổi,
xê dịch, chọn lựa trong các động tác, tư thế sinh hoạt và đây chính
là mối ngăn ngại quan trọng trong công phu quán niệm khía cạnh đau khổ
trong Danh Sắc.
3. Chướng
ngại thứ ba trong pháp môn Tuệ Quán khiến hành giả không thấy được tính
Vô Ngă trong Danh Sắc chính là khái niệm Cá Thể hay Đơn Thể Độc Lập
(chữ Ghanasaññā nếu dịch sát là ảo tưởng về cái ǵ đó trọn vẹn,
tinh thuần, v́ nghĩa đen của chữ Ghana là Cục, Ḥn, Đống, Khối, Tảng).
Do không thấy được sự sinh diệt chớp nhoáng, rời rạc và bản tướng lệ
thuộc vô số nhân duyên mà h́nh thành của Danh Sắc, nên đa phần chúng
sinh vẫn nghĩ mọi thứ trên đời dù thuộc tinh thần hay vật chất đều là
Từng Cái Độc Lập, những Cá Thể hiện hữu riêng biệt thay v́ họ phải hiểu
rằng từng cái nh́n, nghe, ngữi, nếm, ... chỉ là từng Sát-na tâm chóng
vánh ngắn ngũi và chính cách nghĩ ngộ nhận này mới khiến người ta gom
chung Danh Sắc, Ngũ Uẩn thành một đơn thể biệt lập trong khi Danh chỉ là
Danh, Sắc chỉ là Sắc và thế là từ đó chúng sinh phàm phu mới có nên
những kiến chấp Tôi Là, Nó là, Của Tôi, Của Nó, ... Những ngộ nhận nầy
trước mắt có thể đem lại cho người ta chút niềm vui và hi vọng về cái
gọi là sở hữu. Nhưng trong căn bản, sự ngộ nhận đó chính là cội nguồn
cho tất cả khổ lụy trong đời và tạo nên ḍng sinh tử.
Khi không thấy được tính phân ly thất tán trong 5 Uẩn, chúng ta sẽ không
có cơ hội nh́n ra bản tướng Vô Ngă và như vậy là đă vướng kẹt vào cái
gọi là Ngă chấp điên đảo (Attavipallāsa) và mặc nhiên tự có những
khái niệm ảo giác về cái gọi là Tôi, Của Tôi. Và đây lại chính là
duyên khởi của Tham Ái, khiến ta t́m đến những ước vọng hảo huyền, đi
t́m những thứ ngon đẹp và tự dựng lên một Cái Tôi sương khói.
Các pháp hữu vi chỉ là một chuỗi hiện tượng tồn tại trên nguyên tắc Nhân
Quả. Khi phá được Nhân th́ cũng sẽ hủy được Quả. Khi hành giả
giải trừ được những chướng ngại Tuệ Quán vừa nêu trên th́ các nghịch
kiến điên đảo về Danh Sắc, Tam Tướng cũng được giải quyết.
Chúng ta hoàn toàn có thể nói rằng giáo lư Vô Ngă là tinh thần tâm điểm
độc đáo của đạo Phật khi đem so với tất cả hệ thống tư tưởng, triết
thuyết, tôn giáo khác trên đời này. V́ có thể nói rằng mọi hệ thống suy
tư ngoài Phật Giáo đều phải luôn thiết lập trên một ư niệm chấp giữ một
Chủ Thể, một thần tượng siêu h́nh hay cụ thể nào đó để tự h́nh thành một
chỗ đứng. Riêng trong Phật Giáo, không một cái ǵ tương tự như vậy lại
được chấp nhận. Phật dạy không hề có một cái ǵ khả dỉ được gọi là một
Chủ Thể, Chủ Quyền hay một nguồn năng lực duy nhất, tối cao nào đó có
thể điều động vạn hữu sinh diệt. Và đó chính là giáo lư Vô Ngă.
Nói gọn lại, muốn tu tập Tuệ Quán để chấm dứt sinh tử, vấn đề căn bản là
công phu vượt qua các ngăn trở, ma chướng đối với trí tuệ về Tam Tướng
trong Danh Sắc. Ở đây chúng ta tuyệt đối không có con đường thứ hai
để chọn lựa.
HẠ THỦ CÔNG PHU
Tứ Niệm Xứ chính là con đường duy nhất để hành giả phá tan mọi nghịch
kiến ngộ nhận và hàm dưỡng khả năng Tuệ Quán, nhận diện chính xác bản
tướng Danh Sắc qua Tam Tướng. Chính đức Thế Tôn đă khẳng định như vậy
trong các pháp thoại về Tứ Niệm Xứ. Và sau đây là sáu vấn đề tiên quyết
cần được hành giả hiểu biết căn bản trước khi bước vào hành tŕnh tu tập
Tuệ Quán (Vipassanā), một tên gọi khác của pháp môn Tứ Niệm Xứ:
1. ĐỐI
TƯỢNG NHẬN THỨC CỦA PHÁP MÔN TUỆ QUÁN bao gồm 6 Tuệ Xứ (Vipassanābhūmi)
như vừa nhắc ở trước là 5 Uẩn, 12 Xứ, 18 Giới, 22 Quyền, 4 Thánh đế và
12 Duyên Sinh. Sáu Tuệ Xứ này khi gom gọn lại chỉ là Danh và Sắc mà
thôi. Như vậy Danh Sắc là vấn đề then chốt của công phu Tuệ Quán. Khi
không học hiểu Danh Sắc một cách nghiêm cẩn đàng hoàng th́ việc tu tập
không thể chính chắn được, nghĩa là đi vào tà đạo.
2. Ư NGHĨA
THỜI GIAN TRONG PHÁP MÔN TUỆ QUÁN chỉ gói gọn trong một chữ Hiện Tại mà
ở đây là Pháp Hiện Tại (Paccuppanna-dhamma) và Cảnh Hiện Tại (Paccuppannārammana).
Pháp Hiện Tại là
những Danh sắc đang tồn tại, hiện hữu. Trên nguyên tắc, chúng luôn tiếp
nối nhau sinh diệt chớp nhoáng, như vậy thời gian hiện hữu của chúng
cũng cực ngắn nhưng liên tục. Cho dù ta có thấy ra được điều này hay
không th́ Danh Sắc vẫn cứ là vậy theo nhân duyên hữu vi pháp.
Cảnh Hiện Tại ở
đây cũng vẫn là những Danh Sắc đang sinh diệt liên tục ấy, nhưng được
hành giả kịp thời ghi nhận như những ǵ hiện tiền, không phải thứ Danh
Sắc khái niệm nữa. Chuyện cần làm của hành giả là phải nh́n thấy được
cái gọi là Cảnh Hiện Tại này. Như khi đang ngồi th́ t́nh trạng
hiện hữu của tư thế ngồi đó chính là Cảnh Hiện Tại và công phu của hành
giả lúc này là tỉnh thức ghi nhận được rằng Sắc Pháp đang trong tư thế
như vậy. Đối với các tư thế sinh hoạt khác cũng cứ vậy mà hiểu. Đó
chính là hiểu biết về Cảnh Hiện Tại.
Nhờ tri nhận được Cảnh Hiện Tại, thành quả trước mắt mà cũng là tối hậu
của hành giả là khả năng đoạn trừ tham ưu trong nội tâm ḿnh trước mọi
trần cảnh buồn vui tốt xấu trên đời. Đời được gọi là biển khổ chỉ v́
chúng ta suốt cuộc b́nh sinh chỉ biết trốn khổ t́m vui, vật lộn với nụ
cuời cùng nước mắt và thường th́ chúng ta không mấy khi toại nguyện.
Như vậy thái độ tự tại trước mọi buồn vui không phải là một cứu cánh cho
một vị hiền giả hay sao. Và cả ba nguồn đạo lực quan trọng của hành giả
tu tập Tuệ Quán nhằm hướng đến khả năng đoạn giảm tham ưu ấy là Tinh
Tấn, Chánh Niệm cùng Trí Tuệ không thể chỉ được phát triển riêng lẻ và
trong mọi lúc chúng phải lấy Cảnh Hiện Tại làm đối tượng ghi nhận
để từ đó công phu Tuệ Quán mới có thể thành tựu.
Nhưng làm sao hành giả có thể kịp thời ghi nhận Cảnh Hiện Tại? Xin thưa
rằng việc đó phải nhờ đến công phu Cảnh Giác (Samvara) thường
trực của nội tâm. Khi mắt nh́n thấy, tai nghe tiếng, … hành giả chỉ ghi
nhận đơn giản rằng Đang Thấy, Đang Nghe, ... và với sự cảnh giác này các
tham ưu, thương ghét, vui buồn sẽ không có cơ hội sinh khởi. Và chỉ có
những người từng trăi qua kinh nghiệm Cảnh Giác như vậy mới có thể nắm
bắt được THỜI ĐIỂM (nói cho rơ là thời gian-Kāla- và Không gian-Desa)
tu tập Tuệ Quán mà thôi. V́ ở mỗi chúng sinh, trong từng giây phút, Danh
Sắc (Pháp Hiện Tại) luôn sinh diệt như nhau, nhưng nếu thiếu đi khả năng
Cảnh Giác như vừa nói th́ chúng ta không thể biết rơ THỜI ĐIỂM nào để
ghi nhận Pháp Hiện Tại, biến chúng thành Cảnh Hiện Tại. Người không học
hiểu điều này sẽ nghĩ mọi sự rất đơn giản, nhưng trong thực tế tu chứng
th́ không phải như vậy. Lời dạy của đức Phật cần được thẩm nghiệm thấu
đáo cẩn thận, không thể chỉ cần đến chút khả năng suy diễn hời hợt, nông
cạn. Chẵng hạn như đối với một người đang nghe thuyết pháp th́ lúc đó
không phải là thời điểm để ghi nhận Cảnh Hiện Tại mà tôi vừa nói năy giờ. V́
nếu thính giả chỉ đơn giản ghi nhận Cảnh Hiện Tại theo đúng nghĩa của nó
rằng đây là Danh, là Sắc, là Đang Nghe th́ đương sự sẽ không c̣n tâm trí
nào hiểu được nội dung bài giảng trước mặt ... Đồng thời, không gian
tu tập Tuệ Quán cũng là vấn đề quan trọng. Đó phải là một nơi chốn thật
sự thích hợp cho khả năng tĩnh tâm, hạn chế được những mời gọi của phiền
năo. Đó là lư do v́ sao đức Phật tán thán những trú xứ thanh tịnh như
núi rừng, nhà vắng, …những nơi chốn thích hợp cho việc hàm dưỡng các
nguồn đạo lực cần thiết cho công phu Tuệ Quán.
1) CHÁNH NIỆM VÀ TỈNH GIÁC (SATISAMPAJAÑÑĀ)
Đó là khả năng Ghi Nhớ, Tự Tỉnh của hành giả trong giây phút ghi nhận
Danh Sắc qua hai đối tượng nhận biết là án xứ (Kammaṭṭhāna) và
bản thân (Yogā-vacara). Án xứ ở đây là đối tượng Danh Sắc nằm
trong 4 khía cạnh Thân, Thọ, Tâm, Pháp, tức 4 Niệm Xứ. Và bản thân ở đây
là hành trạng tâm pháp của chính hành giả, biết rơ ḿnh đang sống trong
ba nguồn đạo lực của Tuệ Quán là Nhiệt Cần (Ātāpī), Chánh Niệm (Satimā),
Tỉnh Thức hay trí tuệ (sampajāno).
Sự Biết Ḿnh trong công phu Tuệ Quán có một ư nghĩa rất đặc biệt. Phần
đông hành giả thường nhầm lẫn sự Hồi Tưởng, Suy Diễn về những ǵ vừa
trăi qua là Chánh Niệm. Ở đây vấn đề quả là rất khó giải thích, và
như vậy hành giả phải cần đến sự giúp đỡ của thiền sư để có thể hiểu
đúng được ư nghĩa của sự Biết Ḿnh theo tinh thần Chánh Niệm trong pháp
môn Tuệ Quán. Ta nên biết rằng khả năng Chánh Niệm càng mạnh mẽ khít
khao th́ Cảnh Hiện Tại càng phong phú, rộng răi theo. Đây là một vấn
đề rất quan trọng trong công phu Tuệ Quán. Thực tại ra sao th́ hành
giả phải kịp thời ghi nhận thế ấy, không thể bỏ sót. Có rơi rớt có
nghĩa là vẫn chưa đạt mức cần thiết. Đang ngồi th́ biết rơ Sắc Ngồi. Thậm
chí cũng không nên nhầm lẫn sự Biết Ḿnh (Niệm) với sự tập trung tư
tưởng (Định). Hai tâm pháp này hoàn toàn khác nhau. Khi tự biết ḿnh
thất niệm, dù bằng sự thay thế của Định, hành giả cũng phải lập tức
phục hồi chánh niệm bằng sự cố gắng (Ātāpī) theo tinh thần
Tuệ Quán.
Đối với hành giả tu tập thiền Chỉ Tịnh (samatha), không phải họ
không biết cảnh hiện tại, nhưng đối tượng tri nhận của họ không phải là
cảnh Danh Sắc của pháp môn Tuệ Quán. Chẵng hạn một đề mục Chỉ Tịnh (Kasina)
nào đó bất luận, dĩ nhiên phải là cảnh hiện tại để hành giả mới có thể
chú tâm nhận biết, nhưng đề mục đó thật ra chỉ là cảnh Chế Định, không
phải cảnh Chân Đế. Nếu hành giả Tuệ Quán trong lúc đang ngồi lại dùng
Định thế Niệm để Biết Ḿnh th́ thay v́ thấy Sắc Ngồi sẽ thấy ra Ta Ngồi,
hiệu quả đối trừ Ngă Chấp sẽ bị mất đi.
2) CÁCH GHI NHẬN DANH SẮC
Theo tinh thần Tuệ Quán, khi Danh hay Sắc khởi hiện th́ hành giả ghi
nhận chính xác mỗi sinh hoạt. Cái nào ra cái đó. Như khi Nhăn Thức, Nhĩ
Thức xuất hiện, hành giả phải nhận biết ngay là Danh Thấy, Danh Nghe.
Nhưng trong các tư thế sinh hoạt chẵng hạn, lúc đang ngồi, sinh hoạt th́
hành giả phải kịp thời ghi nhận là Sắc Đang Ngồi, Sắc Đang Nằm. Nói gọn
lại, Danh Sắc đang như thế nào th́ ghi nhận rơ ràng từng sinh hoạt theo
cách thế ấy.
Vấn đề quan trọng khác là hành giả phải nhận diện Danh Sắc ấy một cách
chính xác. Trong lúc học về lư thuyết th́ mọi sự có vẻ đơn giản, nhưng trong
lúc thực hành th́ hành giả thường dễ bối rối không biết phải vận dụng
những kiến thức đó như thế nào để ghi nhận Danh ǵ, Sắc ǵ cho đúng.
Điều đó quan trọng v́ hầu hết chúng ta đều biết rằng trong suốt hành
tŕnh tu tập Tuệ Quán, công phu duy nhất của hành giả chỉ là việc ghi
nhận chính xác từng thành phần Danh Sắc. Từ buổi đầu tu tập đến lúc
chứng ngộ thánh trí, qua các tŕnh độ nhận thức Danh Sắc để có lúc thấy
chúng là mong manh, là đáng sợ, là tội khổ, là đáng chán, là hoạ phải
vượt thoát, ở giai đoạn nào Danh Sắc cũng vẫn là đối tượng tri nhận
duy nhất. Thậm chí, tŕnh độ hành giả càng cao thâm, sắc sảo th́
Danh Sắc càng hiển hiện rơ nét, đa dạng hơn nhiều. Như vậy việc ghi
nhận từng sinh hoạt Danh Sắc và cách thức ghi nhận chúng là rất quan
trọng và hành giả nhất thiết phải biết vận dụng đúng mức những kiến thức
lư thuyết về Tuệ Quán mà ḿnh đă học hỏi trước đó để có thể ghi nhận
Danh Sắc một cách đúng đắn.
3) KHẢ NĂNG TỰ TỈNH
Một hành giả nghiêm túc phải luôn tự biết rơ lư tưởng tu tập của ḿnh là
nhắm đến cái ǵ. Điều này có ư nghĩa quan trọng là giúp hành giả kịp
thời hóa giải những vấn đề tâm lư bất lợi có thể bất chợt nảy sinh như
sự hướng ngoại liên tục, không thể gom tâm ức niệm, hoặc có ḷng chán
năn thối chí rồi tự ư làm sai hướng dẫn của thiền sư. Như vậy điều
cần thiết ở đây là hành giả nên cẩn trọng t́m hiểu xem vấn đề thực sự
nằm ở đâu, không thể nhất thời suy diễn nông cạn theo tâm cảnh trục trặc
của ḿnh ngay lúc đó. Sự b́nh tĩnh này sẽ giúp hành giả t́m ra giải
pháp giàn xếp nội tâm và xác định chính chắn cách thức hành tŕ của
ḿnh.
4) KHẢ NĂNG QUAN SÁT
Một vấn đề khác cũng không kém phần quan trọng là việc hành giả thường
xuyên biết rơ khả năng tu tập của ḿnh đang tiến bộ hay lui sụt, nghĩa
là khả năng ghi nhận Danh Sắc có được nhanh nhạy, liên tục hay không.
Qua đó, hành giả sẽ kịp thời phục hồi công phu của ḿnh nếu đương sự
đang ở t́nh trạng thối thất.
Sở dĩ tôi lưu ư quư vị điều này bởi v́ một khi thiếu sự cảnh giác này,
nội tâm hành giả sẽ rời bỏ cảnh Danh Sắc, đánh mất thực tại. Nghĩa là
nếu không khéo tỉnh thức, hành giả sẽ BIẾT tư thế ngồi bằng Định chứ
không phải bằng Chánh Niệm và Tỉnh Giác. Hành giả nên biết rằng t́nh
trạng đó xăy ra do sự thiếu quân b́nh trong Ngũ Quyền (Tín, Tấn, Niệm,
Định, Tuệ). Tức là có sự mạnh yếu không cân đối giữa các nguồn đạo lực
này với nhau. Chẵng hạn khi hành giả đang ngồi thiền với chi Định vượt
trội th́ cảnh Danh sắc của Tuệ Quán sẽ không thể hiển hiện. Định Quyền
mạnh quá sẽ khiến Chánh Niệm không ghi nhận được pháp hiện tại, không
biết rơ được Danh ǵ, Sắc ǵ đang xuất hiện. Nếu kịp thời phát hiện ra
điều này, biết rơ ḿnh đang bắt đầu lạc hướng, hành giả có thể tái lập
Chánh Niệm để ghi nhận các cảnh Danh Sắc tiếp theo. Chuyện cũ bỏ qua.
Hành giả phải có sự cẩn thận của một người ngự trù có trách nhiệm nấu ăn
cho vua, biết chọn lựa món ăn đúng khẩu vị của vua nhờ vậy mới được
tưởng thưởng xứng đáng. Hành giả có thường xuyên quán sát t́nh trạng
Chánh Niệm của ḿnh th́ mới có thể thu gặt được kết quả tu tập Tuệ Quán
một cách đúng mức, mà cứu cánh là sự thành tựu thánh.
Ngoài việc cần tránh là ghi nhận Danh Sắc bằng Định thay v́ bằng Niệm và
Trí, nếu hành giả chỉ đơn giản ghi nhận các oai nghi động tác bằng
một chữ Sắc (Sắc ngồi, Sắc đi, Sắc đi, Sắc đứng,..) xem ra cũng
không đúng với cảnh Chân Đế, ở đây là 28 Sắc Pháp. Bởi sự thực th́
nếu phân tích theo pháp Chân Đế, từng động tác sinh hoạt hay cử động của
chúng ta chính là các Sắc Pháp được thể hiện qua năm chức năng hay h́nh
thức vận động, vẫn được gọi là 5 thứ Sắc Pháp Đặc Dụng (Vikāra),
là Thân Biểu Tri, Khẩu Biểu Tri, Khinh, Nhu và Thích Nghiệp. Mỗi động
tác sinh hoạt lớn nhỏ của ta đều là sự hoạt động của Sắc Pháp qua sức
tác động của tâm thức. Điều chứng minh là đối với một xác chết hay
một người đang nằm ngủ (kể cả trường hợp hôn mê) th́ không thể tự có bất
cứ cử động chủ ư nào v́ lúc đó không có sự điều động của tâm thức.
Theo giáo lư A Tỳ Đàm th́ ở đâu có Sắc Pháp, ở đó phải có tám thứ Sắc
Pháp Bất Ly (Avinibbhogarūpa) và trong mọi động tác thô tế của
chúng ta cũng đều luôn có đủ tám thứ Sắc Pháp này cộng với năm h́nh thức
Sắc Pháp Đặc Dụng (Vikāra) vừa nói trên. Bất cứ oai nghi nào cũng
đều như vậy và tất cả đều có được từ sự chi phối của tâm thức. Ngay cả
trong một ánh mắt, một cái liếc nh́n của chúng ta cũng cần được thực
hiện bằng Chánh Niệm và Trí Tuệ tỉnh giác, không chỉ đơn giản bằng đôi
mắt. Nói rơ hơn th́ ở đây hành giả lấy tâm mà nh́n, và như vậy Nh́n
lúc này cơ hồ đồng nghĩa với tri nhận, quán sát, soi rọi.
Trong câu nói Biết Ḿnh Qua Cảnh Danh Sắc Hiện Tại Bằng Chánh Niệm Và
Tỉnh Giác, quư vị có thể hiểu chữ Biết ở đây như là sự Ngắm Nh́n cũng
được. Đó chỉ là một sự trực diện với hiện tại, cắt bỏ trọn vẹn những
ǵ thuộc về quá khứ hay tương lai. Lúc này hành giả chỉ có một
chuyện duy nhất để làm, đó là ngắm nh́n Danh Sắc hiện tại như người ta
đang đắm ḿnh theo dơi một tṛ chơi nào đó bằng tất cả sự hồn nhiên,
trong sáng, không can dự. Chúng ra sao th́ thấy như vậy với tất cả sự
tỉnh táo, trung thực, khách quan. Nói như vậy, trong lúc đang ngồi
chẵng hạn, hành giả sống trọn vẹn với sự tỉnh thức trong tư thế đó từ vị
trí của một người ngoại cuộc đang ngắm nh́n một tṛ chơi. Nói chung, ta
có muốn gọi đó là sự ghi nhận, tri nhận, nh́n ngắm, … ra sao cũng được,
miễn sao đó phải là sự song hành của Chánh Niệm và Tỉnh Giác.
HƯỚNG DẪN THỰC HÀNH
Thuật ngữ Tuệ Quán (Vipassanā) ám chỉ thứ trí tuệ soi chiếu Danh
Sắc qua ba khía cạnh Tam Tướng (Vô Thường, Khổ, Vô Ngă). Những loại trí
tuệ ngoài ra không phải Tuệ Quán. Vấn đề được đặt ra ở đây là hành giả
cần hiểu đúng và làm đúng để có được khả năng Tuệ Quán đó. Và như đă
nói, toàn bộ công phu dẫn đến Tuệ Quán đều nằm trong 4 Niệm Xứ, then
chốt của 37 pháp Giác Phần hay Bồ Đề Phần (Bodhipakkhiyadhamma).
Bước đi tiên quyết của pháp môn Niệm Xứ là giải quyết được những chướng
ngại làm ngăn trở trí tuệ về Tam Tướng. Ở phần trước tôi đă nói rồi, mỗi
Pháp Ấn đều có ít nhất một bức màng che khiến ta không nh́n thấy được
nó. Vô Thường Tướng bị ngăn che bởi sự tiếp nối (Santati) chớp
nhoáng của các Sát Na Danh Sắc, chúng sinh diệt nhanh quá, khiến ta cứ
ngỡ sự hiện hữu của ḿnh chỉ là một chuỗi dài bất tuyệt không phải là
cái ǵ được ghép nối. Thứ đến, Khổ Tướng bị ngăn che bởi các oai nghi
(tư thế sinh hoạt- Iriyāpatha). Đời sống của nhân loại chúng ta
chỉ là những đắp đổi của các tư thế. Ở lâu trong một tư thế, ta sẽ cảm
thấy khó chịu và t́m cách xoay trở để được thoải mái hơn. Ta gọi sự
thoải mái đó là Hạnh Phúc và quên mất một điều là Hạnh Phúc đó vốn có
được từ những đau khổ. Cuối cùng, Vô Ngă Tướng bị ngăn che bởi sự ngộ
nhận về một cái ǵ Đơn Thuần, Kiên Cố (Ghanasaññā), thay v́ phải
hiểu rằng Danh Sắc hay 5 Uẩn này chỉ là một tổ hợp, không có ǵ trên đời
nầy có thể tồn tại độc lập mà không cần đến vô số nhân tố khách quan. Và
con đường thật sự cần thiết để giải quyết các chướng ngại Tuệ Quán vừa
nói chỉ có thể t́m thấy qua pháp môn Tứ Niệm Xứ.
Ở đây v́ đặc biệt nhắm đến lớp hành giả sơ cơ, nên tôi chỉ tŕnh bày con
đường Tuệ Quán qua hai án xứ đầu tiên của Thân Quán Niệm Xứ là Quán
Đại Oai Nghi (Iriyāpathapabba) và Quán Tiểu Oai Nghi (Sampajaññapabba).
Xin chớ xem thường hai đề mục có vẻ đơn giản này, v́ nếu hiểu đúng, làm
đúng th́ chỉ với 2 án xứ này hành giả sẽ thấy được bản tướng Khổ Năo của
Danh Sắc để từ đó thấy được Khổ Đế. Thấy được Khổ Đế một cách đúng mức
cũng sẽ thấy được 3 Thánh Đế c̣n lại. Đồng thời, cũng xin nhớ rằng quán
niệm các oai nghi chính là cách giải quyết khối chướng ngại che khuất
Khổ Tướng, và một người thấy được Khổ Tướng cũng sẽ thấy được Vô Thường
Tướng cùng Vô Ngă Tướng. Đó chính là cứu cánh của Tuệ Quán. Và sau đây
là những điều tâm niệm cho công phu Quán Oai Nghi nói riêng và 4 Niệm Xứ
nói chung:
A. NHẬN DIỆN THỰC TẠI: là
sự biết ḿnh trong mỗi khoảnh khắc sinh hoạt là ḿnh đang trong tư thế
nào th́ ghi nhận rơ tư thế ấy. Như đang ngồi th́ biết rơ Sắc Pháp đang
trong tư thế ngồi, đang nằm biết rơ Sắc Pháp đang trong tư thế nằm,… Và
điều quan trọng là nếu hành giả chỉ đơn giản nhận biết đó là Sắc Pháp mà
không nhận diện chính xác Sắc ǵ, Danh ǵ th́ vẫn không thể chấm dứt
được khái niệm Ghanasaññā (thấy sự hiện hữu của ḿnh là một khối đơn
thuần), cho nên ở đây hành giả cần nhận biết rơ rệt từng phần Danh Sắc:
Đây là Địa đại, Thủy đại,.. Đây là tâm tham, tâm sân, tâm thiện,..
B. SỐNG TẠI CHỔ: Là
hành giả phải luôn nhớ rằng cảnh sở tri của Tuệ Quán phải là cảnh
hiện tại, tại đây và bây giờ. Không có chuyện hồi tưởng hay suy diễn
ở đây. Thực tại ra sao th́ ghi nhận như vậy. Cái ǵ đă thuộc về quá khứ,
dù chỉ là một phút trước đó, cũng không nên bận tâm nữa. Trọng tâm mà
hành giả cần dốc sức ghi nhận chỉ là cái ǵ đang xảy ra. Đang ở tư thế
nào th́ biết rơ tư thế ấy (theo cách đă nói). Dĩ văng hay tương lai ở
đây hoàn toàn không cần thiết.
C. CẢNH GIÁC: là
hành giả phải luôn khéo tác ư (manasikāra) để luôn ở trong t́nh
trạng cảnh giác đối với Ngă chấp. Đang ngồi th́ biết rơ là Sắc Pháp đang
ngồi, không phải TÔI đang ngồi hay M̀NH đang ngồi. Nên nhớ nội dung của
Tuệ Quán không chỉ là Chánh Niệm (sự ghi nhận) mà c̣n là Trí Tuệ (sự
biết rơ). Cả hai cái TÔI trong hay ngoài tư thế đó, trong hay ngoài sự
biết ḿnh đó đều nguy hiểm như nhau !
D. KHÔNG CẦN BỘ TỊCH: Là
tiếp tục giữ lại sự tự nhiên trong sinh hoạt như lúc chưa biết ǵ về
pháp môn Tuệ Quán. Trước đây thế nào, th́ bây giờ cứ như vậy. Xin nhớ
rằng Tuệ Quán không phải là cái ǵ ngược đời hay lập dị, Tuệ Quán chính
là sự hiểu rơ tính Vô Ngă trong từng phút giây hiện tại mà thôi. Khi ta
cố gắng sinh hoạt ngược lại nền nếp trước giờ, th́ chính sự khiên cưỡng
đó sẽ khiến bản chất của ta bị phong bế, sự thật về Danh Sắc bị bưng
bít, hành giả không thấy được chính ḿnh. Lại nữa, ở mỗi người, Danh Sắc
có một cách hiển hiện riêng. Trường hợp của anh có thể không giống của
tôi. Hành giả không nên biến ḿnh thành một người khác. Xin cứ giữ
nguyên như vậy rồi lặng lẽ quan sát. Dù ǵ th́ quan sát một địa thế quen
thuộc vẫn giúp người ta thoải mái hơn.
E. QUÁN OAI NGHI: Vấn
đề tiếp theo là có bao giờ bạn thấy ra được nổi khổ đau trong từng tư
thế sinh hoạt? Có bao giờ bạn ngờ được rằng chúng ta vẫn sinh hoạt trong
một nổi đau thường trực? Thực ra có thấy khó chịu, bất kham trong oai
nghi này, ta mới thay đổi sang oai nghi khác. Từng tư thế đi, đứng, nằm,
ngồi, … Đều như thế cả. Sở dĩ lâu nay ta không thấy được điều đó là bởi
do phiền năo che khuất. Công phu quán niệm các oai nghi lúc này giống
hệt như việc coi phim hay xem hát tuồng vậy. Chỉ đơn giản ngồi xem thôi,
không tham dự vào đó, thanh thản và buông bỏ. Có như vậy hành giả mới có
thể chấm dứt được hai thái độ chủ quan là Tham đắm (bám víu) và Ưu năo
(bất măn) trước ngoại cảnh. V́ sao lại thế được? Bởi khi ta có ḷng can
dự, dính líu các oai nghi th́ tất sẽ rơi vào một trong hai trường hợp
sau đây: Muốn tống khứ những ǵ ḿnh thấy khó chịu (khổ) để t́m đến cái
dễ chịu, đó chính là Tham. Khi không thể xua tan được nỗi khó chịu kia,
ta bất măn, đó lại là Ưu. Đây là lư do tại sao nói các tư thế sinh hoạt
đều thiết lập trên đau khổ và tại sao công phu quán niệm các oai nghi
lại có công năng giải thoát Tham Ưu. Nói vậy có nghĩa là cho đến bao giờ
thấy được rằng từng oai nghi là cơ hội nh́n ngắm đau khổ th́ coi như
hành giả đă tu tập đúng theo pháp môn Tứ Niệm Xứ. Bởi qua đó, hành giả
không c̣n một móng tâm ham muốn nào trong việc điều động các tư thế sinh
hoạt nữa, v́ từ đó sẽ dẫn đến Tham Ưu. Mọi sự để tự nhiên, chúng thế nào
th́ ghi nhận thế ấy.
F. TỰ NHIÊN NHƯ NHIÊN: là
hành giả không nên tự khép ḿnh vào bất cứ oai nghi nào mang tính cách
g̣ bó (như một số người vẫn hiểu lầm). Tức là hành giả tránh việc tự
đóng khung vào một tư thế nào đó trong một thời lượng mà ḿnh quy định
(như phải ngồi trong một tiếng, phải kinh hành trong nửa tiếng,…). Càng
có chủ ư can thiệp vào các tư thế, ta càng cũng cố ư niệm TÔI LÀ, TÔI
MUỐN,… Điều đó không đúng với tinh thần của pháp môn Tứ Niệm Xứ. Bởi qua
sự khiên cưỡng, đóng khung, g̣ bó như vậy ta sẽ không thấy ra được bản
chất Vô Ngă của Danh Sắc. Trong khi đó lư tưởng của pháp tu Tuệ Quán là
làm thế nào để thấy ra được lư Vô Ngă. Hành giả phải sinh hoạt tự nhiên,
để mặc các thứ xuôi theo nguyên tắc Nhân Quả và chỉ việc nh́n ngắm chính
ḿnh: Khi đứng lâu quá, tự động ta sẽ ngồi hoặc nằm xuống, khi nằm lâu
quá ta sẽ ngồi dậy, đứng lên hay bước đi. Nói vậy có nghĩa là ta cứ để
cái KHỔ thúc đẩy các oai nghi, và đừng tự ư tham dự vào trước khi nhận
diện được nó. Đến lúc này xem ra hành giả đă từng bước thấy ra được toàn
bộ sự thật của Danh Sắc.
G. QUÁN NHÂN DUYÊN: hành
giả phải thấy được tính Nhân Quả trong mỗi tư thế sinh hoạt bằng cách
quan sát lư do thay đổi trong các oai nghi: Tư thế ngồi đă kéo dài quá
lâu, bây giờ sự nhức mỏi đang buộc ta phải nằm xuống (hay bước đi) để
giải tỏa cơn đau. Nếu không hiểu rơ như vậy, hành giả sẽ tưởng lầm là có
một sự Hạnh Phúc, An Lạc trong tư thế mới, thay v́ phải thấy rằng sở dĩ
ta thấy thoải mái là v́ cơn đau trong tư thế cũ đang được giải trừ. Sự
ngộ nhận về một hạnh phúc hư ảo cũng là một h́nh thức Điên Đảo Kiến (Vipallāsa).
Lâu nay chúng ta vẫn tự lừa dối ḿnh trước bản chất đau khổ của đời sống
bằng những cách thức trốn chạy, như sự thay đổi các tư thế sinh hoạt
chẵng hạn, nhưng bây giờ th́ mọi sự lại khác đi. Hành giả nên dùng trí
tuệ vạch rơ tính Nhân Quả trong từng động tác, tư thế: V́ sao ta phải
bước đi? Phải nằm xuống? Phải ngồi lại? Ô hay! Chính sự đau khổ trong
Danh Sắc đă khiến ta phải như thế. Các pháp hữu vi luôn có nhân duyên,
cả tư thế sinh hoạt của chúng ta cũng vậy. Nhân duyên đó là sự đau khổ.
Thấy được điều này, các tư thế sinh hoạt không c̣n là thứ chướng ngại
ngăn trở hành giả nh́n thấy bản chất đau khổ của Danh Sắc nữa. Nói gọn
lại, hăy ngồi cho đến khi cơn đau xuất hiện để ḿnh có thể thấy được
khuôn mặt của nó. Đối với các tư thế khác cũng vậy. Khi không nhận diện
được sự đau khổ trong các tư thế, hành giả sẽ dễ dàng rơi vào các Điên
Đảo Kiến, mà ở đây là sự tưởng lầm có một sự Hạnh Phúc trong các tư thế.
Tham ái và Tà kiến sẽ từ đó h́nh thành.
Theo những ǵ vừa tŕnh bày, khi nào chưa thấy được sự đau khổ trong một
oai nghi (tư thế) nào đó, hành giả cần tự hỏi: Tư thế này là hạnh phúc
hay đau khổ? Quư vị sẽ không phải chờ đợi lâu lắm đâu, chỉ ít lâu sau đó
thôi, cơn đau sẽ từ từ lộ diện. Các ngộ nhận (nếu có) cũng sẽ theo đó mà
tan biến.
Tất cả những vấn đề Mê hay Ngộ luôn theo chân nhau mà đến hay đi. Lạc
tưởng sẽ kéo theo Thường tưởng và Ngă tưởng. Đồng thời, thấy được Khổ
tướng sẽ thấy được cả Vô Thường Tướng và Vô Ngă Tướng. Giải quyết được
gút mắc này th́ những dây mơ rễ má kia cũng được giải quyết. Khi một thứ
Điên Đảo Tưởng c̣n tồn đọng th́ những thứ kia cũng không được giải
quyết, và như vậy trí tuệ không thể xuất hiện. Và chính v́ mục đích nhận
diện Tam Pháp Ấn (Vô thường, Khổ, Vô ngă) trong các oai nghi, hành giả
không nên tự g̣ bó, đóng khung ḿnh vào một tư thế bắt buộc nào đó trong
một thời hạn nhất định. Hăy để các tư thế tự bàn giao với nhau qua sự
thúc đẩy của sự đau khổ, quư vị chỉ lặng lẽ theo dơi v́ sao cái cũ phải
được thay đổi bằng cái mới. Như vậy đừng quan tâm chi đến thời gian của
mỗi tư thế, cho dù ta chỉ vừa ngồi hay đi được năm, mười phút. Thời
lượng ở đây không phải là vấn đề quan trọng, cái quan trọng là hăy để
mọi thứ diễn ra trong tự nhiên theo nguyên tắc Nhân Quả: Cơn đau trong
tư thế này sẽ tự động dẫn đến sự h́nh thành của tư thế kia.
Càng thấy rơ tính Nhân Quả trong các oai nghi, trí tuệ của hành giả sẽ
càng lúc nhanh nhạy, sắc bén hơn. Đó là nguyên tắc Nh́n Nhiều Thấy Nhiều
trong pháp môn Tuệ Quán.
Ư nghĩa của việc quan sát các oai nghi c̣n có một khía cạnh khác rất
quan trọng, đó là sự khám phá tính Vô Ngă trong Danh Sắc. Không nhận ra
sự tiếp nối giữa các tư thế, ta sẽ không biết được cái ǵ là tác nhân
của những oai nghi đó. Từ chổ không biết này, khái niệm TÔI LÀ sẽ xuất
hiện ngay trên chính những ǵ lẽ ra phải được thấy là những đau khổ
tương tục. Lúc này ta đă đồng hoá những cảm giác kia với một cai Tôi ảo
tưởng, cho dù đó chính là những đau nhức, tê mỏi. Và ở đâu c̣n có giả
tưởng về một cái Tôi th́ ở đó vẫn c̣n có sự trầm luân.
H. PHÓ THÁC CHO KHỔ THỌ: nghĩa
là hành giả nên để tự nhiên cho chính Khổ thọ trực tiếp tác động các oai
nghi. Có vậy mới thấy được rằng mỗi tư thế sinh hoạt chỉ là từng động
tác giải tỏa đau khổ, không hề có cái ǵ là hạnh phúc trong đó cả. Hiểu
được nhân quả trong từng oai nghi như vậy được gọi là
Sāṭṭha-kasampajañña, Nhân Quả Tỉnh Giác (một trong 4 loại trí Tỉnh
Giác).
Khi hiểu được rằng mọi oai nghi chỉ nhằm để giải trừ đau khổ, mà mọi
người vẫn hiểu lầm là hạnh phúc, th́ hành giả cũng thấy được rằng mọi
động thái sinh hoạt chỉ quẩn quanh trong đau khổ, do đau khổ thúc đẩy,
nằm ngoài sự ước tính của ḿnh, một điều mà xưa nay có lẽ không bao giờ
hành giả ngờ đến. Chính sự tiết chế đối với từng oai nghi như vậy sẽ
khiến Tham ái không thể nảy sinh trong mỗi động tác như xưa nay vẫn thế.
V́ vấn đề bây giờ không phải là ư muốn của hành giả nữa, mà mọi thứ đều
là sự tác động của đau khổ. Tham Ái vắng mặt th́ Mạn Chấp và Tà Kiến
cũng theo đó vắng mặt.
I. TÁC DỤNG PHÁ MÊ:
Như những Niệm Xứ khác, ư nghĩa của phép quán oai nghi cũng là phá tan
các điên đảo kiến (Vipallāsa) mà rơ nét nhất là Lạc Tưởng, cho
rằng các Uẩn là hạnh phúc. Không c̣n ngộ nhận về một hạnh phúc ảo tưởng
th́ hành giả mới có được cái nh́n như thật về Danh Sắc, trí tuệ về 4
Thánh Đế từ đó được thành tựu.
J. ĐỀ MỤC CHUYÊN NHẤT:
Khi đang lắng tâm ghi nhận các oai nghi, nếu có một sự xao động nào đó
trong ư thức như sự phóng tâm chẵng hạn, hành giả cũng không nên bận
ḷng đến nó, cứ tiếp tục kiên tŕ với đề mục oai nghi mà ḿnh đang theo
dơi. Giống như một người tập đi xe đạp khi bị té ngả th́ phải đứng dậy
và tiếp tục tập luyện với chính chiếc xe ấy, không thể mỗi lần bị té lại
thay đổi chiếc xe khác. Hành giả tu phép quán oai nghi cũng phải như
vậy. Mỗi lần phóng tâm cũng giống như một lần vấp ngả, hành giả biết
ḿnh và tiếp tục dán tâm vào án xứ oai nghi như chưa có ǵ xăy ra. Thực
ra sự phóng tâm ấy cũng là cảnh Danh pháp chân đế, cũng là cảnh thực
tại. Sở dĩ hành giả không nên bận tâm đến v́ lư do nếu đem so ra, các
oai nghi là cảnh Sắc pháp nên thô thiển và dể ghi nhận hơn cảnh Danh
pháp vốn vi tế nhỏ nhiệm hơn rất nhiều, việc ghi nhận một đối tượng như
vậy sẽ rất khó khăn cho một người có chánh niệm non yếu, trí tuệ chậm
chạp. Trong khi đó, các oai nghi cũng là cảnh chân đế, cũng cảnh thực
tại, đă vậy th́ can chi hành giả phải buông đây bắt đó cho thêm phiền.
Xin nhớ rằng đối với một hành giả chọn tu phép quán oai nghi th́ đề mục
chuyên tu của vị này phải là cảnh Sắc pháp hiện tại, nếu không có một
nhân duyên thích đáng (sự bàn giao giữa các oai nghi theo tác động của
khổ thọ) th́ không nên thay đổi đối tượng chú ư. Nếu hành giả nhất tâm
quán niệm các oai nghi th́ sự phóng tâm sẽ không có cơ hội v́ khi các
oai nghi đang là cảnh hiện tại th́ bất cứ sự phóng tâm nào xuất hiện
ngay lúc này dĩ nhiên phải hướng về một cái ǵ đó thuộc quá khứ hay vị
lai. Người đang tri nhận thực tại sao lại có thể hồi tưởng hay suy diễn.
Có thể sẽ có câu hỏi rằng liệu việc hành giả biết ḿnh phóng tâm ấy có
phải là rời bỏ thực tại (cảnh oai nghi) hay không, xin trả lời rằng đó
là khả năng phản ứng của một nội tâm chuyên niệm. Ngay sau khi nhận rơ
sự việc, hành giả tiếp tục trở lại với án xứ oai nghi như cũ. Và điều
quan trọng là chính thái độ tri nhận thực tại khít khao nầy sẽ kịp thời
ngăn chận được sự xuất hiện của tham ưu.
Có lẽ bây giờ tôi phải một lần nữa quay lại với định nghĩa về cái gọi là
Cảnh Hiện Tại. Đó chính là những Danh Sắc nào sinh khởi ngay lúc ấy,
sinh khởi theo quán tính tự nhiên, không phải do sự điều động của ư muốn
hành giả và hành giả chỉ việc theo đó mà ghi nhận. Xin nhớ rằng cảnh sở
tri đến từ ư muốn của hành giả không tốt cho lư tưởng giải thoát, v́
thật ra chúng đă hiện khởi từ tác động của tham ái. Ngay cả một sự an
tịnh nội tâm đến từ cố gắng tự kỷ ám thị cũng không cần thiết cho hành
giả, v́ qua đó hành giả không thấy được bản chất Tam Tướng trong Danh
Sắc và nếu phân tích đến kỳ cùng th́ rất có thể chính vọng tưởng (Vipallāsa)
đă ít nhiều góp mặt trong sự an tĩnh nhất thời đó. Một cách nông cạn th́
sự an tĩnh đó cũng là niềm an lạc, nhưng với sự chi phối của vọng tưởng,
hành giả không thể nhận ra khía cạnh Vô Thường, Khổ và Vô Ngă trong đó.
Thay v́ b́nh tĩnh một tí, hành giả sẽ thấy rằng nổi niềm nào cũng là ảo
giác và niềm an lạc kia chỉ là một dáng vóc khác của phóng dật mà thôi.
Lại nữa, hành giả cũng nên nhớ rằng cảnh sở tri mang tính khiên cưỡng
như vậy không phải là cảnh thật. Và nếu chỉ là cảnh giả th́ không thể là
đối tượng cho một nhận thức như thật, v́ đó chỉ là tác phẩm của ư muốn
hành giả, một h́nh thức vi tế của phiền năo, và ngay từ căn bản, chúng
đă bị bưng bít. Trong khi đó, cảnh sở tri như thật phải là những ǵ diễn
ra một cách tự nhiên, như các oai nghi chẵng hạn. Ở đây hành giả không
có chủ ư thay đổi oai nghi, chỉ lặng lẽ theo dơi khổ thọ tác động lên
thân xác ḿnh ra sao. Khi chịu không nổi tư thế cũ th́ tự nhiên việc
thay đổi oai nghi sẽ trở thành một nhu cầu cấp bách. Điều nên nhớ là khổ
thọ ấy không phải xuất hiện do ư muốn của ta, nó tự phát theo quy luật
tam tướng.
Như vậy, tôi nhắc lại rằng Cảnh Hiện Tại trong thiền Quán không phải là
cái ǵ được tạo ra từ ư muốn của hành giả v́ đó chính là cơ hội cho tham
ái sinh khởi. Pháp môn Niệm Xứ đặc biệt nhấn mạnh vai tṛ của Chánh Niệm
và Tĩnh Giác v́ hai pháp này luôn có công năng ngăn chận phiền năo tháp
tùng cảnh sở tri và nhờ vậy, hành giả mới có cơ hội bản chất như thật
của Danh Sắc. C̣n là phàm phu th́ sự thanh tịnh nào trong tâm tưởng cũng
chỉ là tương đối, nhưng ít ra công phu thanh lọc nội tâm của hành giả
cũng không v́ vậy mà hoài công. Nói tóm lại, nếp sống chánh niệm sẽ giúp
hành giả được khách quan trong việc quán chiếu cảnh Danh Sắc một cách
chính chắn nhờ không có phiền năo can dự, và cảnh thực tại là tuyệt đối
quan trọng đối với hành giả Tứ Niệm Xứ. Trong mọi lúc mọi nơi, hành giả
cần liên tục tỉnh táo và khách quan để sống tri nhận trọn vẹn những ǵ
ĐANG xăy ra.
Về khái niệm hiện tại nầy, có người cho rằng cái gọi là cảnh hiện tại ấy
thực ra không phải là ĐANG xảy ra. Bởi giây phút hiện tại ấy chỉ là một
chớp nhoáng, sự ghi nhận nào đối với Danh Sắc hiện tại cũng đều rất muộn
màng. Việc ấy xem ra cũng giống như việc bắt cá trong nước. Có thể ta
thấy con cá có lúc đứng yên nhưng khi tḥ tay bắt nó th́ chỉ có thể nắm
được cái đuôi hay lại để nó vuột mất. Việc ghi nhận danh sắc khó khăn
đến như vậy, cũng v́ chúng ta thường xuyên bị phiền năo vây hăm, hoặc
chận đầu hoặc bọc hậu. Và đó là cội nguồn của tham ưu trong cuộc sống
cũng như lư do v́ sao hành giả phải đặc biệt cảnh giác với từng phút
giây hiện tại để có thể sống tỉnh thức một cách nghiêm cẩn hơn.
Không ít hành giả thay v́ lắng tâm ghi nhận oai nghi tại đây và bây giờ
th́ lại cứ thao thức mong mơi nội tâm được an tịnh. Cách hành tŕ này
không thể dẫn đến một nhận thức như thật về Danh Sắc. Bỏ cái trước mắt
để t́m kiếm cái chưa thấy rơ ràng là hành động bỏ h́nh bắt bóng. Do vậy
có ba vấn đề quan trọng đối với hành giả là phải luôn tự xác định xem
thế nào là cảnh hiện tại? Đâu là cái tâm ghi nhận cảnh hiện tại? Và điều
ǵ sẽ xảy ra khi nội tâm không kịp thời ghi nhận được cảnh hiện tại?
Công phu này đ̣i hỏi một khả năng khéo tác ư. Không khéo tác ư, hành giả
sẽ bỏ mất hiện tại, sống quên ḿnh và hoang phí thời gian. Khi biết ḿnh
đang thất niệm, hành giả cứ b́nh thản chú niệm trở lại th́ mọi cơ hội
vẫn c̣n nguyên vẹn đó.
NẾP SINH HOẠT THƯỜNG NHẬT CỦA HÀNH GIẢ
Ngoài những lúc tập trung chánh niệm trong các oai nghi đi, đứng, nằm,
ngồi, hành giả c̣n có nhiều sinh hoạt lớn nhỏ khác trong đời sống hàng
ngày như ăn uống, tắm rửa, tiểu tiện,… và nhất nhất đều cần được diễn ra
trong tỉnh thức. Nếu thiếu cảnh giác, tham ái và tà kiến sẽ có cơ hội
sinh khởi nơi hành giả.
Một cách tóm tắt, những khi ăn uống, tắm rửa, tiểu tiện, ... hành giả
nên quán tưởng TẠI SAO PHẢI LÀM VẬY. Câu trả lời là mọi sinh hoạt và
tiêu thụ hàng ngày chỉ có hai ư nghĩa là nhằm giải trừ những bức bách
của thân xác và sự an lạc của tấm thân này chỉ có ư nghĩa là phương tiện
tu học để giải thoát phiền năo. Tác dụng của việc quán tưởng này theo
ngày dài tháng rộng sẽ giúp hành giả không bực ḿnh lúc gặp điều trái ư,
không tham đắm trong những cám dỗ. Và chính những quan sát b́nh tĩnh
trong sinh hoạt sẽ dần dần giúp hành giả sống trọn vẹn hơn trong tinh
thần Vô Ngă: Không có cái ǵ là Tôi hay Của Tôi, chỉ có Danh Sắc diễn
biến. Nhận thức này được gọi là Trí Tuệ Phân Tích Danh Sắc
(Nāmarūpaparicchedañāna), thiền tuệ đầu tiên trong 16 thiền tuệ Minh
Sát.
Pháp môn Niệm Xứ là linh hồn của Phật Giáo. Chính đức Phật cũng đă phải
đi qua con đường này để thành đạo và ngày nào c̣n người tu tập pháp môn
này th́ chánh pháp vẫn tiếp tục rực sáng giữa nhân gian.
Nguồn: luylau.com