Tôi về thăm Thalwil một ngày nhiều gió. Khu nghĩa
trang trước nhà người Phật tử đẹp như một công viên. Tôi đã ngồi mấy
tiếng đồng hồ ở đó để một mình trải nghiệm một cảm giác chưa từng có
trong đời mình…
Từ mấy năm qua trong đời mình, tôi đã có nhiều dịp để
biết thêm những nghĩa trang đẹp đến mức chỉ mới nhìn qua, mà cứ nghe
ngậm ngùi cho những không gian vẫn dành cho người còn sống. Những
nghĩa trang đầy hoa, với những con đường thiệt nhiều những cội cổ
thụ cao vút, tán lá thâm u suốt ngày lộng gió, như chứa hết những
lời thì thầm của bao kẻ đã nằm xuống mà chưa đành lòng lìa bỏ chút
hình hài còn gửi lại đây.
Tôi đã ngồi một mình trên chiếc băng đá cạnh một bia
mộ bằng cẩm thạch trắng muốt chạm hình thiên thần tuyệt đẹp, như vừa
lấy ra từ một viện bảo tàng nào đó. Trong làn gió trưa mang theo một
tí mùi rong rêu từ bức tường đá nghĩa trang, tôi như chìm sâu vào
cơn đại định của những trầm tưởng thật lạ…
Mươi năm trước, một hình hài đỏ hỏn chào đời ở đâu đó
trên trái đất này với bao nhiêu là những lạ lẫm, nghi ngờ. Thằng bé
ngày đó đã khóc vì sợ hãi, vì sự bất kham của cơ thể trước môi
trường mới, những điều kiện sống chưa quen được. Nó đúng là người
khách lạ trên tay người mà nó sẽ gọi là mẹ. Rồi thì nó lớn lên để
một ngày biết yêu những người dưng, về sống ở những miền đất lạ,
càng xa lạ càng khoái… Để một đêm khuya hay chiều mưa nào đó trên xứ
người, nó chợt nhận ra một điều mà bao năm qua chính mình chưa từng
ngờ tới, nghĩ đến: Thì ra nó vẫn một đời cô đơn. Nó, hay bao người
khác, đều có chung một định phận hắt hiu kiểu đó. Vòng tay mẹ, rồi
vòng tay người tình, trời ạ, hình như vẫn chỉ là những vòng rào ôm
lấy một nghĩa trang quạnh hiu, từng luống hoa bao quanh một ngôi mộ
đá lạnh lẽo. Chẳng ai hiểu ai, dù chỉ là một phút, nói chi là tri kỉ
một đời.
Tôi ngẫu nhiên đưa mắt nhìn ra con đường lớn cạnh
nghĩa trang. Một bà cụ ăn vận sang trọng đang dắt con chó nhỏ đi
ngang. Một hình ảnh làm tôi nao lòng. Hom hem, cằn cỗi, mệt mỏi và
cô độc, bà cụ trông như một nghệ nhân điêu khắc đang hoàn tất những
đường nét sau cùng cho bức tượng nhân sinh. Bà vẫn đang một bóng
trên quãng đường còn lại của đời mình. Sau những hẹn hò, gặp gỡ rồi
thì gì cũng bỏ lại hết sau lưng. Bao nhiêu thân quen, rồi cả yêu
đương gì đó, chi cũng là những giây phút đến rồi đi. Chẳng hiểu sao,
tôi cứ nhìn theo dáng bà cụ rồi tự đoan chắc với mình rằng mãi đến
tận giờ, bà vẫn giống hệt như hồi còn nằm ngo ngoe trên tay mẹ ở chỗ
không biết mình là ai và yêu ghét trên đời là gì. Có sao sống vậy,
được gì cầm nấy. Và quan hệ giữa bà với bao người chung quanh chỉ là
mối liên lạc hữu cơ rồi cả vô cơ gì ấy giữa những cỏ rêu hoa lá
trong một nghĩa trang đời để làm nên một chốn đi về cửa những vong
hồn xiêu lạc.
Ngẫm lại bao phận người, tôi cứ nhớ đến tục lệ gõ mộ
tìm chồng của bộ lạc Kabati bên Nam Phi. Đó là một cổ tục hơi buồn,
nhưng cũng thiệt đẹp và nhiều ý nghĩa. Những góa phụ Kabati khi
không cam tâm cô đơn suốt đời thường dựng lều bên mộ chồng để đêm
đêm lấy gậy gõ vào đó cho đàn ông qua đường nghe thấy để họ biết
đường mà tìm tới xem mặt. Ưng bụng thì lấy nhau, nếu chẳng ai ghé
vào thì người góa phụ cứ ngồi đó mà gõ mộ chồng để tiếp tục chờ đợi.
Tôi đọc thấy tục lệ kỳ lạ này của Phi Châu mà cứ nhớ lại chuyện
người thiếu phụ quạt mồ mà Trang Tử ngày xưa đã gặp. Nhưng ngẫm kỹ
thì đâu phải chỉ có góa phụ mới quạt mồ hay gõ mộ. Ai trên đời lại
chẳng có lúc thèm nghe một tiếng lòng. Rồi cả khi nhận được lời đáp,
mỗi người vẫn một cõi riêng, chẳng qua chắp vá cảm xúc mà sống cho
qua một kiếp người thiệt nhiều những khoảng trống không sao lấp nổi.
Ai cũng cô đơn vì một đời không tri kỷ. Nhưng thử hỏi chính mình còn
chưa hiểu nổi bản thân thì làm sao có thể giao phó cho chuyện đó cho
ai khác chứ!
Tôi bỗng thấm thía riêng mình với một câu chữ tiếng
Anh. Tu học là một hành trình tìm đường (looking for the way). Một
cuộc lên đường để tìm ra một lối đi. Chữ WAY đó hay lắm. Xé nhỏ ra
từng chữ cái, W-A-Y, nó còn là một hành trình tự vấn. WHO ARE YOU
(Anh là ai giữa muôn trùng thiên hạ) và WHERE ARE YOU (Anh đang ở
đâu trong trời đất bao la này). Nhìn sang mấy chiếc thập giá trên
những bia mộ trước mặt, tôi bỗng nhớ đến một câu nói hiếm hoi của
Krishnamurti về Công giáo cho những người đang là hay chưa là một
tín hữu Ki-tô: Hãy thánh hóa chiếc thập giá bằng cách hiểu rằng
hình ảnh thập tự là minh họa cho lý tưởng xóa bỏ một cái TÔI. Hãy
viết xuống một chữ I (Tôi) trong tiếng Anh rồi gạch ngang để xóa bỏ
nó, ta sẽ có ngay một chiếc thập giá. Đó là một chiếc thập giá cần
có cho thế giới hôm nay, bất kể châu lục nào, và cho toàn thể nhân
loại, bất kể anh thuộc tín ngưỡng nào hay không có tín ngưỡng. Chiếc
thập giá đó sẽ đem người ta về gần với nhau, để hiểu mình là ai,
đang ở đâu và phải làm gì. Hình như là vậy!
Xin một đời thâm tạ những miền đất đã cưu mang tôi,
cho tôi một cõi sống, và cũng chính ở nơi đây tôi muốn nói lời cảm
ơn những nghĩa trang khắp nơi trên trần thế này, những nơi tôi đã
học nhiều điều về nỗi chết. Đừng sợ buồn, đừng sợ vắng, mong bao
người thiên hạ hãy một lần ghé lại một nghĩa trang nào đó để biết
mình là ai và rồi sẽ đi về đâu. Hãy ghé lại để thấy bao toan tính hư
vinh trên đời thật ra chỉ là những gì quá đỗi phù phiếm, mù sương.
Tôi tin đó cũng là một cách thế tu hành. Vì như ở trên đã nói, cuộc
tu là hành trình tìm kiếm một con đường (WAY): Who You Are,
anh là ai giữa bao người và Where You Are, anh đang ở nơi đâu
giữa cuộc trầm luân này!
Moeriken, mưa tháng Sáu 2008