|
CẦU TRE LẮT LẺO
Toại Khanh
Để ngắn gọn, tôi đă thay đổi tựa đề bài viết. Bản thân người viết bài này chưa hề có một mảnh bằng đại học nào hết. Một ngày ngẫm chuyện chung quanh, tôi muốn viết ra chút tâm tư cho nhẹ ḷng và điểm tựa cho bài viết cũng chỉ là một vài tổ chức học Phật cũng không thuộc đại học. Đó là lớp Hán cổ ở chùa Già Lam (G̣ Vấp) mấy năm đầu thập niên 90 do quư thầy Nguyên Hồng, Thái Siêu khởixướng và bên cạnh đó là mấy lớp hướng dẫn dịch kinh Hán Văn ở Đại Ṭng Lâm do thầy Trí Không, sau này c̣n thêm một chương tŕnh tương tự do HT Minh Cảnh tổ chức (gọi là nhóm phiên dịch Huệ Quang th́ phải). Hiện ḥa thượng c̣n đang thông báo chiêu sinh khóa mới tại Việt Nam. Cả ba chương tŕnh này đă đào tạo hàng trăm tăng ni cư sĩ thực học và họ cũng đă chung sức nhau thực hiện hàng chục công tŕnh phiên dịch đồ sộ mà đến cả giáo hội Phật Giáo trung ương của nhà nước, gồm cả Viện Nghiên Cứu Phật Học và cả ba trường Cao Cấp Phật Học ở ba miền cũng không làm nổi. Cả ba lớp học tự túc vừa kể trên đều không thuộc một trường đại học nào hết, nhưng hiệu quả theo tôi th́ bao nhiêu khóa Cao Cấp Phật Học sau 1975 không sao b́ được. Trong bài viết này, tôi muốn thử đưa ra vỏn vẹn hai tiêu đề: Tăng ni cư sĩ phải học ǵ, và học để làm ǵ.
I. HỌC G̀ Trước hết, dù tăng ni cư sĩ thuộc hệ phái nào và đang tu học trong hay ngoài nước nói chung, mất bốn năm ở các trường Phật Học làm ǵ nếu người tốt nghiệp không có được ba thứ này: A. Một hiểu biết căn bản về hai truyền thống Phật học Nam Tông và Bắc Phái qua tối thiểu vài ba bộ kinh luận tiêu biểu của hai bên (chẳng hạn Kim Cang, Duy Thức, Hoa Nghiêm, Trí Độ, Thanh Tịnh Đạo, Vô Ngại Giải Đạo, Thắng Pháp Tập Yếu Luận). Điều kỳ lạ là Phật giáo Việt Nam đă tỏ ra thờ ơ rồi chậm bước trong việc phiên dịch hai bộ luận Câu Xá của ngài Thế Thân (Vasubandhu) và Phát Trí của ngài Ca Chiên Diên Tử (Katyayaniputra) vốn đáng được xem là những chiếc cầu nối tuyệt đối quan trọng để Nam Tông Bắc Truyền gần lại với nhau hơn. Hay là v́ một lư do khó nói nào đó mà đến tận giờ những người có thẩm quyền vẫn để mặc hai truyền thống này tại Việt Nam tiếp tục sâm thương vời vợi. Ta có thể không phải là học giả hay luận sư ǵ hết, nhưng nếu đă học xong mấy năm đại học Phật Giáo (hoặc tương đương) th́ một cách căn bản phải nói được điểm tinh yếu của các truyền thống Phật Giáo lớn. Không có được khả năng này, trộm nghĩ danh xưng tốt nghiệp đại học Phật Giáo là bất xứng. B. Khả năng ngoại ngữ tối thiểu để tham cứu kinh điển Phật Giáo gồm ít nhất hai trong năm thứ tiếng Pali, Sanskrit, Hán, Nhật, Tây Tạng. Trong trường hợp tăng ni cư sĩ đang theo học ở các xứ Phật Giáo Theravada th́ c̣n phải thêm tiếng bản xứ, ch́a khóa tối cần để mở cửa kho tàng kinh Phật ở đó. Riêng khả năng đọc hiểu Anh ngữ th́ coi như bắt buộc, v́ đại học Phật Giáo trên mặt hành chánh cũng được xem tương đương đại học bên ngoài. Tôi coi trọng kiến thức ngoại ngữ ở một người chỉ v́ mấy lư do ai cũng biết. Kho tàng kiến thức của nhân loại đă, đang và sẽ được lưu trữ bằng các thứ tiếng khác nhau. Trông đợi các bản dịch rồi thỏa măn với chúng đều là chuyện không nên. Đọc truyện Kiều phải qua bản tiếng Việt mới đúng mức, và một người ngoại quốc ngồi chờ có bản dịch truyện Kiều bằng ngôn ngữ mẹ đẻ của ḿnh th́ biết đến kiếp nào, đă vậy đọc bản dịch theo tôi là uống cà phê nước nh́, cái mùi vị nguyên chất không c̣n nữa. Thứ đến, đọc hiểu thêm một ngôn ngữ là ta làm quen được một nền văn hóa, biết thêm một cách nhận thức. Thế giới bao la ǵ cũng có, mà ta chỉ biết quẩn quanh với cái ḿnh có ( thường cạn và hẹp hơn là sâu với rộng) th́ hoang phí quá. Thử nghĩ nếu không có kinh Phật từ Ấn Độ th́ loài người hôm nay làm sao có thể tưởng tượng ra được một kho tàng minh triết bất khả tư nghị đến vậy, và đặc biệt là kho tàng ấy đă được một phần nhân loại biết đến trên mặt đất này từ hơn hai ngàn năm trước. Và đối với người học Phật mà nói, ai cũng biết rằng Phật giáo mỗi xứ đều có những điểm độc đáo riêng tư bên cạnh cái chung nhất là Tam Tạng bằng tiếng Pali. Không đọc hiểu được các thứ tiếng Miến, Tích, Thái, Khmer th́ coi như ta đă bỏ qua mấy khu rừng kinh văn quan trọng. Chuyện đó c̣n đau hơn sự thiệt tḥi của một người mù điếc bẩm sinh trước nền điện ảnh thế giới. Nếu chương tŕnh trong bốn năm đầu ở đại học Phật giáo tập trung một chút, bớt hẳn các môn không thật sự cần thiết cho Phật học th́ việc người tốt nghiệp đọc hiểu được vài ba cổ ngữ vừa kể trên đây là chuyện b́nh thường. Tôi nói những môn không thật sự cần thiết là ám chỉ những môn kiểu kinh tế, xă hội, chính trị ǵ đó mà tăng ni sinh có thể trau dồi sau này khi thấy cần. Điều tối cần của một người học Phật trong mấy năm đầu tu học ở học viện, theo tôi, là ba kiến thức vừa kể trên (Phật học, ngoại ngữ và tiếng mẹ đẻ). Thà ít mà đủ sâu để xài được, c̣n hơn một mớ hổ lốn ǵ cũng có mà chỉ là đồ đồng nát (ve chai). Tôi biết nhiều người đọc đến đây sẽ mắng tôi không tiếc lời, chẳng hạn đồ dốt mà bày đặt dạy đời, nhưng tôi van các cha làm ơn ngó lại chương tŕnh các khóa Cao Cấp Phật Học ǵ ấy từ năm 1981 đến nay, nếu tăng sinh không tự trau dồi thêm, không có vốn liếng sẵn, th́ hàng chục môn trong mỗi khóa đó đă đem lại được ǵ cho họ khi môn nào cũng được học kiểu cưỡi ngựa xem hoa. Nói vậy hoàn toàn không có nghĩa là tôi xem nhẹ kiến thức bách khoa ở một người. Biết thêm một chuyện, chỉ có tốt chứ không xấu. Dốt một chuyện chỉ có xấu chứ không tốt. Ai từng cầm bút hay micro th́ biết, kiến thức càng rộng th́ khả năng xoay sở càng thoải mái, càng hiệu quả hơn. Kiến thức hẹp quá, dễ mắc thành kiến và trên hết là không đủ đồ xài. Tôi không có ư kêu gọi ai trở thành một người kiểu vậy. Những tŕnh bày năy giờ của tôi chỉ có một ư nghĩa duy nhất là trong mấy năm đầu học tập, tăng ni cư sĩ nên theo cách sâu trước rộng sau sẽ tốt hơn là ngược lại. Nói vậy v́ tôi ngại mấy điều là nếu chọn cách học rộng trước sâu sau, chỉ cần có chút danh lợi hay bận rộn ǵ đó th́ người ta sẽ không c̣n hứng thú để đào sâu những cái ḿnh chỉ mới biết đại khái. Thứ nữa, tăng ni có chiều sâu sẽ an toàn hơn và cuối cùng điều kiện tâm lư của một người từ sâu đi qua rộng luôn dễ dàng hơn là từ chỗ rộng t́m đến chỗ sâu. Tâm lư con người kỳ lạ vậy. Trong giao tiếp, tôi nhận thấy những người có chiều sâu thường dễ nhận ra chỗ thiếu của ḿnh hơn là người bắt đầu từ chiều rộng, có khuynh hướng tự cho ḿnh cái ǵ cũng biết! C. Khả năng ngôn ngữ đủ để trao truyền kiến thức ḿnh có cho người khác một cách thoải mái. Ngôn ngữ ở đây trước hết là tiếng mẹ đẻ, thêm được ngoại ngữ càng tốt, và bao gồm cả hai kỹ năng nói viết. Khả năng đọc hiểu và giao tiếp căn bản đă nói ở phần B. Anh giỏi chuyên môn, có một hay nhiều sở trường, nhưng không thể chia sẻ cho người khác ( đồng bào hay người xứ khác) bằng cách thức nào đó th́ rơ ràng sở học của anh đă mất đi một nửa ư nghĩa. Ngôn ngữ anh dùngphải đủ giúp người ta hiểu điều anh muốn nói, mà nếu được, cũng nên đủ trơn mềm trong sáng để tŕnh bày những vấn đề khô cứng, khó nói. Trộm nghĩ, một chương tŕnh đào tạo tốt không chỉ tạo ra khả năng hiểu biết mà c̣n là khả năng chia sẻ. Anh không thể chỉ là một học giả uyên bác chỉ biết tra tra lật lật cho riêng ḿnh, anh c̣n phải là một suối nguồn lợi tha. Tôi nghĩ người Việt không tệ, nhưng có lẽ do thời cuộc hoặc bối cảnh văn hoá xă hội sao đó, nhu cầu học đạo của Phật tử ḿnh khá đơn giản. Có thể dốc tiền cất chùa, nhưng không hứng thú trong việc thúc đẩy học thuật của Phật giáo. Có đủ bạo dạn để nói xúc phạm người khác, nhưng không đủ gan để tham vấn cặn kẻ khi học đạo với tăng ni. Lư do chỉ đơn giản là ngại hỏi kỹ quá lỡ các vị không biết th́ kỳ, hoặc sợ bị la mắng là vớ vẩn nhiều chuyện. H́nh như không nên thế. Cứ can đảm nhưng lịch sự, lễ phép hỏi lại chỗ tồn nghi. Chẳng hạn, xin hỏi con có thể đọc thêm vấn đề này ở đâu. Đại khái thế. Điều tối kỵ trong Phật pháp nói riêng và học thuật trên đời nói chung, là nhắm mắt tin thầy. Sau vài thế hệ cuồng tín kiểu đó, cái tinh hoa nguyên thủy chỉ c̣n là tấm ảnh không hồn. Đừng sợ bị chê dốt mà không dám hỏi, đừng để ḿnh bị ḷng quư kính thái quá chặn mất cơ hội t́m hiểu. Khi cư sĩ có thái độ học hỏi nghiêm túc kiểu đó, tăng ni tự dưng cũng phải nghĩ đến việc quay về trau dồi ngon lành hơn. Thảm nhất là tṛ học qua loa, thầy dạy sơ sài, kẻ cầu học thiết tha cẩn trọng không biết t́m thầy bạn ở đâu. Cái đó mới là mạt pháp.
II. HỌC ĐỂ LÀM G̀ Có không dưới 1001 câu trả lời trong trường hợp này. Ở đây người viết chỉ xin hai gạch đầu ḍng thôi: A. Học cho ḿnh Ta không thể là một người sống giữa đời mà không biết tí ǵ về thế giới quanh ḿnh. Tăng ni cư sĩ cũng không thể tu Phật theo cách má tin th́ con tin, ai rủ th́ theo. Vậy mục đích đầu tiên là ta học cho ḿnh. Cho ḿnh ở đây không đơn giản là để ḿnh có được một số vốn kiến thức kiểu “biết th́ tốt”, mà trên hết, ta dùng cái học trường lớp để xác định con đường ḿnh phải đi, cách ḿnh phải hiểu Phật Pháp, một cách xác định của riêng ḿnh, không phải vay mượn từ ai khác. Thậm chí mang danh tiến sĩ mà không có nổi một nhận thức độc lập th́ h́nh như vẫn c̣n có chỗ bất cập, bất xứng. Phải có chủ kiến trên nền tảng chánh kiến. Nói kiểu trong nước là kế thừa mà có phê phán. Ta không thể nói thầy tôi dạy vậy th́ tôi tin vậy. Bởi nếu ta có hơn hai ông thầy, mỗi vị nói một cách th́ ta phải tính sao đây chứ. Vậy rơ ràng việc học đầu tiên là đem cái biết của người về gặm nhấm với riêng ḿnh để sau cùng chọn lấy cái ḿnh thấy là đúng, là thích hợp. Đừng bao giờ v́ sợ chống trái với ông thầy rồi không dám động năo một cách độc lập. Theo tôi hiểu, và theo kinh Kalamasutta, Phật không dạy ta thờ thầy kiểu đó. Hôm nay sang Miến Điện giữa lúc đất nước này đang từng ngày thay đổi với một tốc độ đáng nể, tôi vẫn có chút khó chịu khi thấy kiểu Niệm Xứ Phồng Xẹp của ngài Mahasi vẫn được tôn thờ một cách cẩn cẩn như một truyền thống lớn nhất. Cạnh đó, lư tưởng và công trạng của ngài Vicittasara đối với nền học thuật của Phật giáo Miến Điện đúng là không thể phủ nhận, nhưng kiểu học cổ hủ là cái ǵ cũng phải đọc thuộc ḷng (oral) như trẻ con tiểu học cứ tiếp tục được giữ lại ở đây một phần lớn cũng là do thái độ kế thừa tinh thần của ngài ở những người hậu học trung thành. Họ làm như đă quên rằng nếu nay vẫn c̣n sống th́ Ngài đă trên trăm tuổi rồi và trong cách nghĩ của Ngài có nhiều thứ đă được thừa tiếp từ mấy trăm năm nay ở một xứ sở xa khuất như Miến Điện. Một cái giá phải trả của Phật giáo Thái Lan sau này chính là thái độ theo tổ quên Phật của Phật tử xứ này. Ai t́m hiểu ít nhiều về trung tâm Dhammakaya ở Thái chắc chắn sẽ hết hồn. Cơ sở to rộng như một phi trường, lượng người ủng hộ không dưới số triệu, khả năng tài chánh gần như vô hạn, muốn là có, và uy tín đối với chính phủ giống hệt như người nhà với nhau. Nhưng pháp môn chủ yếu củaDhammakaya là ǵ ? Lửng lơ giữa các truyền thống và Chỉ hay Quán có trời mà biết. Vậy mà người theo cứ đông như kiến cỏ, quân Nguyên ǵ đó chỉ là chuyện nhỏ. Các truyền thống một thời lẫy lừng như của ngài Achahn Chah, Achahn Neab, Achahn Asabha, thậm chí thần tượng của tuổi trẻ trí thức Thái Lan là ngài Buddhadasa cũng không sao có nổi một ảnh hưởng ghê gớm cỡ đó. Và người học đạo trước hết phải nhắm đến mục đích không để ḿnh trở thành một nô lệ hay chuột bạch cho bất cứ ai. B. Học để giúp người. Một người chịu đọc kinh Phật một cách đàng hoàng, dù có là Phật tử hay không, cũng phải nhận rằng Phật Giáo là một suối nguồn minh triết của toàn nhân loại. Không biết đến lời Phật rơ ràng là thiệt tḥi lớn của một người trên hành tinh này. Ai từng đọc qua các kinh Koran của Hồi giáo, Tân-Cựu Ước của Cơ Đốc Giáo, Talmud của Do Thái Giáo, Phệ Đà của Ấn Giáo, Đạo Tạng của Lăo Giáo,…rồi làm một so sánh, chắc chắn cũng đều phải thấy như vậy. Và ai đă rao giảng trao truyền ḍng chảy minh triết đó cho người chưa biết đến Phật Giáo? Ai cũng biết đó chính là những người tu học theo Phật Giáo và có khả năng chuyển tải truyền đạt. Anh hiểu đúng, làm đúng, nhưng không biết làm sao để giúp tôi được như anh, th́ cũng thiệt là đáng tức và thực là đáng tiếc lắm vậy. Nhưng anh làm sao để trao truyền Phật Pháp cho tôi? Nói kiểu ǵ th́ cũng chỉ nằm gọn trong ba cách: Bằng chữ viết (dịch, soạn, sáng tác), bằng ngôn ngữ thuyết giảng và bằng chính cách anh sống cho tôi nh́n mà học theo. Có thể anh không có đủ cả ba khả năng này, nhưng một người tu Phật muốn sống lợi tha th́ tối thiểu cũng phải có một trong ba. Và tôi tin chắc rằng nếu không sở hữu ít nhất ba thứ kiến thức mà tôi vừa nói đến ở phần Phải Học Ǵ th́ anh rất khó ḷng mà giúp được ai. 1. Bằng chữ viết Có nhiều động cơ để một người cầm bút. Anh có thể nói với tôi rằng anh chỉ cầm bút cho riêng anh, không nhắm đến ai, nhưng nếu anh là một người thực học và thực tài th́ anh phải chịu trách nhiệm với bất cứ thứ ǵ anh viết, dịch, soạn. Đó lại cũng là một kiểu lợi tha. Thứ đến, có lúc ta cầm bút v́ một công tŕnh mà ta tâm đắc hơn là v́ nghĩ đến nhu cầu của thiên hạ, dù đó là công tŕnh được công bố rộng răi. Trường hợp cuối cùng, người cầm bút lấy lợi ích của thiên hạ làm trọng để vùi đầu vào công tŕnh. Sao cũng được, miễn là người cầm bút th́ phải luôn có ư thức trách nhiệm và biết tôn trọng công tŕnh của ḿnh bằng cách thực hiện một cách cẩn trọng, yêu nghề. Được vậy coi như anh đă giúp đời nhiều lắm rồi vậy. Xin nhớ giùm, lời nói có thể sẽ bay mất, nhưng chữ nghĩa th́ măi hoài nằm lại đó. Đâu ai c̣n dịp nghe lại giọng nói của các cụ Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Quỳnh, Ngô Tất Tố, Huỳnh Tịnh Của, Trương Vĩnh Kư,…Nhưng các công tŕnh của họ đến tận giờ vẫn c̣n đầy ra đó, từ các thư viện quốc gia đến sưu tập cá nhân. Làm ǵ th́ làm, một công tŕnh nào đi nữa cũng phải có đủ lư do để tồn tại lâu bền trong đời. Cóp nhặt bừa băi, nông cạn, bất cẩn đều là những lư do khiến một công tŕnh sớm bị đóng bụi. Chỉ với tâm huyết vẫn chưa đủ, c̣n phải chất lượng bên trong nó nữa. Thiếu hai điều kiện này, cầm bút chỉ hoài phí thời gian, trong khi ta đâu có nhiều thời gian để để chơi sang như vậy. Và thiên hạ cũng đâu dư hơi để đọc một tác phẩm/dịch phẩm kiểu đó. Xưa giờ có ai thúc ép một bà mẹ phải sinh non trước ngày, cũng như đâu có ai cưỡng cầu một người cầm bút phải hối hả tŕnh làng một công tŕnh chưa được chín muồi. Đẻ non thường khó nuôi, èo uột thiếu sức rồi trách sao đi sớm. Một công tŕnh chữ nghĩa cũng vậy. 2. Bằng ngôn từ thuyết giảng. Tôi không phải một pháp sư hay giảng sư ǵ ráo, làm được ông sư là mừng rồi. Ở đây chỉ là chút lạm bàn, nhớ ǵ viết đó, theo kinh nghiệm của một anh bán ve chai bàn về cổ vật. Dù ta may mắn có được một khả năng văn tài hay lợi khẩu ghê gớm đến mấy, trộm nghĩ cái quan trọng vẫn là trách nhiệm đối với thiên hạ. Viết cho hay, đọc đă đời rồi người ta vẫn không bỏ túi được cái ǵ. Nói cũng thế. Bay bướm hoa hoè cả giờ để rồi chính ḿnh không thể rút gọn được một nội dung xài được. Cả hai trường hợp đều đáng trách, đáng tiếc. Cái nguy hiểm nhất của một người là khả năng lôi cuốn thiên hạ cộng với tinh thần vô trách nhiệm. Ai cũng thích có kẻ ái mộ, nhưng không ǵ bậy bằng việc lấy đó làm động lực chính để nói năng, viết lách. Anh có biết nhiều người có thể v́ nghe anh mà tan nhà nát cửa, tiêu tùng một đời không ? Đôi khi một ḍng chữ hay một câu nói có thể giúp người ta đổi đời, th́ ngược lại lắm lúc chúng cũng thừa sức khiến người ta hết đời, tàn đời. Xin nhớ lại giùm đă có biết bao vị đạo sư, giáo chủ, thầy bà ǵ đó người Việt ở hải ngoại đă một thời khuynh đảo tâm hồn cửa hàng ngàn người nhẹ dạ bằng mấy pháp môn tự chế. Tội nghiệp người ta buông hết Phật pháp chánh thống để dồn hết tâm tư thời gian theo ḿnh, đến lúc ngă ngửa ra mới hay thời gian qua đi cắm trại ở Phi Châu c̣n tốt hơn trăm lần. Nếu sử dụng văn tài và khả năng lợi khẩu để t́m fan ủng hộ mà không chịu nghĩ đến lợi ích của người ta th́ kể ra cũng quá tàn nhẫn vậy. Và trong chuyện này h́nh như chính người nghe hay độc giả cũng tự có một phần trách nhiệm. Ai bảo anh dễ bảo quá, ham vui quá, mới xui tôi muốn nói viết ǵ cũng được. Nếu anh biết phân biệt rơ cái ḿnh thích và điều ḿnh cần th́ tôi đâu dám tung tẩy kiểu đó. Nói kiểu trong nước, có cầu mới có cung chứ. Trong bài này tôi muốn nhấn mạnh nguồn Cung, nhưng dĩ nhiên không thể bỏ qua phía Cầu. Đi nghe thuyết pháp mà cứ chăm bẳm những thơ ca, chuyện cười, truyện ma để ghi nhớ (dù nhiều khi người thuyết giảng chỉ nhắc phớt qua khi cần thiết), th́ trách ǵ lần sau người ta cứ tiếp tục bổn cũ soạn lại. Lâu dần rồi thành lệ, pháp sư nào thuyết giảng chuẩn mực coi như hết đất sống và cư sĩ cũng không c̣n cơ hội được nghe những ǵ đúng là Pháp Nhũ Phật Thân. Cái loạn đi ra từ đấy! Nói chân t́nh cho nhau nghe, việc thiên hạ chạy theo vẻ ngoài của chữ nghĩa ngôn từ buổi đầu thấy hay là thế, nhưng về lâu dài lành ít dữ nhiều. Nếu hôm nay họ theo ta v́ những hoa lá cành vô bổ nào đó, th́ mai kia họ cũng có thể chạy theo những ông thầy sặc sỡ hơn ta bây giờ nữa. Trong khi đó, nếu người nói Pháp chỉ nhằm vào hai tiêu điểm là nói đúng lời Phật và lợi ích thiết thực của người nghe th́ cứ cho là đối thủ của ta mai này cũng phải là bậc thạc đức thạc học, không có chỗ cho kiểu thầy bà bá vơ chen vào. Phật Pháp nhờ vậy mà mạnh, chúng sinh được nhờ. 3. Bằng cách sống của ḿnh. Phải nhận rằng tôi hơi nhột khi viết đến chỗ này mà cứ nhớ đến kiểu sống của ḿnh, nhưng hết đường lựa chọn rồi, phải xuống tay mà viết thôi. Phật giáo có ít nhất hai cách dạy người, ngôn giáo (bằng lời) và thân giáo (làm gương cho người ta bắt chước). Cả hai cách viết và nói đều nằm trong phần Ngôn giáo. Cách dạy đạo thứ hai là lấy chính kiểu sống của ḿnh làm bài mẫu cho người ta học theo. Sở dĩ có cách dạy này là bởi v́ nhiều khi người ta không thích nghe hay đọc điều ḿnh nói hay viết, mà lại muốn ngó vào từng chi tiết nhỏ trong sinh hoạt của sư phụ. Trăm buổi giảng về giới luật, chánh niệm, tàm úy, từ tâm…lắm lúc xem ra không hiệu quả bằng một tuần lễ tṛ quan sát thầy. Sống động hơn, thuyết phục hơn, và đỡ tốn kém trí nhớ. Đặc biệt là niềm tin rằng thầy nói được và đă làm được. Nếu ḿnh làm giống hệt thầy th́ cũng sẽ an lạc ngon lành như thầy. Đó chính là thân giáo vậy. Có một thời gian khá dài, tôi cứ nghĩ rằng h́nh thức trang nghiêm trước đám đông h́nh như là giả dối nếu khi về ở một ḿnh mà lại không thu thúc được như vậy. Nhưng rồi vài vị huynh đệ đă vô t́nh giúp tôi bỏ đi cách nghĩ đó. Một vị, trong lúc t́nh cờ kể cho tôi nghe một chuyện vui trên đường, đă nói rằng dù thực ra ḿnh không phải người nghiêm tŕ cẩn cẩn nhưng trước người lạ ít nhiều cũng nên giữ lại chút đại thể, cho ḿnh và cho đoàn thể mà ḿnh có mặt. Vị nầy dùng một ví dụ nghe không đẹp lắm, nhưng theo tôi th́ hay tuyệt và xác đáng. Sư nghĩ xem, ai không biết ḿnh có áo quần cần giặt và phơi, nhưng đem phơi bừa băi ngoài cửa sổ chung cư kiểu như nhiều người Á Châu th́ kỳ cục quá. Ḿnh có bê bối cỡ nào đi nữa, đôi khi cũng phải kín đáo một tí, không cần thiết phải vạch áo cho người xem sẹo bên trong. Ḿnh trang nghiêm không chỉ cho bản thân, mà c̣n cho đạo, cho thầy bạn, hệ phái nữa. Hay! Câu chuyện thứ hai, xảy ra ở Việt Nam mấy chục năm rồi, mà tôi cứ nhớ hoài như một bài học bằng vàng. Một vị sư bạn của tôi, lớn tuổi hơn nhiều, đă kể cho tôi nghe một chuyện xảy ra với sư trong một lần đi xe bus ở Sài G̣n, kiểu xe Karosa của Tiệp Khắc có cửa đóng mở bằng hơi và được điều khiển từ chỗ ngồi của tài xế. Hôm đó, xe chật như nêm, sư bạn tôi lên được xe th́ mới hay chỗ đứng cũng không c̣n nói ǵ chỗ ngồi. Sư đành chịu trận ngay cửa xe. Lát sau, cô nhân viên soát vé thấy có chỗ trống để dồn khách vào sâu bên trong, bèn ḥ hét: Ông thầy phải chừa chỗ cho người ta mở cửa xe chứ. Vị sư bạn tôi lúc đó nhỏ nhẹ: Tôi bị kẹt ngón tay trong cửa xe cô ơi. Cô nhân viên hết hồn nh́n lại: Trời ơi, sao thầy không chịu la lên? Ông sư bạn tôi rán cười: Sắp đến trạm kế rồi, xe sẽ mở cửa. Cảm ơn cô. Kể xong câu chuyện, sư cười với tôi: „Đó cũng là hoằng pháp. Nhiều người khách lúc đó nh́n tôi rồi tôi nghe ai đó xầm x́. Người ta là ông thầy mà !“ Tôi rất muốn gọi hai câu chuyện vừa kể là những bài học về Thân giáo. Mà muốn làm được chuyện này, tăng ni bắt buộc phải có một nội hàm thật vững, thật sâu và cũng xin nhớ giùm một chuyện: Muốn biết đường hành tŕ hay lợi tha th́ phải học trước. Nhưng học cái ǵ, ta cần có mô h́nh giáo dục thế nào? Xin trở lại đầu bài. Kư túc xá Mahachulalangkorn July/15/2013 Toại Khanh cẩn bút
|