|
Chân tu Toại Khanh
Chữ Cút trong tiếng Việt có ít nhất hai nghĩa. Nghĩa động từ là xéo, tếch, vọt, dông thẳng, bỏ đi không minh bạch, không đường đường chính chính, nói theo phim Tàu là chẳng quang minh lỗi lạc. Chữ Cút theo nghĩa danh từ là tên gọi tắt của loài chim Cun Cút. Tôi ngờ rằng hai nghĩa này có liên quan nhau ít nhiều. Ai từng sống ở miền Đông Nam Bộ Việt Nam hẳn là phải thấy qua giống chim này. Chúng to lắm cũng hơn nắm tay một chút, sống quanh quất mấy lùm bụi, cả đời cơ hồ chẳng biết bay, chỉ lầm lũi lặng lẽ đây đó và khi gặp biến th́ lủi nhanh vào một mô đất hay bụi cỏ nào đó và thế là mất tăm. Ngày c̣n nhỏ, tôi từng tin lời người lớn rằng chim cút biết tàng h́nh, như tôi vẫn từng tin vào vài huyền thoại về loài chim gơ kiến. Sau này tôi c̣n biết thêm một vài loài chim khác cũng lạ lùng như chim cút ở chỗ suốt đời chỉ biết đi; hoặc chỉ biết bơi lặn, không biết bay, chẳng hạn chim cánh cụt (penguin) ở hai miền địa cực của trái đất. Bẩm sinh chúng không có sẵn khả năng bay lượn. Mang tiếng là chim nhưng chúng thua cả giống vịt xiêm về khả năng di chuyển. Mấy con vịt xiêm ngó lạch bạch vậy nhưng lúc cần vẫn có thể bay qua mấy công đất như chơi. Dĩ nhiên chúng chỉ xài tới khả năng này những lúc không c̣n lựa chọn nào khác. Mấy loài lông vũ kỳ cục đó chẳng hiểu sao cứ ám ảnh tôi như những đề tài suy gẫm thú vị. Mang tiếng là chim nhưng không biết bay v́ chỉ có khả năng đi, hay có quá nhiều những sức nặng không cần thiết cho những lần chắp cánh. Muốn lên được với trời xanh hăy tự làm nhẹ chính ḿnh. Trọng lượng là một thứ cần được quan tâm trước tiên trong những chuyến bay. Dù về sinh học hay kỹ thuật đều thế cả. Có người hỏi tôi sao thời nay không thấy ai có thần thông, tôi nhớ đă trả lời rằng người bây giờ hầu hết đều thích khuân vác nên ai cũng là chim cánh cụt, khá lắm cũng chỉ là chim cút hay vịt xiêm, thịt mỡ nhiều hơn lông cánh th́ làm sao bay nhảy chứ! Phàm kẻ c̣n mê luyến ngũ dục th́ không sao chứng đạt các tầng thiền định Sắc Giới. C̣n nặng ḷng với các tầng thiền định Sắc Giới th́ làm sao vươn đến các tầng thiền định Vô Sắc Giới. Ngày nào dạ c̣n mong mỏi hiện hữu ở cảnh giới nọ kia th́ không sao tu chí Vô Sanh. C̣n hệ lụy phố chợ đ́nh quán th́ đừng ḥng nói chuyện viễn ly thâm xứ, cơi riêng của các bậc hiền giả. Trời sanh mỗi người chỉ có hai bàn tay, làm ǵ có chuyện một tay buông một tay nắm. Đôi bàn tay không thể cùng lúc làm hai việc đối lập. Chúng ta chỉ có thể chọn một trong các chọn lựa. Muốn bay cao phải biết bỏ lại những gánh nặng không thật sự cần thiết. Trọng lượng thừa thăi chỉ khiến ḿnh thêm ́ ạch, lạch bạch mà thôi. Tôi thích hiểu chữ Chân Tu là tu cái chân, là bỏ đi, là chia tay, là chẳng dừng chân quá lâu một nơi chốn nào. Một cơ thể thiếu vận động dễ khiến dư mỡ, cao máu, mau chết. Một ḷng tu thích nấn ná, nắm níu cũng dễ có vấn đề. Cầm lấy vài món hành trang gọn nhẹ rồi sống... Hành Đạo. Chữ này tôi lại cũng cố ư hiểu theo nghĩa mới. Hành Đạo là đạo đi, là phép tu bằng đôi chân theo cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng. Mọi thứ phải dời đổi theo nghĩa hướng thượng, tích cực. Đứng yên hay dừng lại là chỏi, là chống, là vướng, là kẹt, là nặng nề, mệt mỏi rồi th́ kiệt sức. Năng lượng phải được tuần hoàn, luân lưu bằng những trao đổi xê dịch. Tu hành là bỏ lại sau lưng những h́nh bóng cũ, kể cả cái bóng hôm qua của ḿnh. Tu là bước tới, là xoay lưng, là từ biệt, là t́m về những quán trọ qua đêm để ngủ nhờ, những bến đ̣ để quá giang. Chữ Hán có mấy từ theo tôi hay quá. Tá Túc là mượn tạm chỗ của người ta để ngủ, không phải chỗ sở hữu của ḿnh. C̣n Quá Giang là đi nhờ tàu xe để qua sông hay vượt qua một đoạn đường trên bộ, ngắn thôi. Xa quá, lâu quá th́ không c̣n là Quá Giang nữa. Lúc đó là hệ lụy, là có vấn đề với nhân gian rồi. Nghĩ mà thương cho những loài chim một đời không vỗ cánh bay, chỉ vỗ cánh ơ hờ để tự găi ngứa, như những loài chim không biết hót, chỉ há mỏ để ngáp vặt. Uổng cho cái danh xưng chim trời. Trời cao xa ngh́n trùng cho những loài chim không biết bay. Tôi nhớ có đọc đâu đó, h́nh như của nhà văn Thi Vũ, về một loài chim không chân, một đời ṃn mỏi bay không đậu. Ông muốn nói đến cái ǵ tôi không nhớ nữa, chỉ thấy mệt nhiều với h́nh ảnh một loài chim không thể về đất. Tôi theo tinh thần Trung Đạo: Có chân để nghỉ ngơi và có cánh để chao lượn. Nghỉ ngơi lúc cần và tung bay khi thấy thích. Đức Phật có nói đến những trụ xứ náu ḿnh và những con đường du hóa trong cuộc đời mỗi tỷ-kheo. Chọn hẳn một thứ là kẹt cứng. Bầu trời để đi và mặt đất để về. Tôi viết một mạch không dám đọc lại, v́ sợ ḿnh cụt hứng th́ nguy. Viết theo cách vừa nói ở trên. Viết như kẻ đang trên đường: Ǵ cũng ở sau lưng. Quay đầu là bịn rịn, vướng vít. Trong các hồng danh của Phật, tôi thích niệm nhất chữ Thiện Thệ, người đi chẳng về, đi chẳng nh́n lui, đă xoay lưng th́ chẳng quay đầu. Và một trong ba mươi thông lệ của chư Phật ba đời có chỗ tiêu sái độc đáo là đản sinh, thành đạo hay viên tịch đều ngoài rừng cây, không dưới mái che nào hết. Các ngài là những cánh dă hạc, không thuộc về một phố xá phồn hoa nào cả. Đẹp lắm thay!
Toại Khanh
|