Mục lục
Lời nói đầu
Kathāvatthu là bộ thứ năm trong bảy bộ của Tạng Thắng pháp (Abhidhammapiṭaka).
Các vị Luận sư tiền bối gọi bộ này là “bộ phá”, v́ nội dung bộ này
tranh luận về những quan điểm khác nhau trong Phật giáo và những
quan điểm sai lạc với truyền thống Phật giáo cổ truyền được chỉnh lư.
Do vậy, chúng tôi tạm dịch Kathāvatthu là“Luận điểm”.
Tác giả bộ sách này là Đại Trưởng lăo Moggaliputta Tissa (Tissa
con của Moggali), thật ra Ngài Moggali Tissa nương theo lời dạy của
Đức Thế Tôn, triển khai rộng ư nghĩa Phật ngôn mà thôi, không phải
Ngài Moggaliputta Tissa sáng tác ra bộ kinh này.
Theo ḍng thời gian xuôi chảy, sau gần ba thế kỷ kể từ khi Đức
Thế Tôn viên tịch, vào thời vua Asoka (A-Dục) Phật giáo đă phân phái
và có đến 18 tông phái trong Phật giáo, mỗi tông phái lại có quan
điểm riêng khác với quan điểm truyền thống (Theravāda – Trưởng lăo
bộ). Theo lời yêu cầu của Ngài Moggaliputta Tissa, vua Asoka tổ chức
cuộc Kết tập Phật ngôn lần III, đồng thời Đức vua Asoka là Đại hộ
pháp cho cuộc Kết tập Phật ngôn lần III.
Nếu cuộc Kết tập Phật ngôn lần I với ư nghĩa là “trùng tuyên
Phật ngôn” để ǵn giữ Luật- Pháp do Đức Thế Tôn giáo truyền. Cuộc
Kết tập Phật Ngôn lần II với ư nghĩa là “chỉnh lư về Luật”, th́ cuộc
Kết tập Phật ngôn lần III là cuộc “chỉnh lư về tri kiến hay về Pháp”.
Khi chính thức Kết tập Phật ngôn, phải trải qua 3 tháng của
thời gian đầu, Theravāda cùng các bộ phái tranh biện về những quan
điểm sai biệt và sau đó mới đi vào nội dung chính là Kết tập Phật
ngôn, sau một năm cuộc Kết tập Phật ngôn lần III viên măn.
Kathāvatthu (Luận điểm) gồm 23 chương, với 216 luận điểm sai
biệt của 18 tông phái; trong đó luận điểm “Puggalakathā – Nhân ngữ”
được Ngài Moggaliputta Tissa nêu lên trước tiên, đă nói lên tầm quan
trọng của luận điểm này, đồng thời phản ánh triều tư tưởng đương
thời. Quan điểm “người là chân ngă thường hằng bất biến” đă phổ cập
rộng răi trong Phật giáo vào thời kỳ đó cũng không có ǵ khó hiểu.
Trước khi Đức Phật xuất hiện, hệ thống tư tưởng Bà-la-môn đă
ngự trị suốt thời gian dài trong tư tưởng của người Ấn cổ, Bà-la-môn
giáo chủ trương “người là một sản phẩm xuất hiện do ư muốn của vị
Phạm thiên và Phạm thiên ban cho người “sự sống – jīva” thường hằng,
tư tưởng “có một bản ngă thường hằng bất biến” đă ch́m sâu vào tiềm
thức của người Ấn cổ.
Đức Phật xuất hiện hoằng pháp độ sinh với thời gian là 45 năm,
thời gian này quá ngắn so với bề dày lịch sử gần ngàn năm ngự trị
của Bà- la- môn giáo, chưa đủ làm phai nḥa, xóa bỏ chủ thuyết “có
bản ngă trường tồn”.
Trong những trang Phật sử đă phản ánh triều tư tưởng này của
Bà-là-môn giáo như kinh Phạm vơng (Brahmajālasuttaṃ), kinh Ví dụ con
rắn (Alagaddūpamasuttaṃ) … Và Đức Phật đă tuyên bố: “Sabbe dhammā
anattāti … Các pháp là vô ngă”.
Những vị Đại đệ tử của Đức Thế Tôn như Ngài Añña Koṇḍañña (A-nhă
Kiều- Trần- Như ), Ureuvelā Kassapa, Sāriputta (Xá-lợi-phất),
Moggallāna (Mục-Kiền-Liên), Mahā Kaccāna (Đại Ca-Chiên Diên) … xuất
thân từ Bà-la-môn giáo, tinh thông ba Tạng Veda (Vệ-đà) đă nói lên
ưu thế của Bà-la- môn thời Đức Phật.
Thậm chí chính tác giả bộ sách này là Ngài Moggaliputta Tissa
cũng từ Giáo hệ Bà-la-môn chuyển sang Phật giáo.
Có câu hỏi được nêu lên là: “Đă có sự chỉnh lư quan điểm này
vào thế kỷ thứ III sau khi Đức Thế Tôn viên tịch. Vậy v́ sao chủ
thuyết này vẫn c̣n tồn tại cho đến thời hiện tại này?”.
Đáp. Tuy các bộ phái như Độc tử bộ (Vajjiputtaka), Chánh lượng
bộ (Sammittiya) thua lư với Theravāda (Trưởng lăo bộ), nhưng tâm
chưa phục và vẫn âm thầm phát triển.
Chánh Lượng bộ có thời kỳ cực thịnh (vào thế kỷ thứ VII) trong
khi các bộ phái khác dần dần bị suy tàn và vắng bóng. Thế là chủ
thuyết “người là chân ngă thường hằng” vẫn tồn tại đến thời hiện tại.
Mặt khác, theo ḍng thời gian có sự cải biên, “chân ngă” được
thay thế bằng những ngôn từ khác để tránh bị cật vấn, xem như “b́nh
mới rượu cũ”, có thế thôi.
Trong phần luận điểm “nhân ngữ” này, bộ phái Paravādī cho rằng:
“Người viên tịch vẫn c̣n trong Níp-bàn”. Có khả năng từ tư tưởng này,
thuyết “Hóa thân, thị hiện” ra đời.
Ngôn từ trong Kathāvatthu rất đơn giản, nhưng ẩn tàng những
“gút” thâm sâu, vi tế.
Chúng tôi có tham khảo bản dịch “Bộ Ngữ Tông” của cố Đại
Trưởng lăo Santakicco (Tịnh Sự) và bản dịch từ Anh ngữ của chị Quỳnh
Hương và anh Đổ Thành Minh (tức Tâm An – Minh Tuệ), cùng với Bản Sớ
giải Kathāvatthu (Kathāvatthu- atthakathā) của Ngài Buddhaghosa.
Soạn phẩm này chỉ tŕnh bày luận điểm trước tiên của tập
Kathāvatthu, đó là “nhân ngữ”, gồm 21 luận cứ với 238 đoạn Chánh
kinh. Những luận điểm c̣n lại, chúng tôi sẽ tŕnh bày trong những
tập sau.
Để độc giả tiện tham cứu đối chiếu, chúng tôi đưa Pāli ngữ từ
Chánh tạng của bộ Kathāvatthu vào soạn phẩm này.
Chúng tôi rất mong các bậc cao minh rộng dung những sơ sót vấp
phải và chỉ điểm thêm những phần tinh yếu của luận điểm “người là
chân ngă bất biến”.
Soạn phẩm này chỉ là viên sỏi nhỏ đóng góp vào kho tàng tri
thức Phật học sâu rộng vô biên mà thôi, chúng tôi không dám có cao
vọng ǵ hơn.
Kính mong các bậc hiền minh cùng độc giả hoan hỷ với phước
lành này vậy.
Tỳ-khưu Chánh Minh cẩn bạch.
_(())_
Phần I. Khai mở
Ba cuộc kết tập Phật Ngôn.
A- Kết
tập Phật Ngôn lần I.
Nội dung cuộc Kết tập này có bốn điều chính.
– Trùng tuyên Luật.
– Trùng tuyên Pháp.
– Khiển trách Ngài Ānanda.
– Phạt Brahmadaṇḍa (Phạm Đàn) đối với Tỳ- khưu Channa (XaNặc).
1- Nguyên nhân kết tập Phật ngôn.
Do lời nói phi pháp luật của vị Tỳ- khưu già Subhadda (trong hội
chúng của Đại Trưởng lăo Mahā Kassapa).
Câu chuyện.
Sau 45 năm hoằng pháp tế độ nhân thiên chứng đắc Thánh quả từ Bậc
Dự Lưu cho đến bậc A-La-Hán nhiều vô số.
Vào năm 80 tuổi, Đức Thế Tôn đến kinh thành Kusinārā của dân xứ
Malla để viên tịch (parinibbāna). Khi ấy, Kusinārā chỉ là một kinh
thành nhỏ của dân xứ Malla, trên đường từ xứ Pāvā đến kinh thành
Kusinārā cách nhau 3 gāvuta (# 12 km), Đức Thế Tôn đi qua con suối
Kakuṭṭha, rừng Ambavana (rừng Xoài), vượt qua sông Hiraññavatī và
Ngài dừng chân nơi rừng Upavavatta bên ngoài kinh thành Kusinārā,
nằm về hướng Tây Nam của kinh thành([1]). Rừng Upavattana toàn những
cây sāla, khi ấy rừng cây sāla đang nở rộ hoa.
Khi nghe Đức Thế Tôn chọn Kusinārā là nơi viên tịch, Trưởng lăo
Ānanda rất thất vọng, thỉnh Đức Thế Tôn viên tịch ở những kinh thành
lớn như: Sāvatthi (Xá-Vệ), Rājagaha (Vương Xá), Kosambi (Kiêu-Thưởng-Di),
Sāketa … nhưng Đức Thế Tôn dạy:
“Chớ khinh thường Kusinārā, nơi đây chính là kinh thành Kusāvatī
của vua Chuyển Luân Mahā Sudassana (Đại Thiện Kiến) thuở trước. Kinh
thành này về phía Đông và phía Tây dài 12 do-tuần, phía Nam và phía
Bắc dài 7 do-tuần, rất trù phú thịnh vượng, nơi đây tiền thân Đức
Thế Tôn có 6 lần mệnh chung và lần này th́ viên tịch([2]).
Theo Bản Sớ giải kinh Trường bộ (Dīgha – Atthakathā) và kinh Cảm
hứng ngữ (Udāna – atthakathā), Đức Thế Tôn chọn thị trấn nhỏ
Kusinārā để viên tịch do ba nguyên nhân.
* Có cơ hội để Đức Thế Tôn thuyết lên bài kinh Mahāsudassana (Đại
Thiện Kiến).
* Nơi đó thuận tiện cho Dusĩ Subhadda đến yết kiến Ngài, rồi nghe
Pháp từ Ngài chứng đắc Thánh quả A-La-Hán khi Ngài hiện tiền. Đây là
vị đệ tử cuối cùng của Đức Thế Tôn.
* Nơi đây có Bà-la-môn Dona là bậc có danh tiếng lớn, là người sẽ
ḥa giải chiến tranh giữa các nước khi tranh giành XáLợi của Đức
Phật. Bà-la-môn Dona là người chủ tŕ phân chia XáLợi Phật đồng đều
cho các nước tham chiến([3]).
Khi Đức Thế Tôn viên tịch được 7 ngày, Đại Trưởng lăo Mahā
Kassapa cùng 500 Tỳ- khưu tùy tùng đang trên đường từ Pāvā đến
Kusinārā để đảnh lễ Đức Thế Tôn lần cuối.
Đại Trưởng lăo Mahā Kassapa rời khỏi đường đi, đến ngồi nơi một
gốc cây, bấy giờ có một du sĩ lơa thể đi từ Kusinārā đến xứ Pāvā
đang từ xa đi lại, trên tay cầm cánh hoa Mandārava (Mạn-đà-la). Đại
Trưởng lăo Mahā Kassapa hỏi du sĩ lơa thể rằng:
– Này Hiền giả, hiền giả có biết bậc Đạo Sư chúng tôi không?”.
– Này Hiền giả, tôi có biết. Hôm nay Sa-môn Gotama đă viên tịch
được bảy ngày rồi. Từ nơi đó, tôi có được hoa Mandārava (Mạn-đà-la)
này.
Nghe vậy những vị Tỳ- khưu chưa giải thoát ái dục một số đưa tay
lên khóc lóc, một số khuỵu chân ngă xuống lăn qua lăn lại:
“Đức Thế Tôn viên tịch quá sớm, Đấng Thiện Thệ viên tịch quá sớm,
bậc Đại Trí Tuệ đă biến mất trên đời quá sớm.”
C̣n những vị Tỳ khưu nào đă đoạn tận ái dục, các vị ấy có sự suy
niệm và hiểu biết thời chấp nhận: “Các Pháp hữu vi là vô thường,
nhưng v́ sao việc ấy lại có thể xảy ra ở đây quá sớm?”.
Đại Trưởng Lăo Mahā Kassapa nói với các vị Tỳ- khưu rằng:
– Này chư Hiền, thôi đủ rồi. Chớ có buồn, chớ có than văn nữa.
Này chư Hiền, không phải điều ấy đă được đức Thế Tôn khuyến cáo và
đề cập đến hay sao? Chính ngay với tất cả các vật thân yêu vừa ư đều
có bản chất đa dạng, có bản chất không thật, và có bản chất thay đổi.
Này chư Hiền, làm thế nào được? Bởi v́ vật ǵ sanh lên, tồn tại,
thay đổi, thuận theo pháp thế gian, (nếu nghĩ rằng): “Mong sao vật
ấy chớ có bị hư hoại”, sự kiện này không thể có được!”.
Bấy giờ có vị xuất gia lúc đă già tên Subhadda đang ngồi trong
tập thể ấy, nói rằng:
– Này các vị, thôi đi! Chớ có buồn rầu, chớ có than văn nữa.
Chúng ta được hoàn toàn tự do rồi, chúng ta đă bị vị đại sa-môn ấy
làm khó khăn rằng: “Điều này được phép cho các ngươi, điều này không
được phép cho các ngươi”. Giờ đây, điều ǵ chúng ta thích chúng ta
sẽ làm điều ấy, điều ǵ chúng ta không thích chúng ta sẽ không làm
điều ấy”([4]).
Khi Đức Thế Tôn viên tịch, kim quan của Ngài được đưa vào kinh
thành Kusinārā qua cổng hướng Đông đến đền Makuṭabanhana của dân xứ
Malla, hỏa đài được thiết lập nơi đền này. Lễ hỏa táng kim thân Đức
Phật kéo dài 7 ngày([5])
Sau khi phân chia Xálợi Phật xong, Đại Trưởng lăo Mahā Kassapa
thuật lại lời phi pháp phi luật của Tỳ- khưu già Subhada đến các vị
Trưởng lăo và đề nghị rằng:
– Này chư Hiền, chúng ta hăy trùng tuyên Pháp và Luật trước khi
điều phi Pháp phát triển và Pháp bị bỏ quên, trước khi điều phi Luật
phát triển và Luật bị bỏ quên, trước khi những kẻ nói về phi Pháp
trở nên mạnh và những người nói về Pháp yếu đi, trước khi những kẻ
nói về phi Luật trở nên mạnh và những người nói về Luật yếu đi.
Các vị Đại Trưởng lăo chấp thuận, thưa rằng:
– Thưa Ngài, chính v́ điều ấy, xin Ngài hăy tuyển chọn các vị Tỳ-
khưu.
Đại Trưởng lăo Mahā Kassapa tuyển chọn 499 vị A-La-Hán. Các vị
Trưởng lăo đă nói với Ngài Mahā Kassapa rằng:
– Thưa Ngài, Tỳ- khưu Ānanda tuy c̣n là bậc hữu học nhưng không
thể nào bị chi phối bởi tham, bởi sân, bởi si mê, bởi sợ hăi. Và vị
này thuộc ḷng nhiều Pháp và Luật từ Đức Thế Tôn. Thưa Ngài, chính
v́ điều ấy xin Ngài hăy tuyển chọn luôn cả Tỳ- khưu Ānanda.
Và Ngài Mahā Kassapa đă tuyển chọn luôn cả Trưởng lăo Ānanda([6]).
2-
Địa điểm kết tập Phật Ngôn.
Các Ngài quyết định chọn Kinh thành Rājagaha (Vương Xá) là nơi
Kết tập Phật Ngôn. Ngài Đại Trưởng lăo tuyên ngôn trước Tăng chúng
rằng:
“Năm trăm vị Tỳ- khưu được tuyển chọn Kết tập Phật ngôn được an
cư mùa mưa nơi thành Rājagaha (Vương xá) lần này. Những vị Tỳ- khưu
khác không được an cư mùa mưa nơi thành Rājagaha lần này”.
Ngài Buddhaghosa trong Samantapasādikā (Sớ giải Tạng Luật) có
giải thích thêm là: “Sở dĩ các Tỳ- khưu trưởng lăo chọn thành
Rājagaha (Vương xá) là nơi kết tập Phật ngôn, v́ có vua Ajātasattu
(A-Xà-Thế) rất sùng kính Đức Thế Tôn, vua Ajātasattu sẽ bảo trợ cho
cuộc Kết tập Phật ngôn này”.
Sách Dulva của Tây Tạng cũng ủng hộ ư kiến này.
Theo Bản Sớ giải Tạng Luật (Samantapasādikā) và Bản Sớ giải Kệ
ngôn Trưởng lăo Tăng (Theragāthā-atthakathā)([7]), bộ Đại sử (Mahāvaṃsa)([8])
và bộ Đảo sử (Dīpavaṃsa)([9]), cuộc Kết tập Phật Ngôn lần I được các
vị Thánh Tăng tiến hành nơi thạch động Sattapaṇṇi nằm trên sườn núi
Vebhāra trong thành Rājagaha (Vương Xá), trước cửa thạch động là một
Sảnh đường rộng lớn do vua Ajātasattu (A-Xà-Thế) kiến tạo, để các vị
Trưởng lăo hội lại trùng tuyên Phật Ngôn.
Nhưng thạch động này không được Tạng Luật đề cập đến khi mô tả
cuộc Kết tập Phật ngôn lần thứ I trong chương 11 của tập Culla Vagga
(Tiểu Phẩm).
Sách Dulva nói rằng: “Nơi kết tập Phật ngôn lần I, là hang
Niyagrodha”.
Xuất thế bộ (Lokuttaravāda) cho rằng: “Nơi Kết tập Phật ngôn lần
I, đó là một địa điểm ở mạn Bắc của núi Vebhāra”.
Trong bài tường thuật của Ngài Mă Minh (Asvaghosa) lại cho rằng:
“Nơi Kết tập Phật ngôn lần I, đó là hang Indasala trong núi
Grdhakuta”([10]).
3– Thời
điểm. Vào tháng thứ hai của mùa an cư.
Ngài Ānanda suy nghĩ: “Ngày mai là ngày kết tập Pháp Luật của Đức
Thế Tôn, ta hiện c̣n là bậc Hữu học như vậy không thích hợp lắm”.
Ngài Ānanda nỗ lực thực hành pháp với đề mục thân hành niệm (Kāyagatasati).
Vào lúc rạng đông, Ngài khởi ư nghĩ rằng: “Ta sẽ nằm xuống nghỉ,
rồi sẽ tiếp tục thực hành pháp cho đến khi chứng đắc Thánh quả A-La-Hán”.
Khi Ngài Ānanda chân vừa giở lên khỏi mặt đất, đầu chưa chạm gối,
Ngài chứng đắc Thánh quả A-La-Hán.
Như vậy, Ngài Ānanda dự kết tập Phật ngôn lần I với tư cách là vị
Thánh A-La-Hán([11]).
4- Cách thức kết tập.
Ngài Mahākassapa là vị chủ toạ, Trưởng lăo Upāli được hội nghị đề
cử là: Vị trả lời Luật Tạng. Trưởng lăo Ānanda được hội nghị đề cử:
“Là vị trả lời Pháp tạng”.
Trước tiên Ngài Mahākassapa thông báo cho hội nghi biết: “Sẽ hỏi
Ngài Upāli về Luật”.
Ngài Upāli cũng thông báo trước Đại hội là: “Sẽ trả lời Ngài
Mahākassapa về Luật”.
– Này hiền giả (āvuso) Upāli, điều pārājika (trục xuất) thứ 1, đă
được quy định ở đâu?
– Thưa Ngài, ở Vesālī.
– Liên quan đến ai?
– Liên quan đến Tỳ- khưu Sudinna con trai của Kalanda.
– Về sự việc ǵ?
– Về việc (thực hiện) đôi lứa.
Rồi Ngài Mahākassapa hỏi Ngài Upāli về câu chuyện, về nguyên nhân,
về nhân sự, về sự quy định thêm, về sự phạm tội, về sự không phạm
tội của điều pārājika thứ nhất.
– Này hiền giả Upāli, điều pārājika (trục xuất) thứ hai đă được
quy định tại đâu?
– Thưa Ngài, ở Rājagaha.
– Liên quan đến ai?
– Liên quan đến Tỳ- khưu Dhaniya con trai người thợ gốm.
– Về sự việc ǵ?
– Về việc lấy vật không được cho.
Rồi Ngài Mahākassapa hỏi Ngài Upāli về câu chuyện, về nguyên nhân,
về nhân sự, về sự quy định thêm, về sự phạm tội, về sự không phạm
tội của điều pārājika thứ hai.
Theo cách thức này, Ngài Mahākassapa đă hỏi Ngài Upāli về Luật Tỳ-
khưu, Luật Tỳ- khưu ni.
Sau khi hỏi hết phần Luật, Ngài Mahākassapa thông báo trước đại
hội rằng: “Sẽ hỏi Ngài Ānanda về Pháp”; Ngài Ānanda thông báo trước
đại hội: “Sẽ trả lời Ngài Mahākassapa về Pháp”.
– Này hiền giả Ānanda, kinh Brahmajāla (Phạm vơng) đă được thuyết
ở đâu?
– Thưa Ngài, ở nhà nghỉ của vua tại Ambalaṭṭhikā ở khoảng giữa
Rājagaha (Vương xá) và Nālanda.
– Liên quan đến ai?
– Đến du sĩ ngoại đạo Suppiya và thanh niên Brahmadatta.
Rồi Ngài Mahākassapa hỏi Ngài Ānanda về duyên khởi, về nhân sự
của kinh Brahmajāla
Bằng cách này. Ngài Mahākassapa đă hỏi Ngài Ānanda về năm bộ kinh
và Ngài Ānanda đă trả lời.
Sau vấn đáp Luật- pháp xong, các vị Trưởng lăo trùng tuyên Phật
Ngôn.
Trong cuộc kết tập Phật Ngôn lần I, Trưởng lăo Anuruddhadha là
người trùng tụng 120 phẩm của bộ Tăng chi kinh (Aṅguttaranikāya).
* Về những học giới nhỏ.
Sau khi trùng tuyên Pháp tạng xong rồi, Ngài Ānanda thông báo đến
đại hội rằng:
– Thưa các Ngài, vào thời điểm sắp viên tịch, Đức Thế Tôn đă nói
với tôi như vầy: “Này Ānanda, khi Ta không c̣n, hội chúng nếu muốn
có thể bỏ đi các điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng”.
– Này hiền giả Ānanda, hiền giả có hỏi Đức Thế Tôn: “Bạch Thế Tôn,
điều học nhỏ nhặt và ít quan trọng là các điều nào” không?
– Thưa không, bạch Ngài.
Sau khi thảo luận về những học giới được xem là nhỏ, các vị
Trưởng lăo có nhiều ư kiến khác nhau, cuối cùng Đại Trưởng lăo Mahā
Kassapa tuyên ngôn giữa Đại hội:
“Không quy định thêm những điều chưa quy định, không bỏ đi điều
đă được quy định”. Các vị trưởng lăo trong đại hội kết tập Phật ngôn
chấp nhận bằng cách im lặng([12]).
5-Khiển trách Ngài
Ānanda.
Các vị Trưởng lăo đă khiển trách Ngài Ānanda 5 điều.
1’- Không hỏi Đức Thế Tôn những giới luật nhỏ.
– Này hiền giả Ānanda, đây là một tội dukkaṭa (làm sai) của hiền
giả. Hiền giả không hỏi Đức Thế Tôn những giới luật nào nhỏ nhặt và
ít quan trong, hiền giả hăy sám hối tội dukkata ấy.
– Thưa các Ngài, v́ không lưu ư nên tôi không hỏi Đức Thế Tôn
điều ấy, tôi không thấy đó là một tội dukkaṭa (làm sai), nhưng v́
niềm tin với các Ngài, tôi xin sám hối tội dukkata này.
2’- Đạp lên y tắm mưa của Đức Thế Tôn.
– Này hiền giả Ānanda, đây là một tội dukkaṭa của hiền giả. Hiền
giả đă đạp lên y tắm mưa của Đức Thế Tôn rồi may y, hiền giả hăy sám
hối tội dukkaṭa ấy.
– Thưa các Ngài, không phải v́ không kính trọng mà tôi đă đạp lên
y tắm mưa của Đức Thế Tôn rồi may y, v́ khi ấy không có vị nào trợ
giúp tôi cả. Tôi không thấy đó là một tội dukkaṭa, nhưng v́ niềm tin
đối với các Ngài, tôi xin sám hối tội dukkaṭa này.
3’- Cho nữ nhân đảnh lễ thân Phật trước những người nam khác.
– Này hiền giả Ānanda, đây là một tội dukkaṭa của hiền giả. Hiền
giả đă cho phép nữ nhân đảnh lễ nhục thân của Đức Thế Tôn trước tiên,
trong khi họ khóc lóc nhục thân của Đức Thế Tôn bị lấm lem bởi nước
mắt, hiền giả hăy sám hối tội dukkaṭa ấy.
– Thưa các Ngài, tôi nghĩ rằng: “Những người nữ này không nên ở
lại vào ban đêm”. Nên tôi đă cho họ đảnh thể nhục thân Đức Thế Tôn
trước. Tôi không thấy đó là một tội dukkaṭa, nhưng v́ niềm tin đối
với các Ngài, tôi xin sám hối tội dukkaṭa này.
4’- Không thỉnh Đức Thế Tôn sống trọn kiếp.
– Này hiền giả Āananda, đây là một tội dukkaṭa của hiền giả. Hiền
giả không thỉnh cầu Đức thế Tôn sống trọn kiếp, hiền giả hăy sám hối
tội dukkaṭa ấy.
– Thưa các Ngài, v́ tâm tôi bị ác ma ám ảnh nên tôi không cầu
thỉnh Đức Thế Tôn sống trọn kiếp. Tôi không thấy đó là một tội
dukkaṭa, nhưng v́ niềm tin đối với các Ngài, tôi xin sám hối tội
dukkaṭa này.
5’- Cố gắng xin Đức Thế Tôn cho nữ nhân xuất gia trong giáo pháp
này.
– Này hiền giả Ānanda, đây là một tội dukkaṭa của hiền giả. Hiền
giả cố gắng xin Đức Thế Tôn cho nữ nhân xuất gia trong Giáo pháp của
Đức Thế Tôn, hiền giả hăy sám hối tội dukkaṭa ấy.
– Thưa các Ngài, tôi nghĩ rắng: “Bà Mahāpajāpati Gotamī này là d́
ruột của Đức Thế Tôn, bà là người chăm sóc, nuôi dưỡng, cho sữa đến
Đức Thế Tôn khi người mẹ ruột đă qua đời”.
Nên tôi cố gắng xin cho bà được xuất gia trong Pháp Luật được Đức
Thế Tôn công bố.
Tôi không thấy đó là một tội dukkaṭa, nhưng v́ niềm tin đối với
các Ngài, tôi xin sám hối tội dukkaṭa này.
Sách Samantapasādikā (Sớ giải Tạng Luật) ghi nhận: “Sự khiển
trách Ngài Ānanda sau khi trùng tuyên Luật- Pháp của Đức Thế Tôn kết
thúc.
Sách Dulva của Tây Tạng cho rằng: “Sự khiển trách này xảy ra
trước khi chấp nhận Ngài Ānanda tham dự cuộc kết tập”.
Mặt khác, sách Dulva c̣n gán cho Ngài Ānanda hai tội khác là:
*Không lấy nước cho Đức Thế Tôn dùng, mặc dù Đức Thế Tôn đă ba
lần bảo Ngài Ānanda đi lấy nước.
Ngài Ānanda giải thích: “Khi ấy nước sông bị vẩn dục, không thể
lấy cho Đức Thế Tôn uống”.
*Để hàng cư sĩ (nam lẫn nữ) c̣n phàm được xem tướng Mă âm tàng
của Đức Thế Tôn.
Ngài Ānandagiải thích: “Để diệt trừ sự nghi ngờ về ái dục của Đức
Thế Tôn đối với những phàm nhân này”.
Sự trả lời này đă làm hài ḷng đại hội.
(Đây là điều có khả năng không đúng sự thật. V́ rằng: “Ngài
Ānanda rất thương kính Đức Thế Tôn, lẽ nào lại để lộ tướng kín của
Đức Thế Tôn cho đại chúng thấy? Mặt khác, khi ấy những vị Trưởng lăo
như Ngài Anuruddha, Upavāna … lại yên lặng để cho Ngài Ānanda làm
như thế sao?).
Cuốc kết tập Phật ngôn lần I hoàn tất sau ba tháng.
6- Trừng phạt
Phạm Đàn với Ngài Channa.
Trong cuộc kết tập này, Ngài Ānanda tŕnh với các vị Tỳ- khưu
trưởng lăo rằng:
– Thưa các Ngài, khi sắp viên tịch Đức Thế Tôn có dạy: “Này
Ānanda, sau khi Ta viên tịch, hăy áp dụng Brahmadaṇḍa (Phạm- đàn –
Phạm thiên phạt) đối với Tỳ- khưu Channa.
– Này hiền giả Ānanda, hiền giả có hỏi Đức Thế Tôn Brahmadaṇḍa (Phạm-
đàn) là như thế nào không?
– Thưa các Ngài có, thật sự tôi có hỏi Đức Thế Tôn rằng: “Bạch
Thế Tôn, Phạm thiên phạt là như thế nào?
– Này Ānanda, Tỳ- khưu Channa muốn nói ǵ th́ có thể nói điều ấy,
c̣n các Tỳ- khưu không được nói chuyện, không được nhắc nhở, không
được chỉ dạy Tỳ- khưu Channa”.
Các vị Tỳ- khưu trưởng lăo đề cử Ngài Ānanda đi cùng nhiều vị Tỳ-
khưu đến tự viện Ghosita ở thành Kosambī, tuyên ngôn phạt
Brahmadaṇṇa đến Tỳ- khưu Channa, khi biết được h́nh phạt Brahmadaṇḍa,
Ngài Channa đă ngất xỉu.
Sau đó, Ngài Channa sống tách biệt, nỗ lực thực hành pháp, chẳng
bao lâu chứng đắc thánh quả A-La-Hán.
Khi chứng đắc Thánh quả A-La-Hán, Ngài Channa đi đến gặp Ngài
Ānanda nói rằng: “Bạch Ngài, xin hăy thu hồi h́nh phạt Brahmadaṇḍa
cho tôi”.
– Này hiền giả Channa, kể từ khi chứng Thánh quả A-La-Hán, h́nh
phạt Brahmadaṇḍa mất hiệu lực.
7- Sự bất đồng của
trưởng lăo Purāṇa.
Sau cuộc kết tập lần thứ nhất hoàn tất, có Trưởng Lăo Purāṇa đang
ngụ ở Dakkhināgiri (Nam sơn) cùng đồ chúng 500 vị Tỳ- khưu.
Nghe chư tăng kết tập Phật ngôn, Trưởng Lăo Puraaṇa cùng 500 đồ
chúng đi về thành Rājagaha (Vương xá), bấy giờ cuộc kết tập Phật
ngôn đă kết thúc, Ngài Purāṇa nói với các vị Tỳ- khưu trưởng lăo
rằng:
– Thưa các Tôn giả! Các Ngài tự kết tập Phật ngôn với nhau, không
thông báo cho chư Tăng biết. Chính bản thân tôi cũng không được
thông báo, nay tôi chỉ chấp tŕ những ǵ tôi trực tiếp thọ tŕ nơi
Bậc Đạo sư.
Khi đối chiếu những ǵ Trưởng Lăo Purāṇa thọ tŕ với sự kết tập
của các vị Trưởng Lăo, chỉ thấy khác nhau tám điều nhỏ là:
Antovuṭṭha. Tạm thời (yāvakālika) cất giữ thực phẩm trong chỗ ngụ.
Antopakka. Được có bếp nấu ở chỗ ngụ.
Sāmapakka. Được tự nấu nướng.
Uggahita. Được thọ dụng vật thực của thí chủ chưa dâng đến Tăng.
Tatonīhata. Được mang vật thực từ bàn ăn về chỗ ngụ.
Purabhatta. Được dùng trước, nghĩa là khi nhận thọ trai có quyền
dùng trước ở nơi nào đó rồi đến thọ trai.
Vanaṭṭha. Được tự do dùng bất cứ thực vật tự nhiên trong rừng.
Pokkharaṇaṭṭha. Được tự do dùng bất cứ thực vật nào trong hồ như củ
sen, bông súng…
Điều 7-8 là: “Cho phép chư Tỳ- khưu hái lá, hái rau, móc củ sen…”.
Đây là hai giới thuộc về Pācittiya (Ưngđốitrị): “làm hại thực vật”.
Tám điều này, Tỳ- khưu Purāṇa không chịu bỏ qua, Trưỡng lăo Mahā
Kassapa có giải thích:
“Tám điều ngoại lệ này, Đức Thế Tôn tạm thời cho phép khi có nạn
đói, khi nạn đói đă qua th́ tám ngoại lệ này được đ́nh chỉ, nếu vi
phạm là phạm luật”.
Dường như chỉ thấy Đức Phật cho phép trong hai lần có nạn đói là:
ở kinh thành Vesāli và ở kinh thành Rājagaha (Vương xá) mà thôi.
Nhưng Ngài Purāṇa chỉ biết “Đức Phật có cho phép”, khi Đức Phật
cấm chỉ th́ Ngài Purāṇa không biết và kiên quyết chấp tŕ những điều
này.
Thế là, Đức Thế Tôn viên tịch chưa được bao lâu, đă có sự rạn nứt
trong Tăng chúng về phương diện Giới luật, nên chia làm hai cánh.
– Một nhóm nhỏ chư Tăng theo đường lối của Trưởng Lăo Purāṇa, đó
là 500 Tỳ- khưu đồ chúng của Ngài.
– Chư Tăng c̣n lại, đa số chấp tŕ những ǵ được Chư Thánh Tăng
kết tập.
Chính từ tám điểm nhỏ này, về sau nhóm Tỳ- khưu Vajjiputtaka
thuộc phái Purāṇa đă cải cách thêm 10 điều sai luật, sự kiện này xẩy
ra vào Phật Lịch 100.
B-
Cuộc Kết tập Phật ngôn lần II ([13]).
1-
Địa bàn Magadha (Ma-Kiệt-Đà).
Phụ hoàng của vua Bimbisāra (B́nh-Sa) và vua Suddhodana (Tịnh
Phạn) là bạn của nhau, Thái tử Bimbisāra có kết giao với Thái tử
Siddhattha (SĩĐạtTa) qua thư từ.
Bồtát Siddhattha lớn hơn vua Bimbisāra (B́nh-Sa) năm tuổi, Thái
tử Bimbisāra lên ngôi lúc 15 tuổi.
Sau khi trị v́ vương vị được 16 năm, năm 30 tuổi vua Bimbisāra
đắc Thánh quả Dự Lưu. Vua Bimbisāra cai trị vương quốc Magadha được
52 năm, trong 37 năm (kể từ khi chứng Thánh quả Dự Lưu) vua
Bimbisāra tích cực ủng hộ Phật pháp.
Năm 67 tuổi vua Bimbisāra bị con là Thái tử Ajātasatta (A-Xà-Thế)
nghe theo lời Tôn giả Devadatta (Đề-Bà-Đạt-Đa) giết chết để đoạt
ngôi, khi ấy Đức Thế Tôn được 72 tuổi.
Năm Đức Thế Tôn 80 tuổi, lănh thổ Magadha (MaKiệtĐà) của vua
Ajātasattu (A-Xà-Thế) được mở rộng qua sự kiện vua Viḍūḍabha (Lưu
Ly) tru diệt ḍng Sakya (Thích – Ca), đoàn quân của vua Vidūdabha
kéo về đến sông Aciravatī, trong đêm ấy nước dâng cao cuốn trôi cả
đoàn quân trong đó có vua Vidūdabha xuống sông Hằng, do đó vương
quốc Kosala (Kiều-Tất-La) được sát nhập vào vương quốc Magadha (Ma-Kiệt-Đà),
v́ vua Ajātasattu (A-Xà-Thế) là cháu gọi vua Pasenadi (Pa-Tư-Nặc) xứ
Kosala (Kiều-Tất-La) bằng cậu (em của vua Pasenadi là bà Videhī,
bàVidehī là mẹ của vua Ajātasattu), đồng thời cũng là con rễ của vua
Pasenadi, vua Pasenadi gả công chúa Vajirā cho vua Ajātasattu.
Ngoài vua Vidūdabha, vua Pasenadi không có người con trai nào
khác, nên các Đại thần bàn nhau “mang vương quốc Kosala sát nhập vào
vương quốc Magadha”.
Sau khi Đức Thế Tôn viên tịch được 3 năm, vua Ajātasattu (A-Xà-Thế)
cất quân chinh phục thành công xứ Vajjī (Bạt-Kỳ), sát nhập xứ Vajjī
(Bạt-Kỳ) vào vương quốc Magadha (Ma-Kiệt-Đà).
Trị v́ vương quốc Magadha được 32 năm, vua Ajātasattu bị con là
Thái tử Udayabhaddaka (c̣n được gọi là Udāyibhadda; Udāyibhaddaka)
giết để soán ngôi, cai trị Vương quốc Magadha (Ma-Kiệt-Đà) được 16
năm. Trưởng lăo Ānanda và Trưởng Lăo Upāli viên tịch vào thời đại
của vị vua này.
Vua Udayabhaddaka cho dời kinh đô về Pupphapura, Pupphapura cách
Pāṭaliputta từ 2-3 do-tuần. Có thuyết cho rằng: “Chính vua
Udayabhaddaka dời kinh đô về Pāṭaliputta”, v́ Pupphapura là tên gọi
khác của Pāṭaliputta.
Trong Dīpavaṃsa (Đảo sử) gọi vị vua này là Udaya, c̣n trong
Mahābodhivaṃsa (Đại giác sử) gọi là Udāyabhadda.
Vua Udāyabhaddaka cai trị vương quốc Magadha được 16 năm. Vào năm
thứ 8 của triều đại này, vua Vijaya xứ Tích Lan mệnh chung và vào
năm thứ 15 của triều đại này, vua Paṇḍuvāsudeva xứ Tích Lan lên ngôi([14]).
Con vua Udāyabhaddaka là Thái tử Anuruddhaka lại giết cha cướp
ngôi([15]), vua Anuruddhaka cai trị được 4 năm, lại bị con là Thái
tử Muṇḍaka giết chết để cướp ngôi.
Vua Muṇḍaka cai trị được 4 năm lại bị con là Thái tử Nāgadāsaka
giết chết đoạt ngôi.
Vua Nāgadāsaka trị v́ được 24 năm, dân chúng thấy gịng họ này có
truyền thống “giết cha soán ngôi” nên nổi dậy lật đổ vương triều
Magadha, giết chết vua Nāgadāsaka; rồi lập ông hoàng ḍng Licchavī
là Susūnāga lên làm vua.
Vua Susūnāga trị v́ được 18 năm th́ mệnh chung, Thái tử Kāḷāsoka
nối ngôi, vào năm thứ 10 của triều đại vua Kālāsoka th́ Phật lịch
tṛn 100 năm.
Trong thời gian đó, Phật Giáo thăng trầm ra sao? Không có sử liệu
nào ghi rơ, chỉ có thể ghi nhận rằng “Chư Tăng âm thầm tách phái”,
xuất phát từ mối bất đồng của trưởng lăo Purāṇa qua 8 điều nhỏ đă
nêu trên.
Chính từ tám điểm nhỏ của mối bất đồng này, về sau nhóm Tỳ- khưu
Vajjiputtaka (Bạt-kỳ-tử)([16]) thuộc phái Purāṇa nơi kinh thành
Vesālī đă cải cách thêm 10 điều sai luật, sự kiện này xẩy ra vào
Phật Lịch 100.
Mười điều đó là:
1-Kappati siṅgiloṇakappo.
Được phép cất giữ muối trong ống sừng để nêm vào những loại vật
thực không có muối (khi đă thọ lănh vật thực ấy).
Điều này trái với điều học pācittiya thứ 38: “Cấm trữ thức ăn”.
2-Kappati dvaṇgulakappo
Được dùng bữa khi bóng chưa xế quá 2 ngón tay bề rộng.
Điều này trái với điều học pācittiya thứ 37: “Không được ăn khi
quá ngọ”.
3- Kappati gamantarakappo
Được đi vào làng dùng bữa thứ hai sau bữa ăn chính.
Điều này trái với điều học pācittiya thứ 25: “Cấm ăn nhiều lần”.
4- Kappati āsāvakappo
Trong khu vực Mahāsīmā (ranh giới lớn) các Tỳ- khưu có thể chia
thành nhiều nhóm để hành Uposatha (Bốtát).
Điều này trái với Mahāvagga (Luật Đại phẩm) về sự cư trú trong
một Sīmā .
5- Kappati anumatikappo
Được làm Tăng sự khi thiếu Tỳ- khưu, Tăng sự vẫn thành tựu nếu
sau này được sự đồng ư của những vị vắng mặt.
6-Kappati āciṇṇakappo.
Được làm một điều ǵ đó, (dù là phạm luật) do vị Ḥa Thượng sai
bảo.
7- Kappati amathitakappo.
Được uống sữa chua lúc quá ngọ([17]).
Điều này trái với điều pācittya (ưngđốitrị) thứ 35.
8- Kappati jaḷogiṃ pātuṃ.
Được uống nước trái cây lên men chưa đủ nồng độ.
Điều này trái với điều pācittiya (ưngđí6itrị) thứ 51: “Cấm uống
chất say”.
9- Kappati adasakaṃ nisīdanaṃ.
Được dùng tọa cụ không viền.
Điều này trái với điều pācittya thứ 89:“Cấm dùng tọa cụ không
viền”.
10- Kappati jātarūparajataṃ.
Được thọ lănh vàng bạc.
Điều này trái với điều nissaggiya pācittiya (ưngxả đối trị) thứ
18.
Nhóm Tỳ- khưu Vajjiputtaka (Bạt-kỳ-tử) đề xướng và thực hành 10
điều này từ lâu, nhưng v́ cư dân thành Vesālī không biết Luật, nên
vẫn tôn kính và ủng hộ các Tỳ- khưu Vajjiputtaka.
Có lần, Ngài Yasa Kākaṇḍakaputta([18]) người xứ Kosambī, du hành
trong xứ Vajji đi đến thành Vesālī, trú nơi Kūṭārāma (Tự viện Kūṭa)
trong Mahāvana (Đại Lâm). Các Tỳ- khưu Vajjiputtaka ở Vesalī vào
ngày Uposatha (Bốtát), lấy một chậu bằng đồng đổ đầy nước đặt giữa
hội chúng Tỳ- khưu, kêu gọi các cư sĩ rằng:
– Hăy bố thí đến hội chúng 1 kahāpana (đồng vàng), 1 nửa, 1 pāda,
1 māsaka. Hội chúng sẽ có việc phải làm về vật dụng.
Ngài Yasa Kākaṇḍakaputta cố ngăn chặn nhưng không được, các cư sĩ
gia chủ thành Vesalī vẫn mang vàng bạc đến cúng dường theo thông lệ
từ trước đến giờ.
Ngài Yasa Kākaṇḍakaputta khiển trách các Tỳ- khưu Vajjiputtaka
đồng thời cũng rầy các gia chủ cư sĩ thành Vesalī.
Vào cuối đêm các Tỳ- khưu Vajjiputtaka chia số vàng bạc ấy theo
số lượng Tỳ- khưu hiện diện, rồi mang đến dâng cho Ngài Yasa
Kākaṇḍakaputta, Ngài Yasa Kākaṇḍakaputta từ chối và khiển trách các
Tỳ- khưu ấy một lần nữa.
Tức giận trước thái độ của Ngài Yasa Kākaṇḍakaputta, các Tỳ- khưu
Vajjiputtaka họp nhau lại tụng tuyên ngôn phạt paṭisaranakamma (sám
hối cư sĩ) đối với Ngài Yasa Kākaṇḍakaputta. Trước áp lực số đông,
Ngài Yasa Kākaṇḍakaputta đành chấp hành đi cùng một Tỳ- khưu trong
nhóm Vajjiputtaka đại diện Tăng chúng để chứng minh.
Nhưng tại đó, Ngài lại giải thích cho cư sĩ hiểu về Luật, nói rơ
việc làm này của nhóm Tỳ- khưu Vajjipattaka là sai Luật.
Ngài Yasa Kākaṇḍakaputta nêu ra ba sự kiện chứng minh: “Các Samôn
Thích tử không được thọ dụng vàng bạc”.
a- Lập lại bài kinh Các uế nhiễm.
“Này các Tỳ- khưu! Có bốn uế nhiễm (upakkilesā) của mặt trời, mặt
trăng, do bốn uế nhiễm này, mặt trời, mặt trăng không chiếu sáng,
không có chói sáng, không có rực sáng. Thế nào là bốn ?
* Này các Tỳ- khưu, mây (abbhaṃ) là uế nhiễm của mặt trởi mặt
trăng, do uế nhiễm này làm ô nhiễm, mặt trời mặt trăng không chiếu
sáng, không chói sáng, không rực sáng.
* Này các Tỳ- khưu, sương mù (mahiyā) là uế nhiễm…
* Này các Tỳ- khưu, khói bụi là uế nhiễm…
* Này các Tỳ- khưu, Rāhu vua của các loài A-tu-la là uế nhiễm (v́
nuốt mặt trời hay mặt trăng, tạo ra hiện tượng nhật thực hoặc nguyệt
thực)…
Do những điều uế nhiễm này, mặt trời, mặt trăng không thể chiếu
sáng, không thể chói sáng, không thể rực sáng.
Cũng vậy, có 4 uế nhiễm cho các Samôn, Bà-la-môn, do bốn uế nhiễm
này khiến cho các Samôn, Bà-la-môn không được chiếu sáng, không được
chói sáng, không được rực sáng. Thế nào là bốn ?
* Này các Tỳ- khưu, uống rượu men, rượu nấu là uế nhiễm…
* Này các Tỳ- khưu, hưởng thụ dâm dục là uế nhiễm…
* Này các Tỳ- khưu, thọ nhận vàng bạc là uế nhiễm…
* Này các Tỳ- khưu, nuôi sống tà mạng là uế nhiễm…([19]).
b- Thôn trưởng Maṇicūlaka.
Một thời Đức Thế Tôn trú tại Veḷuvanavihāra (Đại tự Trúc Lâm) nơi
nuôi dưỡng những con sóc, gần thành Rājagaha (Vương xá).
Bấy giờ trong cung của vua Bimbisāra, các đại thần, Đức vua đang
ngồi tụ họp, câu chuyện trên đây được khởi lên: “Các Samôn thuộc
gịng Thích tử được dùng vàng bạc. Các Samôn thuộc gịng Thích tử
được giữ vàng bạc. Các Samôn thuộc gịng Thích tử được nhận lấy vàng
bạc”.
Bấy giờ có thôn trưởng Maṇicūḷaka đang ngồi trong hội chúng, thôn
trưởng Maṇicūḷaka nói rằng:
– Các Tôn giả chớ có nói như vậy. “Các Samôn thuộc gịng Thích tử
không được phép dùng vàng bạc. Các Samôn thuộc gịng Thích tử không
được phép giữ vàng bạc. Các Samôn thuộc gịng Thích tử không được
phép nhận lấy vàng bạc. Các Samôn thuộc gịng Thích tử từ bỏ châu
báu và vàng; chúng đă ly khai vàng và bạc”.
Nhưng hội chúng không chấp nhận lời thôn trưởng Maṇicūḷaka, thôn
trưởng Maṇicūḷaka đi đến đảnh lễ Đức Thế Tôn, rồi ngồi xuống một bên
hợp lẽ, bạch tŕnh đến Đức Thế Tôn sự kiện trên rồi bạch rằng:
– Bạch Thế Tôn, trả lời như thế, không biết con có nói đúng lời
Đức Thế Tôn? Con không xuyên tạc Đức Thế Tôn với điều không thật?
Con đă trả lời thuận pháp, đúng pháp và không một ai nói lời tương
ứng đúng pháp có lư do để chỉ trích.
– Này thôn trưởng, trả lời như thế ngươi đă trả lời đúng pháp.
Ngươi không có xuyên tạc Ta với điều không thật. Ngươi đă trả lời đă
trả lời thuận pháp, đúng pháp và không một ai nói lời tương ứng đúng
pháp có lư do để chỉ trích.
Tiếp theo Đức Thế Tôn dạy rằng:
– Này thôn trưởng, Ta nói rằng: “Cỏ được tầm cầu với những ai cần
đến cỏ. Củi được tầm cầu với những ai cần đến củi. Cổ xe được tầm
cầu với những ai cần đến cổ xe. Nhưng này thôn trưởng, không có bất
cứ lư do ǵ Ta nói rằng “vàng bạc được chấp nhận, vàng bạc được tầm
cầu”([20]).
c- Dẫn chứng điều học nisaggiya-pācittiya (ưngxảđốitrị) số 18.
Điều học này do Tôn giả Upananda gịng Sākya vi phạm đầu tiên và
Đức Thế Tôn chế định học giới: “Cấm các vị Tỳ- khưu thọ nhận vàng
bạc”.
Sau khi nghe Ngài Yasa Kākaṇḍakaputta giải thích, các cư sĩ gia
chủ thành Vesālī tán thán rằng: “Chỉ có Tôn giả Yasa Kākaṇḍaka là
Samôn thuộc gịng Thích tử, các vị kia đều không phải là Samôn,
không phải là Thích tử”. Và các cư sĩ gia chủ thành Vesālī bạch rằng:
– Xin Tôn giả Yasa Kākaṇḍakaputta hăy trú ngụ tại kinh thành
Vesālī , chúng tôi sẽ nỗ lực hộ độ bốn món vật dụng đến Tôn giả.
Vị Tỳ- khưu đi chung với Ngài Yasa Kākaṇḍakaputta đă tường tŕnh
sự việc đến các Tỳ- khưu Vajjiputtaka. Họ quyết định dùng số đông
phạt Ngài Yasa Kākaṇḍakaputta theo cách Ukkhepanīyakamma nghĩa là cô
lập mọi sinh hoạt của Ngài Yasa Kākaṇdaka.
Đoán được ư đồ của nhóm Vajjiputtaka nên Ngài Yasa Kākaṇḍaka đă
theo đường hư không trở về kinh thành Kosambī trước khi họ đến.
Khi trở về kinh thành Kosambī Ngài Yasa Kākaṇḍa suy nghĩ: “Nếu ta
làm ngơ sự kiện này th́ không bao lâu Giáo pháp sẽ suy vong, các ác
Tỳ- khưu tăng thịnh”.
Ngài Yasa Kākaṇḍaka cử người đến xứ Pāvā, xứ Avanti và
Dakkhiṇāpatha để thông báo “sự kiện ở Vesāli” cho chư Tăng rơ và
thỉnh chư Tăng chấn chỉnh “10 điều sái Luật” này.
Tự thân Trưởng Lăo Yasa Kākaṇḍaputta đi đến núi Ahogaṅgā([21])
gặp Trưởng Lăo Sambhūta Sāṇavasī tŕnh bày duyên sự. Ngài Sambhūta
Sāṇavasī đồng ư với Ngài Yasa trên mọi điểm.
Bấy giờ có 60 vị Trưởng Lăo ở thành Pāṭhā xứ Pāvā, 80 vị Trưởng
Lăo xứ Avanti tất cả đều là A-La-Hán cùng đi đến núi Ahogaṅgā hội
với Ngài Yasa và Sambhūta, ngoài ra c̣n có rất nhiều vị Thánh tăng ở
nhiều nơi đi đến.
Theo Mahāvaṃsa th́ có đến 90.00o vị đồng t́nh đi đến dự hội tại
núi Ahogaṅgā và số lượng chư Tăng khi ấy lên đến 112 ngàn vị.
Các Ngài quyết định sẽ giải quyết “việc sái Luật” này, bằng cách
thỉnh thêm Trưởng Lăo Revata người xứ Soreyya là vị A-La-Hán đa văn,
thông suốt Phật Ngôn. Và các Ngài lên đường đi đến Soreyya t́m
Trưởng Lăo Revata.
Trưởng lăo Soreyya Revata biết “việc sái Luật” ở Vesāli, tuy muốn
giải quyết nhưng Ngài ngại sẽ tạo ra phân hóa trầm trọng trong Tăng
chúng nên rời chỗ ngụ đến thành Saṇkassa.
Chư Tăng đến Soreyya được tin Ngài Revata đến thành Saṅkassa liền
đi đến thành Saṅkassa, Ngài Revata lại du hành đến Kaṇṇakujja; chư
Tăng đến Kaṇṇakujja th́ Ngài Revata lại đi đến Udumbara, chư Tăng
t́m đến Udumbara, Ngài Revata di chuyển đến Aggalapura, chư Tăng lại
đi đến Aggalapura th́ Ngài Revata lại đến Sahajāti và chư Tăng gặp
được Ngài Revata ở nơi này.
Ngài Sambhūta Sāṇavāsī bảo Ngài Yasa chọn một vị Tỳ- khưu đọc
đúng âm từ, đến hội kiến Ngài Soreyya Revata. Sau khi vị ấy đọc hết
10 điều sáng tạo của nhóm Tỳ- khưu Vajjiputtaka, Ngài Yasa hỏi Ngài
Soreyya Revata từng điều một và tất cả được Ngài Revata đáp là “sai
Luật”. Và Ngài Yasa thỉnh Ngài Revata tham dự vào việc chỉnh lư này,
đồng thời sẽ Kết tập Phật ngôn lần II. Ngài Soreyya Revata nhận lời.
Được tin chư Tăng t́m gặp được Ngài Soreyya Revata ở Sahajāti,
nhóm Tỳ- khưu Vajjiputtaka e ngại, nghĩ đến việc: “Nhờ Trưởng lăo
Revata che chở”.
Nhóm Tỳ- khưu Vajjiputtaka liền đáp thuyền đi ngược ḍng sông đến
Sahajāti, mang nhiều dụng cụ Samôn như y, bát, toạ cụ, dây buộc thân…
đến dâng Ngài Revata, nhưng Ngài từ chối lễ vật của họ.
Bằng cách này không áp dụng được với Ngài Revata, họ liền chuyển
hướng sang áp dụng với thị giả của Ngài là Đại đức Uttara, nhờ vị
này nói giúp “nhờ Ngài Revata giúp đỡ họ”.
Đại đức Uttara là vị Tỳ- khưu được 20 tuổi hạ, là thị giả của
Ngài Soreyya Revata, tuy được 20 tuổi hạ nhưng v́ chưa thông suốt
Luật nên Đai đức Uttara phải sống nương nhờ thầy Tế độ.
Ban đầu, Đại đức Uttara cũng từ chối, nhưng bị ép buộc nên có
nhận 1 bộ y, Ngài Uttara hỏi các vị Tỳ- khưu Vajjiputtaka rằng:
– Này các Tôn giả, hăy nói rơ lư do về việc này.
– Xin Ngài Đại đức nói với Ngài Trưởng lăo chỉ một điều: “Thưa
Ngài, xin Ngài Trưởng lăo hăy nói giữa hội chúng chỉ có một điều này:
“Chư Phật Thế Tôn đều sinh lên trong các quốc độ ở hướng Đông. Các
Tỳ- khưu về hướng Đông là nói đúng Pháp, c̣n các Tỳ- khưu ở Pāvā là
các vị nói phi pháp”.
Ngài Revata đă khiển trách Đại đức Uttara đồng thời tẩn xuất Đại
đức Uttara ra khỏi chỗ ngụ([22]).
Sách Mahāvaṃsa (Đại sử) có nói thêm rằng: “Ngài Uttara sau khi bị
tẩn xuất ra khỏi chổ ngụ, các Tỳ- khưu Vajjiputtaka muốn kéo Ngài
Uttara về phe ḿnh, một số xin làm đệ tử của Ngài Uttara và Ngài
Uttara đă theo nhóm Tỳ- khưu Vajjiputtaka”([23]).
Thất bại trong việc nhờ Trưởng lăo Revata che chở, nhóm Tỳ- khưu
Vajjiputtaka trân tráo tâu lên vua Kāḷāsoka (Hắc Vô Ưu) rằng: “Tự
viện Kūṭārāma ở Mahāvana nơi chúng tôi trú ngụ trong thành Vesāli
này, có hương pḥng của Đức Thế Tôn, chúng tôi đang bảo vệ hương
pḥng đó. Nhưng có những Tỳ- khưu từ miền núi đến với ư: “Chúng ta
sẽ giành lấy Tự viện Kūṭārāma cho chúng ta”, xin Đại vương hăy ngăn
họ lại”.
Vua Kāḷāsoka không suy sét nên hứa bảo vệ họ.
Ở Sahajāti có vị Trưởng lăo A-La-Hán Sāḷha là bậc làu thông Pháp
luật của Đức Thế Tôn, chư Tăng thỉnh Ngài Sāḷha tham dự vào việc
giải quyết tranh sự về Luật. Ngài Sāḷha chấp thuận.
Trong việc giải quyết tranh sự về Luật, Ngài Sāḷha có vai tṛ rất
quan trọng, là một trong bốn đại biểu hội đồng Giám Luật đại diện
cho các vị Tỳ- khưu hướng Đông (chỉ cho nhóm Tỳ- khưu Vajjiputtaka).
Khi chư Tăng tụ hội đông đảo ở Sahajāti, Ngài Revata đề nghị việc
này cần phải giải quyết ở kinh thành Vesālī v́ Đức Thế Tôn có dạy
“nhân sinh nơi nào, diệt tại nơi ấy”, các vị Trưởng lăo đồng ư.
Tiếp theo Ngài Revata tụng tuyên ngôn thông báo đến chư Tăng: “Sẽ
giải quyết tranh sự về Luật này tại kinh thành Vesālī”. Chư Tăng
đồng ư, cùng nhau đi đến kinh thành Vesālī.
Nơi kinh thành Vesālī có vị Đại trưởng lăo có được 12o hạ Tỳ-
khưu([24]), đó là Ngài Sabbakāmi đệ tử của Ngài Ānanda([25]), Ngài
Sabbakāmi là bậc làu thông Pháp Luật của Đức Thế Tôn.
Trưởng lăo Revata đề nghị thỉnh thêm Trưởng lăo Sabbakāmi, chư
Tăng đề cử Ngài Revata đến hội kiến với Ngài Sabbakāmi.
Ngài Revata đi đến chỗ cư ngụ của Đại trưởng lăo Sabbakāmi, chỗ
nằm ngồi của Đại trưởng lăo Sabbakāmi được bố trí ở pḥng trong, chỗ
nằm ngồi của Ngài Revata được bố trí ở trước pḥng. Khi ấy Ngài
Revata suy nghĩ: “Vị trưởng lăo cao niên này không nằm”, nên Ngài
cũng không nằm; Đại trưởng lăo Sabbakāmi thấy vậy suy nghĩ: “Vị Tỳ-
khưu khách này đang mệt vẫn không nằm”, nên Ngài cũng không nằm
xuống.
Vào lúc gần sáng của đêm, Đại trưởng lăo Sabbakāmi trở ra nói với
Ngài Revata rằng:
– Này Hiền giả thân mến, hiện nay Hiền gia an trú với sự an trú
nào?
– Thưa Ngài, hiện nay tôi thường an trú với sự an trú tâm từ.
Ngài Sabbakāmi tán thán Ngài Revata. Ngài Revata hỏi Ngài
Sabbakāmi rằng:
– Thưa Ngài trưởng lăo, hiện nay Ngài thường an trú tâm trong sự
an trú nào?
– Này hiền giả, ta thường an trú tâm trong sự an trú với trạng
thái suññatā (rỗng không).
Ngài Revata tán thán Ngài Đại trưởng lăo Sabbakāmi. Cuộc trao đổi
thân t́nh giữa hai vị Trưởng lăo chưa chấm dứt, Ngài Sambhūta đi đến,
sau khi đảnh lễ Đại trưởng lăo Sabbakāmi rồi, Ngài Sambhūta ngồi
xuống một bên thưa với Ngài Sabbakāmi rằng:
– Thưa Ngài Đại trưởng lăo, các Tỳ- khưu ở thành Vesālī này sáng
tạo 10 điều…
Thưa Ngài, Ngài là vị Đại trưởng lăo đă học tập được nhiều Pháp
Luật từ nơi thầy Tế Độ. Thưa Ngài, khi Ngài quán xét về Pháp Luật
th́ Ngài khởi ư như thế nào? Những ai là người nói đúng Pháp? Những
vị Tỳ- khưu ở hướng Đông (pācinaka) hay những vị Tỳ- khưu ở Pāvā?
Đại trưởng lăo Sabbakāmi thừa nhận: “Nhóm Tỳ- khưu ở hướng Đông
nói phi Pháp. Nhóm Tỳ- khưu ở Pāvā nói đúng pháp”.
Ngài Sabbakāmi c̣n nói thêm rằng: “Tuy nhiên, tôi sẽ không nói rơ
quan điểm, cho đến khi nào tôi được chỉ định trong sự tranh tụng này”.
Và hai Ngài Sambhūta và Revata thỉnh Ngài Sabbakāmi tham dự vào
việc giải quyết tranh sự này. Ngài Sabbakāmi chấp thuận.
Chư Tăng quyết định chọn Vālikārāma (Tự viện Vālika) trong thành
Vesālī là nơi giải quyết tranh sự, đồng thời cũng là nơi Kết tập
Phật ngôn lần II.
Theo lời đề nghị của Đại trưởng lăo Sabbakāmi, Đại hội cử ra một
hội đồng giám luật gồm bốn vị Trưởng lăo ở Pācinaka (Đông Ấn) là:
Ngài Sabbakāmi, Ngài Saḷha, Ngài Khujjasobhita và Ngài Vāsabbagāmika,
đại diện cho nhóm Tỳ- khưu Vajjiputtaka trả lời về Luật.
Bốn vị Trưỡng lăo ở Pāvā (Tây Ấn) là: Ngài Revata, Ngài Sambhūta,
Ngài Sumaṇa và Ngài Yasa đại diện cho tuyên cáo, vấn hỏi Luật..
Các vị Trưởng Lăo quyết định chọn chùa Vālukārāma (c̣n gọi là
Vālikārāma) ở Vesāli để giải quyết tranh sự vềLuật”. Và chùa này trở
thành địa điểm kết tập Phật Ngôn lần II.
Chư Tăng thỉnh Ngài Revata tụng tuyên ngôn “giải quyết 10 điều
sai luật bằng cách Ubāhika (đoạn trừ nguyên nhân) tại Vesāli”, rồi
vấn hỏi Luật. Thỉnh Ngài Sabbakāmi là vị trả lời về Luật.
Trong tám vị hội đồng giám luật có hai vị là đệ tử của Ngài
Anuruddha đó là: Trưởng Lăo Vāsabhagāmika và Trưởng Lăo Sumana, sáu
vị c̣n lại là đệ tử của Trưởng lăo Ānanda.
Tám vị Trưởng Lăo này có được duyên lành chiêm ngưỡng Đấng Như
Lai khi Đức Phật c̣n tại thế.
Hai vị Trưởng lăo Anuruddha và Ānanda là hai Kết tập sư quan
trọng trong cuộc Kết tập Phật ngôn lần I.
Hội đồng đề cử Trưởng lăo Ajita là người sắp xếp chổ ngồi cho các
vị Đại trưởng lăo và chư Tăng.
Nói về vua Kāḷāsoka v́ thiểu trí, tin lời nhóm Tỳ- khưu
Vajjiputtaka, khi nghe chư Tăng về đến Vesālī, liền ra lệnh cấm chư
Tăng không được vào khuôn viên Vālikārāma, cho các quan Đại thần dẫn
quân đến để ngăn chận chư Tăng, nhưng chư Thiên dẫn họ đi lạc đường.
Đêm ấy, vua nằm mộng thấy ḿnh rơi vào địa ngục Lohakumbhī (địa
ngục Đồng sôi), tỉnh dậy vua vô cùng sợ hăi, đến sáng cho hội triều
thần để bàn điềm mộng đêm qua.
Bấy giờ, em gái vua Kāḷāsoka là vị thánh nữ A-La-Hán Nandā đi đến
tâu rằng:
– Đây là một ác trọng nghiệp mà Đại vương đă làm, Đại vương hăy
sám hối và làm ḥa với chư Tăng, đó là những vị Tỳ- khưu có chánh
kiến.
Đại vương hăy đứng về phía các vị ấy để bảo vệ chánh pháp, đó là
việc làm có lợi ích cho Đại vương.
Đức vua Kāḷāsoka cho thỉnh Chư Tăng hai bên họp lại tại Kūṭārāma
(Tự viện Kūṭa) yêu cầu hai bên tŕnh bày lại sự việc.
Nghe xong, Đức vua tán đồng quan điểm của Chư Thánh Tăng, đồng
thời đứng về chánh pháp, Đức vua nói rằng:
– Các Ngài hăy làm những ǵ mà các Ngài cho là thánh thiện, hăy
phát triển chánh pháp rộng răi.
Chư Thánh Tăng tỏ ư muốn nhà vua bảo trợ cuộc Kết tập Phật Ngôn
lần II tại chùa Vālikārāma, Đức vua chấp thuận.
Khi ấy số lượng Thánh Tăng được tuyển chọn là 700 vị, tất cả là
bậc A-La-Hán tối thiểu là Lục thông.
2-
Nội dung kết tập Phật ngôn
Sau khi tụng tuyên bố cho chư Tăng biết rơ: Bốn vị trưởng lăo đại
diện ch0 các Tỳ- khưu Pāvā sẽ hỏi 10 điều của nhóm Tỳ- khưu
Vajjiputtaka đến 4 vị trưởng lăo đại diện cho các vị Tỳ- khưu
Pācinaka (hướng Đông). Bốn vị trưởng lăo đại diện cho các Tỳ- khưu
Pācinaka sẽ trả lời.
Điều 1.
Rồi Ngài Revata hỏi Ngài Sabbakāmi.
– Thưa Ngài, quy định cất giữ muối trong ống sừng là được phép?
– Này hiền giả, quy định cất giữ muối trong ống sừng ấy, là thế
nào?
– Thưa Ngài, là mang theo muối đựng trong ống bằng sừng (nghĩ
rằng) “Ta sẽ thọ dụng vào trường hợp thức ăn thiếu muối” có được
phép không?
– Này hiền giả, không có được phép.
– Thưa Ngài, (việc ấy) được phủ quyết ở đâu?
– Này hiền giả, ở Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga (Phân tích Giới
bổn).
– Thưa Ngài, (làm việc ấy) phạm tội ǵ?
– Này hiền giả, phạm pācittiya (ưng-đối-trị) về vật thực được
tích trữ.
Ngài Revata tuyên ngôn cho chư Tăng biết điều thứ nhất là không
đúng Pháp không đúng Luật của Đức Thế Tôn và Ngài để riêng thẻ thứ
1.
Điều 2.
Ngài Revata hỏi Ngài Sabbakāmi.
– Thưa Ngài, quy định hai ngón tay là được phép?
– Này hiền giả, quy định hai ngón tay ấy là như thế nào?
– Thưa Ngài, là ăn vật thực sái giờ khi bóng nắng mặt trời (chiếu
ở trên đất) đă dài hai ngón tay, có được phép không?.
– Này hiền giả, không được phép.
– Thưa Ngài, việc ấy được phủ quyết ở đâu?
– Này hiền giả, ở thành Rājagaha, trong Suttavibhaṅga.
– Thưa Ngài, (làm việc ấy) phạm tội ǵ?.
– Này hiền giả, phạm pācittiya (ưng-đối-trị) về vật thực sái giờ.
Và Ngài Revata tuyên ngôn cho chư Tăng biết “điều này là sai pháp
sai Luật của Đức Thế Tôn”, Ngài Revata để riêng thẻ thứ 2
Điều 3.
Ngài Revata hỏi Ngài Sabbakāmi.
– Thưa Ngài, quy định trong làng là được phép?
– Này hiền giả, quy định trong làng ấy là như thế nào?
– Thưa Ngài, vị đă ăn xong, đă được thoả măn (nghĩ rằng): “Bây
giờ ta sẽ đi vào làng”, rồi thọ dụng vật thực, không phải là vật
thực dư thừa, có được phép không?
– Này hiền giả, không được phép.
– Thưa ngài, (việc ấy) được phủ quyết ở đâu?
– Này hiền giả, ở thành Sāvatthī, trong Suttavibhaṅga.
– Thưa Ngài, (làm việc ấy) phạm tội ǵ?
– Này hiền giả, phạm pācittiya (ưng-đối-trị) đối với vật thực
không phải c̣n thừa.
Ngài Revata tuyên ngôn cho chư Tăng biết: “Điều thứ ba là sai
pháp sai Luật của Đức Thế Tôn”. Và Ngài để riêng thẻ thứ 3.
Điều 4.
Ngài Revata hỏi Ngài Sabbakāmi.
– Thưa Ngài, quy định về chổ cư trú là được phép?
– Này hiền giả, quy định về chổ cư trú ấy là thế nào?
– Thưa Ngài, là trú xứ có chung ranh giới (sīmā) thực hiện lễ
Uposatha (Bốtát) riêng biệt, có được phép không?
– Này hiền giả, không có được phép.
– Thưa Ngài, (việc ấy) được phủ quyết ở đâu?
– Này hiền giả, ở Rājagaha, trong chương về Uposatha.
– Thưa Ngài, (làm việc ấy) phạm tội ǵ?
– Này hiền giả, phạm dukkata (làm sái quấy) về việc vi phạm Luật.
Ngài Revata tụng tuyên ngôn cho chư Tăng biết: “Việc này sai Pháp
sai Luật của Đức Thế Tôn”, rồi Ngài Revata để riêng thẻ thứ tư.
Điều 5.
Ngài Revata hỏi Ngài Sabbakāmi.
– Thưa Ngài, quy định về sự thỏa thuận là được phép?
– Này hiền giả, quy định về sự thỏa thuận ấy là như thế nào?
– Thưa Ngài, là thực hành Tăng sự với hội chúng không đủ số lượng
(nghĩ rằng): “Chúng ta sẽ thuyết phục các Tỳ- khưu đi đến”, có được
phép không?
– Này hiền giả, không có được phép.
– Thưa Ngài, (việc ấy) được phủ quyết ở đâu?
– Này hiền giả, Ở trong câu chuyện về Luật của các vị ở Campā.
– Thưa Ngài, (làm việc ấy) phạm tội ǵ?
– Này hiền giả, phạm dukkata về vi phạm về luật.
Ngài Revata tụng tuyên ngôn cho chư Tăng biết: “Điều này sai Pháp,
sai Luật của Đức Thế Tôn”, rồi Ngài Revata rút thẻ thứ 5 để riêng.
Điều 6.
Ngài Revata hỏi Ngài Sabbakāmi.
– Thưa Ngài, quy định theo tập quán là được phép?
– Này hiền giả, quy định theo tập quán ấy là như thế nào?
– Thưa Ngài, là vị (nghĩ rằng): “Điều này đă được thực hành bởi
thầy Tế Độ của ta, điều này đă được thực hành bởi thầy giáo thọ của
ta”, rồi thực hành theo, có được phép không?
– Này hiền giả, quy định theo tập quán có điều được phép, có điều
không được phép.
Ngài Revata tụng tuyên ngôn cho chư Tăng biết rơ: “Việc này không
đúng Pháp không đúng Luật, đi sái với lời dạy của Đức Thế Tôn”, rồi
rút thẻ thứ 6 để ra riêng.
Điều 7.
Ngài Revata hỏi Ngài Sabbakāmi.
– Thưa Ngài, quy định chưa được khuấy là được phép?
– Này hiền giả, quy định chưa được khuấy ấy là như thế nào?
– Thưa Ngài, có loại sữa đă qua trạng thái sữa, nhưng chưa đạt
đến trạng thái sữa đông, vị đă ăn xong, đă được thỏa măn, lại uống
lại sữa ấy không phải c̣n thừa lại (từ bữa ăn), có được phép không?
– Này hiền giả, không có được phép([26]).
– Thưa Ngài, (việc ấy) được phủ quyết ở đâu?
– Này hiền giả, ở Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga.
– Thưa Ngài, (làm việc ấy) phạm tội ǵ?
– Này hiền giả, phạm pācittiya (ưng-đối-trị) về vật thực không
phải là c̣n thừa (điều học pācittiya thứ 35).
Ngài Revata tụng tuyên ngôn cho chư Tăng biết: “Điều này sai Pháp
sai Luật của Đức Thế Tôn”, rồi Ngài Revata rút thẻ thứ 7 để riêng ra.
Điều thứ 8.
Ngài Revata hỏi Ngài Sabbakāmi.
– Thưa Ngài, quy định uống nước trái cây lên men là được phép?
– Này hiền giả, quy định uống nước trái cây lên men ấy là thế nào?
– Thưa Ngài, là uống loại rượu vừa mới lên men, nhưng chưa đạt
đến trạng thái rượu mạnh.
– Này hiền giả, không có được phép.
– Thưa Ngài, (việc ấy) được phủ quyết ở đâu?
– Này hiền giả, ở Kosambī, trong Suttavibhaṅga.
– Thưa Ngài, (làm việc ấy) phạm tội ǵ?
– Này hiền giả, phạm pācittiya về việc dùng rượu và chất say.
Ngài Revata tuyên ngôn cho chư Tăng biết: “Điều này sai pháp sai
Luật của Đức Thế Tôn”, rồi Ngài rút thẻ thứ 8 để riêng ra.
Điều 9.
Ngài Revata hỏi Ngài Sabbakāmi.
– Thưa Ngài, quy định toạ cụ không có viền quanh là được phép?
– Này hiền giả, không có được phép.
– Thưa ngài, (việc ấy) được phủ quyết ở đâu?
– Này hiền giả, ở Sāvatthi, trong Suttavibhaṅga.
– Thưa Ngài, (làm việc ấy) phạm tội ǵ?
– Này hiền giả, phạm pācittiya (ưng-đối-trị) về vật cần được cắt
bỏ.
Ngài Revata tụng tuyên ngôn cho chư Tăng biết: “Điều này sai Pháp
sai Luật của Đức Thế Tôn”, rồi Ngài rút ra thẻ thứ 9 để ra riêng.
Điều 10.
Ngài Revata hỏi Ngài Sabbakāmi.
– Thưa Ngài, vàng bạc là được phép?
– Này hiền giả, không có được phép.
– Thưa Ngài, (việc ấy) được phủ quyết ở đâu?
– Này hiền giả, ở Rājagaha trong Suttavibhaṅga.
– Thưa Ngài, (làm việc ấy) phạm tội ǵ?
– Này hiền giả, phạm pācittiya (ưng đối trị) về việc thọ lănh
vàng bạc.
Ngài Revata tụng tuyên ngôn cho chư Tăng biết: “Điều này sai Pháp
sai Luật của Đức Thế Tôn”, rồi rút thẻ thứ 10 để riêng ra.
Hội đồng Giám luật lập lại vấn đáp này trước đại chúng Tỳ- khưu.
Tiếp theo 700 vị trưởng lăo A-La-Hán Lục thông tiến hành Kết tập
Phật ngôn lần II, thể thức giống như Kết tập Phật ngôn lần I. Cuộc
Kết tập Phật ngôn này kéo dài 8 tháng.
3-
Mahāsaṅghika (Đại chúng bộ) h́nh thành.
Các Tỳ- khưu nhóm Vajjiputtaka không chấp nhận quyết định của Hội
đồng Giám luật: “10 điều ấy là sai Pháp sai Luật của Đức Thế Tôn”,
và họ cũng không chịu lặng yên.
Các Tỳ- khưu nhóm Vajjiputtaka phối hợp với các Tỳ- khưu nhóm
Mahādeva (Đại thiên), tổ chức cuộc Kết tập Phật ngôn theo thể thức
của họ: “Điều nào được đa số chư Tăng chấp thuận, điều ấy là hợp
pháp, hợp Luật”.
Kinh thành Vesālī là địa bàn hoạt động của nhóm Tỳ- khưu
Vajjiputtaka nên Tăng chúng của họ hợp với các Tỳ- khưu của nhóm Đại
thiên ở Pāṭaliputta được 10 ngàn vị.
Các Tỳ- khưu nhóm Vajjiputtaka cùng các Tỳ- khưu nhóm Đại Thiên
Kết tập lại Phật ngôn và gọi cuộc Kết tập này là Ācariyavāda (lời
bậc Thánh), c̣n cuộc Kết tập Phật ngôn của 700 vị Trưởng Lăo gọi là
Theravāda (lời Trưởng Lăo).
Hai nhóm Tỳ- khưu này thành lập bộ phái mới có tên gọi là
Mahāsaṅghika (Đại Chúng Bộ), gọi chư Trưởng lăo chính thống là
Theravāda (Trưởng lăo bộ).
Phật giáo chính thức tách thành hai bộ phái từ thời điểmnày.
Trong bộ Dhammabhidacakkasutta của Ngài Vasumitra (Thế Hữu) và
quyển phụ chú giải bộ này của Kuyki (Khuy-cơ)([27]) ở Trung Hoa soạn,
có ghi: “Sự bất đồng quan điểm tri kiến trong Phật Giáo xuất phát từ
năm điều của Ngài Mahādeva (Đại thiên) chủ trương”.
Ngài Mahādeva chủ trương năm điều:
Vị A-La-Hán có thể bị ác ma khuấy phá, làm cho xuất tinh trong
lúc ngủ.
Vị A-La-Hán có thể không hiểu biết một số vấn đề, gọi là
Aññāṇārahanta (bất tri A-La-Hán).
Vị A-La-Hán c̣n hoài nghi một số vấn đề.
Vị A-La-Hán không thể tự ḿnh biết chứng quả phải nhờ người khác nói
mới biết.
Thánh quả được hiển lộ khi người ta nói “Aho dukkhaṃ! Aho dukkhaṃ” (Khổ
quá ! Khổ quá!).
* Ngài Mahādeva (Đại
Thiên).
Theo một số tư liệu th́ Tỳ- khưu Mahādeva là con một thương buôn
hương liệu ở thành phố Mathurā (Madhurā).
Tương truyền rằng: Mahādeva rất khôi ngô và thông minh.
Trong thời gian cha đi buôn, Mahādeva đă tư thông với chính mẹ
ḿnh, khi cha trở về y giết cha v́ sợ đổ bể việc bất chánh này. Để
tránh pháp luật xử phạt, hai mẹ con y đưa nhau đến Pāṭaliputta sinh
sống.
Nơi đây hai người gặp lại vị Thánh tăng đă từng được hai người hộ
độ, lại sợ Ngài tố giác tội ác, hai người lại giết luôn vị A-La-Hán
ấy.
Về sau, mẹ của Mahādeva tư thông với thanh niên khác, Mahādeva
giết luôn mẹ ḿnh.
Thấy ḿnh tạo nhiều ác nghiệp nên Mahādeva ăn năn, bỏ nhà đi xuất
gia tại chùa Kukkuṭārāma. Sau khi xuất gia, Mahādeva học hỏi Giáo
Pháp thông suốt trở thành một pháp sư danh tiếng có đông đảo đồ
chúng cùng đệ tử, y tự xưng là bậc A-La-Hán.
Để chiếm ḷng tin của đệ tử đồng thời làm tăng thêm danh lợi, y
chứng nhận người này là Thánh Hữu Học, người kia là Bậc A-La-Hán…
Một hôm trong lúc ngủ Mahādeva bị xuất tinh người đệ tử giặt y
thấy thế, thắc mắc hỏi th́ Mahādeva trả lời:
– Vị A-La-Hán vẫn có thể bị xuất tinh trong giấc ngủ do thiên ma
khuấy phá.
Có một đệ tử y xác nhận là bậc A-La-Hán, thấy ḿnh chẳng biết ǵ
hết, hỏi y, y đáp:
– Có hạng A-La-Hán bất tri (aññaṇarahanta). Người đệ tử lại hỏi:
– Thầy xác nhận con là vị A-La-Hán, nhưng sao con thấy ḿnh c̣n
hoài nghi quá nhiều vậy. Mahādeva lại tiếp tục lừa phỉnh.
– Vị A-La-Hán vẫn c̣n hoài nghi một số vấn đề.
Người học tṛ lại nghi ngờ rằng:
– Thưa thầy! Những ai ngộ đạo quả cũng đều tự biết, nhưng sao
chính con vẫn nghi ngờ về đạo quả mà thầy xác nhận con đă chứng đắc.
– Này con! Người ta không thể tự biết ḿnh chứng đắc, phải do
người khác bảo cho biết.
Thế rồi, một đêm khi cơ thể Mahādeva khó chịu v́ mỏi mệt, y buột
miệng than “Aho dukkhaṃ ! Aho dukkhaṃ” (khổ quá! khổ quá).
Một đệ tử nghe được, thắc mắc, y liền giải thích.
– Thánh đạo hiển lộ khi người ta than thở như vậy.
Năm điểm do Mahādeva đề xứơng, được đệ tử cùng đồ chúng của y
hưởng ứng. Mahādeva tŕnh bày lên chư Tăng chùa Kukkuṭārāma với mục
đích chư Tăng sẽ đồng t́nh, nhưng các vị Tỳ- khưu chánh kiến đă bác
bỏ.
Mahādeva quyết định tụng tuyên ngôn để hợp thức hóa năm điểm trên,
bằng Tăng sự Yebhuyyasikā (là đa số Tỳ- khưu chấp nhận th́ điều ấy
được xem là chính thức).
Trước khi diễn ra Tăng sự, Mahādeva cho đệ tử cùng những vị Tỳ-
khưu ủng hộ ḿnh đến dự đông đảo, các vị Tỳ- khưu chánh kiến thấy
ḿnh thiểu số biết rằng: “Sẽ bị cô lập” nên bỏ Pātaḷiputta đến xứ
khác.
Vua Kāḷāsoka nghe tin những vị hiền thiện bỏ đi, cho bắt giữ lại.
Chính vua Kāḷāsoka cũng không phân biệt phải trái v́ không thông
Phật Pháp, chư Trưởng Lăo kiên quyết ra đi v́ không thể kết hợp với
phần đông ác Tỳ- khưu.
Vua Kāḷāsoka tức giận ra lệnh d́m chết các Ngài dưới sông Gaṅgā,
các vị Trưởng Lăo thị hiện thần thông bay lên hư không, đến xứ
Kashmire trú ngụ.
Vua Kāḷāsoka biết ḿnh v́ si mê phạm đến các bậc thánh, nên cử
người đến xin sám hối và thỉnh các Ngài trở về Pāṭaliputta, các Ngài
từ chối trở về Pāṭaliputta, vua Kāḷāsoka cho kiến tạo tại Kashmire
một ngôi Tự viện để các Ngài cư ngụ.
Nhóm Tỳ- khưu Vajjiputtaka đứng trước sự phê phán nghiêm khắc của
chư Trưởng Lăo đă t́m cách thoát ra sự bế tắc v́ sợ danh lợi đă bị
tổn giảm, nên tách khỏi Theravāda trước tiên.
C-
Kết tập Phật ngôn lần III.
Vua Susūnāga dời kinh đô về kinh thành Vesālī v́ đây là cố đô của
dân xứ Vajjī, vua Susū nāga cai trị đựơc 18 năm th́ mệnh chung,
truyền ngôi cho con là vua Kāḷāsoka.
Vua Kāḷāsoka cai trị được 28 năm th́ bị sụp đổ, thay thế triều
đại Susūnāga là triều đại Nanda. Vua Nanda lại dời kinh đô về thành
Pāṭaliputta.
Triều đại Nanda tồn tại được 22 năm qua chín đời vua, vào đời vua
thứ chín là Dhanananda th́ Ấn Độ bị đại đế Alexandre (ALịchSơn) kéo
quân xâm chiếm vào năm 327 trước Tây lịch (tTL).
*Vua Nanda.
Xuất thân là một tướng cướp có tài, chiêu mộ được nhiều dũng sĩ.
Nanda tấn công vào kinh thành Vesālī, giết được vua Kāḷāsoka đoạt
ngôi.
Khi lên ngôi, y lấy vương hiệu là Nanda, triều đại này có chín vị
vua Nanda, cai trị vương quốc Magadha được 22 năm. Vị vua cuối cùng
là Dhanananda.
Sách Mahābodhivạmsa (Đại giác sử) có liệt kê 9 nhà vua Nanda như
sau: Nanda; Uggananda, Pandukananda, Bhūtapālananda, Raṭṭhapālananda,
Govisānakananda, Dasasiddhakananda, Kevattananda và Dhanananda([28]).
Vua Dhanananda bị Candagutta giết và đoạt ngôi, chấm dứt triều
đại Nanda, mở đầu cho triều đại Moriya (Khổng tước).
Đại đế Alexandre vốn là người Hy Lạp xứ Macédoin, sau khi chiếm
xong Ba Tư, đoàn quân của ông tiếp tục vượt qua đèo Hindoukouch tiến
vào Ấn Độ, cuộc chinh phục này kéo dài một năm.
Năm đầu ông xông pha các chiến trường của các tiểu quốc trù phú
vùng Tây – bắc Ấn độ (trước kia thuộc đế quốc Ba Tư).
Đầu năm 326 (tTL), ông xua quân vượt ḍng sông Indus (sông Ấn)
tiến dần xuống phía Đông-nam Ấn độ qua các xứ Taxila (Takkasilā) và
Rawalpindi.
Đoàn quân viễn chinh này gặp phải sự chống trả mănh liệt của dân
bản địa, nhưng với thiên tài quân sự, Đại đế Alexandre đều chiến
thắng những cuộc chống trả của dân bản xứ. Trận đánh nổi tiếng của
Đại Đế Alexandre là “dẹp tan đạo binh của vua Porus xứ Simha tại
Pana, trong cuộc chiến này lực lượng của Alexandre không cân xứng
với đạo quân hùng mạnh gồm 30.000 bộ binh, 4.000 kỵ binh, 200 chiến
xa và 200 thớt voi.
Quân của Alexandre đă đánh tan đạo quân này, giết chết 12.000
quân của Porus, nhưng vua Porus vẫn ngoan cường chiến đấu không chịu
đầu hàng.
Tuy bắt được vua Porus nhưng Đại đế Alexandre cảm phục sự anh
dũng của vua Porus, đồng thời thấy tướng mạo của vua Porus “oai
phong lẫm liệt”, nên hỏi:
– Này Porus, ông muốn tôi đối xử với ông ra sao?
– Này Alexandre, ông nên đối xử với tôi vào hàng quốc vương.
– Dĩ nhiên rồi, nhưng đó là việc của tôi, c̣n riêng ông có ước
muốn ǵ nữa không?
– Ồ không! Như thế tôi đă măn nguyện rồi, chẳng cần xin ông cái
ǵ khác.
Đại đế Alexandre cười khoái trá trước lời lẽ đầy khẳng khái, kiêu
hùng của vua Porus, nên cho vua Porus cai quản vùng đất Ấn Độ mà
Alexandre chiếm được, tuy nhiên vua Porus phải thần phục xứ
Macédoine.
Sau trận thắng này, vua Alexandre lại muốn tiến chiếm xứ Magadha,
nhưng binh sĩ của ông đă ngă ḷng v́ xa quê hương quá lâu, mọi biện
pháp đều bất lực trước sự “nhớ quê” của tướng sĩ, vua Alexandre đành
nhượng bộ, kéo quân trở về dọc theo sông Hydaspe rồi đến bờ biển
phía Tây Ấn độ.
Nơi đây ông chia quân làm hai đạo rút về Macédoine, Alexandre
theo đường biển trở về với đạo quân nhỏ hộ vệ, c̣n đại quân kia theo
đường bộ ngược lên Gédroise và Béloutchistan trở về Macédoine.
Trên đường trở về, đạo quân này bị các bộ tộc bất qui phục chận
đánh, gần như ngày nào cũng phải chiến đấu, sau 20 tháng mới trở về
tới Suse.
Đạo quân hùng mạnh ba năm trước tiến vào Ấn Độ, nay trở thành xơ
xác thiểu năo. Đại đế Alexandre về đến Babilon và chết ở đó vào lúc
33 tuổi.
Lúc giặc ngoại xâm xem như tạm ổn th́ triều đại Nanda lại bị
Candagutta (Chandragupta) lật đổ, thành lập vương triều Moriya (Khổng
tước).
Candagutta là một vị tử hoàng (giai cấp Khattiya – Sát-Đế-Lỵ)
ḍng Nanda. Nhưng vị vương tử này bị vua Dhanananda trục xuất ra
khỏi xứ Magadha, v́ mẹ ông thuộc ḍng hạ lưu, làm nghề nuôi chim
công.
Nên sau khi lên ngôi Candagutta gọi ḍng dơi ḿnh là Moriya (Khổng
tước).
Một thuyết khác nói rằng: “Candagutta là một thủ lănh xứ Moriya,
sở dĩ xứ này có tên gọi như vậy v́ sở trường nuôi và huấn luyện chim
công”.
Lại có thuyết cho rằng: “Candagutta thuộc ḍng Sākya (Thích –
Ca), khi ḍng Thích – Ca bị thảm sát, một số người chạy vào núi sâu
sinh sống và lập quốc nơi đó.
V́ ngọn núi mà họ cư ngụ có nhiều chim công, nên lấy tên nước là
Moriya (Khổng tước), Candagutta cùng đoàn quân của ḿnh chính là
những người thuộc ḍng dơi đó.
Thuyết này xét ra không hợp lư lắm, v́ khi công phân Xálợi Phật
đă có xứ Moriya đến trể, nên nhận lấy tro than nơi hỏa đài, mang về
xứ lập tháp thờ.
Sự lập quốc nhanh lắm cũng phải vài ba năm, huống chi ḍng Thích
– Ca bị thảm sát trước khi ĐứcPhật viên tịch khoảng 2 – 3 tháng.
Nhưng cho dù thuyết nào chăng nữa, xét ra Candagutta cũng có liên
hệ ít nhiều đến xứ Moriya (dù là bộ tộc hay là mẹ), đồng thời cũng
là giai cấp Khattiya.
Candagutta được thầy ḿnh là Bà-la-môn Cāṇakka giúp đỡ khi đang
làm quan tại xứ Magadha.
Bà-la-môn Cāṇakka (c̣n gọi là Kautilya) là một người túc trí đa
mưu, vừa là thầy, vừa là bạn, vừa là vị cố vấn đă giúp Candagutta tổ
chức một đạo quân bên ngoài xứ Magadha. Bà-la-môn Cāṇakka cho những
người thân tín đào một đường hầm dẫn đến kho tàng của hoàng cung, từ
đó mang kho tàng ra ngoài mà vua Dhanananda không hề biết, dùng số
tài sản này chiêu mộ quân. Mặt khác, ông cho người bắt cóc vương tử
Pabbata con vua Dhanananda khi c̣n nhỏ, mang về cho Candagutta nuôi
dưỡng. Nhưng Candagutta thấy Pabbata hèn yếu nên lập mưu giết chết
khi Pabbata đang ngủ([29]).
Sau khi dẹp tan các lănh chúa ở lại để cai trị vùng đất Ấn chiếm
được của Đại Đế Alexandre, Candagutta tuyên bố “Ấn Độ được độc lập”.
Bà-la-môn Kautilya khuyên Candagutta tiến về Pāṭaliputta (nay là
Patna) lật đổ vương triều Nanda, thành lập Vương triều Moriya hùng
mạnh nhất thời đó.
Theo các nhà sử gia Âu Châu: Bà la môn Kautilya (Cāṇakka) là một
chính trị gia đại tài, ông đă đem hết tài trí của ḿnh giúp Ấn Độ có
được một thời kỳ vàng son mà ngay cả Akhar, vị minh quân đệ nhất của
Mông Cổ cũng không thể sánh bằng.
Chính quyền Moriya chỉ có một nhược điểm là “chuyên chế”, dùng
sức mạnh để trị, nên tổ chức một đội quân do thám rất lớn.
Vua Candagutta tŕ v́ được 24 năm, nhà vua phần lớn ở trong cung
điện, đôi khi mới ra ngoài thành tiếp xúc với dân chúng, vua
Candagutta rất sợ bị ám sát (do sự chuyên chế của ông), đêm nào ông
cũng thay đổi pḥng ngủ, lúc nào cũng có vệ binh ở xung quanh.
Vua Candagutta lên ngôi cai trị xứ Magadha vào năm 222PL (khoảng
312 tTL). Khi ấy xứ Magadha có lắm thành phần đối lập trong nước
thường hay xảy ra nội chiến nên “sức mạnh và chuyên chế” là hai vũ
khí hữu hiệu để đối phó với t́nh trạng này.
Khi c̣n hàn vi, Candagutta thường t́m hiểu về cuộc đời các vị
giáo chủ. Ông sùng mộ nhất là Mahāvīra (Đại Hùng) là vị giáo tổ của
phái Nigantha (sau này là Kỳ Na Giáo).
Candagutta làm vua được 24 năm, bấy giờ trong nước phát sinh nạn
đói kéo dài quá lâu làm cho đất nước điêu tàn, Candagutta thất vọng
v́ thấy ḿnh bất lực, không cứu được dân chúng thoát khỏi tai ương,
nên thoái vị xuất gia làm đạo sĩ sống đời khổ hạnh theo phái
Nigantha. Mười hai năm sau ông khổ hạnh bằng cách nhịn đói và đă
mệnh chung.
Con trưởng của Candagutta là Thái tử Sihalena, lẽ ra vị này nối
ngôi theo ư định của Candagutta nhưng triều thần lại mến mộ vương tử
Biṇḍusāra em trai của Sihalena hơn, nên đă tôn vị này lên ngôi.
Trước khi lên ngôi, vương tử Bindusāra phải tỏ ra can đảm giết chết
dạxoa Devagabbha; khi vua Candagutta lâm chung, dạxoa Devagabbha
nhập vào xác vua Candagutta, giả như vua c̣n sống. Vương tử
Bindusāra theo thường lệ đến hầu cha, nhân lúc dạxoa vô ư, dùng gươm
chém phăng đầu dạxoa([30]).
* Vua Bindusāra.
Vua Candagutta cưới người em gái chú bác của ḿnh là Chánh hậu.
Khi bà có mang hài tử thứ hai, gần đến ngày sinh, một hôm bà cùng
vua Candagutta dùng vật thực, thông thường những vật thực để vua
dùng được đặt riêng, vua Candagutta ban cho bà loại vật thực dành
cho đức vua, bà ăn vào bị trúng độc, v́ Bà-la-môn Cāṇakka lén bỏ độc
dược vào với ư tốt là: “Để cơ thể Đức vua quen với độc chất, khi bị
hạ độc sẽ không bị hại”. Bà-la-môn Cāṇakka vừa đi đến, thấy hiện
tượng trúng độc của Chánh hậu, Bà-la-môn Cāṇakka rút gươm chém đứt
đầu Chánh hậu để thuốc độc không kịp xuống bao tử, để cứu thai nhi.
Ông mổ bụng Chánh hậu lấy thai bào ra, rồi mổ bụng một con cừu đặt
thai bào vào trong đó, v́ thai bào chưa đủ tháng. Mỗi ngày thay một
con cừu, bảy ngày sau hài nhi đủ tháng để sống, nhưng thân của hài
tử nổi lên những chấm đỏ như máu, nên hài tử được đặt tên là
Biṇḍusāra (lơi có dấu, chữ bindu là dấu hiệu)([31]).
Theo bộ Mahāvaṃsa, vua Biṇḍusāra là người sùng bái Bà-la-môn giáo,
mỗi ngày ông cho thỉnh 60 ngàn vị tu sĩ Bà-la-môn thuộc nhiều chi
phái khác nhau vào hoàng cung để cúng dường([32]). Vua Bimdusāra cai
trị vương quốc được 28 năm, có 101 người con trai, con trưởng là
Thái tử Sumana, khi lên ngôn vua Asoka đă giết hết 99 vương tử (kẻ
cả Thái tử Sumana) chỉ chừa lại vương tử Tissa.
Chánh hậu của vua Bindusāra là bà Dhammā thuộc tộc Moriya, sinh
hai người con trai là vương tử Asoka và vương tử Tissa([33]).
Mặc dù vua Candagutta và Biṇḍusāra là những tín đồ ngoại đạo
nhưng trong thời gian hai vị vua này trị v́, Phật giáo vẫn phát
triển b́nh thường, các bộ phái Phật Giáo vẫn được truyền bá rộng răi
khắp xứ Ấn như: Theravāda thịnh hành ở Avanti, Mahāsaṇghika (Đại
chúng bộ) th́ thịnh hành ở Gandhāra (Bắc Ấn), Sarvastivāda (Hữu Bộ)
ở Mathurā, Mahisāsaka (Hóa Địa Bộ) thịnh hành ở Mahisamaṇḍala…
* Mẹ vua Asoka (Adục).
Mẹ vua Asoka là cô gái ḍng Bà-la-môn ở xứ Moriya, khi mới sinh
ra có thầy tướng số Bà-la-môn tiên đoán rằng: “Cô bé này ngày sau sẽ
là bậc vương giả, con của cô sẽ là một vị đại đế”, cô bé được đặt
tên là Dhammā.
Càng lớn lên cô càng xinh đẹp, nhớ lời tiên đoán năm xưa của vị
Bà-la-môn, cha nàng dâng nàng vào cung để hầu hạ vua Biṇḍusāra.
Các cung phi khác ganh tỵ với nhan sắc của nàng, đồng thời sợ
nàng được vua Biṇḍusāra sủng ái nên t́m cách cách ly nàng với Đức
vua, nàng cố gắng t́m mọi cách để tự giới thiệu ḿnh với Đức vua
nhưng chưa có cơ hội.
Một hôm nàng nữ nô chuyên việc cắt tỉa tóc râu cho Đức vua qua
đời, nàng xin được thay thế công việc này.
Ấn Độ thời bấy giờ cho rằng: “Đây là công việc của ḍng Caṇḍala (ḍng
nô lệ), nên các cung phi đồng ư.
Có lần, khi vua tỉnh giấc nh́n vào gương thấy râu tóc của ḿnh
được cắt tỉa rất khéo, cho đ̣i nàng nữ hầu lo việc cắt tỉa râu tóc
của Ngài đến để ban thưởng. Nàng chỉ xin cho nàng được chung chăn
gối với Đức vua.
Ngỡ nàng là ḍng hạ tiện nên Đức vua từ chối, nàng tŕnh bày ḍng
họ ḿnh, đồng thời nói lên lư do ḿnh chọn phương cách này.
Nghe vậy, Đức vua cho người tra xét và khi biết nàng thuộc ḍng
Bà-la-môn nên Đức vua đồng ư, sau đó đă lập nàng lên làm Hoàng Hậu.
Chẳng bao lâu bà sinh ra một Hoàng nam, đặt tên là Asoka (vô ưu),
về sau lại hạ sinh một Ḥang nam nữa có tên là Vitasoka (Tận ưu).
Hoàng tử Asoka càng lớn càng xấu tướng, có nước da đen, nhám, sần
sùi, nên c̣n có tên là Kāḷāsoka (Hắc Vô ưu).
Một lần nọ, Đức vua Bindusāra cho mời các thầy tướng số Bà-la-môn
đến xem tướng cho các vị tử hoàng, chọn người tài đức để nối ngôi
vua sau này.
Các chiêm tướng gia yêu cầu đức vua cho triệu tập các vị tử hoàng
đến vườn Ngự Uyển để xem tướng.
Các tử hoàng khác được vua Biṇḍusāra cưng ch́u nên ăn mặc lộng
lẫy, đưa rước bằng Long xa, mang theo những vật thực của hàng vua
chúa dùng.
Riêng tử hoàng Asoka v́ xấu xí nên không được vua cha yêu chuộng,
y phục là lọai b́nh thường, chỉ mang theo cơm trắng nước trong cùng
bát đĩa bằng đất, lại phải đi bộ v́ chẳng có chi là vật đỡ chân.
May thay, trên đường đến vườn Ngự Uyển, Hoàng tử Asoka gặp công
tử Rādhagupta đang cưỡi con voi già đi dạo cảnh. Hoàng tử liền mượn
con voi để cưỡi đi đến vườn Ngự Uyển (công tử Rādhagupta là đứa bé
tên Vijaya ở kiếp quá khứ, sau này là vị đại thần của vua Asoka)
Các chiêm tướng gia sau khi quan sát tướng mạo của các vị tử
hoàng, biết Hoàng tử Asoka sẽ là vị Đại Đế, nhưng e ngại tính mạng
của Asoka nên tiên đoán bằng ẩn ngữ rằng:
“Tâu Đại Vương! Trong số các tử hoàng đây, vị nào dùng đồ vật quư
giá, sẽ là người kế vị sau này”.
Các ông hoàng khác đều tỏ vẻ vui mừng v́ thầm nghĩ: “đồ vật mà ta
dùng đều là vật sang cả”, riêng Hoàng tử Asoka cũng suy nghĩ:
“Có lẽ những vị tướng số gia này ám chỉ ta, v́ vật ta cưỡi là voi,
biểu tượng của vương quyền, đĩa bát ta dùng bằng đất mà đất là nơi
nâng đỡ của muôn loài, cơm sữa là món ăn cần thiết cho đại đa số,
nước trong là loại nước tinh khiết nhất.
Thuở ấy, trong nước các chư hầu thường nổi loạn, Đức vua
Bindusāra thường sai Hoàng tử Asoka đem quân chinh phục, nhưng chỉ
cấp cho số lượng ít ỏi cùng với quân dụng thiếu thốn. Tuy nhiên, với
tài trí của ḿnh Asoka luôn chiến thắng.
* Du sĩ Janasoṇa.
Tương truyền: Vào thời Đức Phật Kassapa có một con rắn nhỏ trú ở
bệ một giảng đường, nó thường nghe chư Tăng tŕ tụng tạng Abhidhamma
(có lẽ là bộ Thập Nhị Duyên Sinh) nó nhớ được chữ Āyatana (xứ) và
làm tăng trưởng tâm thiện của ḿnh bằng những h́nh ảnh và âm thanh
đó.
Có lần đi kiếm ăn nó bị con diều hâu bắt được, trong lúc sắp mệnh
chung nó nhớ được từ Āyatana, nên sinh về cơi chư thiên hưởng lạc
thú chư thiên trong một thời gian dài.
Sau khi Đức Phật hiện tại viên tịch hơn 100 năm, vị Thiên Tử ấy
giáng hạ vào ḍng Bàlàmôn ở Pāṭaliputta.
Lớn lên chàng trai này bỏ nhà, xuất gia theo một giáo phái lơa
thể Bà-la-môn có tên là du sĩ Janasoṇa, du sĩ Janasoṇa được bà Hoàng
Dhammā hộ độ.
Khi bà Hoàng Dhammā mang thai (là vua Asoka sau này), bà có những
sự thèm muốn kỳ lạ:
– Thèm một chân dẫm lên mặt trời, một chân dẫm lên mặt trăng.
– Muốn nuốt mây, tinh tú, rừng rậm và trùn đất vào bụng.
Sự thèm muốn chưa được giải tỏa nên bà trở nên xanh xao, vàng vọt,
khi vua Bindusāra gặn hỏi, bà tường tŕnh những ước muốn kỳ quặc của
ḿnh.
Vua Bindusāra cười thích chí rằng:
– Ồ! Ngỡ chuyện ǵ lớn lao, chứ việc này có ǵ khó khăn đâu, Ta
sẽ làm Hậu thỏa măn.
Bán tính, bán nghi Hoàng hậu Dhammā hỏi:
– Thưa Đại vương! Có thật được như vậy không?
– Này Hậu! Hăy nán đợi.
Vốn là người giàu sáng kiến “lạ đời”, vua Biṇḍusāra cho căng màn
trước sân chầu, tạo ra một khung quang bầu trời, làm hai cái bánh
một lớn một nhỏ, đặt lưng lửng không cao quá cũng không thấp quá,
tượng trưng cho mặt trời – mặt trăng đang chiếu giữa không trung.
Bầu trời lấp lánh các “v́ sao” là những miếng thịt có h́nh các v́
tinh tú dính vào “màn bầu trời”, cắt thịt thành những vẩy nhỏ kết
lại làm thành những “cụm mây” lơ lửng giữa bầu trời, ở gốc sân đền
là những miếng thịt được cắt ra tạo thành rừng, những cây “thịt” này
lớn nhỏ, cao thấp không đều.
Sân đền được rửa sạch, căng trên đó là chiếc chiếu lủng, bên dưới
là những miếng thịt tạo thành những con trùn.
Mọi việc xong xuôi, Đức vua bảo Hoàng hậu đứng trên hai chiếc
bánh, tay ngắt các “v́ sao”, bẻ các “cụm mây” mà ăn, sau đó đi đến
khu rừng “nuốt gọn cả khu rừng” vào bụng, rồi moi đất “t́m lấy trùn”
mà ăn … Hoàng hậu y lời và cơn thèm muốn “lạ đời” cũng không c̣n.
Sau đó, Đức vua có hỏi du sĩ Janasoṇa về sự thèm muốn lạ đời của
Hoàng hậu, du sĩ đáp: “Đây là điềm báo vị Tử hoàng này sẽ là bậc đại
phú gia”.
Du sĩ Janasoṇa chỉ nói bấy nhiêu với đức vua, nhưng khi gặp Hoàng
hậu Dhammā, ông nói:
– Hoàng hậu chân đạp nhật – nguyệt. Là điềm báo hài tử này sẽ
thống trị toàn cơi Diêmphù (Jambūdīpa – chỉ cho Ấn Độ).
– Ăn tinh tú và mây. Chỉ cho vị này sẽ giết anh em của ḿnh.
– Ăn rừng và trùn. Chỉ cho uy lực của vị này có ảnh hưởng trên
không trung một do-tuần, dưới đất một do-tuần.
Nhưng Hoàng Hậu chớ nên tiết lộ những lời này, e hài tử sẽ gặp
tai hại.
Rồi du sĩ Janasoṇa từ giă hoàng cung đến xứ khác trú ngụ, cách
Pāṭaliputta cả trăm do-tuần.
Về sau, khi vua Asoka lên ngôi, nghe mẹ thuật lại việc này, đức
vua hoan hỷ cho người mời du sĩ về triều để hộ độ.
Trên đường về hoàng cung, du sĩ Janasoṇa đi ngang qua trú xứ của
vị Trưởng lăo Assagutta (Phục Mă), thấy cảnh tịch tịnh du sĩ suy
nghĩ: “Đây mới là chỗ ở của bậc xuất gia”.
Du sĩ Janasoṇa xuống kiệu đi lần vào khu rừng an tịnh, bỗng du sĩ
thấy quanh liêu thất của Trưởng lăo đủ loại thú rừng: cọp, beo, hưu,
hoẵng… đi thành đàn như đàn gia xúc lẩn quẩn khắp nơi.
Lấy làm lạ, khi gặp Trưởng lăo Assagutta ngồi trong liêu thất,
ông hỏi trưởng lăo rằng:
– Thưa Ngài! Đây là nơi nào vậy?
Vị Trưởng lăo là bậc A-La-Hán, đưa trí quán thấy tiền duyên của
du sĩ nên đáp:
– Này du sĩ! Đây là xứ (āyatana) chứ ǵ mà hỏi.
Trong thời c̣n là con rắn, danh từ này quá quen thuộc khi nghe
chư Tăng tụng Abhidhamma, giờ nghe lại du sĩ Janasoṇa dường như vừa
tỉnh mộng, trí nhớ như trổi dậy, đột nhiên vị ấy hổ thẹn với hạnh
lơa thể của ḿnh, vội ngồi xuống. Vị Trưởng lăo cho du sĩ Janasoṇa
một y choàng và Janasoṇa xin xuất gia với Ngài Assagutta, chẳng bao
lâu vị ấy thành tựu quả A-La-Hán.
* Vua Asoka (Adục).
Vua Asoka là một đại hộ pháp (Mahādhammapāla) của Phật giáo,
chính nhờ những nỗ lực của ông mà Phật giáo trải rộng trên xứ Ấn lẫn
ngoài xứ Ấn.
Sở dĩ vua A Dục có màu da đen lại sần sùi xấu xí là do tiền
nghiệp của ông trước kia.
Tương truyền. Có lần Đức Thế Tôn cùng Tăng chúng đi khất thực
trong thành Rājagaha, đến cổng thành có hai đứa trẻ đang chơi tṛ
chơi “xây dựng thành phố” bằng cách đấp cát.
Trẻ Jaya thuộc gia đ́nh trâm anh thế gia, nh́n thấy Đức Thế Tôn
phát tâm tịnh tín với Đức Thế Tôn, nó lấy lương thực (bằng cát)
trong kho lương thực của chúng, nắn thành cái bánh cát, đem đến dâng
lên Đức Phật với tâm hoan hỷ. Khi dâng cúng trẻ Jaya thầm ước nguyện
rằng : “Với phước này, xin cho con gồm thâu thiên hạ”.
Đức Phật nhận bánh cát, bảo Ngài Ānanda răi cát phía trước đường
đi của Ngài và Tăng chúng, rồi dạy rằng: “Đứa bé ấy sau này sẽ là
người hộ tŕ Giáo Pháp của Như Lai”.
C̣n trẻ Vijaya nh́n thấy việc làm của bạn, cũng mỉm cười hoan hỷ,
chấp tay đảnh lễ Đức Thế Tôn.
Trẻ Jaya sau này chính là vua Asoka, c̣n trẻ Vijaya sau này là vị
đại thần Rādhagupta của vua Asoka. Do quả dâng bánh bằng cát nên
Asoka có màu da đen và sần sùi, nhưng lại là người có đại oai lực v́
dâng bánh cát với tâm tịnh tín và hoan hỷ.
V́ dung sắc xấu xí nên vua Bindusāra không ưa chuộng Asoka bằng
các vị Hoàng tử khác, đồng thời các anh chị của ông tỏ ra khinh miệt
ông vào thời thơ ấu. Sự khinh khi của các ông Hoàng bà Chúa đă h́nh
thành sự oán hận trong tâm vị Tử hoàng xấu xí, sau khi chiếm ngôi từ
ông Hoàng Susima (con cả của vua Bindusāra), Asoka tàn sát những ai
khinh thường ông khi trước, ngoại trừ người em cùng mẹ là ông Hoàng
Vitasoka Tissa.
Tánh t́nh ông rất hung bạo nhưng rất đàng hoàng “giống như vua
Candagutta”, do đó ông c̣n có tên là Caṇḍāsoka (Bạo vương Adục).
Khi Asoka trưởng thành, vua Biṇḍusāra cảm thấy e ngại trước sự
dũng mănh, thông minh kỳ diệu cùng uy lực của vị tử Hoàng “xấu trai”
này, nên đưa ông đi xa, bằng cách cho ông cai quản kinh đô Ujjenī
của xứ Avanti.
Vua Bindusāra rất hài ḷng ông Hoàng Susima (theo Mahāvaṃsa, ông
Hoàng này có tên là Sumana), định truyền ngôi cho Susima, nhưng
triều thần không hài ḷng v́ ông hoàng Susima rất hung bạo, họ âm
thầm chờ dịp để tôn ông Hoàng Asoka lên ngôi.
Có lần xứ Takkasilā có loạn, vua Bindusāra sai Susima đem lực
lượng hùng hậu đi dẹp loạn, bất ngờ bị thất trận. Nghe tin thất trận
của Susima vua Bindusāra lo lắng sinh trọng bịnh, vua Biṇḍusāra sai
Asoka đi dẹp loạn thay cho Susima, để ông Hoàng Susima trở về kinh
thành Pāṭaliputta, nhân đó khi vua Bindusāra mệnh chung sẽ làm lễ
Tôn vương cho ông Hoàng Susima, trong khi ông Hoàng Asoka ở xa.
Theo sự hiến kế của các vị Đại thần ở Ujjenī, Asoka “cáo bịnh”
không đi dẹp loạn để chờ đợi vua Bindusāra mệnh chung, đồng thời ông
Hoàng Asoka bỏ kinh thành Ujjenī, kéo đoàn quân về Pupphapura gần
kinh thành Pāṭaliputta.
Thấy bịnh t́nh vua Bindusāra ngày càng trầm trọng, các Đại thần
tâu với vua Biṇḍusāra rằng:
Tâu Đại vương, hiện giờ Ngài đang lâm trọng bịnh, không ai trông
nom việc triều chính, tạm thời Đại vương hăy giao cho Thái tử Asoka
trông coi, khi Thái tử Susima trở về sẽ giao lại.
Nhưng vua Bindusāra không đồng ư, triều thần vẫn sắp đặt cho Asoka
tức vị, nghe tin này vua Biṇdusāra tức giận ói máu mà chết.
Thái tử Susima kéo quân về tranh ngôi vua, đă rơi vào kế của
Asoka như sau:
Ở ba cổng thành Bắc, Tây, Nam vua Asoka cho ba vị Đại tướng trấn
giữ, ở cổng thành Đông, ông cho làm một h́nh tượng giống như ḿnh
đang cưỡi trên con voi trắng, cho đào hào sâu rộng ở phía trước, bên
dưới là lửa cháy đỏ rực, bên trên ngụy trang bằng lớp cỏ mỏng.
Ông Hoàng Susima nóng ḷng lại thấp trí, xua quân ồ ạt tấn công
Asoka, nên rơi vào bẫy mà thiệt mạng.
Chiếm được vương quyền, vua Asoka t́m cách giết hết những ai
khinh thường ḿnh, đầu tiên là những ông Hoàng trong thành
Pāṭaliputta, tiếp theo là những vị Đại thần coi thường ông, để “rửa
nhục thời thơ ấu”.
Sau đó, Asoka cho quân tiến đánh tất cả những thủ phủ trong vương
quốc do anh em của ông cai quản, lần lượt tất cả đều trả giá cho sự
khinh miệt “tên da đen xấu xí” thời xưa.
Sau bốn năm b́nh định xong lănh thổ, Asoka chính thức lên ngôi (vào
năm 273 tTl), kinh đô đặt tại Pāṭaliputta.
Ban đầu, vua Asoka theo gương cha cho mời 60 ngàn tu sĩ Bà-la-môn
vào hoàng cung thọ thực mỗi ngày, nhưng về sau đức vua thấy những
Bà-la-môn này thiếu tự chế khi được phân phát vật thực, nên phán
rằng: “Từ nay Ta sẽ bố thí theo sự lựa chọn của Ta”.
Đức vua khôn ngoan, cho tất cả các Bà-la-môn của mọi trường phái
hội lại với nhau để tranh luận, trường phái nào bị luận bại phải ra
đi. Ba năm sau, các Bà-la-môn không c̣n đến hoàng cung thọ thực nữa.
Lúc mới lên ngôi, vua Asoka rất hung ác, theo kư sự của Ngài
Huyền Trang chép rằng: “Dân Ấn vẫn c̣n nhớ khám đường có tên “địa
ngục Bồng Lai”, được vua Asoka cho xây dựng ở phía Bắc Kinh đô, dân
thời ấy gọi là địa ngục Asoka”.
Vua Asoka dùng đủ thứ cực h́nh có thể tưởng tượng ra để tra tấn
tội nhân, nhà vua c̣n ra lịnh “ai lọt vào nơi đây th́ phải chết
không thể c̣n sống mà đi ra”.
Đức vua cho t́m một người cực ác để cai quản địa ngục Asoka,
người ta t́m được gă Girika, tên này thường ngày chửi cha mắng mẹ,
không từ một việc ác nào mà không làm.
Khi nghe Đức vua cho giữ chức quản ngục, y vô cùng sung sướng,
cha mẹ hắn không bằng ḷng, hắn liền giết cả cha mẹ rồi đi nhận chức.
Một ngày kia có vị Tỳkhưu trẻ tên là Samudda lớ ngớ đi lọt vào
“địa ngục Bồng Lai”, bị gă quản ngục toan dùng h́nh phạt để sát hại,
Ngài Samudda xin hoăn lại 7 ngày, trong 7 ngày c̣n lại Ngài tinh tấn
hành pháp, chứng đắc quả vị A-La-Hán.
Vào ngày hành h́nh, gă quản ngục ném Ngài vào chảo dầu sôi sùng
sục nhưng Ngài vẫn b́nh an, chảo dầu trở nên lạnh tanh dù lửa hừng
hực bên dưới, gă quản ngục báo lại cho vua Asoka hay. Ngạc nhiên vua
A Dục vào tận “địa ngục Bồng Lai” để xem xét.
Khi ấy, vị thánh Tăng dùng thần lực ngồi giữa hư không, nhà vua
kinh sợ nghĩ rằng :” Duyên cớ nào mà vị này cũng là người, lại có
được năng lực như thế?”.
Đức vua chấp tay đảnh lễ vị Thánh Tăng, hỏi rằng:
– Bạch Ngài ! Xin Ngài hăy giải thích cho tôi rơ những điều kỳ
diệu này?
Trưởng lăo Samudda nhân đó thuyết giảng Phật pháp cảm hóa được
Đức vua.
Rồi vị Thánh Tăng biến mất, Đức vua ra lịnh phá bỏ “địa ngục Bồng
lai”, rồi toan trở về hoàng cung, gă cai ngục liền ngăn cản rằng:
“Đại vương đă ra lịnh, ai vào đây th́ phải chết, không được c̣n sống
mà đi ra. Vậy Đại vương cũng phải chết tại nơi này.”
Trí thông minh linh hoạt của đức vua Asoka chợt nảy sinh.
– Nhưng Ta và ngươi, ai là người vào đây trước?
– Thưa Đại vương, là con.
– Vậy hăy hành h́nh ngươi trước.
Đức vua ra lịnh ném gă quản ngục vào chảo dầu sôi, sau đó cho phá
tan “địa ngục Bồng Lai”.
Người ta nói rằng: khi về hoàng cung, đức vua Asoka thay đổi hẳn
tính t́nh, do nghe được lời “giảng Phật Pháp” của Ngài Samudda.
Đức vua cho cải tổ lại luật lệ nhân đạo hơn, rồi xin quy y Tam
Bảo, khoác y vàng trong một thời gian để sám hối tội lỗi đă tạo,
đúng vào lúc đó tin thắng trận từ Kaliṅga gởi về, khác với những lần
trước thay v́ vui mừng mở tiệc khao quân, đức vua than rằng:
– Cũng v́ cảnh chém giết tàn nhẫn này mà biết bao nhiêu người đau
khổ v́ mất mát người thân.
Trận chiến Kaliṅga được xem là trận chiến thảm khốc nhất trong
thời vua Asoka; dân xứ Kaliṅga rất ngoan cường chống lại đạo quân
xâm lược của vua Asoka, trận chiến tàn rồi có đến hàng vạn người
chết, hàng vạn người bị bắt làm tù binh.
Đức vua Asoka ra lịnh phóng thích toàn bộ tù nhân Kaliṅga, trả
lại đất chiếm được, đồng thời viết thư xin lỗi người dân xứ Kaliṅga.
Tuy không nhận biết rơ: “bao nhiêu là sự thật, bao nhiêu là hư
cấu”, nhưng rơ ràng lịch sử đă xác nhận: “từ một hung vương (caṇḍarāja),
sau khi hấp thụ giáo lư của Đức Phật, vua Asoka trở thành một đấng
minh quân”, để rồi sau này tập sử thi “Trường ca Kaliṅga” có những
câu thơ tán tụng công đức của vua Asoka như:
Ai ngày xưa du hóa
Ai ngày sau hành hương
Thấy chăng trong bóng
hoằng dương
Bóng người hộ pháp
lồng khuôn Phật Đà([34]).
Theo Mahāvaṃsa (Đại sử) người cảm hóa vua Asoka là sadi Nigrodha([35]).
Có lần Ngài Nigrodha trên đường về nhà thăm mẹ, rồi trở vào thành
theo cổng phía Nam, con đường này dẫn ngang qua Hoàng cung.
Khi ấy Đức vua đang đứng trên lầu, bên cửa sổ nh́n xuống trông
thấy vị sadi, trong tâm chợt phát sanh niềm thương mến dào dạt, cho
người mời vị sadi đến trước mặt ḿnh, khi nh́n thấy rơ diện mạo xinh
đẹp cùng phong thái trang nghiêm thanh tịnh của sadi, Đức vua càng
nảy sinh một t́nh thương đặc biệt đối với sadi.
– Này vị Sa môn, hăy ngồi vào ngôi vị của ḿnh đi.
Không thấy có vị Tỳ- khưu nào, nên Ngài Nigrodha bước lên chỗ
ngồi cao nhất, không ngờ đó là ngai vàng của Đức vua có che lọng
trắng ở trên. Đức vua suy nghĩ: “Hôm nay vị Sa môn này là chủ ở đây”.
Khi Ngài Nigrodha ngồi yên trên ngai vàng, Đức vua cúng dường đến
Ngài những vật thực thượng vị dành riêng cho Đức vua, sau khi sadi
dùng vật thực xong, Đức vua ngồi xuống một bên hỏi đạo, Ngài
Nigrodha thuyết giảng Pháp thoại về phẩm Bất phóng dật (appamādavagga)
trong kinh Pháp Cú đến Đức vua.
Vô cùng hoan hỷ với Ngài Nigrodha, khi hỏi ra Đức vua mới biết:
“Đây là cháu của ḿnh, con của ông Hoàng Sumana”.
Đức vua nói rằng :
– Này Samôn thân yêu! Mỗi ngày ta sẽ ban cho người tám phần vật
thực.
– Những vật thực này tôi sẽ dâng cho thầy Tế độ của tôi.
– Vậy ta sẽ ban thêm tám phần vật thực nữa.
– Những vật thực này tôi sẽ dâng cho thầy Giáo thọ của tôi.
– Ta sẽ ban thêm tám phần vật thực nữa.
– Tôi sẽ dâng đến chư Tăng.
– Ta sẽ ban thêm tám phần vật thực nữa.
Sadi Nigrodha im lặng nhận lời, ngày hôm sau sadi Nigrodha cùng
với chư tăng (gồm 31 vị Tỳ- khưu với sadi là 32) đến Hoàng cung thọ
thực.
Sau đó, vua Asoka xin được thọ Tam quy cùng năm giới, chính thức
trở thành vị cận sự nam đại hộ pháp của Phật giáo
Từ đó trở đi, mỗi ngày Đức vua Asoka dâng cho Ngài Nigrodha ba bộ
tam y. Vào buổi sáng, trước khi dùng điểm tâm, Đức vua hỏi:
– Có dâng Tam Y đến Ngài Nigrodha chưa?
Nếu nghe trả lời “chưa” Đức vua ra lệnh người hầu mang Tam y đến
cho Ngài Nigrodha, khi nào nghe báo “đă dâng y đến Ngài Nigrodha rồi”,
đức vua mới dùng vật thực, buổi trưa, buổi chiều cũng y như thế.
Ngài Nigrodha mang Tam Y cúng dường đến chư Tăng.
Người ta nói rằng: “Chư Tăng trong cơi Diêm Phù khi ấy đă mặc y
của Ngài Nigrodha cúng dường”.
Đây là quả “cộng hưởng phước” khi c̣n là người bán mật ong của
Ngài Nigrodha khi trước.
* Tiền nghiệp của vua
Asoka.
Trong thời quá khứ có ba anh em, hai người em đi lấy mật, người
anh bán mật tại một cửa hàng.
Có vị Độc Giác Phật bị bệnh lở loét cần mật dùng làm thuốc trị
bệnh và vị Độc Giác Phật bạn đi t́m mật cho vị kia.
Khi đi đến thành phố thường ngày khất thực, trên đường đi Ngài
gặp một thiếu nữ đi đến bờ sông lấy nước, Ngài hỏi rằng:
– Này cô, tôi đang cần dùng mật ong, nơi nào có mật ong.
– Thưa Ngài, nơi kia là tiệm bán mật ong, Ngài hăy đi đến đó đi.
Rồi nàng duỗi tay ra chỉ đường đến cửa hàng bán mật ong, Ngài
theo lối chỉ của thiếu nữ, đến cửa hàng bán mật, ôm bát đứng đợi.
Người chủ bán mật ong phát tâm tịnh tín nơi Ngài, cúng dường đầy
bát mật ong, sau đó y phát nguyện rằng: “Do phước báu này, xin cho
tôi sẽ là vị Đại đế thống trị cơi Diêmphù này (Jambūdīpa) mệnh lệnh
của tôi có hiệu lực trên không một do-tuần, dưới đất một do-tuần.
Đức Độc Giác chúc phúc rằng: “Icchitaṃ paṭṭhitaṃ tuyhaṃ
khippameva samijjhātu: Mong ước nguyện chân chánh của người hăy
thành tựu như vậy” rồi Ngài quay ra trở về núi.
Nói về cô gái sau khi chỉ đường cho vị Độc Giác xong, nàng tiếp
tục đi lấy nước, nàng suy nghĩ rằng: “nếu người bán mật ong không
cúng dường cho Ngài, ta sẽ mua mật ong cúng dường cho Ngài”.
Trên đường trở về gặp vị Độc Giác đang trở ra, nàng đặt b́nh nước
xuống đảnh lễ Ngài rồi bạch hỏi:
– Thưa Ngài! Ngài được mật ong chưa?
– Này cô! Đă được rồi.
Để tế độ nàng, Ngài thuật lại lời nguyện của người bán mật ong,
nghe xong nàng suy nghĩ “ước nguyện của người này lớn thật, chắc
chắn sẽ thành tựu trong tương lai thôi”.
Nàng liền cúng dường đến Đức Phật một chiếc khăn dùng để lọc mật
ong, rồi phát nguyện rằng: “Do phước cúng dường khăn lọc mật này,
xin cho tôi sẽ là Hoàng Hậu của người bán mật trong tương lai”.
Đức Độc Giác Phật chúc phúc rằng: “Icchitaṃ paṭṭhitaṃ tuyhaṃ
khippameva samijjhatu: Mong ước nguyện chân chánh của người hăy
thành tựu như vậy” .
Hai người em của người bán mật trở về, người bán mật thuật lại
câu chuyện, người em kế bảo rằng: chắc là kẻ Caṇḍala (Chiên Đà La:
giai cấp nô lệ) v́ mặc y phục vàng, người em út bảo:” Hăy quăng kẻ
ấy xuống biển đi”.
Người anh nói:
– Đây là mật ong chung của ba anh em chúng ta, phước báu này sẽ
chia đều cho ba anh em ta.
Nghe người anh chia phước nên cả hai cũng hoan hỷ phước với anh
ḿnh.
Người anh cả chính là vua Asoka sau này, người em út là vị tử
hoàng Tissa, c̣n người em kế v́ gọi Đức Độc Giác là “kẻ nô lệ” nên
khi sanh ra lọt vào giai cấp nô lệ, đó chính là vị sadi Nigrodha.
Nàng thiếu nữ chỉ đường chính là Hoàng Hậu Asandhimittā.
Tương truyền: những khớp tay, khớp chân của nàng không lộ ra chỗ
mối nối, nên gọi là Asandhi (không nối liền). Có lần nàng dùng mía
do chư thiên dâng, Đức vua Asoka vào thấy đùa rằng: “Đây là do phước
của Ta đấy”.
Hoàng Hậu Asandhi Mittā đáp:
– Tâu đại vương! Đó là phước riêng của thần thiếp chứ!
Nghe vậy, vua Asoka tự ái phán rằng:
– À! Nếu là phước của Hậu, vậy th́ ngày mai ta có cúng dường đến
500 vị Tỳ- khưu, Hậu phải có 500 bộ y để cho ta dâng đến chư Tăng.
Nếu không có đủ y ta sẽ trị tội Hậu.
Biết vua Asoka “nói là làm”, nên Hoàng hậu Asandhimittā vô cùng
lo sợ, có vị Thiên nhân địa cầu biết được việc cúng dường khăn lọc
mật của nàng, suy nghĩ: “Ta biết được giai thoại cúng dường khăn lọc
mật ong của Hoàng hậu, nếu ta bỏ qua việc này, Hoàng hậu bị tai hại,
đầu ta sẽ bị bể bảy mảnh, hoặc không được dự đại hội chư thiên”.
Đêm ấy vị Thiên nhân hiện ra chỗ ngụ của Hoàng hậu, nói rằng:
– “Thưa Hoàng hậu, phước báu dâng khăn lọc mật đến Đức Phật Độc
Giác rất lớn, xin bà hăy an tâm. Đây là chiếc hộp Như ư, bà muốn rút
ra bao nhiêu bộ y cũng có đủ.
Rồi đưa chiếc hộp Như ư cho Hoàng hậu, Hoàng hậu y lời, rút ra
hơn 500 bộ y mà vẫn c̣n có thể rút ra được nữa. Thế là Hoàng hậu an
tâm đi ngủ ngon.
Sáng hôm sau, khi vua cúng dường vật thực xong truyền lịnh cho
Hoàng hậu đến dâng y, điều kinh ngạc đă xẩy đến cho đức vua, đức vua
hiểu rằng: “Quả thật là phước của Hoàng hậu”.
* Sadi Nigrodha.
Khi vua Asoka kéo quân về kinh thành Pāṭaliputta để tranh ngôi
vua với ông Hoàng Sumana, phần thắng nghiêng về vua Asoka, khi ông
Hoàng Sumana bị giết chết, bà Hoàng Sumanā (vợ của Sumana) kinh sợ,
lo ngại giọt máu của vua Sumana đang nằm trong thai bào bị hại, bà
trà trộn theo những người đào tẩu ra hướng Đông thành, đi đến một
ngôi làng của người Caṇḍala (nô lệ), vừa đến cội cây Nigrodha (cây
bàng) Hoàng Hậu chuyển dạ, sanh ra một bé trai dưới cội cây ấy nên
hài tử có tên là Nigrodha.
Vị Thần cây Nigrodha (rukkhadeva) tạo cho bà một cái cḥi trước
đó để bà tạm ngụ. Khi người trưởng làng Caṇḍala đi thăm ruộng, trông
thấy Hoàng hậu và nh́n thấy hài tử Nigrodha kháu khỉnh, ông có cảm
giác như là con của ḿnh.
Thế là ông đưa Hoàng hậu về nhà nuôi dưỡng cùng với hài tử
Nigrodha, ông nhận Hoàng hậu làm vợ, bảo vệ hai mẹ con Hoàng hậu
trong bảy năm (đây là quả của lời khinh suất khi gọi Đức Phật Độc
giác là kẻ nô lệ).
Một lần nọ, Trưởng lăo Mahāvaruṇa đi khất thực, đứng nơi nhà của
trưởng làng Caṇḍala, cậu bé Nigrodha nh́n thấy phong cách của Ngài
phát sinh tâm tịnh tín, nên xin mẹ được xuất gia.
Hoàng hậu suy nghĩ: “Nigrodha là ḍng vua, không nên cho ở nơi
này quá lâu, v́ ở măi nơi này hẳn Nigrodha phải mang giai cấp
Caṇḍala. Phẩm mạo xuất gia là phẩm mạo cao quư, vậy ta nên cho
Nigrodha xuất gia là tốt đẹp nhất”.
Bà đồng ư cho Nigrodha xuất gia, Trưởng lăo Mahāvaruṇa biết được
duyên lành cùng tiền sự của Nigrodha nên nhận lời là Tế độ Sư của
Nigrodha, Ngài đưa hài tử Nigrodha về chùa, cho xuất gia Sadi.
Trong khi cạo tóc, giới tử (sīlaputta) Nigrodha đưa tâm quán
tưởng thể trược “Lomā (tóc), kesā (lông), nakhā (móng), dantā (răng),
taco (da)…”, khi đường cạo tóc cuối cùng chấm dứt, cũng là lúc Giới
tử Nigrodha chấm dứt mọi ô nhiễm (āsava) trở thành vị A-La-Hán. Và
đă tế độ được vua A Dục như đă thuật ở trên.
Trong Mahāvaṃsa (Đại Sử) không có nói đến “địa ngục Bồng Lai”. Có
lẽ v́ Trưởng lăo Mahinda (con vua ADục) truyền bá Phật giáo ở xứ
Tích, do tôn trọng Ngài Mahinda cùng vua Asoka nên “địa ngục Asoka”
được “lờ đi”, tạo niềm tin cho dân Tích. Việc giết cả anh em, chỉ là
oan trái giữa “gia đ́nh Bindusāra” không liên hệ chi đến dân chúng.
Mặc khác, khi Trưởng lăo Mahinda sang Tích lan, vua xứ Tích là
Devā- naṃpiya Tissa là bạn tâm giao với vua Asoka, nên chi tiết “ác
độc với dân chúng” cũng nên “quên đi”, không khéo dân chúng Tích cho
rằng vua Devanaṃpiya Tissa thâm giao, ủng hộ Hung vương th́ cũng là
cũng là “Hung vương”, như vậy Vương triều Devanaṃpiya Tissa khó mà
ổn định.
Lại nữa, từ khi quay về với Phật pháp vua Asoka là vị minh quân,
đă giúp cho xứ Tích nhiều lợi ích như: Nhánh Bồ Đề từ Bodhigāya (Bồ
đề đạo tràng) được cung nghinh sang xứ Tích, giáo hội Tỳ- khưu ni
tại xứ Tích được thành lập cũng do nương vào bà Tỳ khưu ni
Saṅghamittā (con gái vua Asoka).
Với những lư do trên, nên chuyện “nhỏ” về Địa ngục Bồng lai được
“quên đi”.
Về Trưởng lăo Samudda chỉ xuất hiện lần ấy, rồi không thấy nhắc
đến trong sử sách, phải chăng vị ấy chính là Sadi Nigrodha?
* Ông Hoàng Tissa.
Ông Hoàng Tissa là em trai cùng mẹ với vua Asoka, có tên là
Vitasoka (Tận Ưu), vị này rất tin tưởng vào những đạo sĩ khổ hạnh,
thường nhạo báng và chỉ trích các Samôn Phật giáo “hành đạo quá dễ
dăi, không bằng các vị Đại Sư khổ hạnh”.
Khi thấy đức vua Asoka cung kỉnh đảnh lễ chư Tăng, ông tỏ ư không
hài ḷng bảo rằng:
– Hoàng huynh là bậc chí tôn trong thiên hạ, sao c̣n phải đảnh lễ
những Samôn tu hành “dễ dăi” này chứ.
Đức vua im lặng thầm nghĩ: “Ta hăy làm cho Hoàng đệ thức tỉnh”.
Hôm sau khi lâm triều, đức vua ra lịnh rằng:
– Ba ngày sau, tất cả những đại thần, mỗi người phải mang vào
triều một cái đầu của con vật đă chết. Riêng Hoàng đệ phải mang cái
đầu người đă chết.
Khi triều thần mỗi người mang đầu đến, Đức vua sai các quan cho
người hầu mang ra chợ bán mang tiền về, buổi chiều tất cả đều mang
tiền đến nộp, chỉ riêng cái đầu người chẳng ai mua cả.
Thấy thế, vua Asoka nói với ông hoàng Tissa rằng:
– Hoàng đệ thấy chưa? Đầu người này chẳng ai thèm mua cả, ta mang
cái đầu vô giá trị này đảnh lễ chư Tăng tạo phước cho ḿnh, chẳng
phải là lợi ích hơn ư ?
Có lần ông Hoàng Tissa vào rừng săn bắn, gặp một đạo sĩ khổ hạnh
có thân h́nh gầy g̣, đang ngồi hơ ḿnh cạnh ḷ lửa nóng đỏ, ông phát
tâm cung kỉnh, đi đến đảnh lễ vị ấy, hỏi rằng:
– Bạch Ngài! Ngài hành đạo như thế này được bao lâu rồi ?
– Này gia chủ! Được 12 năm rồi.
– Bạch Ngài! Ngài thường dùng vật thực chi ?
– Này gia chủ! Tôi chỉ ăn rễ, trái cây thôi.
– Bạch Ngài! Ngài dùng chi che thân ?
– Dùng lá để che thân, dùng cỏ để làm giường ngủ.
– Bạch Ngài! Trên đường tu tập khó khăn này, điều nào làm Ngài
khó chịu nhất ?
– Này gia chủ! Điều làm cho tôi khó chịu nhất là thấy bọn thú đực
cùng thú cái đùa giỡn với nhau.
– Ồ! Người tu hành tinh tấn (tāpa) như Ngài c̣n khó chịu trước
t́nh dục như thế, huống hồ chi nhóm Samôn tu hành dễ dăi kia chứ.
Chính hoàng huynh tôi không suy xét kỹ, bị bọn Samôn ấy cám dỗ nên
đem tiền của ra cúng dường họ một cách vô ích.
Nghe được câu chuyện này, vua Asoka lập mưu để cảnh tỉnh ông
Hoàng Tissa, Đức vua âm thầm bàn tính với triều thần.
Một trưa nọ, vua cởi bỏ cân đai và áo măo của ḿnh, mặc thường
phục đi vào pḥng tắm, các vị đại thần nói với ông Hoàng Tissa rằng:
“Thưa Ngài! Đức vua nay đă già, sau khi đức vua mệnh chung, ngai
vàng này sẽ thuộc về Ngài. Nhân lúc vắng đức vua, Ngài thử đội măo,
mặc vương phục rồi ngự lên ngai vàng, chúng tôi ngắm dung nhan Ngài
trông giây lát xem sao? Sẽ chỉnh trang cho Ngài để sau này Ngài sẽ
oai vệ hơn”.
Người th́ nói, người th́ mang măo đội lên đầu, người th́ mang
vương phục ướm vào người ông Hoàng Tissa, Hoàng tử Vitasoka không
kịp suy nghĩ, để mặc cho các đại thần muốn làm ǵ th́ làm.
Chỉ đợi có thế, vua Asoka từ trong pḥng tắm đi ra, giả vờ nổi
cơn thịnh nộ:
– Hoàng đệ thật to gan, Ta chưa mệnh chung đă có ư soán ngôi.
Rồi ra lệnh cho đao phủ thủ đem ông Hoàng Tissa ra chém, các quan
quỳ xuống tâu xin cho ông Hoàng Tissa.
Đức vua khăng khăng ra lệnh chém, v́ dù sao ông Hoàng Tissa đă vi
phạm luật nước. Đức vua phán:
– Hoàng đệ đă phạm tội tày trời, không thể tha chết được, nhưng
v́ lời can gián của các quan, cũng như Hoàng đệ muốn làm vua, ta
cũng ch́u ư. Cho Hoàng đệ tạm sống làm vua 7 ngày, sau bảy ngày sẽ
mang Hoàng đệ ra chém.
Trong bảy ngày ấy, Đức vua sắp đặt mọi cuộc vui trong triều đ́nh
cho Tân vương Tissa hưởng lạc như: Yến tiệc linh đ́nh, các nữ nhạc
múa vũ lả lơi, các cung phi trang điểm xinh đẹp chuốc rượu cho Tân
vương.
Đứng gác bốn góc pḥng là bốn vệ sĩ mặt mày hung tợn, hễ chiều
vừa xuống, chúng đánh chuông trống hô lên rằng: “Một ngày đă trôi
qua, c̣n sáu ngày nữa sẽ mang Tân vương ra chém”.
Đến ngày thứ hai, chúng hô rằng: “một ngày nữa đă trôi qua, c̣n
năm ngày nữa sẽ mang Tân vương ra chém”.
Đến ngày thứ tám, giám sát quan mang Hoàng đệ ra giữa triều chờ
lịnh xử tội. Đức vua hỏi:
– Trong bảy ngày làm vua, Hoàng đệ có sung sướng hưởng lạc thú Đế
vương không?
– Tâu Hoàng huynh! Trong bảy ngày, em không c̣n ḷng dạ nào hưởng
lạc thú được, cứ mỗi chiều bọn vơ sĩ đánh c̣ng (phèng la) báo hiệu
sự chết đến gần. Lo sợ cái chết đến gần, em c̣n ḷng dạ nào mà vui
thú được nữa chứ .
– Hoàng đệ chỉ lo sợ cái chết trong một kiếp mà c̣n như vậy, nói
ǵ đến các bậc Samôn, các vị ấy nghĩ đến sự chết trong luân hồi
nhiều đời nhiều kiếp, th́ c̣n ḷng dạ nào mà hưởng dục lạc chứ. Các
Ngài đang tinh tấn hành đạo để thoát ra sự chết đấy.
Nghe những lời chính đáng của vuaAsoka, ông Hoàng Tissa hối hận
v́ đă nghĩ sái quấy về các vị Samôn, nên thưa với vua Asoka rằng:
– Thưa Hoàng huynh! Em đă hiểu rồi, xin Hoàng huynh cho em được
Quy y Tam Bảo kể từ nay đến trọn đời.
Đức vua hỷ dạ, truyền tha tội chết cho ông Hoàng Tissa.
Từ đó, ông Hoàng Tissa thường đến chiêm bái Tháp thờ Xá Lợi, cúng
dường đến các vị Samôn, nghe Pháp từ các Ngài.
Duyên lành đă đến nên một hôm ông hoàng Tissa xin vua Asoka cho
ḿnh xuất gia.
Nghe lời xin xuất gia của ông Hoàng Tissa, đức vua Asoka rất ngạc
nhiên. Để thử ông Hoàng Tissa, đức vua cho ông một cái bát và một
cây gậy, phán rằng:
– Hoàng đệ muốn xuất gia, vậy kể từ hôm nay Hoàng Đệ phải ở dưới
cội cây, phải đi khất thực mà ăn, ngủ trên chiếu cỏ.
Khi Ngài Tissa đi bát, đức vua bảo bọn thị tỳ đừng dâng cúng món
ăn thượng vị, hăy dâng cho Ngài Tissa những món ăn b́nh thường của
người dân giả.
Nhưng Ngài Tissa vẫn kham nhẫn, ở dưới cội cây, ngủ trên giường
cỏ, dùng vật thực b́nh thường.
Khi ấy, đức vua Asokabằng ḷng cho ông Hoàng Vitasoka xuất gia và
có dặn rằng:
– Bao giờ Hoàng Đệ đắc quả hăy trở về độ ta.
Tế độ sư của Hoàng tử Vitasoka Tissa là Trưởng Lăo
Mahādhammarakkhita (Đại Hộ Pháp), khi Hoàng Tử Vitasoka Tissa xuất
gia, có người cháu của Ngài (chồng của Công chúa Saṅghamittā) là
Aggibrahmā cùng xuất gia với ông Hoàng Vitasoka Tissa.
Sau khi thọ giới Tỳ- khưu, Ngài Vitasoka Tissa rời hoàng thành
Pāṭaliputta, t́m nơi thanh vắng hành đạo, chẳng bao lâu đắc quả
A-La-Hán cùng với sáu Thắng trí.
Khi Ngài Tissa trở về thăm vua Asoka như lời hứa, Đức vua cùng
với vị đại thần Rādhagupta đă không thể giữ tâm được trước vẽ tề
chỉnh khác phàm của ngài Vitasoka Tissa, cả hai đến đảnh lễ và tán
thán Ngài.
Sau đó Ngài Vitasoka Tissa giáo giới hai người “nên tạo phước
lành như: Bố thí, tŕ giới, tu thiền …”.
* Đại trưởng
lăo Moggalliputta Tissa.
Theo Mahāvaṃsa (Đại sử), Ngài Moggalliputta Tissa là hậu thân của
Đại Phạm thiên Tissa.
Sau cuộc kết tập Phật Ngôn lần II, các vị Trưởng lăo đưa Thắng
trí (Abhiññāṇa) quán xét về tương lai, thấy rằng: “Sau 118 năm, do
tri kiến bất đồng, giáo pháp của Đức Thế Tôn đi vào suy vong. Ai là
người có thể trùng hưng phật giáo?”.
Các Ngài thấy rằng có Đại Phạm thiên Tissa sắp mệnh chung, vị này
sẽ giúp Phật giáo trùng hưng trở lại, nên có di ngôn đến hai Sa môn
trẻ tuổi là Siggava và Canḍavajji rằng:
– Sau 118 năm, vào thời vua A soka sẽ có Tỳ- khưu Moggalliputta
Tissa, là vị chủ tọa cuộc kết tập Phật Ngôn lần III. Hai người nhớ
tiếp độ vị ấy.
Tỳ- khưu Siggava và Canḍavajji là đệ tử của Trưởng Lăo Dāsaka,
Trưởng Lăo Dāsaka là đệ tử của Đại Trưởng Lăo Upāli.
Trưởng Lăo Dāsaka trước khi xuất gia trong giáo Pháp này, Ngài là
một Bà-la-môn tinh thông ba bộ Vedā, là một biện sĩ nổi tiếng đương
thời.
Dāsaka là người sinh ra trong thành Vesālī có đồ chúng 300 người,
thường cùng đồ chúng đi khắp làng mạc, thị trấn, kinh thành để t́m
người luận chiến.
Trưởng lăo Upāli, sau khi kết tập Phật ngôn lần I xong, Ngài về
Tịnh Xá Vālikārāma trong thành Vesālī trú ngụ.
Có lần Biện sĩ Dāsaka cùng đồ chúng của ḿnh đến tự viện này, gặp
Đại Trưởng lăo Upāli, vấn nạn Trưởng lăo bằng những điểm khó hiểu
của kinh Vedā, Trưởng lăo Upāli ung dung giải đáp tất cả. Khi Biện
sĩ Dāsaka không c̣n ǵ để hỏi, Trưởng lăo hỏi Dāsaka rằng:
“Này Bà-la-môn, sau giáo lư Vedā là một giáo lư mà tất cả mọi
giáo thuyết nằm trong đó. Vậy đó là giáo lư ǵ?”
Biện sĩ Dāsaka không đáp được nên hỏi rằng:
– Bạch Ngài! Đó là ǵ?
– Này Bà-la-môn! Đó là Chánh Pháp.
Rồi Đức Upāli đọc một đoạn kinh an lành (pāritta), Bà-la-môn
Dāsaka hỏi:
– Đây là manta ǵ?
– Là manta của Đức Phật.
(Chữ Manta có hai nghĩa: Chú thuật và kinh điển).
– Xin Ngài hăy dạy tôi manta này đi.
– Được thôi! Nhưng này Bà-la-môn, ngươi phải xuất gia trong Giáo
pháp này.
Thế là, Dāsaka cùng 300 đồ chúng xuất gia thọ giới Tỳ- khưu, về
sau tất cả đều tchứng Thánh quả A-La-Hán.
Trưởng Lăo Dāsaka là thầy Tế độ của Trưởng lăo Soṇaka người xứ
Caṇḍavajjī.
Trưởng Lăo Soṇaka là thầy của Trưởng Lăo Siggava và Caṇḍavajjī.
Hai vị Trưởng lăo Siggava và Caṇḍavajjī v́ không dự cuộc kết tập
lần II, nên chư Tăng phạt hai Ngài phải tế độ hậu thân của Đại Phạm
thiên Tissa vào trong Phật giáo, để trùng tuyên Giáo pháp Đức Phật
lần III.
Chính Trưởng lăo Siggava tế độ Ngài Moggalliputta Tissa vào trong
Giáo pháp này.
Tương truyền.
Khi biết Đại Phạm thiên Tissa sanh vào một gia tộc Bà-la-môn tên
là Moggalli, Trưởng lăo Siggava đi khất thực trước nhà Bà-la-môn này
trọn bảy năm, nhưng không một ai cho ǵ đến Ngài cũng không nói ǵ
đến Ngài cả, Ngài vẫn lặng lẽ đến rồi đi.
Một hôm có nữ nô cảm thấy ái ngại nên nói rằng:
– Bạch Ngài, xin Ngài hăy đi nơi khác đi
Ngài Siggava lui ra, vừa khi ấy Bà-la-môn Moggalli trở về gặp
Ngài, y chế nhạo rằng:
– Này ông Samôn! Ông có được chi không?.
– Này Bà-la-môn! Có được chút ít.
Bà-la-môn Moggalli tức giận trở về tra gạn người nhà, khi biết
rằng: “Không có ai cho ǵ đến vị Samôn cả”.
Hôm sau, Ngài Siggava lại đến nhà Bà-la-môn Moggalli khất thực,
Bà-la-môn Moggalli nói rằng:
– Này ông Samôn! Ông đă nói dối, hôm qua người nhà của tôi chẳng
có cho ông cái chi cả, v́ sao ông lại bảo “có được chút ít?”
– Này Bà-la-môn! Tôi đến đây đă tám năm nhưng người nhà ông chẳng
có ai nói ǵ đến tôi, cũng chẳng cho tôi chút ǵ cả. Hôm qua, có cô
nữ tỳ đă nói “xin thỉnh Ngài ngự đi nơi khác”, tôi bảo “được chút ít”
là được lời nói êm dịu đó.
Bà-la-môn Moggalli suy nghĩ: “Vị Samôn này chỉ được nghe lời êm
dịu mà có sự hoan hỷ như thế, nói ǵ được sự cúng dường vật thực chứ.
Đây là vị có đại ân đức”.
Ông phát tâm tịnh tín cung thỉnh Ngài vào nhà, rồi cúng dường vật
thực vào bát của Ngài, sau khi thọ thực xong Ngài Siggava thuyết
giảng Pháp thoại làm hoan hỷ đến gia đ́nh gia chủ Moggalli.
Kể từ đó gia đ́nh Moggalli thường xuyên cung thỉnh Ngài Siggava
đến tư gia để cúng dường, dần dần người nhà Moggalli trở thành những
tín đồ sùng bái Phật giáo.
Khi thanh niên Tissa được 16 tuổi, thông thạo ba bộ Vedā, rất đắc
ư về kiến thức của ḿnh, Trưởng Lăo Siggava suy nghĩ: “Đă đến lúc
đưa Tissa trở về Phật giáo”.
Nguyên thanh niên Tissa có cái ghế ngồi dành riêng cho ḿnh, khi
chàng không ngồi th́ ghế ấy được treo lên, Trưởng lăo Siggava tạo
điều kiện để tế độ thanh niên Tissa bằng cách ngồi vào chiếc ghế của
Tissa.
Thanh niên Tissa sau buổi học Vedā tại nhà thầy của ḿnh trở về,
thấy Trưởng lăo ngồi trên ghế của ḿnh, chàng rất tức giận hỏi rằng:
– Này ông Samôn! Ông là ai mà ngồi trên ghế này.
– Này thanh niên! Ta là người cao hơn cả Phạm thiên.
– Nếu ông nói thế, tôi sẽ hỏi ông.
Rồi chàng đem kinh Vedā ra hỏi Trưởng lăo, Trưởng lăo là người
thông ba bộ Vedā khi chưa đi vào Phật giáo. Ngài lại là bậc A-La-Hán
Tuệ phân tích, nên dễ dàng trả lời tất cả những câu hỏi của thanh
niên Tissa, cho đến khi chàng không c̣n ǵ để hỏi được nữa. Khi đó,
Trưởng lăo hỏi thanh niên Tissa rằng:
– Này Tissa! Tâm nào sinh mà không diệt? Tâm nào diệt mà không
sinh?
Tissa không thể trả lời được, v́ đây là câu hỏi trong phẩm Citta
yamaka (Tâm song) của bộ Abhidhamma.
“Tâm sinh mà không diệt là chỉ sátna sinh của tâm, tâm diệt mà
không sinh là tâm Đạo”.
Câu hỏi của Trưởng lăo ví như người đem bóng tối phủ trùm tâm trí
của Tissa, chàng hỏi Trưởng lăo:
– Đây là loại Manta ǵ thế, thưa Ngài?
– Là Manta của Đức Phật.
– Ngài có thể dạy cho con không?
– Được thôi! Nhưng con phải xuất gia trong Giáo pháp này.
Chàng Tissa xin cha mẹ được xuất gia để học Manta của Đức Phật.
Khi xuất gia xong, Sadi Tissa được ngài Siggava giảng về “Quán
Pháp trong Pháp” của kinh Đại Niệm xứ (Mahā satipaṭṭhāna).
Nghe vừa xong Sadi Tissa chứng quả Dự Lưu, Trưởng lăo suy nghĩ:
“Giờ đây, ta hăy cho Sadi làm đầy trí tuệ bằng cách học thông Tam
Tạng trước đă”. Ngài bảo rằng:
– Này Sadi Tissa! Con hăy đến thọ giáo nơi Trưởng lăo Caṇḍavajjī,
vị ấy là bậc đa văn trong Giáo pháp này.
Vâng lời thầy, Sadi Tissa đi đến trú xứ của Trưởng lăo Caṇḍavajjī,
Trưởng lăo Caṇḍvajjī dạy Sadi Tissa về Tạng Kinh (Suttapiṭaka) cùng
Tạng Thắng pháp (Abhidhamma pītaka).
Khi đến tuổi thọ Cụ túc giới (upasampadā) Sadi Tissa thọ giới Tỳ-
khưu, Ngài Siggava tiếp tục dạy cho vị ấy Luật tạng cùng Kinh tạng
lẫn Luận tạng.
Sau khi thông thạo Pháp học, Ngài Moggalliputta Tissa tinh cần
hành Pháp, chẳng bao lâu chứng quả A-La-Hán.
Bấy giờ danh tiếng của Ngài Moggalliputta Tissa rực chiếu như
vầng thái dương ở cơi Diêmphùđề.
Đức vua Asoka khi trở về với Chánh Pháp, Ngài cho xây dựng ở
những nơi Đức Phật ngự đến, mỗi nơi một ngôi chùa, lập 84.000 tháp
thờ Xá lợi Phật.
Tại kinh thành Pāṭaliputta, Đức vua cho xây dựng Đại tự Asokārāma
do Đại Trưởng lăo Pudagutta trông coi.
Sau ba năm, tất cả chùa – tháp đều hoàn tất, từ 84.000 thành phố
gởi về kinh thành Pāṭaliputta báo rằng: “Chùa đă hoàn thành”, “Tháp
thờ đă hoàn thành”… Ngay cả đại tự viện Asokārāma cũng vừa kiến tạo
hoàn tất.
Những tin vui này đă tập trung về kinh đô Pāṭaliputta trong một
ngày, như đàn bướm “sớ” cùng đổ về hội tụ tại kinh đô Pāṭaliputta.
Vô cùng hoan hỷ trước hiện tượng này, Đức vua Asoka liền tổ chức
Đại lễ hội trong tất cả những tự viện, Đức vua công bố rằng: “Sau
bảy ngày kể từ hôm nay, một Đại lễ hội được khai mở”.
Người ta nói rằng: “Trong Đại lễ hội này, toàn cơi Ấn độ đều
trang hoàng xinh đẹp với hoa đèn như cơi chư Thiên Ba mươi ba. Tất
cả thần dân xứ Ấn đều thọ tŕ Bát quan giới, sau khi cúng dường đến
chư Tăng, tất cả đều nghe Pháp từ các vị Đại Trưởng lăo.
Lễ hội diễn ra suốt bảy ngày đêm”.
Vào ngày khai mở lễ hội, Đức vua Asoka mặc vương phục cùng với
Vương tộc, Cung nhân đi đến Đại Tự viện Asokārāma. Đức vua cúi ḿnh
cung kính trước chư Tăng rồi khai mở lễ hội.
Chính lễ hội này khai diễn rực rỡ như cơi chư Thiên, nên từ danh
hiệu Caṇḍāsoka trở thành Dhammāsoka.
Vô cùng hoan hỷ việc làm của ḿnh, Đức vua Asoka hỏi Trưởng lăo
Moggalliputta Tissa rằng:
-Trong lịch sử Phật giáo, có ai cúng dường trọng thể như vầy
chăng? Thưa Đại đức”.
Trưởng lăo Moggalliputta Tissa đáp rằng.
– Ngay trong thời Đức Phật c̣n tại thế, cũng không có một vị thí
chủ nào làm được như Đại vương cả.
Tâm đức vua càng hoan hỷ bội phần, hỏi rằng: “Như vậy Trẫm có
được gọi là người hộ tŕ Giáo pháp không?”
Trưởng lăo Moggalliputta Tissa thấy được duyên lành của Thái tử
Mahinda cùng Công chúa Saṅghamittā, hai vị này sẽ là người truyền
Phật giáo sang xứ Tích Lan (Srilankā) nên đáp rằng:
– Tâu Đại vương! Đại vương chưa thể gọi là người hộ tŕ Giáo Pháp
được. Đại vương chỉ được gọi là Đại Thí chủ (mahā paccayādāsaka) lớn
nhất mà thôi.
– Thưa Ngài! Như thế nào mới được gọi là “người hộ tŕ Giáo pháp
?”.
– Tâu Đại vương! Người nào cho con trai hay con gái ḿnh xuất gia
trong Giáo pháp này, người ấy mới được gọi là “người hộ tŕ chánh
Pháp”.
Khi ấy đức vua có tâm rất hoan hỷ, mong mơi “ḿnh là vị Đại Hộ
pháp của Phật giáo”, nên phán hỏi Thái tử Mahinda cùng Công chúa
Saṅghamittā đang đứng bên cạnh rằng:
– Này hai con! Các con có muốn xuất gia không ? V́ xuất gia là
một phước báu lớn.
Nghe được mẩu đối thoại giữa Ngài Moggalliputta cùng Phụ vương,
vă lại khi ông Hoàng Tissa xuất gia, cả Thái tử Mahinda lẫn Công
chúa Saṅghamittā cũng có ư muốn xuất gia, nay nghe đức vua hỏi, cả
Thái tử lẫn Công chúa như được ban một đặc ân, đă tâu rằng:
– Tâu Phụ vương! Nếu Phụ vương cho phép, ngay chính hôm nay chúng
con xin được xuất gia, sự xuất gia của chúng con hôm nay sẽ mang lợi
ích đến cho chúng con cùng Phụ vương.
Từ khi ông Hoàng Tissa xuất gia, ngôi Phó vương đức vua muốn
truyền lại cho Thái tử Mahinda, tuy nhiên khi ấy đức vua nghĩ rằng:
“Phẩm mạo xuất gia rất cao quư, hơn hẳn địa vị Phó vương nhiều”.
Đức vua lập tức tiến hành lễ xuất gia cho Thái tử Mahinda cùng
Công chúa Saṅghamittā. Khi ấy, Thái tử Mahinda được 20 tuổi nên được
thọ giới Tỳ- khưu ngay trong ngày khai mở lễ hội, c̣n Công chúa
Saṅghamittā được 18 tuổi..
Vị Tế độ sư (upajjhāya) của Ngài Mahinda là Đại Trưởng lăo
Moggalliputta Tissa, hai vị tuyên ngôn sự (kamma vācāriya) là Đại
Trưởng lăo Mahādeva và Trưởng lăo Majjhantika. Hai vị này là hai
trong chín đoàn truyền giáo, Ngài Majjhantika truyền Phật giáo đến
vùng Tây-Bắc Ấn độ là xứ Gandhāra (Apganistan) và xứ Kasmīra (kasmir),
c̣n ngài Mahādeva truyền Phật giáo nơi miền Nam Ấn, vùng
Mahismaṇḍala (Mysor) thuộc thung lũng sông Godhāvarī.
Ngay chỗ thọ giới Tỳ Khưu Ngài Mahinda quán xét Pháp chứng quả
A-La-Hán cùng các Thắng trí.
Vị Tế độ Sư của Công chúa Saṅghamittā là Trưởng lăo ni Dhammapālā
(Hộ Pháp), vị Y chỉ sư của nàng là Trưởng lăo ni Ayupālā (Hộ Thọ).
Sau hai năm thọ giới Học nữ (sikkhāmana), tṛn 20 tuổi nàng thọ
giới Tỳ- khưu ni, tinh tấn hành đạo, chẳng bao lâu chứng đắc quả vị
A-La-Hán.
Từ đó, trong xứ Ấn Độ với sự sùng mộ Phật giáo của vua A Dục,
Phật giáo phát sinh nhiều lợi lộc, một số giáo sĩ Bà-la-môn cũng
xuất gia để hưởng vật chất sung măn từ Phật giáo, nhưng lại công bố
những giáo lư Bà-la-môn trái đi truyền thống Phật giáo, đồng thời
thực hành những phương pháp riêng của họ.
Thấy được sự hỗn loạn trong Phật giáo phát sinh, Đại Trưởng lăo
Moggalliputta quán xét kỹ lưỡng thấy rằng: “Chưa hợp thời để chấn
chỉnh”, nên Ngài giao lại Tăng chúng lại cho Ngài Mahinda trông coi,
đi đến núi Ahogaṅgā tịnh cư ẩn dật suốt bảy năm.
Số lượng ngoại đạo gia nhập vào Tăng đoàn ngày càng đông đảo, do
đó phát sanh tệ nạn “buông lung giới luật”.
Chính ngay tại Đại Tự viện Asokārāma cũng không thoát khỏi tệ nạn
này, các Tỳ- khưu trong sạch đi đến quyết định “không làm lễ
Uposatha (Bốtát) với các Tỳ- khưu giả hiệu, sự kiện này kéo dài suốt
bảy năm.
Đức vua Dhammāsoka biết chuyện, để ḥa giải Tăng chúng trong tự
viện Asokārāma, đức vua sai vị đại thần đến tự viện bảo rằng: “Đức
vua yêu cầu các vị hăy hành lễ Uposatha chung với nhau”.
Chư Tỳ- khưu chân chánh cương quyết không chịu rằng: “Chúng tôi
chỉ hành tŕ đúng theo Pháp Luật của Đức Thế tôn”.
Cho rằng: “Những vị Tỳ- khưu này chống lại lệnh đức vua”, nên
những ai không chịu hành lễ Uposatha chung với nhau, vị đại thần
liền vung gươm chém đầu vị ấy. Máu tuôn đổ trong tự viện Asokārāma
ngập tràn, thấy thế Đại Trưởng lăo Tissa (Vitasoka) bước ra, đi đến
chổ vị đại thần.
Nhận ra đây là “ông hoàng Tissa” vị ấy buông gươm đảnh lễ Ngài,
Trưởng lăo Tissa bảo:
– Ông hăy về tâu lại Đức vua việc này đi.
Và vị đại thần trở về tâu lên Đức vua sự kiện xảy ra trong Đại Tự
viện Asokārām, Đức vua bàng hoàng khi nghe sự việc diễn biến theo
chiều bi thảm ấy.
Tâm Đức vua ray rứt rằng: “Trong việc này, ai là người có tội? Ta
hay vị đại thần?”. Đức vua mang nghi vấn này ra hỏi chư Tăng, một số
Tỳ- khưu thiếu trí đă bảo: “Đại vương là người có tội, vị đại thần
vô tội v́ vị ấy chỉ làm theo lệnh của Đại vương”.
Một số khác th́ bảo: “Cả hai cùng có tội”. Những tỷ kheo có trí
đáp rằng: “Đại vương vô tội, vị đại thần có tội”.
Tâm trạng đức vua Asoka càng lúc càng hoang mang, nên phán hỏi
rằng:
Ai là người có thể phán đoán chính xác nhất?
Chư Tăng đồng ư rằng: “Chỉ có Đại Trưởng lăo Moggalliputta Tissa
là người có sự phán đoán chuẩn xác, sẽ đoạn nghi cho Đại vương được
mà thôi”.
Nghe vậy, Đức vua Asoka lập tức cử bốn vị Trưởng lăo cùng bốn vị
quan Đại thần lên đường, cung thỉnh Đại Trưởng lăo Moggalliputta về
kinh thành Pāṭaliputta.
Mỗi vị Trưởng lăo có ngàn Tỳ- khưu tùy tùng, mỗi đại quan có ngàn
quan quân tùy tùng, tất cả đều lên đường trong ngày ấy.
Tuy đoàn sứ giả khẩn cầu, nhưng Trưởng lăo kiên quyết không về
kinh thành, sau khi hỏi lư do rằng:
– Thưa các vị! Đức vua cho mời tôi về Hoàng thành có việc chi
chăng?
– Bạch Đại Trưởng lăo! Để đoạn nghi cho Đức vua về một vấn đề
trong Phật pháp.
– Nếu thế th́! Việc này không quan trọng lắm.
Đoàn sứ giả thứ nhất đành ra về tâu lại Đức vua, Đức vua lại cử
đoàn thứ hai gồm tám vị Trưởng lăo và tám vị Đại thần cung thỉnh Đại
Trưởng lăo hồi kinh, nhưng kết quả cũng như lần trước.
Đức vua hỏi chư Tăng rằng: “Làm thế nào để Trưởng lăo đến?” Chư
Tăng trả lời:
– Đại vương hăy cung thỉnh rằng: “Bạch Trưởng lăo, xin Ngài hăy
là người làm lợi ích đến Giáo pháp, hăy là người hộ tŕ chúng con
trong phận sự hành chánh pháp”.
– Thưa vâng! Bạch chư tăng.
Lần này, Đức vua cử đoàn sứ giả gồm 16 vị Trưởng lăo và 16 đại
quan, Đức vua có dặn rằng:
– Trưởng lăo đă già, không nên dùng xe hay kiệu sẽ làm nhọc thân
Trưởng lăo. Hăy dùng thuyền rước Trưởng lăo theo ḍng sông Hằng trở
về kinh thành Pāṭaliputta.
Lần này, đoàn sứ giả thành công, Trưởng lăo Moggalliputta trở về
kinh thành Pāṭaliputta bằng thuyền. Đức vua tiếp rước Trưởng lăo rất
trang trọng, chính Đức vua đă lội xuống nước ngang đầu gối, cung
kính đưa bàn tay phải của ḿnh đến Trưởng lăo, tỏ ư ḿnh là đệ tử
của Ngài.
Theo vương lịnh triều đại Moriya “ai chạm vào tay của Đức vua sẽ
bị chém” Trưởng lăo Moggalliputta tiếp nhận Đức vua là đệ tử bằng
dấu hiệu là: “Nắm lấy tay của đức vua”, những tùy tướng cận vệ toan
chém Trưởng lăo, nhưng Đức vua đă ngăn lại.
Đức vua cũng thỉnh Trưởng lăo đến hoa viên Rativaddhana, tự thân
Đức vua rửa chân và thoa dầu cho Ngài. Rồi Đức vua ngồi xuống một
bên, tŕnh lên sự kiện “thảm sát ở Asokārāma”, bạch hỏi rằng:
– Bạch Trưởng lăo! Trong việc này Trẩm có tội không?
Trưởng lăo đáp:
– Không có ư ác th́ không có nghiệp, Đức Phật có dạy:
“Cetanāhaṃ bhikkhave kammaṃ vadāmi: Này các Tỳ- khưu! Như Lai
tuyên thuyết: sự cố ư là nghiệp”.
Rồi Trưởng lăo tuyên thuyết lên Bổn sự Tittirajātaka.
Một tuần lễ trú ngụ tại hoa viên Rātivaddhanam Trưởng lăo tŕnh
bày chánh pháp của Đức Thế Tôn đến Đức vua Asoka để Đức vua phân
biệt rơ: đâu là chánh pháp, đâu là tà pháp.
Cũng trong tuần này, Đức vua ra lịnh triệu tập tất cả chư Tỳ-
khưu trong xứ Ấn về kinh thành Pāṭaliputta, chư Tỳ khưu hội lại tại
Đại tự Asokārāma.
Vào ngày thứ bảy, Đức vua tự thân thẩm vấn chư Tỳ- khưu qua Chánh
pháp được học hỏi tuần qua, Trưởng lăo Moggalliputta Tissa ngồi bên
Đức vua sau tấm rèm che.
Đức vua cho mời từng vị lên để hỏi về Giáo lư của Đức Phật rằng:
– Bạch Đại đức! Đức Thế Tôn đă giảng dạy điều ǵ?
Những Tỳ khưu trả lời theo khuynh hướng thường kiến (sassata
diṭṭhi) của Bà-la-môn giáo, lập tức Đức vua cho xếp vào một bên. C̣n
những vị Tỳ khưu đáp rằng: Đức Thế Tôn giảng dạy Giáo lư phân biệt
luận (vibhajjavāda).
Đức vua hỏi Trưởng lăo: Đức Chánh Biến Tri có dạy Giáo lư phân
biệt luận chăng?
– Tâu Đại vương! Có thật vậy.
Đức vua hớn hở.
– Bạch Ngài! Vậy từ nay Tăng chúng sẽ thanh tịnh.
Những vị Tỳ- khưu chánh kiến được xếp một bên.
Sau cuộc kiểm tra này, số Tỳ- khưu ngoại đạo bị trục xuất hơn 60
ngàn vị. Và từ đó, Tăng chúng làm lễ Uposatha trong sự ḥa hợp.
Từ trong Tăng chúng, Trưởng lăo Moggalliputta Tissa chọn ra 1000
vị Trưởng lăo đa văn tinh thông Tam Tạng để kết tập Phật ngôn lần
III, dưới sự bảo trợ của vua Asoka.
Cuộc kết tập này quy tụ 18 tông phái Phật giáo lúc bấy giờ, trong
cuộc kết tập này bộ Kathāvatthu Pakaraṇa (Luận sự) được h́nh thành,
trong đó những chủ thuyết dị giáo, những quan điểm sai lệch với
truyền thống Nguyên thủy được bàn luận kỹ càng và bị bác bỏ.
Thể thức kết tập cũng giống như lần đầu, suốt chín tháng Đại
Trưởng lăo Moggalliputta cùng với chư Tỳ khưu hoàn tất “trùng tuyên
Tam Tạng”, khi ấy, Đại Trưởng lăo Mogalliputta được 72 tuổi (vào năm
thứ 17 của triều đại Đại đế Asoka).
Và cuộc kết tập Phật ngôn lần thứ ba hoàn tất sau một năm (ba
tháng đầu bàn về những điểm sai biệt trong Giáo lư)
Sau cuộc kết tập Phật ngôn lần III, vua Asoka khởi lên ư niệm:
“Nên hoằng bá Phật pháp sang các nước láng giềng”. Đức vua đem ư
nghĩ này bàn với Trưởng lăo Mogalliputta Tissa rằng : “Nếu Phật giáo
tại Ấn độ bị hoại mất, th́ vẫn c̣n tiếp tục phát triển lớn mạnh ở
các quốc gia khác”.
Tất nhiên, Trưởng lăo Mogalliputta Tissa tán thành ư kiến tuyệt
vời này.
Thế là, Trưởng lăo cùng Đức vua mời thỉnh mười vị Đại Trưởng lăo
có năng lực truyền giáo, rồi phân thành chín đoàn đi chín địa phương.
Trưởng lăo Majjhantika đi về hướng Tây Bắc đến xứ Gandhāra (Apganistan)
và Kasmīra (Kasmir).
Trưởng lăo Mahādeva xuống nam Ấn đến Mahismaṇḍa (Mysore) thuộc thung
lũng sông Godhāvarī.
Trưởng lăo Rakkhita đến xứ Vanavāsī hướng núi Vindhaya nằm ở Tây Nam
Ấn độ.
Trưởng lăo Dhammarakkhita đi về hướng Tây Bắc Ấn, đến xứ Aparanta.
Trưởng lăo là người gốc Hy Lạp (có thể là người Ấn gốc Hy Lạp đầu
tiên xuất gia trong phật giáo).
Trưởng lăo Mahādhammarakkhita đến xứ Mahārākhata (mahāraṭṭha) nay
thuộc bang Mahartth, nằm về thượng lưu sông Godhāvarī (cách thành
phố Bombay ở phía Đông Bắc) nay là Andhara pradesh.
Trưởng lăo Mahārakkhita đi sang Trung Á đến Hy Lạp, nếu khi ấy chư
Tăng cử Ngài Dhammarakkhita đến hoằng Pháp ở Hy Lạp có lẽ hay hơn,
v́ Ngài là người Hy lạp, đồng thời Hy Lạp có thể có được một giáo
hội Tăng chúng.
Dựa vào sự có mặt lâu đời của Phật giáo ở Hy Lạp (200 năm trước khi
Thiên Chúa giáo ra đời), bà Giáo sư Rhys David cho rằng tiếng God (Thượng
đế) xuất phát từ tiếng Gotama của Pāli và tiếng Allah xuất phát từ
tiếng Arahaṃ.
Trưởng lăo Majjhima lên mạn Bắc vùng Hy Mă Lạp Sơn.
Trưởng lăo Sona và Uttara đến xứ Vaṇṇabhūmi (xứ vàng) thuộc vùng
Đông Nam Á, bao gồm Thái Lan, Miến Điện (kể cả xứ Môn), Khmer, Tây
Việt ngày nay.
Trưởng lăo Mahinda truyền giáo sang Tích Lan, Trưởng lăo Mahinda
chọn thêm bốn vị Trưởng lăo nữa là: Iṭṭhiya, Uttiya, Sambala,
Bhaddasāla, về sau có thêm Ngài Sadi Sumana cùng đi truyền giáo ở
Sri Laṅka (Tích Lan).
Sự phân phái và Luận Kāthavatthu.
I- Sự xuất hiện các
bộ phái.
Sau cuộc Kết tập Phật ngôn lần II ở Vālikārāma (Tự viện Vālika),
Phật giáo chính thức phân thành hai Bộ phái: Theravāda (Trưởng lăo
bộ) và Mahāsaṅghika (Đại chúng bộ).
Theo sự nghiên cứu của Giáo sư André Bareau, có nhiều truyền
thuyết về lịch sử xuất hiện các bộ phái, ở đây chúng tôi chỉ ghi lại
sự phân phái theo truyền thuyết Tích Lan, truyền thuyết này được ghi
nhận theo bộ Dīpavaṃsa (Đảo sử)([36]), cùng với Bản Sớ giải
Kāthavatthu (Luận điểm) của Ngài Buddhaghosa (Phật Âm), ngoài ra có
nhiều truyền thuyết về sự h́nh thành các bộ phái như: Truyền thuyết
Sammitiya (Chính lượng bộ), truyền thuyết Kasmir (Kế Tân), theo Dị
tôn bộ luận (Samayabhedoparaca-nacakra) …([37]).
Theo truyền thuyết Tích Lan.
Từ hai nhánh lớn ban đầu là Theravāda và Mahāsaṅghika, theo ḍng
thời gian vào cuộc Kết lần Phật ngôn lần III, bấy giờ đă h́nh thành
18 bộ phái. Như sau:
A- Từ Mahāsaṅghika (Đại chúng bộ) tách ra 2 bộ phái là:
– Ekavyohārika (c̣n viết là Ekabbohārika) (Nhất thiết bộ).
– Gokulikavāda (Kê dận bộ).
*Từ Gokulikavāda (Kê dận bộ) tách ra 2 bộ phái là:
– Paññattivāda (Thi thiết bộ).
– Bahulika (Bahusuttiyavāda) (Đa văn bộ).
Về sau có thêm bộ phái Cetiyavāda (Chế sơn bộ) tách ra từ
Mahāsaṅghika.
Như vậy, có 6 bộ phái thuộc nhánh Mahāsaṅghika (Đại chúng bộ).
B- Từ Theravāda (Trưởng lăo bộ) tách ra hai bộ phái là:
– Vajjiputtaka (Độc tử bộ).
– Mahiṃsāsaka (Hóa địa bộ).
*Vajjiputtaka lại tách ra bốn bộ phái:
a- Dhammuttarā (c̣n viết là Dhammuttarikā, Dhammuttariyā) (Pháp
thượng bộ).
b- Bhaddayānika (Hiền trụ bộ).
c- Channagarika (Mật lâm sơn trú bộ).
d- Samitiya (Chánh lượng bộ), c̣n viết là Sammatiya.
*Từ Mahiṃsāsaka (Hóa địa bộ) tách ra hai bộ phái là:
a- Dhammaguttika (c̣n viết là Dhāmagutta) (Pháp tạng bộ).
b- Sarvāstivāda (Hữu bộ), c̣n gọi là Sabbatthivādī .
*Từ Sarvatthvāda (Hữu bộ) lần lượt có thêm ba bộ phái.
Trước tiên là Kassapiyā (Ẩm quang bộ), từ Kassapiyā nảy sinh
Saṅkantikā (Thuyết chuyển bộ), từ Saṅkantikā nảy sinh Suttavāda (Kinh
bộ).
Như vậy, có 12 bộ phái thuộc nhánh Theravādā(sđd).
Ngoài ra, ở vùng Andhaka có 4 bộ phái khác đó là:
a- Rājagiriya (Vương sơn trú bộ).
b- Siddhatthika (Nghĩa thành bộ).
c- Pubbaseliya (Đông sơn trú bộ).
d- Aparaseliya (Tây sơn trú bộ).
Theo sự nghiên cứu của Giáo sư André Baraeu, Ngài Buddhaghosa có
cho biết: “Vào thế kỷ sau đó, bốn bộ phái này mới xuất hiện” (sđd).
Như vậy, 4 bộ phái này xuất hiện sau cuộc Kết tập Phật ngôn lần III
(sđd).
Theo Bắc truyền, ba bộ phái vùng Andhaka là: Siddhatthikā (Nghĩa
thành bộ), Pubbaseliyā (Đông sơn trú bộ), Aparaselita (Tây sơn trú
bộ) h́nh thành từ nhánh Mahāsaṅghika([38]), hai bộ phái Pubbaseliyā
và Aparaseliyā không chấp nhận “năm điều Mahādeva” nên tách ra từ
nhánh Mahāsaṅghikā.
Lại có 4 bộ phái khác cũng được Bản Sớ giải Kathāvatthu đề cập là:
a- Hetuvāda (Nhân chấp bộ).
b- Vetullaka (Phát triển bộ).
c- Vajiriya (Kim cương bộ).
d- Uttarapathaka (Bắc sơn trú bộ)([39]).
Mahāsaṅghika (Đại chúng bộ).
Chấp nhận 5 điều của Tỳ- khưu Mahādeva. Ngoài ra Mahāsaṅghikā (Đại
chúng bộ) không công nhận:
– Bộ Parivāra (Tập yếu) của Luật Tạng (Vinayapiṭaka).
– Sáu 6 bộ đầu của Tạng Thắng pháp (Abhidhammapiṭaka).
– Bộ Paṭisambhidāmagga ( Đạo Vô ngại giải), bộ Nidesa (Xiển Minh)
và một số kệ ngôn Jātaka (Bổn sự) của Tạng Kinh (Suttapiṭaka)([40]).
Theo Ngài Huyền Trang, Mahāsaṅghikā chia Kinh điển thành 5 Tạng:
Luật, Kinh, Luận, Tạp và Dhāraṇī.
Ngài Pháp Hiển có đưa trọn bộ Luật của Mahāsaṅghikā về Trung quốc
(Luật Ma-ha-Tăng-kỳ)([41]).
Mahāsaṅghikā (Đại chúng bộ) có một Tự viện ở gần
Abhayagiri-vihāra của Tích Lan, Được biết vua Tích Lan Sena I có xây
một Tự viện Vīraṅkurārāma để họ xử dụng([42]).
Nhánh Mahāsaṅghikā đều dùng tiếng Saṅskrit ghi chép kinh điển.
([1])– UdA. 238.
([2])– Xem D.ii. Mahāsudassamnsuttaṃ (Kinh Đại Thiện Kiến vương).
([3])– UdA. 402; DA. ii. 573.
([4])– D.ii. Kinh Đại Viên tịch ( Mahāparinibbānasuttam).
([5])– D. ii. 160.
([6])– Xem Indacanda (d). Luật Tiểu phẩm II. Số 614.
([7])– Sp. i, 10; ThagA. i. 351
([8])– Mhv. iii, 19.
([9])– Dpv. iv, 14; Dpv. v, 5.
([10])– Nguyễn Đức Tư – Hữu Song (d). 2.500 năm Phật giáo. Bốn
nghị hội kết tập của Phật giáo.
([11])– Xem ĐĐ Indacanda(d). Luật Tiểu Phẩm II. Số 617.
([12])– Cullavagga II. Chương 11.
([13])– Cuộc Kết tập Phật ngôn lần II được ghi nhận trong bộ
Culla vagga II, chương 12, trong Tạng Luật
([14])– Sp.i, 72.
([15])– Mhv. iv. 1.
([16])– Vajjiputtaka được dịch là “người con xứ Vajji”, chữ
“Bạt-kỳ-tử” không chuẩn, v́ vừa âm vừa dịch. Nhưng để độc giả đọc
ngắn gọn nên chúng tôi tạm dùng “Bạt-kỳ-tử”. Mong các bậc hiền trí
thứ tha – Ns.
([17])– Người Ấn xem sữa chua là vật thực, giống như người Miến
xem trà là vật thực – Ns.
([18])– Yasa Kākaṇḍakaputta nghĩa là: “Yasa con trai của
Bà-la-môn Kākaṇḍaka”. Ngài Yasa là đệ tử của Ngài Ānanda, Ngài Yasa
có diễm phúc nh́n thấy Đức Thế Tôn khi Đức Thế Tôn c̣n hiện tiền (Mhv.
57).
([19])– A.ii, 53. Kinh các uế nhiễm.
([20])– S.iv, 325.
([21])– Ahogaṅgā là ngọn núi ở Bắc Ấn trên thượng lưu sông Hằng.
Tập Mahāvaṃsa (Đại sử) mô tả núi Ahogaṅgā “ở trên sông Hằng” (uddhaṃ
Gaṅgāya).. Ngài Moggaliputta Tissa đi thuyền từ Ahogaṅgā đến
Pāṭaliputta.
([22])– Culla vagga II. Chương XII.
([23])– Mhv. iv, 30.
([24])– Tính theo tuổi đời th́ vị Trưởng lăo Sabbakāmi được 140
tuổi.
([25])– Culla vagga II. Chương XII.
([26])– Ngưới Ấn xem sữa chua là loại vật thực phụ (
anatirittabhojana).
([27])– Kuyki (Khuy-cơ) là đệ tử của Ngài Huyền Trang, Ngài Huyền
trang thành lập Pháp Tướng tông ở Trung Hoa.
([28])– Mbv. p. 98; xem chi tiết trong MṬ. 177- 179.
([29])– Chi tiết, xem MṬ. 183,
([30])– MṬ. 188.; cp. JA. iv. 474.
([31])– MṬ. 187.
([32])– Sp. i. 44,
([33])– MṬ.189, 324.
([34])– Những đoạn trên trích theo tập Mahāvastu của Bắc truyền.
([35])– Mhv. Chương V.
([36])– Dp.V. Phần đầu.
([37])– Xem Pháp Hiền (d). André Bareau- Các bộ phái Tiểu thừa.
Chương I.
([38])– Rockhill, op. cit. 182.
([39])– Xem Tâm An – Minh Tuệ (d). Luận điểm.
([40])– KvuA, p. 4; Dpv. v. 32.
([41])– Giles, p. 64, Nañjio’s Catalogue có Mahāsaṅghika và
Mahāsaṅghabikhsunī Vinaya bằng tiếng Trung Hoa (Cols. 247, 253. Ms.
No. 543).
([42])– Cv. l. 68.