NHỮNG TRÙNG HỢP KỲ LẠ GIỮA PÀLI VÀ
CÁC NGÔN NGỮ KHÁC
Toại Khanh
Dĩ nhiên chuyện xác định này nọ trong
vấn đề chữ nghĩa là công việc của các nhà ngôn ngữ học, ở đây tôi không
dám lạm bàn ǵ hết ngoài việc liệt kê vài sự trùng hợp thú vị với hi
vọng là biết đâu lại giúp ai đó nhớ được dăm ba từ vựng Pàli cho vui,
chỉ có lợi mà không hại ǵ. Ai cũng có thể làm việc này được cả. Đọc
sách báo thấy có ǵ ngộ nghĩnh hay những khi ngẫu nhiên nhớ ra chuyện
chi lư thú th́ rất nên ghi lại trong sổ tay. Khi thấy có kha khá th́ đem
cống hiến cho thiên hạ. Biết đâu đời có kẻ cần !
Trong bài viết này, TK nhớ đến đâu th́
viết đến đó, từng mục từ không được sắp xếp theo trật tự của bảng chữ
cái tiếng Anh hay Pàli. Nghĩa là các chữ xuất hiện theo cách tràn lan
tùy hứng. Thế mới đúng là giải trí vậy.
Nếu tiếng Anh có chữ Pour (châm, đổ,
rót) th́ tiếng Pàli có chữ Pùreti (làm đầy)
Centipede (con rết, từ gốc La-Tinh có
nghĩa là Trăm Chân)…Tương đương với Satapad́ (nghĩa gốc là 100 chân)
trong Pàli, cũng để gọi con rết.
Path trong tiếng Anh nghĩa là con
đường. Trong Pàli có chữ Patha cũng nghĩa là con đường.
Soup, Soupe trong các tiếng
Anh-Pháp-Đức đều là món súp hay canh. Trong Pàli chữ đó là Sùpa. Dù có
thể món canh ở mỗi nơi và mỗi thời khác nhau, nhưng ta có thể xem đây là
những từ tương đương.
Dent trong tiếng La-Tinh là răng động
vật nói chung, tương đương với Danta trong Pàli (với nghĩa rộng hơn, gọi
chung cho cả răng người và ngà voi).
Ahiphena (nghĩa gốc trong tiếng Pàli
là nước bọt của con rắn, nhưng chữ này được dùng để gọi thuốc Á-Phiện).
Ngẩm kỹ, ta sẽ thấy hai chữ này có một tương đồng đặc biệt về ngữ âm
(phonetic).
Khamati (chịu đựng, từ ngữ căn Kham
trong Pàli), phải chăng có một quan hệ nào với chữ Kham trong Kham Nhẫn
?
Khamàpeti trong tiếng Pàli nghĩa là
Xin Lỗi. Ở tiếng Sanskrit, chữ này là Ksamàpeti mà nhẩm đọc tới lui ta
dễ dàng thấy ra một sự tương đồng với chữ Sám trong Sám Hối.
Tưởng cũng nên nhắc lại ở đây là phụ
âm kép Ks bên tiếng Sanskrit vẫn thường được dùng tương đương với phụ âm
Kh bên tiếng Pàli. chẳng hạn Khattiya (giai cấp Sát-Đế-Lỵ) bên Pàli sẽ
trở thành Ksatriya bên Sanskrit, Khetta (ruộng đồng ; cảnh giới) bên
Pàli sẽ thành ra Ksetra bên Sanskrit. Từ đó người Tàu xưa vẫn gọi các
cảnh chùa là Phật Sát, tức Cửa Phật hay Phật Môn, vốn phiên âm từ chữ
Buddhaksetra. Có điều là nhiều người bây giờ vẫn xem chữ Sát trong Phật
Sát là chữ Hán. Đó cũng là trường hợp chữ Mạt-Lợi (hoa lài) trong tiếng
Hán hiện đại vốn xuất phát từ chữ Mallikà (cũng là hoa nhài hay lài)
trong kinh Phật.
Bhikkhuń (Tỷ-kheo-ni, gồm hai từ tố
Bhikkhu và Ń). Phải chăng đây là nguồn gốc chữ Ni trong Ni Cô ?
No và Not trong tiếng Anh, Nein và
Nicht trong tiếng Đức, Nada trong tiếng Tây-Ban-Nha hay Non và Ne (pas)
trong tiếng Pháp tương đương với Na, No, Natthi (Na+atthi) trong tiếng
Pàli. Chữ nào cũng bắt đầu với N. Đă vậy, số 9 trong Pàli là Nava lại
trùng hợp với Neun trong tiếng Đức, Nine trong tiếng Anh, Neuf trong
tiếng Pháp. Chưa hết, chữ Nava trong Pàli c̣n có nghĩa là Mới (không
cũ), trong tiếng Anh ta thấy có chữ New, tiếng Pháp là Nouveau, tiếng Ư
là Nuovo, tiếng Tây-Ban-Nha là Nuevo (Nueva), tiếng Đức là Neu. Cứ cho
là mấy ngôn ngữ trên đây là cùng một nhóm ngữ hệ, nhưng sự giống nhau
giữa chúng với tiếng Pàli th́ thật ly kỳ !
Vidù trong tiếng Pàli tương đương với
Wise trong tiếng Anh và Weise trong tiếng Đức.
Màtà, Màtu (mẹ, má, mệ, mẫu, mụ) trong
Pàli tương đương với Mother, Maman, Mutter trong Anh-Pháp-Đức và theo TK
được biết th́ có rất nhiều ngôn ngữ khác cũng bắt đầu chữ Mẹ bằng phụ âm
M.
Số 3 trong tiếng Pàli là Ti, Te, Taya
hay Tri. Thật lạ lùng khi bên tiếng Anh là Three, tiếng Đức là Drei,
tiếng Pháp là Trois. Nh́n như anh em một nhà. Ai xài máy ảnh lớn hẳn
phải biết chữ Tripod là cái giá ba chân để gắn máy ảnh. Chữ này nếu đổi
sang Pàli hay Sanskrit th́ mới ngoạn mục : Tripada. Ngó y chang !
Trong tiếng Pali có hai chữ Dvàra
(cửa), Torana (cổng). Ly kỳ là trong tiếng Anh th́ có chữ Door, tiếng
Đức là Tur, cũng đều có nghĩa là cái cửa.
Số 2 trong tiếng Pàli là Dve, Dvi,
Dvà. Trong khi đó bên tiếng Anh là Two, tiếng Pháp là Deux, tiếng
La-Tinh là Duo, tiếng Ư là Due. Thú vị nhất là ông B́nh Nguyên Lộc trong
cuốn Nguồn Gốc Mă-Lai Của Dân Tộc Việt Nam từng cho rằng chữ Đũa (để
gắp) vốn xuất phát từ chữ Sanskrit là Dva (số 2). V́ rằng đó là thứ vật
dụng được làm nên từ 2 chiếc que !
Chữ Muni (Tàu âm Mâu-Ni) trong tiếng
Pàli nghĩa gốc là bậc Tịnh Giả, người lặng lẽ hoàn toàn. Trong khi đó
chữ Monk (thầy tu) trong tiếng Anh có nguồn gốc từ tiếng Hi-Lạp xưa là
Monos, nghĩa là Lẽ Loi, Đơn Chiếc hay Một Ḿnh. Ư nghĩa của hai chữ cứ
như có một chút ǵ quan hệ..
Chữ Thùpa trong tiếng Pàli có nghĩa là
ngôi tháp. Thật lạ lùng khi có chút ǵ đó ngờ ngợ khi tiếng Anh có chữ
Tower và tiếng Pháp là Tour, tiếng Đức là Turm. Ta lại ngờ ngợ chữ Tháp
trong âm Hán Việt qua giọng Quảng Nam với chữ Top trong tiếng Anh. Rơ
ràng càng đi càng xa, nhưng qua đó ta lại thấy ra một tương quan lạ lùng
giữa nhiều thứ trong đời.
Trong tiếng Pàli, ta có các chữ Vàcà
(lời nói), Vàcati (nói), đều từ ngữ căn Vàc. Trong khi đó, trong tiếng
Anh, ta lại phát hiện các chữ có ư nghĩa tương tự: Voice, Vocal,
Vociferous… vốn đều xuất phát từ ngữ căn Voc trong tiếng La-tinh !
Dameti là một động từ Pàli có nghĩa là
Thuần Hoá, Điều Phục. Chữ này xuất phát từ ngữ căn Dam, và cũng là nguồn
gốc của chữ Damma trong Purisadammasàrath́ (Điều Ngự Trượng Phu, một
trong các hồng danh chư Phật). Điều thú vị là động từ Tame trong tiếng
Anh cũng có ư nghĩa giống hệt như Dameti trong Pàli
Bạn có biết rằng người Tàu hôm nay gọi
trái mít là Ba-La-Mật. Chữ Ba-La-Mật này có thể xuất phát từ chữ
Pàramita trong Pàli và Sanskrit. TK cứ ngờ rằng có thể chữ Mít trong
tiếng Việt được biến âm từ chữ Mật trong Ba-La-Mật kia không chừng !
Giáo sư Rhys David từng có giả thuyết
cho chữ God trong tiếng Anh là xuất phát từ chữ Gotama và chữ Allah
(thượng đế của Hồi Giáo) là biến âm của chữ Araham trong Pàli hay Arhat
trong Sanskrit, đều có nghĩa là vị La-Hán. Việc chữ R va L thay thế lẫn
nhau vốn rất b́nh thường, như trên các bia kư thời vua A-Dục ta thấy chữ
Ràjà (nhà vua) trong tiếng Pàli và Sanskrit biến thành Làjà. Trong tiếng
Hán cũng có hiện tượng này. Các chữ ngoại quốc có R khi được phiên âm ra
tiếng Tàu sẽ thành L. Như Sàriputta, Sàriputra sẽ là Xá-Lợi-Phất,
Manjusŕ thành ra Văn Thù Sư Lợi, Veluriya thành ra Lưu-Ly, Yasodharà
thành ra Da-Du-Đà-La, Ràhula thành La-Hầu-La,…
Chữ Daka trong tiếng Pàli có nghĩa là
nước (thủy) và thật thú vị khi trong tiếng Mnông ở Tây Nguyên Việt Nam
cũng có chữ Dak nghĩa là nước. Từ đó mới có các địa danh Đắc-Lắc,
Đắc-Min, Đắc Nông, Đắc Tô…
Bạn có biết rằng địa danh Phan-Rang
vốn biến âm từ chữ Panduranga trong tiếng Sanskrit lẫn Pàli vốn rất gần
gũi với ngưới Chiêm Thành xưa. Rồi th́, tên gọi Chế Mân chính là
Jayavarman. Trường hợp Aya trở thành E vốn là sự thường trong một số
ngôn ngữ, chẳng hạn Pàli và Sanskrit.
RONG CHƠI RỪNG CHỮ
Ở phần 2 này, các mục từ được nhắc đến
không chỉ trên khía cạnh ngữ âm, mà c̣n là những sự kiện liên quan. Rất
có thể đó không là những cứ liệu mang tính khoa học, nhưng hoàn toàn có
thể xem là những gợi ư thú vị cho việc học tập, như lớp đường bọc ngoài
một viên thuốc đắng cho dễ nuốt hơn. Và như mọi khi, tiêu chí của chúng
tôi luôn gói tṛn trong mấy điều vô hại, hữu ích và vui vẻ.
Chindati (Chặt, đốn, cắt) trong Pàli
xuất phát từ ngữ căn Chid, ngó rất gần gũi với động từ Chặt trong tiếng
Việt. Đă thế, chữ Cut trong tiếng Anh và Cát trong tiếng Hán lại y chang
như chữ Cắt trong tiếng Việt về cả ư nghĩa lẫn h́nh thức.
Trong thuật ngữ Y học hiện đại có chữ
Progeria chỉ cho hội chứng Già Trước Tuổi. Những đứa bé mắc bệnh này dù
chỉ vài tuổi đă có cơ thể cằn cỗi giống hệt một cụ già tám mươi. Liếc sơ
chữ Geria (từ chữ gốc Hi-Lạp Geras - già cả) trong thuật ngữ trên, người
học tiếng Pàli khó ḷng không liên tưởng đến chữ Jarà (già lăo) trong
Pàli.
Thật là một trùng hợp lạ lùng khi động
từ Bujjhati trong tiếng Pàli (gốc của chữ Buddha- “Người Tỉnh Giấc ;
Người Hiểu Biết”, Phật, Bụt) lại có cùng lúc hai nghĩa y hệt chữ Giác
trong tiếng Hán: Hiểu biết; Thức dậy hay tỉnh giấc từ một giấc ngủ hay
cơn mơ. Như trong hai câu thơ ngũ ngôn của Khổng Minh Gia Cát Lượng: Đại
mộng thùy tiên giác, b́nh sinh ngă tự tri !
Trong tiếng Hán ta thấy có chữ Ma
nghĩa là Mài, Chà, Xoa, Xát như Án Ma Pháp (phép day huyệt) hay Ma Sát
(chà xát). Chữ này t́nh cờ lại khiến ta tưởng ngay đến chữ Mó (sờ mó)
hay Ṃ (Mẩm) trong tiếng Việt và Massage trong nhiều ngôn ngữ Tây
Phương. Và kỳ thú nhất là trong tiếng Pàli lại có động từ Àmasati (danh
từ là Àmasana), từ ngữ căn Mas, có nghĩa là sờ mó, rờ rẫm. Ngẩm kỹ cũng
ngộ thiệt !
Bạn có chút liên tưởng nào khi thấy
động từ Cày trong tiếng Việt với chữ Canh (cũng nghĩa là cày) trong chữ
Hán. Điều thú vị là bên tiếng Pàli có động từ Kassati (cày xới), rồi
danh từ Kassaka (nông phu, dân cày), đều từ ngữ căn Kas, cũng là gốc của
danh từ Àkàsa (hư không), nguyên dạng là Akasa nghĩa đen là “chỗ không
thể cày xới ” !
Kakaca trong Pàli là cái cưa, tiếng
Hán Việt là Cứ. Ở đây có nhiều lắm cũng chỉ là mối quan hệ giữa hai từ
Cứ trong Hán Việt và Cưa trong tiếng Thuần Việt, nhưng thật ngẫu nhiên
TK vẫn thấy Kakaca dễ gợi nhớ đến hai chữ Cái Cưa. Như từ lâu cứ thấy
chữ Range trong tiếng Anh lại nhớ đến chữ Rặng trong tiếng Việt (Range
of mountains - rặng núi, dăy núi) dù giữa chúng không hề có quan hệ nào.
Động từ Gacchati (từ ngữ căn Gamu)
trong tiếng Pàli có nghĩa là Đi, và cũng là một trùng hợp thú vị khi
động từ đó bên tiếng Anh là Go và tiếng Đức là Gehen. Đều bắt đầu bằng G
!
Hai động từ Bhavati và Hoti trong
tiếng Pàli tương đương với To Be và To Have trong tiếng Anh, Être và
Avoir bên tiếng Pháp, Sein và Haben trong tiếng Đức. Chuyện lạ lùng là
vai tṛ của cặp động từ này trong các ngôn ngữ trên đều quan trọng như
nhau, tần suất thông dụng có thể nói là tương đương nhau. Có lẽ đó cũng
là lư do người Tây Phương học hai thứ tiếng Pàli và Sanskrit rất mau,
rất dễ. Cứ nh́n số lượng học giả Âu Mỹ về hai ngôn ngữ này th́ biết.
Trong khoa Tử Vi của Trung Quốc có một
ngôi sao chiếu mệnh tên là La-Hầu nổi tiếng hắc ám cỡ như Thái Bạch, Kế
Đô hay sao Quả Tạ của người Việt, đều là những hung tinh đáng sợ. Trong
kinh điển Pàli có nói đến một vị đại lực tiên ông tên Ràhu (Tàu âm là
La-hầu) thỉnh thoảng vẫn chơi tṛ nuốt nhả hai vị đại tiên Suriya - Thái
Dương (người chủ quản mặt trời) và Candimà - Nguyệt Thần (người chủ quản
mặt trăng) để tạo nên hiện tượng gần giống nhật thực và nguyệt thực.
Chẳng rơ có quan hệ nào giữa hai tên gọi La-hầu vừa nói chăng nhỉ ?
Có lẽ ít người ngờ rằng ngoài một vài
thứ tiếng như Sanskrit, Prakrit, Hindi (ngôn ngữ phổ thông của Ấn Độ) và
tiếng Nepalese (dùng trong vùng Nepal, sinh quán của hoàng tử Tất-Đạt
xưa), có một thứ ngôn ngữ khá lạ lẫm nhưng được xem là có một lượng lớn
từ vựng giống hệt tiếng Pàli là thứ chữ Ba-Tư cổ được dùng để ghi chép
Thánh Kinh Avesta trong Bái Hỏa Giáo của đạo tổ Zoroastre (cũng là
Zarathustra), người cùng thời hay trước đức Phật ít lâu. Tương truyền
tôn giáo này chính là tiền thân của Ma-Ni Giáo hay Minh Giáo được người
Trung Quốc nhắc đến trong ngôn ngữ và văn chương của họ xưa giờ, chẳng
hạn truyện vơ hiệp của Kim Dung (Ỷ Thiên Đồ Long Kư).
Có bao giờ ta chịu nghĩ rằng các danh
từ Sắc, Thọ, Tưởng, Hành, Thức trước khi trở thành những thuật ngữ đặc
hữu trong Phật Pháp với những ư nghĩa chuyên môn (theo giáo lư A-Tỳ-Đàm
chẳng hạn), th́ đă có một thời chúng cũng từng mang những ư nghĩa tương
tự hay rất gần gũi với các định nghĩa sau này. Đó là lư do v́ sao nhóm
năm tỷ kheo do ngài Kiều-Trần-Như dẫn đầu đă có thể nghe nổi bài kinh
Vô-Ngă-Tướng (Anattalakkhanasutta) ngay trong những ngày hoằng pháp đầu
tiên của đức Phật một cách thoải mái và trực tiếp, chẳng cần một chú
thích từ vựng nào cả !
Đến đây ta thử bàn chơi một thuật ngữ
rất gần gũi với đa số người Việt là là chữ Vu-Lan. Thiệt bụng th́ TK vẫn
thắc mắc tại sao thiên hạ cứ khăng khăng bảo rằng chữ Vu-Lan kia là
phiên âm từ danh từ Ullumbana rồi dịch sang chữ Hán là Đảo Huyền, và
giải thích rằng đó là tên gọi một h́nh phạt “treo ngược đầu” ở địa ngục.
Ô hay, theo kinh mà nói ( Nemiràjajàtaka-atthakathà) th́ khổ h́nh dưới
kia có trăm ngàn kiểu tàn khốc, cớ sao ở đây lại chọn riêng một món mà
gọi tên chung cho cả một đại lễ. Ở đây khoan bàn đến sử tính của cái gọi
là lễ Vu Lan (không có trong kinh điển Pàli), ta chỉ nên nêu một thắc
mắc, cũng là một đề nghị: Sao người ta lại không cho chữ gốc của từ
Vu-Lan là Ullumpana (sự cứu vớt, cứu độ) mà lại chọn một chữ không mấy
đắc địa là Ullumbana (huyền không, đảo huyền, sự treo ṭn ten), cho dù
đó có là một kiểu khổ h́nh nào đó ở âm ty. Trộm nghĩ, nhiều khi chỉ sự
nhầm lẫn của một người đi trước có thể kéo theo sự nhầm lẫn của hàng
triệu người đi sau, khi sự ‘tháp tùng” lâu ngày thành ra “phục tùng”, và
đến nước này th́ chỉ có trời cứu !
Một thuật ngữ khác cũng quan trọng,
thậm chí là linh hồn của cả hệ thống giáo lư A-Tỳ-Đàm, là Paramattha,
lại cũng là một “nghi án” kỳ lạ đáng để bàn soạn. Trong A-Tỳ-Đàm, toàn
bộ thế giới mà ta vẫn nương gá, nh́n ngắm và cảm nhận chỉ là cái vỏ
ngoài Tục Đế (Sammutisacca), Giả Lập (Parikappa, Parikalpita), Thi Thiết
(Pannatti, Prajnapti) của một thế giới tinh thể rốt ráo, hay Chân Đế
(Paramattha) vốn chỉ là những bản thể, tính chất, trạng thái không có
h́nh dáng hay quy mô như ta vẫn thấy qua các ngành khoa học, nghệ thuật,
triết học. Một cách nôm na nhất, khái niệm “ly nuớc” là Tục Đế và những
thành phần hoá học tạo nên nước và thủy tinh trong cái gọi là Ly Nước
chính là Chân Đế (Paramattha). Người học A-Tỳ-Đàm hôm nay tuyệt không
thể không biết đến thuật ngữ Paramattha. Vậy mà, có ai ngờ được rằng chữ
này lại chỉ xuất hiện hiếm hoi trong toàn bộ kinh điển Pàli. Theo chỗ TK
được biết th́ trong Tam Tạng Pàli chỉ có một vài chỗ (không quá một bàn
tay) nhắc đến thuật ngữ này. Đó là chương đầu trong bộ A-Tỳ-Đàm thứ năm
tức bộ Luận Điểm (Kathàvatthu) và tập Cariyàpitaka (Bồ Tát Hạnh Tạng).
Đă vậy, chỉ trong bộ Luận Điểm, chữ Paramattha mới có ư nghĩa Chân Đế
như vừa nhắc sơ ở trên, c̣n ở tập Bồ Tát Hạnh Tạng th́ chữ này có ư
nghĩa là “ cứu cánh cao nhất ”, ám chỉ Phật Quả.
Ai người học Phật lại không biết đến
hay nghe qua chữ Ba-La-Mật (Pàraḿ, Pàramita), đoạn đường hành tŕ bắt
buộc để một người thành Phật, nên thánh. Thế nhưng điều đặc biệt là khái
niệm Ba-La-Mật này lại cũng là của hiếm trong kinh điển Pàli. Ngoại trừ
một chỗ trong Trung Bộ Kinh (M.II.211) có nhắc đến chữ
Abhinnàvosànapàramippatta hay trong Suttanipàta (câu kệ 1018, 1020) và
tập Cariyàpitaka (vẫn bị ngờ là hậu tác) trong Tiểu Bộ Kinh Pàli, ta khó
ḷng t́m thấy chỗ nào khác trong kinh điển Pàli nhắc đến thuật ngữ này,
nói ǵ là việc bàn sâu nói rộng. Cái gọi là lư tưởng Bồ Tát Đạo trong
Phật giáo Nam Tông chỉ được đậm nét trong trong ḍng kinh văn bậc hai là
các tập Sớ Giải ra đời sau ngày Phật tịch, có nghĩa là không phải trong
ḍng kinh văn bậc một, tức Chánh tạng Pàli. Nếu chịu khó khách quan và
b́nh tĩnh một tí để xét lại sử tính của các kinh điển Phật giáo thời kỳ
bộ phái, th́ ta cũng sẽ thấy ra nhiều sự ly kỳ. Nghĩa là thiên hạ đời
sau đă y cứ vào một vài chỗ bỏ ngơ trong kinh văn truyền thống để mở ra
những sân chơi náo nhiệt với một Miễn Tử Kim Bài gắn ở cổng vào là Như
Thị Ngă Văn, Evam Mayà Srutam, thậm chí…Evam Me Sutam (tác phẩm
Dasabodhisattuppattikathà viết về mười vị Phật tương lai cũng bắt đầu
bằng Evam Me Sutam ) !
Từ lâu, nếu có ai hỏi v́ sao đức Phật
gần như chẳng nói ǵ về lư tưởng Bồ Tát Đạo th́ tôi chỉ trả lời theo
cách hiểu dốt nát của ḿnh rằng tỷ lệ giữa người có thể thành Phật Chánh
Đẳng Giác với số người không tới được cứu cánh này chỉ là một trên nhiều
tỉ. Từ đó, tuyệt đại đa số đối tượng độ sinh của Thế Tôn chỉ là những
người đơn giản cầu thoát tử sinh, đem Bồ Tát Đạo nói cho họ phải chăng
không phải chỗ. Riêng đối với bậc đại nhân có đủ bản lănh thành Phật th́
chẳng cần nói nhiều, họ chỉ cần nghĩ nhớ về Phật rồi y cứ trên tinh thần
đại thể của Phật Pháp là thừa biết ḿnh phải làm ǵ. Chẳng hạn các
chương tŕnh giáo dục trong các trường lớp trên toàn cầu nào có chỗ nào
dạy người ta thành tỷ phú hay đoạt giải Nobel đâu, mọi thứ cứ theo tŕnh
độ phổ thông của thiên hạ mà tính. Ai trong thiên hạ là bậc kỳ nhân th́
tự dưng chọn được hướng riêng cho ḿnh dựa trên cái chung đă học với
thiên hạ.
Cái độc đáo trong kinh điển nguyên
thủy là một nội dung bao hàm vô số vấn đề một cách kín đáo. Câu hỏi nào
cũng có lời đáp, nhưng nội dung những lời đáp đó nhiều khi bàng bạc khắp
nơi, kẻ cầu đạo phải chịu khó dụng công một tí mới có thể thấy ra. Phàm
phu muốn thay Phật làm lớn chuyện những vấn đề nọ kia nhiều khi chỉ
khiến hoài phí thời gian bởi trí tuệ và ngữ ngôn của chúng ta rơ ràng có
quá nhiều giới hạn, dễ gây nên những chuyện lợi bất cập hại. Cứ làm theo
những lời dạy “có vẻ đơn giản” của Thế Tôn rồi một lúc nào đó tự dưng
thấy thêm những chuyện khác. Cứ ngồi đó tán suông lắm khi chỉ là hại
ḿnh, hại người !
XIN ĐỪNG HỎI V̀ SAO
Có một sự trùng hợp lạ lùng khó giải
thích là ở nhiều ngôn ngữ, câu nói chào khách, hoan nghênh kẻ mới đến,
đều có một nội dung và từ vựng giống nhau. Trong khi người Tàu chào
khách bằng hai chữ Hoan Nghênh thiệt riêng tây, th́ ở một loạt ngôn ngữ
khác, gồm tiếng Pàli và nhiều ngôn ngữ Tây Phương lại có cách biểu đạt
giống hệt nhau, tương đồng về cả từ nguyên. Tiếng Anh, Mỹ nói Welcome
(gồm Well (tốt) + Come (Đến, Tới), tiếng Đức cũng dùng chữ này nhưng
biến đổi một chút thành Willkommen, tiếng Tây Ban Nha là Bienvenidos và
tiếng Pháp là Bienvenue (đều có cùng ngữ căn Bien (Tốt) + Venir (Đến,
Tới). Tiếng Miên vay mượn từ Pàli và Sanskrit để có chữ Soa-khum, gốc từ
chữ Svàgamana (gồm Su (tốt) + Àgamana (đến, tới). Trong tiếng Pàli lại
có thêm chữ khác là Svàgata (cũng gồm Su (tốt) + Àgata (đến, tới), cũng
có nghĩa là Welcome !
Ta có chút liên tưởng nào khi nh́n
thấy chữ Bhàga (phần, bộ phận) trong tiếng Pàli với danh từ Part trong
tiếng Anh, cũng có nghĩa là phần.
Tiếng Pàli có từ Bhanga (sự rời ră,
nát tan, thất tán, phân ly), tiếng Hán Việt có chữ Phấn cũng là tan nát,
đổ vỡ. Chưa hết, lâu nay cứ thấy chữ Phân (ly), Phần, Phận trong tiếng
Hán Việt th́ tôi cứ nhớ đến chữ Bhanga bên tiếng Pàli, cũng như thấy chữ
Bheda (bể, vỡ ; thứ, loại) của Pàli th́ tôi lại nhớ đến chữ Bể bên tiếng
Việt. Lạ thiệt, chúng cứ như cùng một gốc.
Chẳng hiểu sao chữ Danh Từ hay Tên Gọi
trong vài thứ tiếng lại giống nhau như đúc: Trong ba thứ tiếng
Anh-Pháp-Đức là Name, Nom, Namen, c̣n bên tiếng Pàli là Nàma !
Theo tiếng Pàli, Con Người được gọi là
Manussa, nghĩa là con cháu hay hậu duệ của vua Manu. Tên gọi này xuất
phát từ một truyền thuyết rằng ông vua đầu tiên trên xứ Ấn Độ tên là
Manu . Ông là một minh quân kiểu Nghiêu Thuấn bên Tàu và chính là người
đă làm ra bộ luật Manu nổi tiếng thời Cổ Ấn mà nay vẫn c̣n được biết
đến, tương đương với bộ luật Hammurabi của vương quốc Babylon ngày
trước. Chẳng rơ v́ lư do nào, chữ Man bên tiếng Anh và Mann trong tiếng
Đức lại ngó như có cùng nguồn gốc với chữ Manussa bên Pàli !
Bên tiếng Pàli có chữ Sama nghĩa là
cái giống nhau, thứ tương tự, như Asama là vô địch, không có cái tương
đương. Thú vị là nh́n lại bên tiếng Anh ta thấy có chữ Same và Similar
cũng có cùng nghĩa như vậy !
Trong tiếng Pàli có chữ Kanittha nghĩa
là bé nhỏ, như Kanitthabhàtà là em trai hay Akanittha là cơi Phạm Thiên
cao nhất trong 5 cơi Tịnh Cư. Ở cơi này, toàn bộ Ngũ Quyền (Tín, Tấn,
Niệm, Định , Tuệ) của các Phạm thiên đều ở mức toàn hảo, v́ đây là nơi
chốn cuối cùng để các vị chứng ngộ La-Hán rồi viên tịch, không c̣n có
thêm một kiếp tái sinh nào nữa. Ở bốn cơi Tịnh Cư kia có thể có những
Phạm Thiên c̣n chút khiếm khuyết trong đạo lực, nhưng ở cơi Akanittha
th́ không, v́ vậy tên gọi Akanittha ở đây có nghĩa là “không một thiện
pháp nào ở đây là yếu ớt, nhỏ nhoi”. Thật lạ lùng, mỗi khi TK nh́n thấy
chữ Kanittha trong Pàli th́ lại nhớ đến chữ Con Nít trong tiếng Việt.
Lại cũng xin đừng hỏi v́ sao !
Trong khi bên tiếng Pàli có chữ Cora
(đọc là Chô-rá) nghĩa là trộm cướp nói chung, th́ trong tiếng Việt có
chữ Trộm, và tiếng lóng trong nước bây giờ c̣n có chữ Chôm, cũng có
nghĩa là trộm. Nghe chữ này cứ bắt nhớ chữ kia !
Thật ly kỳ khi trong tiếng Pàli có chữ
Bhàra là Gánh Nặng (như câu Phật ngôn Bhàrà Have Pancakkhandhà, năm uẩn
đúng là những gánh nặng), th́ bên tiếng Anh ta có động từ Bear nghĩa là
cưu mang, gánh vác. Ngó kỹ hai chữ Bhàra và Bear ta thấy như có chút ǵ
bà con.
Trong Pàli có động từ Vaddhati (tăng
trưởng, phát triển), danh từ Vaddhana (sự phát triển), danh từ Vaddhaka
(bậc trưởng thượng hay người già cả). Nh́n sang chữ Phát trong Hán Việt,
ta thấy chữ Vaddhati bỗng trở nên dễ nhớ hơn.
Trong tiếng Hi-Lạp có chữ Sophia là
trí tuệ, sự sáng sủa (như trong chữ Philosophy). Điều thú vị là bên Pàli
có 2 chữ Subha và Sobhana cũng đều có nghĩa là sáng sủa, tinh khiết,
chói sáng. Chẳng rơ có sự liên quan nào giữa ba chữ này.
Trong khi tiếng Anh có chữ Youth là
tuổi trẻ, bên tiếng Pàli có chữ Yuva cũng là tuổi trẻ !
Chữ Sutta trong tiếng Pàli có nhiều
nghĩa, trong đó có ư nghĩa Sợi Chỉ. Từ nghĩa này, thật thú vị khi thấy
chữ Sutta tôi cứ liên tưởng đến chữ Suốt trong tiếng Việt. Xin đừng hỏi
v́ sao !
Chữ Mad trong tiếng Anh nghĩa là điên
khùng. Tôi đă ngẫu nhiên thấy ra chút ǵ gụi gần giữa chữ Mad này với ba
chữ Ummattaka (người loạn trí), Mada (say đắm), Majja ( say sưa) trong
tiếng Pàli, rồi th́ chữ Mê trong tiếng Việt. Nhờ kiểu liên tưởng Madly
này mà tôi nhớ được nhiều từ vựng chăng !
Thật ly kỳ khi t́nh cờ nhiều ngôn ngữ
có chung một cách diễn tả về cái chết. Như khi tiếng Việt gọi là Qua
Đời, th́ tiếng Hán Việt gọi là Quá Cố, Quá Văng, đều nhắm đến ư nghĩa
“qua khỏi, bỏ lại sau lưng” cái cơi trần gian này. Thế rồi tiếng Anh lại
có chữ Passing Away cũng là sự từ trần, sự phủi áo ra đi, sự vượt qua,
bỏ lại cái ǵ đó. Và ư nghĩa “Vượt qua, bỏ lại” ấy ai ngờ lại từng xuất
hiện trong cả tiếng Pàli từ mấy ngh́n năm trước, chẳng hạn trong lời dặn
ḍ sau cùng của đức Phật cho chúng tăng: Những giáo lư và giới luật đă
được ta tuyên thuyết, chế định sẽ tiếp tục là đạo sư cho các ngươi ngay
khi ta đă ra đi (mamaccayena). Accaya (Ati+aya) có nghĩa là sự đi qua
khỏi, sự quá văng, quá cố, qua đời. Cũng phải thôi, sinh ra là một lần
ghé lại, đời sống là chuỗi ngày rong ruỗi, rồi th́ chết là lúc đôi chân
đă rời khỏi nhân gian. Đời người là cái ǵ đó phải vượt qua, bỏ lại !
Đă nói đến cái chết mà không nhắc thêm
một động từ Pàli nữa th́ cũng là đáng tiếc vậy. Đó là chữ Marati (chết)
trong tiếng Pàli cùng một loạt những trùng hợp thú vị với các ngoại ngữ
khác. Có ai trong chúng ta ngờ rằng chữ Ma (yêu ma) trong tiếng Việt và
Hán lại xuất phát từ chữ Màra (ma vương, ác ma) trong tiếng Pàli và
Sanskrit. Chữ Màra này vốn có nghĩa đen là Thần Chết, kẻ sát nhân. Trong
kinh điển Pàli, chữ Màra có nhiều nghĩa, nhưng đại khái là cái ǵ gây
nên chuyện chết chóc, phá hoại. Như Ác Ma thiên tử là vị thiên vương chủ
quản cơi Dục Thiên cao nhất luôn t́m dịp phá rối, trêu chọc những người
tu hành thượng thặng, kể cả đức Phật. Phiền năo, cái chết, và cả sự hiện
hữu trong Tam Giới cũng được gọi là Màra v́ đó là những ǵ làm khổ chúng
sinh. Và dù ở ư nghĩa nào, chữ Màra cũng xuất phát từ động từ Marati
(chết). Từ động từ này, ta lại có thêm động từ Màreti (giết, làm cho
chết).
Điều khó hiểu nhưng thú vị là nh́n
sang các ngôn ngữ Tây Phương, ta thấy dường như chữ Marati của Pàli có
khá nhiều bè bạn. Tiếng Pháp có Mort, tiếng La-Tinh có Morior, đều nghĩa
là chết. Rồi th́ tiếng Anh có Murder (kẻ sát nhân), tiếng Đức có Mord
cũng đồng nghĩa. Cuối cùng, h́nh thức Quá khứ Phân Từ của Marati (chết)
là Mata lại khiến ta liên tưởng đến chữ Mất trong tiếng Việt, cũng có
nghĩa là Chết !
Đến đây th́ ta lại phải nhắc đến một
thuật ngữ vừa nổi tiếng mà cũng rất nhạy cảm trong Phật giáo hôm nay, đó
là chữ Thiền. Như một định phận khốc liệt cho Phật giáo hiện đại khi mà
những từ ngữ, khái niệm được xem là tối yếu, ghê gớm, quan trọng nhất
lại cứ là những “nghi án” ởm ờ và khó ăn nói nhất. Có lẽ rồi sẽ đến lúc
mà điều ta phải e ngại nhất chính là sự lặng lẽ quan sát của những người
không phải Phật tử lại có điều kiện tham cứu tường tận kinh Phật bằng
một thái độ thanh thản, b́nh tĩnh, không bận ḷng với những tự ái, tự
tôn hay một lư do cá nhân nào hết. Họ sẽ có nhiều điều kiện tâm lư để
nhận ra cái ǵ là thừa hay thiếu, đúng hay sai. Trong khi đó, v́ quá
nặng ḷng hay nặng t́nh với vài thứ, người tự nhận là Phật giáo đồ đôi
lúc phải gồng gánh những thứ chính ḿnh thấy là có vấn đề. Chẳng hạn
không ít người học Phật hôm nay chẳng dám nghĩ nhiều vể sử tính của các
thuật ngữ vẫn được xem là quan trọng và nổi tiếng, như Pháp Thân, Phật
Tánh, A-Lại-Da Thức, Như Lai Tạng, Chân Không, Diệu Hữu, Bất Nhị, Trung
Ấm, Văng Sanh, rồi th́ cả chữ Thiền mà ai cũng nghĩ là một cấm địa
thiêng liêng.
Thuật ngữ Thiền vẫn đang được thiên hạ
sử dụng rộng răi hôm nay như Cửa Thiền (chùa chiền, chốn tu hành), Thiền
Tông (tông phái đặt nặng nội dung tu học qua việc tham án, thiền định,
tĩnh tâm) với vô số danh nghĩa Thiền Phái, Thiền Sư mà mỗi nơi có một
lối định nghĩa và hành tŕ không mấy giống nhau, vốn xuất phát từ chữ
Jhàna trong tiếng Pàli và Dhyàna bên tiếng Sanskrit. Hai chữ này theo
nghĩa gốc trong Tam Tạng kinh điển nguyên thủy chỉ có nghĩa là bốn tầng
thiền chứng Sơ, Nhị, Tam, Tứ Thiền. Và theo kinh điển Pàli, tầng Sơ
Thiền là tŕnh độ tâm linh chỉ có thể đạt được qua sự tập trung tư tưởng
đúng mức trên các đề mục (gồm mấy chục đề mục, xin xem thêm trong Thanh
Tịnh Đạo phần giải về Định Học – Samàdhiniddesa). Và trên nguyên tắc,
người chứng đạt tầng Sơ Thiền phải vượt qua được năm thứ phiền năo thô
thiển nhất là Tham Dục, Sân Độc, Hôn Thụy, Trạo Hối, Hoài Nghi. Đồng
thời, tŕnh độ tâm linh này bao gồm năm khả năng cần thiết cho tầng Đại
Định sơ cấp là Tầm, Tứ, Hỷ, Lạc, Định. Nói vậy có nghĩa là chỉ riêng
tầng Sơ Thiền cũng không phải là món dễ nuốt. Nếu hành giả có cơ duyên
sâu dày, sau tầng Sơ Thiền sẽ là các tầng thiền chứng c̣n lại với những
nội dung ngày một cao cấp và vi tế hơn. Nếu đến lúc lâm chung mà vẫn giữ
được các tầng thiền chứng này, hành giả sẽ sanh vào các cơi Phạm Thiên
tương ứng. Khi không có chư Phật ra đời, trong thiên hạ vẫn có những
người tu tập và chứng đắc các tầng thiền định trên đây, nhưng thường th́
cứu cánh cao nhất mà họ đạt được chỉ là khả năng thần thông (với tŕnh
độ Tứ Thiền) và văng sinh Phạm Thiên Giới (sống hết tuổi thọ trên đây
th́ đương sự tiếp tục trở về ṿng quay mịt mù của Lục Đạo theo duyên
nghiệp của ḿnh). Chư Phật vẫn nh́n nhận giá trị của các tầng thiền
chứng này, nhưng chỉ xem đó như bước đi thứ hai trong hành tŕnh Tam Học
(Giới, Định, Tuệ). Tức là bên cạnh sự thanh tịnh trong giới luật, hành
giả cũng nên tu tập các tầng thiền định để lấy đó làm nền tảng cho trí
tuệ quán chiếu Tam Tướng (Vô Thường, Khổ Năo, Vô ngă) trong vạn pháp. Kể
cả bản thân các tầng thiền chứng cũng được xem là đối tượng để quán
chiếu Tam Tướng. Nghĩa là ngoài việc nh́n ngắm những tham, sân, si, và
các loại thiện tâm của ḿnh để quán chiếu Ngũ uẩn, hành giả từng chứng
qua thiền định c̣n có thể quan sát các thiền tâm của ḿnh để giác ngộ
tính Tam Tướng trong đó.
Theo bước chân hoằng hoá của các tu sĩ
Phật giáo, giáo lư Tam học được giới thiệu rộng răi ở nhiều miền đất và
tùy theo tŕnh độ, khuynh hướng của các vị mà Phật pháp ngày một có thêm
những triển khai tùy thích và tùy nghi. Một trong những nhánh rẽ ngoạn
mục nhất của các ḍng Phật giáo là sự đào sâu, khoét rộng chữ Thiền
(Jhàna, dhyàna). Hôm nay người Tàu hiểu chữ Thiền (Chan) không giống như
người Nhật hiểu chữ Zen. Đó là chưa kể đến trường hợp hai chữ này được
hiểu theo cách của các học giả Tây Phương. Như Philip Kapleau làm sao
giống với Daisetz Tettaro Suzuki, rồi Thiền Việt Nam hải ngoại với Thiền
Việt Nam quốc nội. Một cách khiên cưỡng, gượng gạo th́ ta có thể nói
trăm sông đều đổ về biển, hay con đường nào cũng về La-Mă, nhưng nếu có
thời giờ ngó kỹ cách thức hành tŕ của các thiền phái Lâm Tế, Tào Động,
Thảo Đường, Trúc Lâm, Thiền Tông Thần Tú, Thiền Tông Huệ Năng , nói
chung là thiền Tàu, thiền Việt, thiền Nhật, thiền Đại Hàn, thiền Tây
Tạng, thiền Tây Phương,…th́ ta sẽ thấy không phải ḍng sông nào trong số
đó cũng giống nhau hay đều dẫn về biển !
Theo chỗ TK được biết, trong kinh điển
Nam Tông nguyên lai không hề có chữ Thiền với ư nghĩa như đại đa số
người học Phật hôm nay vẫn hiểu. Trong tạng A-Tỳ-Đàm có hai định nghĩa
về chữ Thiền. Thứ nhất, chữ này ám chỉ bốn tầng thiền chứng và ư nghĩa
thứ hai (trong bộ Patthàna) là gọi chung cho những ǵ có quan hệ trực
tiếp hay gián tiếp với các Thiền Chi (Jhànanga) như Tầm, Tứ, kể cả hỷ
thọ, ưu thọ…Trong một trường hợp khác, theo bộ Paramatthamanjusà (Sớ
Giải của bộ Thanh Tịnh Đạo), pháp môn Tuệ Quán (Vipassanà) tức Tứ Niệm
Xứ được gọi là Lakkhanùpanijjhàna, tạm dịch là sự chuyên chú trong Tam
Tướng (Tam Pháp Ấn) bằng cách an trú Chánh Niệm cùng Tỉnh Giác
(Sampajanna- tức trí tuệ) và pháp môn Chỉ Tịnh (Samatha) tức việc tu tập
thiền định qua các đề mục thiền Chỉ, được gọi là Àrammanùpanijjhàna, tạm
dịch là sự chuyên chú trong các đối tượng án xứ bằng cách tập trung tư
tưởng. Người Anh Mỹ gọi pháp môn Tuệ Quán là Insight (Nội Quán) và pháp
môn Chỉ Tịnh là Concentration (Tập Trung Tư Tưởng). Cũng xin lưu ư rằng
trong trích dẫn trên đây, pháp môn Tuệ Quán cũng không được gọi tên bằng
một chữ Jhàna độc lập, mà là một từ ghép Upanijjhàna. Trong khi đó chữ
Thiền là tiếng phiên âm từ mỗi một chữ Jhàna. Chẳng bàn chi chuyện chữ
nghĩa, nếu chỉ xét về nội dung hành tŕ của người tu thiền bây giờ th́
có lẽ thiền Chỉ hay thiền Quán thời nguyên thủy không được quan tâm
nhiều lắm. Từ đó, chiếu theo những ǵ vừa thưa ở trên, Zen hay Thiền hay
Chan theo lối hiểu phổ thông hôm nay h́nh như lại là một hướng đi mới
của Phật giáo hậu thời nhằm khế hợp với căn cơ hay tâm t́nh, khuynh
hướng của thời đại Hậu Phật.
Nhưng có lẽ cũng nhờ tinh thần “phương
tiện” này, người Phật tử hôm nay đă được trấn an rất nhiều khi giữa
những nhịp sống xô bồ họ vẫn thấy ḿnh không đến nổi xa rời Phật Pháp.
Họ có thể chơi lan kiểng, tập luyện vơ thuật, dưỡng sinh, uống trà, rồi
th́ hội hoạ, thơ văn, âm nhạc, kể cả trang trí nội thất,…miễn là món nào
cũng có một chữ Thiền đỏ chót nằm bên cạnh là vững bụng rồi. Với lối tu
hành nhẹ nhàng đó có thể khó nên thánh, nhưng có thể trở thành những
phàm phu dễ thương. Vậy cũng là nhất rồi!