BÀN VỀ VIỆC DỊCH KINH PHẬT

PHAN KHÔI

 

I. PHẢI LÀ NGƯỜI TINH THÔNG PHẬT HỌC
MỚI CÓ THỂ DỊCH ĐƯỢC KINH

 

Ở Nam kỳ từ có tiếng kêu “Chấn hưng Phật giáo” đến nay, coi ư có nhiều người để tâm về sự dịch thuật sách vở nhà Phật. Như Sư Thiện Chiếu xuất bản sách Phật học tổng yếu năm kia, và gần đây ông Đoàn Trung C̣n cũng có mở ra một cơ quan chuyên làm việc ấy. Lại ngoài ra cũng có những sách nói về đạo Phật, h́nh như không trọng yếu mấy, lải rải xuất bản luôn.

Nhưng việc dịch kinh th́ chưa thấy ai làm. Việc nầy mà chưa làm th́ các việc dịch thuật khác cũng chẳng nên kể vào đâu. Bởi v́, tông giáo nào cũng vậy, kinh điển là cái gốc; cái gốc mà chưa có th́ những cái ngọn kia không nương dựa chỗ nào được để mà sống vậy.

Nam kỳ ngày nay mà muốn nói chuyện chấn hưng Phật giáo, ngoài các việc khác, nên lo gấp việc dịch kinh. Điều đó tưởng những bực hữu tâm đă nh́n thấy, không cần nói nhiều. Nay tôi chỉ xin bàn về việc dịch kinh nên thế nào. Tôi có biết được những điều ǵ trong việc ấy, xin đem cống hiến cho các nhà có ư lo về đạo Phật.

Tôi tuy không phải là người tin đạo Phật, nhưng việc dịch kinh là việc có quan hệ với văn học và học thuật tư tưởng nước ta, bởi vậy, người khác sốt sắng lo việc ấy thế nào th́ tôi cũng sốt sắng như thế; và tôi cũng có quyền bàn bạc việc ấy như người khác.

Đầu hết tôi muốn cho người ta hiểu con người có học thức thế nào th́ dịch được kinh Phật, muốn nói rộng ra, các kinh của các tông giáo khác.

Mỗi tông giáo đều có kinh điển của ḿnh. Cho được dịch kinh điển của tông giáo nào từ thứ tiếng nầy ra thứ tiếng khác, tất có người biết cả hai thứ tiếng đó cố nhiên, mà cốt nhứt lại là người ấy phải ở trong tông giáo ấy mà ra. Bởi v́ có ở trong tông giáo ấy th́ mới hiểu rơ được đạo lư để mà nói sang thứ tiếng khác. Nếu cái người ở trong tông giáo đó không thạo lắm về nghề làm văn th́ phải nhờ đến người thạo nghề ở ngoài; nhưng người ngoài chẳng qua là vai phụ, c̣n vai chánh bao giờ cũng phải lấy trong tông giáo, v́ trong kinh điển, phần đạo lư là phần trọng hơn vậy.

Tôi đă từng dịch kinh điển đạo Cơ Đốc từ tiếng Pháp và tiếng Tàu ra tiếng Việt Nam. Hồi đó tôi làm việc ấy dưới quyền hai ông bà mục sư W.Cadman. Tuy họ coi tôi là người trọng yếu lắm trong việc dịch, nhưng dầu đến một câu trong đó họ cũng không để toàn quyền về tôi. Gặp câu nào nghĩa hơi khó một chút th́ bà Cadman đem nhiều bổn sách ra mà đối chiếu, – v́ bà biết đến 13 thứ tiếng – để chọn lấy nghĩa nào đúng nhứt. Phần chúng tôi dịch chỉ có bộ Tân ước và một phần ba Cựu ước thôi, song mất đến 5 năm mới thành.

Tôi kể việc ấy vào đây để cho thấy người ngoại quốc làm việc dịch kinh, coi là việc trọng đại lắm, không dám cẩu thả. Tôi muốn cho người nào hay là cơ quan nào trong xứ ta đây toan việc dịch kinh Phật ra, cũng phải làm như người đă dịch kinh đạo Cơ Đốc đó.

Tôi thấy như người ḿnh tưởng sự dịch kinh Phật là dễ lắm, hễ ai biết chữ Hán và biết làm văn quốc ngữ th́ cứ nắm nguyên bổn mà dịch ra được ngay. Tưởng như vậy là lầm.

Mới đây có một ông cậy người hỏi tôi thử, như dịch bộ Diệu pháp liên hoa ra th́ ăn bao nhiêu tiền. Nếu chịu dịch th́ nói giá cả đi, và dịch thử cho ông ấy xem một ít, rồi hễ vừa ư ông th́ bắt đầu làm.

Tôi thấy nói th́ hiểu ư ông ấy h́nh như đă tin tôi là có thể dịch kinh ấy được. Nhưng, xin thú thật, việc đó có phải là việc một ḿnh tôi làm đặng đâu.

Tôi vẫn tự tin rằng cái tŕnh độ học chữ Hán của tôi là khá cao, sự ấy tôi chẳng phải đem mà khoa thị với ai, cũng chẳng nên khiêm tốn làm ǵ. Có điều cái tŕnh độ Hán văn có cao tới đâu đi nữa cũng không có thể coi nó là cái giấy chứng nhận vững vàng rằng dịch kinh Phật được, nếu chẳng có tinh thông Phật học. Tôi từ nhỏ tới lớn chưa hề thọ giáo cùng ông thầy nào về Phật học, và cũng chưa từng nghiên cứu nó mà có sở đắc ǵ, th́ làm sao tôi dám mũng(*) lấy việc dịch kinh?

Sau khi tôi đọc sơ qua bộ Pháp hoa – Pháp hoa gồm có ba kinh, Diệu pháp liên hoa là một – tôi thấy rơ ràng sự tôi nghĩ từ trước thật chẳng sai; nghĩa là tôi không thể lấy sức một ḿnh mà dịch được nó. Sau lại, tôi phải trả lời cho ông nọ thiệt t́nh như tôi đă viết ra đây.

Vậy th́, ngày nay nếu có ai muốn làm việc nầy, không nên chuyên cậy những người biết chữ Hán, viết văn hay ở ngoài cửa Phật, mà phải t́m một ông sư đứng chủ trương. Ngoài sự đó ra, c̣n phải tốn nhiều tiền, phải trải qua nhiều ngày tháng, cũng lại là điều nên biết trước vậy.

Kiếm một ông sư! Một ông sư tinh thông Phật học! Một ông sư đủ tri thức về Phật giáo để dịch những kinh như Pháp hoa và Kim cương! À! chuyện nầy hơi khó rồi đây!

Thắp đuốc mà t́m! T́m đi! Nếu nói có th́ là ai? Nhược bằng nói không, th́ tu ǵ mà tu hơn một ngàn năm nay trong cơi Việt Nam, bây giờ bảo kiếm một người dịch kinh không được?

Vậy đó cho ai nấy sáng con mắt ra, chớ có mỗi việc mỗi khoe, làm như con Rồng cháu Tiên chỉ thiếu một tấc tới trời!

Mười lăm năm nay tôi ở Bắc có, Nam có, tôi gặp hết thảy cũng được ba chục ông sư. Có ông Viên Thành ở Huế, tôi thấy là cái học có gốc, nhưng người đă tịch lâu rồi. Hiện giờ trong Nam đây có ông Thiện Chiếu, theo tôi biết, tôi tin là có thể chủ trương việc dịch kinh được. Nếu ông Thiện Chiếu đứng chủ trương, lại có một người giỏi Hán văn và Quốc ngữ giúp ông nữa, th́ cũng có thể dịch ra được một vài bộ dễ dễ mà thôi, nhưng cũng đă là có ích rồi.

Hết thảy các tông giáo chỉ có bên Phật là nhiều kinh điển hơn. Vậy mà trong nước ta ít có nhân tài về Phật học th́ khó ḷng mà nói chuyện dịch kinh, khó ḷng mà nói chuyện chấn hưng Phật giáo lắm ai ôi!

 

II. NHỮNG ĐIỀU KHÓ TRONG SỰ DỊCH KINH

Bài trước tôi nói một người giỏi chữ Hán không phải là người dịch kinh Phật được đâu. Là v́ kinh Phật không phải như những sách thường, nghĩa lư đă cao, lại thêm nhiều điều khó lắm nữa. Gần đây, nhơn có người muốn cậy tôi dịch kinh, tôi mới đọc qua thử vài bộ mà đă thấy ra nhiều sự khó ấy.

Thứ nhứt là những danh từ. Danh từ nào để y theo tiếng Phạn, như “A nựu đa la tam miệu tam bồ đề”, ấy chính là tiếng Phạn đó, th́ bây giờ ḿnh dịch nên dịch làm sao?

Theo lẽ, tiếng nào như vậy phải truy nguyên tiếng Phạn đọc thế nào mà nói theo, chớ c̣n “A nựu đa la tam miệu tam bồ đề” là chữ Tàu mà đọc theo giọng An Nam, không đúng vào chỗ nào hết, ḿnh đọc không theo giọng Tàu th́ cũng không đúng giọng Phạn, nếu để y vậy thật là vô nghĩa.

C̣n như muốn truy nguyên mà nói theo tiếng Phạn, th́ phải có ông thầy tu nào biết tiếng Phạn kia; mà ông thầy tu ấy ở đất nầy có thể t́m được chăng? Tuy vậy, chỗ nầy cũng c̣n dễ, nếu không có ông sư biết tiếng Phạn th́ ta t́m trong sách Tây cũng có thể nhận ra được những chữ ấy.

Vậy mà lại có một sự gàn trở nữa. Là, những chữ ấy tuy không đúng vào đâu hết, song trong nhà tu đă quen rồi; bây giờ nói: “A nựu đa la tam miệu tam bồ đề”, tuy không ăn vào đâu, nhưng người học kinh từ trước đă quen rồi, th́ nghe mà biết là nghĩa ǵ được. Chớ c̣n t́m cho được gốc tiếng Phạn mà nói theo, lớ xớ họ nghe lại không hiểu là ǵ. Bởi cớ ấy, có kẻ lại chủ trương rằng đừng nói theo tiếng Phạn mà cứ nói “A nựu đa la tam miệu tam bồ đề” cũng tiện. Đó, về vấn đề đó, nên giải quyết thế nào?

Thứ hai là có nhiều danh từ trong nhà tu nói đă quen, như những giác, diệt, tịch, phương tiện, tê đô… th́ có nên dịch ra tiếng Nôm không? Lại có nhiều chữ ư nghĩa mầu nhiệm quá, như phi hữu tưởng, phi vô tưởng, phi phi tưởng, th́ dịch ra tiếng Nôm hay để vậy? Mà như dịch ra th́ lấy chữ ǵ mà dịch ra? Tới chỗ nầy, tôi càng phải nh́n nhận tiếng Việt Nam chúng ta là nghèo.

Nếu nói cho hết cái khó ra th́ c̣n nữa, nhưng tôi xin gón lại, nói cái thứ ba nầy là cái quan trọng hơn, làm cho tôi nghiềm nghĩ mất hết mấy ngày mấy đêm mà vẫn không biết đường nào giải quyết.

Thứ ba là các nghĩa kinh theo như các nhà chú thích, nên theo ai và nên bỏ ai?

Theo tôi th́ dịch kinh nên cứ kinh mà dịch, không kể chú thích; nhưng kinh Phật mà làm như thế lại không được. V́ lời Phật nói vắn tắt mà lại cao kỳ quá, bỏ chú thích đi, thật không biết hiểu đường nào!

Nhưng có chỗ lại khác hẳn đi. Phật nói rơ ràng mà các nhà chú thích lại làm ra tối tăm mờ mịt, không làm thế nào hiểu được hết nếu chẳng có thày truyền khẩu cho.

Nhơn vừa rồi ông Ngô Trung Tín gởi cho tôi bộ Kim cương chư gia, tôi đọc mà thấy những chỗ ấy, làm cho tôi tức đà muốn chết, chớ không những bỏ cơm như đức Khổng ngày xưa nữa!

Mở đầu kinh, có câu: “Như thị ngă văn”; Câu nầy nếu dịch ra tiếng ta th́ nói: “Ta nghe như thế nầy”, nay là “Ta nghe như vầy”.

Nhà giả thứ nhứt nói rằng: “Chữ “thế nầy” đó là chỉ hết thảy những lời trong kinh. Chữ “ta” đó là người chép kinh xưng ḿnh, tức là ông A Nan vậy. Nghe đó là nghe ở nơi đức Phật”.

Đó là giải chữ một như thế, rồi đem cả câu chuyện hồi đó mà kể lại cho ta nghe: “Khi đức Phật diệt độ, có một vị đệ tử hỏi ngài rằng: “Sau nầy chép kinh th́ bắt đầu dùng chữ ǵ?” Phật trả lời rằng: “Dùng chữ "Ta nghe như vầy" mà bắt đầu”! Bởi vậy, bất kỳ kinh nào cũng bắt đầu bằng bốn chữ ấy.

Câu chuyện như vậy th́ nghe có tích có lớp, hay lắm! Phải chi giải nội chửng mà thôi, thôi th́ không đến nỗi làm rối óc người ta. Bực ḿnh nhứt là c̣n có mấy nhà giải thêm nữa. Đọc mấy câu giải sau nầy, tôi tưởng không ḿnh chi tôi rối óc mà thôi!

Một nhà giải rằng: “Như thị, cổ nhân đạo hoán tác như, như thị, thị biến liễu dă”.

Câu ấy tôi chẳng hiểu nói cái ǵ, không có thể dịch nôm ra được!

Lại một nhà giải rằng: “Như giả chúng sanh chi tánh, vạn biệt thiên sai, động tịnh bất nhứt, vô khả tỉ loại, vô khả đẳng luân; thị dă chỉ thị chúng sanh tánh chi biệt danh, ly tánh chi ngoại, cánh vô biệt pháp”.

Lời giải trên đó th́ tôi cắt nghĩa được, song không hiểu lư nó ra sao. Vả, kinh nói chữ như thị luôn một hơi, th́ sao lời giải lại rứt ra mà giải mỗi chữ có một nghĩa huyền diệu như vậy? Thật tôi không hiểu!

Lạ nữa là nhà giải đó lại giải thêm: “Pháp phi hữu vô vị chi như, giai thị Phật pháp vị chi thị”. Thế ấy, lại càng làm cho tôi không hiểu hơn.

Theo như tôi nói trên nầy th́ kinh có chỗ khó khăn của kinh, lời giải lại có thêm chỗ khó khăn của lời giải. Như vậy mà bảo lấy sức một người làm nổi, thật tôi không dám tin.

Bởi vậy, trong bài trước tôi nói phải có một ông sư và phụ thêm một người giỏi chữ Hán th́ may lắm mới dịch được một ít kinh Phật vậy.

 

PHAN KHÔI

Trung lập, Sài g̣n, s.6532 (Phụ trương văn chương số 19, thứ bảy 5.9.1931); s.6538 (Phụ trương văn chương số 20, thứ bảy 12.9.1931)

 

 


(*) mũng: chưa rơ nghĩa. H.T.Paulus Của (sđd.) chỉ ghi từ mủng (một loại thúng nhỏ); không có mủng hay mũng như là động từ.

 

 

(Nguồn: namtong.org)

 

 

BACK

 

Home