Tam tạng kinh
điển Trung Hoa được gọi chung là "Đại Tạng Kinh". Ấn bản hoàn chỉnh
đầu tiên của Đại Tạng Kinh hoàn thành vào năm 983 sau Công nguyên và
được gọi là Thư bản. Ấn bản này gồm 480 cuốn với 1076 kinh. Về sau
c̣n có nhiều ấn bản khác. Ấn bản chuẩn hiện nay là Đại Chánh Tân Tu
Đại Tạng Kinh, xuất bản ở Tokyo từ năm 1924 đến năm 1929, gồm có 55
tập với 2184 kinh, kèm theo 45 tập phụ lục.
Khi
truy t́m nguồn gốc của các tông phái Phật giáo trên thế giới ngày
nay, có thể nói một cách sơ lược về sự phân chia tông phái như sau:
1) Kinh điển
Phật giáo đă phát triển dần theo thời gian. Tạng Kinh và Tạng Luật
được biên soạn và lưu hành sớm nhất. Khoảng đầu thế kỷ thứ nhất sau
Công nguyên các vị nghiên cứu Kinh A Hàm cùng các vị theo truyền
thống Thanh Văn đă biên soạn A-tỳ-đàm, nhấn mạnh vào phương diện
thực tại của lư duyên sinh. Trong khi đó, kinh điển Đại thừa được
biên soạn bởi những học giả chú trọng đến Phật tánh cùng công hạnh
của các vị Bồ-tát, xem tánh không như là thiết yếu để thực sự thấu
hiểu lư duyên sinh.
Vào thế kỷ
thứ 3, ngài Long Thọ (Nagarjuna) trước tác bộ luận nổi tiếng của
ngài về học thuyết trung quán(Madhyami-ka), giải thích A-hàm và A-tỳ
đàm trên cơ sở kinh điển Đại thừa của Không tông. Cũng trong thời
gian đó, một số kinh điển Đại thừa có khuynh hướng duy tâm, bản thể
luận như Kinh Thắng Man Phu Nhân Sư Tử Hống (Srimaladeve-Simhanada
Sutra) bắt đầu xuất hiện, theo sau là các kinh như Kinh Lăng-già
(Lankavatara Sutra), v.v... Cùng với sự phát triển này, một số hành
giả của Nhất Thiết Hữu bộ (Sravastivada) đă chấp nhận khía cạnh "duy
tâm" của Đại thừa. Họ trước tác một số bộ luận của Du-già tông hay
Duy thức tông và dần dần phát triển thành một tông phái lớn của Đại
thừa. Sau đó, vào khoảng thế kỷ thứ 5 trong Duy thức tông lại có một
nhánh đi xa hơn trong phương pháp du-già bí truyền. Nếu theo sát quá
tŕnh phát triển của Phật giáo như đă sơ lược mô tả trên đây, có thể
dễ dàng thấy được sự h́nh thành của những hệ thống kinh điển và học
thuyết hết sức đa dạng của các tông phái.
2) Về mặt học
thuyết, thoạt tiên Phật giáo chỉ là Phật giáo và không hề có một sự
phân phái nào. Măi cho đến đầu Tây Lịch vẫn chưa hề có sự phân chia
ra Thanh Văn thừa và Bồ-tát thừa. Chỉ trong kinh điển của Bồ-tát
thừa mới xuất hiện sự phân chia Tiểu thừa và Đại Thừa.
Vào thế kỷ
thứ 2 và 3, Duy Thức Bản Thể Luận bắt đầu xuất hiện trong Bồ-Tát
Thừa. Trong những bộ kinh đó lần đầu tiên những từ như "Bản Thể",
"Tánh Không", "Trung Quán", "Tiểu Thừa", "Đại Thừa", và "Nhất Thừa"
được t́m thấy. Những kinh điển xuất hiện muộn này nhấn mạnh vào sự
thành tựu Phật tánh, và v́ vậy được gọi là Phật Thừa.
Đầu thế kỷ
thứ 5, một "Thừa" khác, "Đà la-ni Thừa", tách ra từ trường phái bản
thể luận của Phật giáo. Tông phái này phân Phật pháp ra Tam Tạng,
Tạng Ba-la-mật (bao gồm tất cả giáo pháp phổ truyền của các tông
phái khác) và Tạng Đà-la-ni (nói là Tam Tạng, nhưng trong bản tiếng
Anh chỉ nhắc đến 2 Tạng). Họ c̣n phân giáo pháp tuỳ theo cách thực
hành như Tứ Đế, Lục Độ v.v...
Cách phân
loại này cho thấy sự đa dạng và sự phát triển của Phật giáo, đồng
thời cũng thống nhất với cách phân chia theo 3 giai đoạn phát triển
lịch sử của Thái Hư Đại Sư. Cách phân chia đó như sau:
1) 500 năm
đầu tiên sau khi Đức Phật nhập Niết bàn, Tiểu Thừa rất thịnh hành
trong khi Đại Thừa chỉ như kẻ đứng sau hậu trường. Trong giai đoạn
này Tam Tạng Pali là tiêu biểu cua Phật giáo.
2) 500 năm
thứ hai, Đại Thừa vượt trội lên với Tiểu thừa trong vai thứ yếu. Tam
tạng kinh điển của Trung Hoa phản ánh sự phát triển của Phật giáo
trong giai đoạn này.
3) 500 năm
thứ 3, Phật giáo Mật tông dẫn đầu, vượt hẳn các tông phái phổ truyền
khác. Tam tạng kinh điển của Tây Tạng là thành quả của giai đoạn
này.
Phật giáo
Trung Hoa là bộ mặt của Phật giáo trong giai đoạn 500 năm thứ hai,
nói cách khác, nó h́nh thành trên nền tảng của Bồ-tát thừa, là gạch
nối của Thanh văn thừa trước đây và Phật thừa sau này; v́ vậy nó đă
nối kết lịch sử Phật giáo một cách hữu hiệu.
V́ nó đóng
một vai tṛ then chốt trong lịch sử phát triển của Phật giáo, Tam
tạng Trung Hoa đáng được chú ư đặc biệt đối với những ai quan tâm
đến sự phát triển hiện nay của Phật giáo thế giới. Tam tạng kinh
điển Trung Hoa gồm có:
(a) A-hàm
(Agamas): Bốn bộ A-hàm thuộc về Nhất Thiết Hữu Bộ. Bộ Trung A-hàm
(Madhyamagama) và bộ Tạp A-hàm (Samyuktagama) được dịch từ nguyên
bản của Nhất Thiết Hữu Bộ trong khi bộ Trường A-hàm (Dirghagama) và
bộ Tăng Nhất A-hàm (Ekottaragama) được dịch từ nguyên bản của Đại
Chúng Bộ (Mahasamghika) và Phân Tích Bộ (Vibhajyavada). Mặc dù không
phải là một hệ thống giáo lư hoàn chỉnh của một tông phái nào,
(trong khi Tam Tạng Pali tiêu biểu cho một hệ thống hoàn chỉnh),
nhưng kinh điển của các tông phái đều có sự đóng góp của nó.
(b) Luật
(Vinaya): Trong khi Tam Tạng Tây Tạng chỉ có những điều luật mới của
phái Tamrasatiya, tạng Luật của Trung Hoa bao gồm các phần sau:
- Luật của
Đại Chúng Bộ.
- 5 phần của
Luật Hóa Địa Bộ (Mahisasaka), 4 phần của Luật Pháp Tạng Bộ
(Dharmagupta), Giới Bổn Pratimoksa của Mahakasyapiyah và Luật Thiện
Kiến của Tamrasatiya. Tất cả phần này là những điều luật của Phân
Tích Bộ.
- Luật của
Nhất Thiết Hữu Bộ cũ và Luật của Căn Bản Nhất Thiết Hữu Bộ mới, cả
hai đều thuộc về Nhất Thiết Hữu Bộ.
- Bộ Luận
Thuyết Minh 21 điểm của phái Sammatiya thuôc Độc Tử Bộ
(Vatsiputriyas). Sự tập hợp các tài liệu từ nhiều nguồn khác nhau
như vậy rất thuận lợi cho việc nghiên cứu tỷ giảo các tông phái Phật
giáo.
(c) A-tỳ-đàm
(Abhidharma): Tạng này tương tự như tạng Luận của 3 tông phái chính
của Thượng Toạ Bộ (Theravada), đó là Phân Tích Bộ, Nhất Thiết Hữu Bộ
và Độc Tử Bộ.
Trong khi Tam
tạng Pali chỉ có 7 bộ Luận, Tam tạng Trung Hoa không chỉ bao gồm các
bộ Luận của Nhất Thiết Hữu Bộ mà c̣n cả các bộ Luận của các tông
phái khác. Tạng luận của Tam tạng Trung Hoa gồm có:
* The
Samgitiparyaya, the Dharmaskandha, the Prajnapti, the Vijnanakaya,
the Dhatukaya, the Prakaranapada, Jnanaprasthana,
Abhidharma-hrdaya-vyakhya, Abhidharmananyanyanusara, và
Abhidharmasamayapradipika Sastras của Hữu Bộ (Sarvastivada)
[Xin
xem thêm ở bài A Tỳ Đàm Hữu Bộ của Tỳ kheo Giác Nguyên].
* Bộ
A-tỳ-đạt-ma Luận (Abhidharma Sastra) của ngài Sariputta thuộc Phân
Tích Bộ, là bộ luận quan trọng duy nhất phối hợp A-tỳ-đàm của 2 bộ
phái Nam tryền và Bắc truyền.
* Giải Thoát
Đạo Luận (Vimmutti-magga), một phiên bản của bộ Thanh Tịnh Đạo Luận
(Visuddhimagga).
* Bộ Luận
Chánh Lượng Bộ (Sammitiya) của Độc Tử Bộ.
* Bộ
A-tỳ-đạt-ma-câu-xá nổi tiếng (thuộc thế kỷ thứ 3 đến thế kỷ thứ 4)
thâu tóm những giáo lư cao siêu của cả hai bộ phái Nhất Thiết Hữu
Bộ và Kinh Lượng Bộ (Sautrantika), cùng với bộ Thành Thật Luận
(Satyasiddi Sastra) của Harivarman vốn có ảnh hưởng rất lớn đến Phật
giáo Trung Hoa.
Tất cả những
kho tàng quư báu này của A-tỳ-đàm đều t́m thấy trong Tam tạng Trung
Hoa. Có thể thấy rằng mặc dù các bản kinh cổ nhất của Tam tạng Trung
Hoa không được đa số Phật tử Trung Hoa đánh giá đúng mức, lượng tư
liệu phong phú mà nó chứa đựng có giá trị tham khảo rất quư giá cho
những ai muốn truy nguyên sự phân phái cũng như sự phát triển của lư
tưởng Bồ-Tát từ Thanh Văn Thừa.
(d) Trung
Quán: Những tác phẩm trung quán trong Tam tạng Trung Hoa khác biệt
đáng kể so với bản dịch của Tây Tạng. Các bộ luận của Trung Hoa chủ
yếu là những tác phẩm cổ điển, đặc biệt là của ngài Long Thọ, như bộ
Đại Trí Độ Luận (Mahaprajnaparamita Sastra) và bộ Thập Trú Tỳ Bà Sa
Luận (Dasabhumikavibhasa Sastra), là những bộ luận tŕnh bày triết
lư Trung Quán trong một tŕnh tự chặt chẽ và minh hoạ rơ nét hành
trạng của một vị Bồ-tát.
Trong những
tác phẩm trung luận xuất hiện về sau, tức là những bộ luận do các đệ
tử của ngài Long Thọ viết sau khi hệ thống Duy Thức ra đời, chỉ có
bộ Bát Nhă Đăng Luận (Prajnapradipa Sastra) của ngài Bhavaviveka
được dịch sang tiếng Trung Hoa. Tam tạng Trung Hoa không có nhiều
tác phẩm cũng như nhiều trường phái của hệ thống này nhu Tam Tạng
Tây Tạng. Bộ Nhiếp Đại Thừa Luận ( Mahayanavataraka Sastra) của ngài
Sthiramati và bộ Biện Trung Biên Luận (Madhyayata Sastra) của ngài
Asanga cho thấy sự thay đổi trong tư tưởng từ trung quán đến duy
thức.
(e) Kinh điển
Đại thừa của Pháp Tướng Tông hay Duy Thức Tông là một hệ thống rất
hoàn chỉnh trong Tam tạng Trung Hoa. Những bộ kinh này rất giống với
những bộ của Tam tạng Tây tạng. Bốn bộ kinh quan trọng, Bát Nhă
Ba-la-mật (Prajnaparamita), Hoa Nghiêm (Avatamsaka), Đại Tập
(Mahasamghata) và Đại Bát Niết Bàn (Mahaparinirvana), đều là những
tác phẩm đồ sộ. Tam tạng Trung Hoa có đầy đủ các tác phẩm của hệ
thống này với các tác phẩm quan trọng như Thập Trú Luận
(Dasabhumika), Nhiếp Đại Thừa Luận (Mahayanasamparigraha Sastra), và
Thành Duy Thức Luận(Vijnaptimatrasid-dhi Sastra). Trong khi các hệ
thống Duy Thức ở Tây tạng chủ yếu dựa trên giáo lư của Sthiramati
vốn rất tương tự với Nhiếp Đại Thừa Luận của Trung Hoa, những người
theo Duy Thức Tông chính thống ở Trung Hoa lại theo những giáo lư
của Dharmapala.
Thành Duy
Thức Luận, bộ luận tiêu biểu cho hệ thống triết học của Dignaga,
Dharmapala và Silabhadra, là một viên ngọc quư trong Tam tạng Trung
Hoa. Nhân Minh Luận (Hetuvidya), vốn gắn bó mật thiết với Duy Thức
Tông, không được dịch đầy đủ trong Tam tạng Trung Hoa và không thể
sánh với những tác phẩm của Dignaga và Dharmakirti được lưu trữ
trong Tam tạng Tây tạng. Điều này cho thấy người Trung Hoa không có
thiên hướng về logic, và không quan tâm nhiều đến việc lư luận và
tranh biện. Trong quá khứ điều này cũng đă dẫn đến việc đặt các luận
sư Trung Hoa vào những vị trí không mấy quan trọng.
(f) Du-già bí
truyền: Tam tạng Trung Hoa bao gồm những bản dịch của cả hai bộ kinh
là Kinh Đại Nhật (Vairocana Sutra) trong phần thực hành và Kinh Kim
Quang Đảnh (Diamond Crown Sutra) (Sanskrit equivalent?) trong phần
Du-già của Phật giáo Mật tông. Những bộ kinh bí truyền bị bỏ sót
không được dịch là những bộ thuộc phần Du-già tối thượng, bởi v́
những bộ kinh đó được du nhập vào Trung Hoa trong thời điểm đất nước
loạn lạc nên không có cơ hội để lan truyền rộng răi. Mặt khác chính
chủ trương đạt giác ngộ qua phương tiện xác thịt cũng là nguyên nhân
khiến Mật tông không được giới trí thức Trung Hoa chấp nhận. Tuy
vậy, những tác phẩm Du-già bí truyền lại rất phong phú trong Tam
tạng Tây tạng.
Có thể nói
kinh điển Trung Hoa nổi bật với những tính chất sau đây:
1) Những bản
dịch khác nhau của cùng một bộ kinh được duy tŕ và bảo tồn trong
Tam tạng kinh điển Trung Hoa một cách chính xác, không bị hiệu đính
hay sửa đổi theo những bản dịch xuất hiện sau, như trong trường hợp
kinh điển Tây Tạng. Từ sự nghiên cứu các bản dịch Trung Hoa chúng ta
có thể truy ra được sự thay đổi trong nội dung mà hầu hết các bộ
kinh đều phải trải qua theo thời gian, đồng thời phản ánh sự thay
đổi trong các bản kinh gốc của Ấn độ ở các thời điểm khác nhau. Như
vậy chúng ta có nhiều phiên bản ghi lại được sự biến thái của các bộ
kinh để tham khảo.
2) Những bộ
kinh Đại thừa Trung Hoa được phiên dịch trước đời Trịnh (bắt đầu từ
năm 265 sau Công nguyên) có quan hệ rất đặc biệt đến Phật giáo Trung
Hoa Turkestan với trung tâm ở vùng núi Kashmir. Những bộ kinh này
h́nh thành nên cốt lơi của tư tưởng Phật giáo Trung Hoa. Bản dịch
của Thập Địa Luận (Dasabhumika Sastra) và Kinh Lăng Già (Lankavatara
Sutra) đều mang những tính cách rất đặc biệt
Qua đây có
thể thấy rằng Tam tạng Trung Hoa bao gồm chủ yếu các kinh điển Đại
thừa thuộc giai đoạn 500 năm thứ hai sau khi Đức Phật nhập Niết bàn.
Tuy nhiên các bản dịch không chỉ giới hạn trong giai đoạn này mà các
bộ kinh của thời Phật giáo nguyên thủy cũng chiếm một phần khá quan
trọng.
Như vậy, nếu
có một kiến thức đầy đủ về Tam tạng Trung Hoa, và mở mang thêm tri
kiến về Tam tạng Pali của Thanh văn thừa, Trung luận, cũng như pháp
Du-già tối thượng của Tây tạng, th́ không khó khăn ǵ để có được một
cái nh́n toàn diện và chính xác về 1700 năm phát triển của Phật giáo
Ấn độ vốn được ghi lại và bảo tồn trong ba hệ thống tư tưởng chính
hiện c̣n tồn tại của Phật giáo.
Thái Hư Đại
Sư từng nói: "H́nh thành một hệ thống mới có tính cách chọn lọc và
toàn diện, dựa trên Tam tạng Trung Hoa, giáo lư nguyên thuỷ của Tích
Lan, và một phần tinh tuư của kinh điển Tây tạng, sẽ là mục tiêu của
việc ghi lại lịch sử Phật giáo Ấn độ." Hơn thế nữa, đó c̣n là mục
tiêu của việc phối hợp và liên kết các nhánh của Phật giáo thế
giới. Trách nhiệm của chúng ta là loại bỏ những điều thêm thắt và
duy tŕ tinh túy của các bộ Tam tạng quư báu, làm cho Phật giáo
thích nghi với xă hội hiện đại để nó có thể làm tṛn sứ mạng dẫn
đường cho chúng sinh đau khổ trong kỷ nguyên hiện tại.
LIỄU PHÁP
Delhi,
Ấn Độ - 2003