|
-
-
Từ ngữ Phật học trong việc làm
giàu thêm kho tàng từ vựng Hán ngữ
-
Thích nữ Hương Trí dịch
Hán ngữ là một ngôn ngữ có lịch sử lâu đời và phát triển nhất trên
thế giới. Sự phong phú của từ vựng Hán ngữ vượt lên mọi ngôn ngữ.
Học giả Hạ Bá Long (W.Jablonski) người Ba Lan nói:“Từ ngữ tiếng Hán
là một sản vật phát triển từ 3 ngàn năm nay của Hán ngữ và văn học
dân tộc Hán, là môït kho tàng của sự lấy không hết dùng không tận,
có thể được mô tả bằng bất ḱ những lời ca tụng nào hay nhất. Thường
thường có rất nhiều từ ngữ, mà trong phiên dịch ngữ văn Âu Châu hay
một số nước như Ba Lan, Việt Nam, Hàn Quốc ….th́ dường như là từ
đồng nghĩa, và chỉ luẩn quẩn trong một vài từ ngữ trùng lặp, nhưng
trong nguyên văn Hán ngữ th́ thật dễ dàng để phân biệt chúng trong
những ngữ cảnh không giống nhau với lối diễn đạt rất phong phú. Có
hàng vạn cụm từ , hàng ngàn thành ngữ, ngạn ngữ của Hán ngữ rất hay,
rất văn chương, ví von, bóng bẩy, ẩn dụ, tượng h́nh, tượng thanh….
mang đầy tính thẫm mỹ và sáng tạo, mà khi chuyển sang một ngôn ngữ
khác, th́ thường không có từ ngữ để dịch cho khớp, cho nên đành phải
dùng lại những từ ḷng ṿng trùng lặp…”. Cách nói này hoàn toàn
không có ǵ là quá đáng. Bởi chỉ từ số lượng mà nói, số lượng chữ
Hán trong Giáp cổ văn (1) đă có chừng 350 từ, và cho đến đời Thanh,
trong từ điển Khang Hi đă có 47035 từ. Hán ngữ có rất nhiều từ khác
nghĩa nhưng trùng âm. Chữ Hán với từ đơn âm tiết, khi thêm vào một
từ đa nghĩa, th́ lượng từ vựïng tăng lên, số lượng đến kinh người.
Hán ngữ sở dĩ có từ vựng phong phú như thế, đầu tiên là do dân tộc
Trung Hoa có nền văn minh sử lâu đời. Sau thời ḱ Tân Thạch Khí
(6000 – 2000 TCN) của gần một vạn năm về trước, văn minh dân tộc Hán
đă tiến bộ rất nhanh; thứ đến là do sự dung hợp giao lưu về phương
diện ngôn ngữ văn hóa giữa dân tộc Hán với những dân tộc khác, dân
tộc Hán biết hấp thu sáng tạo những thành phần ngôn ngữ của những
dân tộc khác. Trong lịch sử phát triển từ vựng Hán ngữ, cho thấy Hán
ngữ đă hấp thu một cách quy mô nguồn gốc các ngoại ngữ, có ba thời
ḱ: một là thời ḱ chiến quốc Tần Hán, chủ yếu là những từ ngữ có
nguồn gốc từ Hung Nô(2) và phía Tây Vực (3) ; hai là thớ ḱ Ngụy
Tấn đến Tùy Đường, chủ yếu là từ ngữ Phật giáo có nguồn gốc từ hệ
thống Phạn ngữ; ba là thời ḱ Minh Thanh, chủ yếu là từ ngữ đến từ
ngôn ngữ phương Tây. Trong đó từ ngữ có nguồn gốc từ hệ thống Phạn
ngữ từ thời Trung cổ (4), th́ số lượng ḥan toàn vượt trội so với
thời ḱ thứ nhất và thứ ba (thời ḱ chiến quốc Tần Hán và thời ḱ
Minh Thanh), đây là lần ảnh hưởng lớn nhất đối với Hán ngữ trước
chiến tranh Nha phiến (5). Đại học giả Lương Khải Siêu thống kê
quyển Phật giáo đại từ điển của một người Nhật Bản biên tập, th́ có
đến hơn 35.000 từ ngữ. Trong Phâït học đại từ điển của Đinh Phúc
Bảo, th́ từ ngữ Phật giáo có đến gần 30.000. Đây là những từ ngữ
được sáng tạo bởi các nhà Sư Phật giáo trong suốt 800 năm từ thời
Hán Tấn cho đến thời Đường, đă trở thành bộ phận mới mẻ trong hệ
thống quốc ngữ, làm phong phú từ vựng Hán ngữ. Do đây có thể xác
quyết được vai tṛ địa vị từ ngữ Phật giáo trong việc mở rộng làm
giàu phong phú từ vựng Hán ngữ.
Việc từ ngữ Phật giáo làm giàu kho bảo tạng từ ngữ tiếng Hán, cuối
cùng đă phát sinh những tác dụng và có địa vị như thế nào trong
lịch sử phát triển Hán ngữ, sau đây chúng ta khảo sát vấn đề.
Đứng về chiều dọc (thời gian), th́ từ ngữ Phật học dung nhập Hán ngữ
ngay từ xa xưa cho măi đến ngày nay. Việc phiên dịch kinh Phật h́nh
thành từ thời Đông Hán (Đông Hán vương triều, từ năm 26 CN-220 CN),
cho nên một số văn hiến Hán ngữ thời Đông Hán, như Lí Hoặc Luận của
Mâu Tử đă xuất hiện từ ngữ Phật giáo. Bấy giờ, thậm chí công văn của
hoàng gia cũng dùng từ ngữ Phật giáo. Theo Hậu Hán thư, trong chiếu
thư Hán Minh đế để lại cho Sở Vương Anh viết:“Sở Vương tụng lời của
Hoàng Lăo( tên gọi của Đạo giáo trong thời ḱ đầu), vẫn thờ phụng
Phù Đồ, khiết trai ba tháng…… có thể làm ưu bà tắc…… thịnh soạn của
tang môn”. Một nhóm từ ngữ không đầy 30 từ, th́ đă dùng những danh
từ Phật giáo như “phù đồ”,“ tang môn”(sa môn), “ưu bà tắc” ….. Từ
thời Đông Tấn (317-420 CN) về sau, Phật giáo rất phát triển, Phật
học và Huyền học (6) có sự kết hợp chặt chẽ, các văn nhân học sĩ đều
thích đàm luận Phật học, họ thường dẫn dụng Phật kinh thiền ngộï vào
trong văn thơ của ḿnh để biểu t́nh đạt ư, như Bích Văn Tự Đầu Đà,
chỉ là một bài văn ngắn 1200 chữ, nhưng có đến hơn 50 từ Phật giáo,
như “pháp vân” ,“chân tế ”,“hỏa trạch”, “huệ nhật”……, đó đều là từ
ngữ Phật giáo. Cho đến sau thời Nam Bắc triều, một số nhà văn nhà
thơ lớn tin Phật như Vương Duy, Bạch Cư Dị, Lưu Tống … th́ tác phẩm
của họ bất luận về phương diện tư tưởng nội dung hay h́nh thức ngôn
ngữ, đều có những từ ngữ Phật giáo đơn âm tiết và ba âm tiết như là
“thanh nhăn”,“thanh liên”,“hương tích”,“thượng nhân”,“tích
trượng”,“đàn việt”,“đả tọa”,“phần hương ”,“pháp vân địa”,“tịnh cư
thiên”,“nhân duyên pháp”,“thứ đệ thiền”,“huyễn thân”,“nhất tâm”……Và
trong thơ của những thi nhân nổi tiếng viết thơ thông tục như Phạm
Chí, Hàn Sơn….. th́ việc sử dụng ngôn ngữ Phật giáo cũng đă trở
thành nội dung chính trong thi ca của họ. Như Hàn Sơn viết:“Si thuộc
căn bản nghiệp, vô minh hố phiền năo, luân hồi bao nhiêu kiếp, chỉ
v́ tạo ngu mê” và“Thập thiện hóa tứ thiên, trang nghiêm đa thất
bảo”… đều là danh từ Phật giáo. Trong thơ Vương Phạm Chí, có đến hơn
120 danh từ chuyên môn của Phật giáo. Về phương diện giảng giải tục
đế hay mở rộng của Phật kinh, th́ những từ ngữ Phật giáo đă trở
thành danh từ thông dụng. Trong văn học dân gian thời Nguyên, Minh
và Thanh, th́ từ ngữ Phật giáo đă tiến thêm một bước ăn sâu vào Hán
ngữ. Trong Tống Nguyên Ngữ Ngôn từ điển, có đến 110 từ ngữ Phật
giáo, mà từ ngữ Đạo giáo th́ có 40 từ. Xem đây có thể thấy địa vị
ngôn ngữ Phật giáo trong kho tàng Hán văn. Trong đó có một số từ bất
luận từ h́nh thức hay ư nghĩa đều thêm một bước phát triển, như có
từ “phiền năo”, từ này Phật giáo chỉ cho sự phiền muộn và khổ năo.
Trong Phi Đao Đôi Tiển, Nguyên Khúc viết:“…trong tôi, thấy phụ thân,
phiền phiền năo năo…”.Phiền năo lại nói thành phiền thiên năo địa,
là h́nh dung phiền năo đến tột cùng. Trong Tiết Nhân Quư, Khúc
Nguyên viết:“bạn động một chút th́ phiền thiên năo địa, than khóc
cái ǵ chứ!”.
Trên là giản lược về phương diện bề dọc, tuy rằng sự thống kê chưa
phải là toàn diện, nhưng cũng đủ để chứng minh, trong văn học văn
hiến cổ đại Trung Quốc, sự tương dung giữa từ ngữ Phật giáo với Hán
ngữ th́ số lượng quả thật nhiều và rất nhiều .
Nh́n bề ngang, th́ từ ngữ Phật giáo du nhập nhập Hán ngữ, gồm.
1 Mở rộng từ căn bản và từ gốc của tiếng Hán: Kết cấu ngữ pháp và từ
vựng cơ bản của từ và ngữ là
cơ sở của ngôn ngữ (xem Chủ nghĩa Mă Khắc Tư với vấn đề ngôn ngữ
học). Trong lịch sử phát triển ngôn ngữ, th́ đặc trưng của tính ổn
định, tính thống nhất, tính dân tộc của nó, đă thể hiện một sự tập
trung. Nhờ vậy, trong quá tŕnh Phật giáo hóa ngôn ngữ, một số từ
ngữ Phật giáo dần dần bước vào địa vị mấu chốt của từ ngữ Hán cơ
bản, và cũng v́ Hán ngữ mà đă tăng thêm nhiều thành phần kết cấu
mới, như các loại dưới đây:
a.Từ ngữ dịch âm và giản hóa: Có nhiều từ giản hóa về âm tiết của từ
đa âm tiết, như đơn từ th́ có“ma”,“sát”,“tháp”,“tăng”,“thiền”,“Phật”,“lahán”,“tam
muội”,“ḥa thựơng”,“sát na”……, lại có thể làm từ gốc, cấu thành đại
lượng từ mới. Theo thống kê, trong Phật học đại từ điển có 21 tiết
được dịch thành từ đơn âm tiết, như từ ngữ đi đôi với từ “thiền”, có
87; từ ngữ đi với chữ Phật có 152. Từ song âm trong Phật học đại từ
điển, có thể dùng để cấu tạo từ vựng, gồm có như “xá lợi”,“đâu
suất”,“la sát”,“tam muội”,“Niết bàn ”,“la hán”,“sát na”,“ca
sa”,“diêm la”,“Bồ tát ”,“dạ
xoa”,“già lam”, “sadi”,“sa môn”,“At́”,“Bát nhă ”,“tăng già”,“Di đà”.
Song âm tư øthường dùng có:“Tỳ
kheo”,“đầu đà”,“du dà”,“Bồ đề”,“yết ma”,“tát sĩ”,“thích ca”,“Di
lặc”,“ma ha”“đa la”. Như từ ngữ đi đôi với chữ “Bồ tát ” có 23(trừ
những danh từ chuyên môn). Đi đôi với từ “Bồ đề ”gồm 20. Có một số
từ không những là thành phần cốt cán trong Phật học từ điển, mà
trong Hán ngữ thông thường từ xa xưa cho đến ngày nay, đều có vai
tṛ tương đối quan trọng. Như chữ “ma”, nguyên nghĩa của nó không
hoàn toàn như nghĩa chữ “quỷ”, mà thật sự là chỉ một năng lực vô
h́nh có khả năng dụ dẫn khiến người mê hoặc và không chịu“ buông
tay”. Do vậy, trong Hán ngữ xuất hiện nhiều danh từ mới, đó là Ma
lực, Ma thuật, Ma pháp, Ma quật, Ma đầu, Ma chưởng , Ma trượng, Ma
nạn, Ma quái, thi Ma, thơ Ma, bệnh ma, yêu ma, phong ma, văn ma,
trước ma.
Từ ngữ Phật học có nhiều
từ ngữ phát triển, làm cơ sở cho Hán ngữ trở nên ngày càng phong
phú, bởi chúng có thể làm thành phần cơ cấu và khả năng kết cấu từ
rất đa dạng, và trong tất cả những ngôn ngữ ngoại lai th́ nó đứng
hàng đầu.
b. Ư dịch hoặc Phật hóa
Hán từ: Từ ngữ dịch ư thường dùng thường được xem như thành phần tạo thành
kết cấu từ. Có nhiều Hán ngữ Phật hóa đă thêm một bước phát triển,
đă trở thành từ căn bản trong kết cấu từ. Trong đó, từ đơn âm tiết
thường gặp sau đây:
Chữ“pháp”,
từ này trong Phật giáo phần nhiều có ba cách dùng: một là chỉ Phật
pháp; hai là chỉ tất cả hiện
tượng sự vật, ba là đặc chỉ sự vật và hiện tượng cụ thể nào đó. Từ
ngữ phức hợp thường được cấu thành trên cơ sở của ba nghĩa trên (bao
hàm chuyên chỉ danh từ). Phật học đại từ điển của Đinh Phúc Bảo gồm
có 423 từ.
Chữ “tâm”,
là danh từ Phật giáo có nhiều nghĩa, từ ngữ phức hợp với nó th́
trong Phật học đại từ điển có
149.
Chữ
“thiện”, những từ ngữ phức hợp tạo thành từ từ “thiện” , trong Phật
học đại từ điển có 123.
Chữ
“không”, là nội dung trọng yếu của giáo lư Phật giáo, trong Phật học
đại từ điển, từ ngữ được cấu thành
bởi chữ “không” có 76.
Chữ “định”,
trong Phật học đại từ điển, từ ngữ tạo thành từ từ “định” có 48.
Chữ “giác”, là từ ngữ được tổ thành do hai từ“giác sát” và“giác ngộ
”, trong Phật học đại từ điển, từ ngữ
được cấu thành bởi chữ “giác” có 43.
Những từ đơn âm tiết
loại này c̣n có“sắc”,“thân”,“danh”,“tướng
”,“tánh”,“thức”,“đạo”“nghiệp”
“luật”,“lí”,“dục”,“tham”,“trí”,“huệ”,“hành”“giới”,“kiến”,“ái”,
“quán”“, diệt”,“thọ”, “hữu”,
“vô”,“phi”,“tịnh”,“khổ”,“thánh”,“từ”,“bi”,“trai”,“nhân”,“duyên”,“tŕ”……Những
từ ngữ Phật giáo đơn âm này, cơ bản là thường dùng thuật ngữ danh
tướng, cho nên lại có thể làm từ gốc, cấu thành từ ngữ Phật học có ư
nghĩa tương quan, số lượng nhiều, có thể phân làm mấy loại sau:
Từ ngữ Phật học song âm
tiết ư dịch, có mấy loại thường gặp sau:
Kim cang :
Trong Phật học đại từ điển, những từ ba âm tiết được cấu thành từ từ
“Kim Cang” có 56.
Phiền năo :
Trong Phật học đại từ điển, những từ ngữ được cấu thành từ từ “phiền
năo” có 23.
B́nh đẳng: Trong Phật
học đại từ điển, những từ ngữ được cấu thành từ từ “b́nh đẳng” có
14.
Những Hán từ Phật hóa song âm tiết gồm:
Cát tường: Là điềm dự báo tốt đẹp có nguồn gốc từ tiếng
Phạn“Laksmi”,trong Phật học đại từ điển những
từ ngữ được cấu thành từ từ “cát tường” có 12.
Giải thoát : Trong Phật
học đại từ điển, những từ ngữ được cấu thành từ từ “giải thoát” có
25
Công đức :
Trong Phật học đại từ điển,những từ ngữ được cấu thành từ từ “công
đức” có 12
Những từ ngữ Phật học ư dịch hoặc Hán từ Phật hóa song âm tiết
có:“phương tiện”,“thế gian ”,“Thế Tôn”,“địa ngục”,“Địa tạng”,“Như
Lai ”,“nhẫn nhục”,“niệm Phật ”,“pháp tánh”,“pháp
giới”,“kinh sanh”,“chân như”,“chân ngôn”,“chân thật”,“tịch diệt”,“vô
thường ”,“từ bi”,“tinh tấn”,“Quan
âm”,“trang nghiêm”,“cam lộ”, “quang minh”,“tự tại”,“căn bản”,“thần
thông”,“bí mật”,“kiên
cố”,“thanh lương”,“thanh tịnh”,“trí huệ”,“biến hóa”,“hoan hỷ
”,“thiền định”,“tư duy”vân vân.
Sau chiến tranh Nha
phiến, đại quy mô Hán ngữ hấp thu một số lượng lớn từ ngữ của Tây
Âu, đặc biêït là thông qua việc vần vũ vay mượn tiếng Nhật. Trong đó
có một bộ phận từ dịch lớn đă phát triển trở thành từ ngữ căn bản
của Hán ngữ, có sức kết cấu từ tương đối mạnh, như “cách mạng”,
“quan niệm”, “giá trị”vân vân.
2. Làm phong phú từ vựng
Hán ngữ thường dùng:
Trong tất cả lảnh vực
của Hán ngữ, đều có từ ngữ Phật giáo, phần nhiều thường thấy trong
triết học, văn học và ngôn ngữ thường dùng hàng ngày.
a. Từ vựng triết học:
Phật giáo là một tôn giáo phong phú đặc điểm tư biện triết học nhất
trên thế giới, do
vậy, rất nhiều danh từ Phật giáo không biết tự lúc nào đă trở thành
danh từ triết học. Ngày nay, Phật giáo vẫn đang có một ảnh hưởng
nhất định đối với ngôn ngữ triết học. Từ ngữ Phật giáo dùng trong
triết học hiện đại, thường gặp là:
Chân lư :
Phật giáo chỉ “chân như vô vi”,“duyên khởi tánh không”. Kinh Diệu
Pháp Niệm Xứ nói:“ngu
mê hư vọng, phiền năo trói buộc, che lấp chân lí, khiến trí không
khởi”, và trong triết học hiện đại, từ “chân lí” mang ư nghĩa quan
trọng, có“chân lí tuyệt đối”,“ chân lítương đối”,“chân lí khách
quan”…
Thực tế:
“thực” là cảnh giới pháp tánh, chân như tối cao; “tế ”là bờ mé cảnh
giới. Đại Thừa Nghĩa Chương
nói:“thực tế ấy, là lí thể không hư vọng, mắt cho là thật; có thể
làm giới hạn của sự thật, gọi là tế”, nó là sự tồn tại khách quan
của hiện thực và thực tế, đối lập với lí luận.
Bờ này bờ
kia(thử ngạn và bỉ ngạn): Theo Phật giáo, cảnh giới sanh tử gọi là
bờ bên này; giải thoát sanh
tử, thành tựu Thánh quả, gọi là bờ bên kia. Mục đích người tu hành
là từ bờ bên này sang đến bờ bên kia. Triết học cũng vay mượn hai từ
này. Một triết gia người Đức nói:“thử ngạn tính và bỉ ngạn tính….
Thử ngạn là chỉ năng lực nhận thức của nhân loại chỉ đạt đến hiện
tượng; bỉ ngạn là thông qua hiện tượng để nhận thức bản chất sự
vật”.
Tự giác: Là
khiến ḿnh đạt được giải thoát. Trong triết học cũng dùng chữ “tự
giác”, biểu thị con người nhận
thức và nắm bắt những hoạt động của quy luật khách quan. Tự giác đối
lập với tự phát.
Nhân quả:Là
nhân duyên và quả báo. Phật giáo có thuyết nhân quả báo ứng ba đời.
Kinh dạy, quả báo thiện
ác có ba đời, chúng luôn theo nhau như bóng theo h́nh. Liên hệ qủa
báo theo phương diện triết học, là một trong những h́nh thức tương
quan liên hệ của hiện tượng phổ biến trong thế giới khách quan.
Duy tâm:
Trong triết học cổ đại Trung Quốc, chủ nghĩa duy tâm ra đời rất sớm.
Mạnh Tử nói:“vạn vật đều
đầy đủ nơi ta”, ông là nhân vật điển h́nh đại biểu của chủ nghĩa duy
tâm chủ quan, nhưng từ “duy tâm” lại có từ Phật giáo. Kinh Hoa
Nghiêm nói:“tam giới vạn vật, chỉ có nhất tâm”. Đại Thừa Nhập Lăng
Già kinh nói:“v́ có cho nên thành không, v́ không cho nên thành
có…duy tâm an lập, người ác kiến không tin”. Như vậy, Phật giáo chủ
trương tam giới đều do tâm khởi, cho nên có thuyết “tam giới duy
tâm”. Trong triết học, từ “duy tâm” là sự chủ trương ư thức tinh
thần là chủ yếu, vật chất là thứ yếu. Chủ nghĩa duy tâm và chủ nghĩa
duy vật là danh xưng của hai trường phái cơ bản của triết học.
Thế giới:“
thế ”là thời gian, “giới” là không gian, c̣n gọi là vũ trụ. Kinh
Lăng Nghiêm nói:“thế nào là thế
giới chúng sanh , “thế ”là dời đổi, “giới ”là phương vị. Đông, Tây,
Nam Bắc, tứ duy thượng hạ làgiới; quá khứ hiện tại vị lai là thế”.
Triết học chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng, thế giới về không
gian th́ vô biên tế, về thời gian th́ vô thỉ vô chung, là tồn tại
khách quan không lệ thuộc con người, và là vật chất luôn ở trong
trạng thái vận động. Trong lúc đó, Phật giáo xem thế giới này là thế
giới vật chất và thế giới tâm linh, và xem thế giới vâït chất là
hiển hiện tướng trạng bên ngoài của thế giới tâm linh hay chân như.
Tuy
chỉ đơn cử vài từ đại biểu, nhưng chúng đều là những thành tố quan
trọng trong từ vựng triết học, có khả năng biểu thị một số mệnh đề
cơ bản, mà mệnh đề đó có thể phát sinh những tác dụng to lớn.
Ảnh hưởng của Phật giáo
đối với từ vựng triết học cổ đại rất lớn. Phật giáo với các mệnh đề
như: “tánh tướng”, “tánh không”, “chân như”, “thật tướng”, “vô
thường” …trở thành những từ ngữ thông dụng trong việc biểu đạt những
vấn đề quan hệ giữa hiện tượng và bản chất trong lịch sử triết học
cổ đại Trung Quốc. Thiền tông Trung Quốc về phương diện triết học,
đă sáng tạo nhiều từ ngữ sinh động, như:“trực tâm là đạo tràng”,
“bổn lai vô nhất vật”,“minh tâm kiến tánh”,“kiến tánh thành Phật
”,“bản lai diêïn mục”… thể hiện cảnh giới tinh thầnminh một cách chí
t́nh chí lí, chúng sanh và Thánh hiền b́nh đẳng. Nói chung, trong
lịch sử triết học Trung Quốc, Phật giáo đă có vai tṛ trong việc
khuếch tán mở rộng phạm vi triết học, làm phong phú nội dung triết
học Trung Quốc, làm sung măn về chất lượng cũng như số lượng từ ngữ
triết học Trung Quốc.
b. Từ vựng văn học:Phật
giáo không những mang lại cho văn học Trung Quốc văn thể mới mẻ và ư cảnh
mới lạ, đồng thời cũng mang đến cho văn học Trung Quốc một số lượng
từ vựng giá trị. Đầu tiên là do phiên dịch và lưu truyền Phật điển,
nên nhiều điển cố hay đẹp trong kinh điển Phật giáo và những từ ngữ
mới, mang nghệ thuật thẩm mỹ được viện dẫn vào trong những tác phẩm
văn học, đặc biệt là từ thời Đường trở về sau, qủa đă làm phong phú
kho tàng ngôn ngữ văn học Trung Quốc. Đồng thời, c̣n có nhiều ngôn
ngữ Phật giáo đă trở thành thuật ngữ lí luận của văn học. Nơi đây
nêu một vài ví dụ đơn giản về thuật ngữ Thiền tông.
Cảnh
giới:Phật giáo thường nói cảnh giới sơ thiền, cảnh giới nhị thiền…..
Cách nói này được Hán ngữ bắt
chước và phát huy, h́nh thành thuyết cảnh giới trong lí luận văn học
Trung Quốc .
Tạo
cảnh:Phật giáo xem vạn pháp do tâm sanh, tâm thức có công năng sáng
tạo vạn vật. Các văn nhân mượn
chủ trương này để chỉ ra công năng sáng tạo thi cảnh của tâm thức.
Nhà văn Lữ Ôn đời Đường trong Lữ Hành Châu Tập nói:“thẩm thấu t́nh
cảm, so sánh h́nh tượng, tạo cảnh đều biết.”
Duyên cảnh:
Phật giáo nói “vạn pháp duy thức”, nhưng cũng cho rằng, do duyên
cảnh lại sinh ra những“thức
”mới mẽ. Các nhà văn nói, từ trong thơ cảnh, thường phát sinh ra
những t́nh huống cảm xúc mới mẻ. Nhà thơ Giảo Nhiên thời Đường
nói:“tâm tư t́nh cảm trong thơ th́ do duyên cảnh phát sanh”.
Diệu ngộ:
Thiền tông Huệ Năng nói “đốn ngộ” cũng là “diệu ngộ”. Thi nhân Đường
đại cũng dùng từ này.
Vương Duy trong bài Họa Học Bí Quyết nói:“diệu ngộ là không phải ở
chỗ nhiều lời, người khéo học cũng phải theo quy cũ”. Cho đến thời
Tống, th́ từ “diệu ngộ ” đă trở thành từ thường gặp trong b́nh luận
thơ văn. Nhà thơ Nghiêm Vũ đời Tống, trong Tang Lăng Thơ Thoại nói:“chung
quy thiền đạo là ở nơi diệu ngộ, thơ đạo cũng ở nơi diệu ngộ……”
Ngộ nhập: Theo Phật giáo, ngộ nhập là ngộ cái lư thật tướng. Các nhà
văn cũng dùng từ này. Nhà văn Lữ
Bổn Trung đời Tống nói: “tác văn th́ cần cái chỗ ngộ nhập, ngộ nhập
có được từ công phu, chứ chẳng phải may mắn.”
Ngoài ra, thuyết đốn ngộ
của Thiền tông Huệ Năng đối với tư triều sáng tác thi ca thời Đường
Tống ảnh hưởng rất lớn, h́nh thành phong cách “lấy thiền dụ thơ”.
Cho nên, khi dùng thiền ngộ dụ thơ văn, các thi nhân văn nhân đă
dùng rất nhiều từ ngữ Phật giáo. Trừ những ǵ đă nêu trên, ngoài ra
c̣n có tham ngộ, liễu ngộ, đại ngộ, nhất thể chi ngộ, nhất niệm chi
ngộ.
c. Dân tục với những từ
ngữ đời thường :
Phật giáo khi truyền đến
Trung Quốc, đă âm thầm phát triển trong tập tục dân gian. Trong rất
nhiều kinh điển biểu đạt từ ngữ thuôïc nghi lễ Phật giáo, tự nhiên
cũng đi vào dân gian; ngoài ra, trên ư nghĩa tương quan, lại c̣n
xuất hiện thêm những từ mới, đơn cử vài từ như :Âm ty, diêm vương,
qủy phán, siêu đôï, hỏa tán, hỏa hóa, hạ hỏa, thủy lục, bi tế, lễ
Phật, dục Phật, thiêu hương, lễ bái,cúng dường, hiến cúng, tụng
kinh, hoàn nguyện, bái sám, tŕ trai, thiết trai, vấn tấn, hiệp
chưởng, hiệp thập, hành hóa, khất hóa, hóa trai, phóng sanh, thí
thực, hành thiện, tế nhân…
Trong từ ngữ thường dùng
hàng ngày, thường thường xuất hiện nhiều từ ngữ chỉ về thời gian.
Như quá khứ, hiện tại, vị lai, là Phật
giáo dùng để chỉ tên gọi của sự tồn tại về thời gian của một cá thể
hoặc nhân qủa luân hồi. Các pháp hữu vi diệt tận gọi là quá khứ, các
pháp hữu vi đang thể hiện những tác dụng của nó gọi lào hiện tại,
c̣n sẽ đến nhưng chưa đến gọi là vị lai. Trong Bồ tát Thọ Kí
nói:“…Ông nay đă gặp Như Lai, th́ nên thành kính, siêng năng thực
hành giáo pháp, trong đời vị lai ông sẽ thành Phật …”. Ngay từ thời
trung cổ, từ “quá khứ” “hiện tại” “vị lai” đă trở thành danh từ
thường dùng chỉ khái niêïm về thời gian trong ngôn ngữ thông dụng
hàng ngày. Sát na: là dịch âm của từ“ksana”, Câu Xá luận
nói:“cực vi gọi là sát na,………trong khoảnh khắc búng
ngón tay của tráng sĩ, đă có đến 65 sát na, như vậy gọi là một lượng
sát na.”Niệm: là ư dịch của sát na, hoặc nói 90 sát na là một niệm.
Nháy mắt (thuấn) : Một thuấn là thời gian nhấp nháy con mắt. Ma
HaTăng Ḱ luật nói:“hai mươi niệm gọi là một thuấn; hai mươi thuấn
là một đàn chỉ (búng móng tay)”. Có thể thấy trong kinh điển Phật
giáo, đó là đơn vị thời gian lớn hơn niệm khoảnh (tư tưởng trong
khoảnh khắc) mà nhỏ hơn đàn chỉ.
Như gấm thiêm hoa, như
rồng điểm ngọc, Hán ngữ thật sự khiến cho ngôn ngữ Trung Hoavốn
phong phú lại càng phong phú hơn, càng hay, đẹp, hàm súc, sâu sắc và
triết lí.
____
Chú thích (của người
dịch)
(1) Giáp
cổ văn: là sản phẩm văn hóa thời đại nhà Thương (khoảng thế kỉ 17
-11 TCN ). Vào đời Thương Ân, người ta dùng mai rùa và xương các
loài thú để xem bói. Sau khi bói, họ ghi khắc lên nó tất cả những ǵ
liên quan đến bói toán, như ngày tháng, tốt xấu…, và các văn tự này
gọi là Giáp cổ văn. Dần dần nó được dùng ghi chép các tư liệu về
phương diện như xă hôïi chính trị, kinh tế, văn hóa Trung Quốc. Giáp
cổ văn là văn vật lịch sử xuất hiện sớm nhất và quư báu nhất, bởi đó
là khởi nguyên, là cội nguồn của văn tự và ngôn ngữ Hán tộc.
(2) Hung
Nô: Sau thời Chiến quốc (thế kỉ thứ 3 TCN), nhiều thị tộc bộ lạc
phương Bắc Trung Quốc h́nh thành liên minh bộ lạc trong một phạm vi
nhất định, môït trong số đó là dân tộc Hung Nô. Vậy, Hung Nô là
một dân tộc du mục phương Bắc trong một quốc gia đa dân tộc thời cổ
đại Trung Quốc (cũng gọi là dân tộc Hồ). Dân tộc này đến kỉ thứ 1 CN
th́ suy vong. Ngay từ rất sớm, Hung Nô đă thống nhất được nhiều bộ
tộc và bộ lạc ở khu vực Nam-Bắc, xây dựng chính quyền Hung Nô đôïc
lập, kết thúc cục diện phân tán của các bộ lạc du mục phương Bắc.
(3) Tây
Vực: Văn hóaTây Vực, trừ đặc sắc văn hóa Thổ Phồn ra (Thổ Phồn gọi
đủ Thổ Phồn vương triều, là chính quyền dân tộc biên cương mà Tây
Tạng kiến lập trên cao nguyên Trung Quốc vào thế kỉ 7-9 CN, cũng là
chính quyền thống nhất đầu tiên trong lịch sử Tây Tạng. Khoảng gần
100 năm kể từ sau ngày thành lập, vương triều này phát triển rực rỡ
về mọi phương diện. Vào cuối thế kỉ thứ 8 CN, do mâu thuẩn nội bộ
ngày một gay gắt, nên cuối cùng đi đến sụp đổ. Sau khi chính quyền
này sụp đổ, th́ Tây Tạng trường ḱ rơi vào cục diện nội chiến phân
liệt.), c̣n có tứ đại văn hóa, đó là Hán học Trung Nguyên, Phật học
Ấn Độ, đạo Hồi của Ả Rập, và Cơ đốc giáo của Âu Châu. Trên toàn thế
giới, Tây Vực không
những là mảnh đất phong thủy quư giá mà c̣n là nổi tiếng thần bí. Nó
là mạch nguồn giao thông giữa Tây và Đông phương, là nơi giao dung
phồn thịnh của các đại văn hóa trên thế giới, làm thay đổi tiến
tŕnh lịch sử của các dân tộc thuộc Tây vực và sự phát triển của xă
hội.
(4) Trung
Quốc thời trung cổ: Là chỉ giai đoạn lịch sử khoảng từ thời Ngụy Tấn
Nam Bắc triều đến Tống Nguyên, tức khoảng từ thế kỉ thứ 3-thế kỉ 12
CN
(5) Chiến
tranh Nha phiến: Là ba lần chiến tranh (cuộc chiến thứ nhất từ
năm1840-1842, thứ hai từ 1856-1860, và thứ ba từ 1860-1864) của quân
dân Trung Quốc chống lại Anh quốc. Trong cuộc chiến này, Anh vận
chuyển vào Trung Quốc lượng đôïc phẩm thuốc phiện khổng lồ. Cũng là
cuôïc chiến tranh đầu tiên của quân dân Trung Quốc chống lại sự xâm
nhập hùng mănh của Chủ nghĩa tư bản phương Tây. Sau chiến tranh Nha
phiến, Trung Quốc bước vào xă hội bán phong kiến bán thực dân địa.
(6) Huyền
học: Là sản phẩm kết hợp giữa học thuyết Nho gia và triết học Đạo
gia, có thể được xem là Nho học hóa của học thuyết Lăo Trang. Đặc
trưng cơ bản của Huyền học là một triết học tư biện trừu tượng, chủ
yếu nội hàm là thảo luận những vấn đề liên quan đến bản thể vũ trụ,
và những phân tích biện luận về danh lư tánh tướng của sự vật, nó
cũng bao hàm những vấn đề lí luận và chính trị xă hội.
(Nguồn:
namtong.org)
BACK |