GIĂ TỪ VŨ KHÍ

"Sabbesu bhūtesu nidhāya daṇḍaṃ

Aheṭhayaṃ aññataramhi tesaṃ

Na puttamiccheyya kuto sahāyaṃ

Eko care khaggavisāṇakappo"

"Từ bỏ đao trượng đối với các chúng sanh không nhiễu hại ai và cũng chẳng ái luyến ai dù con cái hay bè bạn, hăy độc hành như một tê ngưu"

DUYÊN SỰ:

Dưới thời Đức Phật Kassapa có một vị tỳ khưu tŕ hạnh ẩn lâm sống trong rừng sâu suốt hai muôn năm để bổ túc pháp độ cho chí nguyện Độc Giác của nguyện. Sau khi mệnh chung, vị này sanh về thiên giới một thời gian khá lâu rồi lại sanh xuống cơi người làm con của Đức vua Bārāṇassī.

Từ lúc mang thai vị này, hoàng hậu Bārāṇasī được chăm sóc cẩn thận như một thiên hậu. Lúc lọt ḷng mẹ, hoàng tử xinh đẹp chẳng khác một ḥn bảo thạch khéo dồi, sáng chói và đầy đặn. Vua Bārāṇassī thương con lắm, ông đă cắt đặt 66 cô bảo mẫu nuôi nấng hoàng tử một cách kỹ lượng. Năm 16 tuổi, hoàng tử đă được phụ vương chính thức nhường ngôi cho làm vua cai trị cả lănh thổ Bārāṇāsī mênh mông với hơn hai muôn thành phố trù mật. Trong kinh ghi rằng vương quốc Bārāṇasī lúc đó bao gồm toàn cơi diêm phù đề và các vị vua lớn nhỏ trong đó đều là chư hầu của hoàng triều Bārāṇasī. Sau khi lên ngôi kế vị vua chua, hoàng tử lấy đế hiệu là Brahmadatta.

Tương truyền rằng vua Brahmadatta nầy rất giàu có, bất cứ người vật nào trong tay ông cũng không dưới hai muôn: hai muôn ṭa lâu đài, hai muôn ngựa quư, hai muôn bảo tượng, hai muôn ngự tọa, hai muôn cỗ xe, hai muôn binh lính ngự lâm quân, hai muôn cung nữ và đến hai muôn triều thần.

Với chừng đó sản nghiệp và sức mạnh, vua Brahmadatta không say đắm hưởng thụ như bao vị đế vương khác. Do túc duyên giải thoát cao dày, dù trong h́nh thức cư sỹ, vua đă chứng đại ngũ thông bất định giữa bao thứ khoái lạc. Cảm thấy nhàm chán đời sống bận rộn của một đấng đứng đầu trăm họ nhưng không thể rời bỏ cung đ́nh ra đi một cách vội vă, nên vua chỉ giao hết việc triều đ́nh cho một vị Đại thần rồi vào sống tịnh cư trong một lâu đài biệt lập để an hưởng thiền lạc.
Cả nửa tháng trời không thấy mặt vua, Hoàng hậu Bāraṇāsī hỏi các quan. Biết chồng không c̣n màng ǵ đến dục lạc thế tục, Hoàng hậu nói với quan nhiếp chánh:

- Đă thay vua trông coi triều đ́nh quốc sự th́ ông cũng phải thay ngài chăm sóc ta chứ.

Sau ba lần kiên quyết từ chối, quan nhiếp chính chấp nhận lời đề nghị của hoàng hậu. Nàng c̣n trẻ và nhan sắc kiều diễm nên chẳng bao lâu sau, quan nhiếp chính đă mê nàng như điếu đổ. Hai người công khai đi lại với nhau, chẳng kể ǵ đến thể thống triều đ́nh hay lời đàm tiếu dị nghị của mọi người. Đă vậy, càng lúc quan nhiếp chính càng tỏ ra ngang tàng như một hoàng đế chính thức đương triều.

Không thể làm ngơ trước sự kiện đó, các triều thần đă vào tâu lại với vua Brahmadatta mọi việc. Mấy lần họ vào gặp, vua vẫn không tỏ thái độ ǵ, ông dửng dưng như không. Sau cùng khi tận mắt thấy quan nhiếp chính đang tư thông với hoàng hậu, vua bèn cho triệu tập quần thần lại hỏi cách giải quyết. Các quan tâu nên gia h́nh nặng nề hoặc tịch biên gia sản của quan nhiếp chính nhưng vua không nỡ làm thế, ông chỉ ra lệnh trục xuất quan nhiếp chính ra khỏi vương quốc và cho phép mang theo tất cả những ǵ sở hữu.

Bỏ vua Bārāṇasī ra đi, quan nhiếp chính lập tức đến đầu phục một vị vua xứ láng giềng và được thu dụng ngay. Thế rồi, nhân một cơ hội thuận tiện, gă phản thần này gợi ư với vua bản địa việc đánh chiếm Bārāṇasī. Vốn rất e ngại trước sức hùng cường của triều đ́nh Bārāṇasī nên vị vua này đă tỏ ư không chấp thuận. Sau nhiều lần được gă phản thần khích dụ, ông ta đồng ư nhưng cũng thận trọng cho người sang Bārāṇasī ḍ xét trước t́nh h́nh.

Biết vua Bārāṇasī là một bậc hiền vương đức độ, không ưa chuyện binh đao, vị vua láng giềng an tâm kéo quân sang vây hăm các thành phố của Bārāṇasī rồi gửi chiến thư cho vua Brahmadatta.

Trước t́nh h́nh đó, các quan vào gặp vua Brahmadatta để bàn cách đối phó. Hầu hết triều đ́nh đều chủ trương động binh, nhưng một lần nữa vua lại thể hiện đức tính từ bi của ḿnh, ông nói:

- Trẫm không muốn xảy ra chiến tranh. Đánh nhau là phải giết chóc, trẫm không thể làm điều đó được đâu.

Quân giặc ngoài thành mỗi lúc một hung hăng hơn, các quan Bārāṇasī lại vào gặp vua để xin được xuất binh. Để đáp lại ḷng ái quốc của họ, lần này vua Brahmadatta tỏ ra tích cực hơn trong việc giữ thành nhưng vẫn là đường lối khoan ḥa:
- Có lẽ đă tới lúc chúng ta phải cho họ hiểu rằng không phải Bārāṇasī bất lực nhưng các khanh nên nhớ là cố gắng tối đa để trách đổ máu. Chỉ có vậy trẫm mới bằng ḷng thân chinh.

Sau khi hội thảo chớp nhoáng, mộ phương án độc đáo, các triều thần tŕnh lên vua để hỏi ư. Thấy đó là một chiến thuật chẳng những không gây đổ máu mà lại có nhiều khả năng đối phó với quân địch nên vua Brahmadatta lập tức đồng ư. Lệnh vua ban ra, quân tướng Bārāṇasī chuẩn bị sẵn sàng.

Đêm hôm ấy, trời tối đen như mực, cả doanh trại quân giặc đang ngủ say bởi chúng yên chí rằng chỉ trong nội nhật ngày mai, kinh thành Bārāṇasī sẽ bị triệu hạ, làm ǵ được chứ thứ vua như Brahmadatta nhu nhược, nhút nhát. Ngay lúc đó, cổng thành bật mở, một đoàn quân lặng lẽ tiến vào trại giặc. Người ngựa đều cất lạc ngậm thẻ nên đêm vẫn yên lặng. Đức vua Brahmadatta trực tiếp điều quân trong trận này.

Bước tới tận chỗ vua láng giềng đang nằm ngủ, vua Bārāṇasī phát ngay khẩu lệnh ứng chiến. Bên ḿnh vua lúc đó có mặt đông đủ các viên tùy tướng thân tín, chỉ trong nháy mắt, tất cả trại giặc inh ỏi những tiếng la hét và rực sáng như ban ngày. Vua tôi xứ láng giềng kinh hoàng tháo chạy trối chết. Họ không hiểu tại sao cả một đội quân hùng hậu với đầy đủ đèn đuốc như binh lực của Bārāṇasī lại có thể vào tận bên trong quân doanh của họ mà không bị phát hiện.

Họ có biết đâu rằng mỗi người lính Bārāṇasī đều cầm theo một cái nồi đậy kín, trong đó là một cái đèn thắp sẵn. Khi lĩnh vua vừa truyền ra là tất cả binh lính đều nhất loạt lấy đèn ra khỏi nồi và thế là cả trại giặc sáng rực. Thử hỏi với một sự bất như vậy ai lại không kinh hồn tám đởm và điều làm cho đoàn quân xâm lăng ngạc nhiên hơn nữa là không có ai nhớ được là ḿnh có bị tấn công bằng vũ khí hay không. H́nh như đám người xuất quỷ nhập thần kia chỉ biết đốt đèn và la hét.

Nhưng vị vua láng giềng và các mưu sỹ của ông th́ rất hiểu. Họ biết rằng vương quốc mà họ muốn xâm lăng chính là xứ sở của một vị Đại vương có ḷng nhân từ cao siêu như trời bể. Họ biết vua Brahmadatta vừa tha chết cho họ chỉ v́ ông không muốn nh́n thấy một giọt máu nào rơi xuống trên lănh thổ của ông. Xúc động và hối hận đầy ḷng, sau một đêm dài thao thức, nhà vua láng giềng đem hết binh lính đến gặp vua Brahmadatta xin quy hàng.

Thấy vị vua láng giềng quỳ gối trên đất, vua Brahmaddata bồi hồi xúc động. Đêm qua với tư cách là kẻ thù với nhau, ông c̣n tha thứ được huống nữa là bây giờ kẻ đối lập đă ăn năn.

Vua Brahmadattta đưa tay đỡ vị vua láng giềng đứng lên và mỉm cười thông cảm. Vị vua láng giềng mừng lắm, ông xin được cai trị một kinh thành nằm gần Bārāṇasī nhất để có dịp gần gũi với vua Brahmadatta. Ông không thể rời xa con người bao dung nầy được nữa, Hôm qua ông đem sức mạnh đi đánh chiếm người nhưng đă thất bại, để rồi hôm nay người ta dùng t́nh thương chinh phục ông mà lại thành công.

Thế rồi, giữa chốn ba quân, vua Brahmadatta đưa mắt nh́n quanh và hồi tưởng lại mọi việc. Ông chợt thấy hoan hỷ dào dạt và chỉ trong thoáng chốc, với sự tinh thục của thiền định, ông suy tư về cuộc đời, về vạn pháp hữu vi, rồi Thánh trí Độc Giác khởi lên, vua Brahmadatta trở thành vị Phật Độc Giác.

Lúc bấy giờ triều thần Bārāṇasī nhắc vua hồi cung để c̣n tưởng thưởng quân tướng, nhưng vua Brahmadatta lúc này đă là một Đức Phật Độc Giác nên Ngài đă trả lời:

- Ta không phải là vua nữa, ta là một vị Phật Độc Giác,

Triều thần ngạc nhiên nh́n Ngài rồi đồng tỏ vẻ ái ngại:

- Chư Phật Độc Giác không vị nào có h́nh thức như Đại Vương đâu ạ.

- Nghĩa là phải như thế nào?

- Thưa, các Ngài có đủ y bát cùng các vật dụng của hàng xuất gia và tóc của chư Phật Độc Giác th́ dài lắm chỉ khoảng hai ngón ta thôi ạ.

Ngay lúc ấy, vua Brahmadatta đưa tay lên sở đầu ḿnh, và trong nháy mắt, h́nh thức cư sĩ biến mất để Ngài thật sự trở thành một Đức Phật Độc Giác với đầy đủ h́nh thức và nghi hạnh của một bậc xuất gia thâm niên. Rồi Đức Phật Độc Giác thị hiện thần lực bay lên khkỏi lưng voi và ngồi trên hư không nh́n xuống ba quân tướng sĩ. Trước h́nh ảnh đó, tất cả những người hiện diện đồng loạt quỳ xuống đảnh lễ Đức Phật Độc Giác và các quan Bārāṇasī đă hỏi Ngài chứng đạt thượng pháp bằng đạo lộ nào. Đức Phật Độc Giác thuyết giảng tổng quát cho họ về án xứ Từ tâm và Thiền quán, rồi ngâm lên bài kệ cảm hứng:

- "Từ bỏ đao trượng đối với tất cả chúng sanh, không nhiễu hại ai và cũng chẳng ái luyến ai dù con cái hay bè bạn, ta độc hành như một tê ngưu"

Tập sớ giải thích rằng tiếng "độc hành" ở đây ám chỉ cho cuộc sống xuất gia không nhà cửa, chư Phật Độc Giác luôn có khuynh hướng viễn ly quần chúng, không ưa t́m bè bạn, các Ngài là những vị không tầm cầu tham ái (nataṇhādutiyakā – không đánh bạn với ái), hoàn toàn thoát ly phiền năo, chứng ngộ Độc Giác Trí (tự ḿnh chứng ngộ và cũng không đủ sức độ cho ai chứng ngộ), tách ly đời sống thế tục và chỉ đi - đứng - nằm - ngồi một ḿnh (sinh hoạt độc lập). Đó là những ư nghĩa của tiếng Độc hành trong bài kinh này.

Nói về triều thần Bārāṇasī khi thấy vua của ḿnh đă trở thành Phật Độc Giác, biết Ngài không thể trở về sống ở hoàng cung, nên họ lo lắng hỏi:

- Thế bây giờ, Ngài sẽ ngụ ở nơi nào ạ?

Đức Phật Độc Giác quán xét biết rằng chư Phật Độc Giác luôn sống trên núi Gandhamādana trong dăy Tuyết Sơn, nên sau khi nói cho triều thần biết chỗ ngụ của ḿnh, Ngài đă bay về đó.

Tại đây, trên núi Gandhamādana có một truyền thống đặc biệt là cứ mỗi khi có một vị Phật Độc Giác nào vừa mới giác ngộ đi đến cư ngụ th́ các vị Phật Độc Giác đă sống trước ở đó đều tụ họp lại vấn an và chúc mừng.

Khi được các vị hỏi về quá tŕnh tu chứng, Phật Độc Giác Brahmadatta đă ngâm lên bài kệ tâm đắc nhất mà ḿnh đă hứng khởi lúc mới chứng ngộ.

(Trích "Độc Giác Truyện" – Sư Giác Nguyên dịch)

 

 

BIÊN KHẢO

 

Home