KHẢO
SÁT VỀ
CÂU CHUYỆN
NÀNG SUJĀTĀ
& NGÔI THÁP GẠCH
BÊN BỜ
SÔNG NIRANJANA
Chúc Phú
Tôi đến
Bodh Gaya vào giữa tháng Hai dịu nắng. Vượt qua một cây cầu dài và hơi
bị rung lắc, bắc qua sông Falgu, chúng tôi đến khu vực được ngành du
lịch Ấn Độ giới thiệu là làng Sujātā. Tên tuổi Sujātā được sử dụng rộng
răi, từ lớp học cho trẻ em nghèo đến khách sạn sang trọng ở khu vực Bodh
Gaya. Đường vào làng hẹp và bụi bặm. Ven đường, một vài nông dân đang
đập lúa vàng ươm vừa mới thu hoạch trên các khoảnh ruộng. Phong cảnh
giống như đất nước Việt Nam trước đây. Xe đưa chúng tôi đến một ngôi
tháp bằng gạch. Tháp khá lớn và tṛn đều, có thể nhận ra rất rơ từ không
ảnh của Google Maps. Đọc ḍng giới thiệu vắn tắt trên tấm biển màu xanh
gần ngôi tháp, được biết đó là ngôi tháp của nàng Sujātā, người con gái
đă dâng bát cháo sữa cho nhà khổ hạnh Siddhārtha trước khi chứng đạo.
Tôi chợt nghĩ về các đạo sĩ khổ tu và tấm ḷng nhân hậu của người dân Ấn.
Nh́n
những viên gạch cũ, không rơ có phải là cổ hay không, nằm chỏng chơ xung
quanh tháp, tôi chợt nhớ lại h́nh ảnh những người thợ xây khắc khổ đang
sử dụng những viên gạch cũ, để xây những nền, móng chưa rơ là nhà hay
tháp tại những thánh tích Phật giáo đang được tu sửa. Tôi tự hỏi, có
không những người thợ xây ấy đang phục dựng sai những công tŕnh mà tiền
nhân xây dựng? Hoặc xây dựng những công tŕnh không hề có trong kinh
điển Phật giáo? Liên hệ tới những chứng tích khai quật ở Piprahwa, được
giới khảo cổ Ấn Độ cho rằng đó là Đại Kapilavasttu, một công bố bị các
nhà khảo cổ Nepal cho rằng không xác thực(1),
trong tôi khởi lên suy nghĩ về việc khảo sát lại những thánh tích của
Phật giáo hoặc liên quan đến Phật giáo thông qua hệ thống kinh điển.
Khảo sát về sự kiện bát cháo sữa của nàng Sujātā phát xuất từ trăn trở
này.
NÀNG SUJĀTĀ VÀ BÁT CHÁO SỮA TRONG HỆ NIKĀYA
1- Về
tên gọi Sujātā
Theo từ
nguyên, Sujātā có nghĩa là được sinh ra từ ḍng giống quư phái, là thiện
sinh(2).
Chính v́ vậy nên tên gọi Sujātā được nhiều người sử dụng ở Ấn Độ cổ đại.
Theo Từ điển Phật học nhân xưng Pāli(3),
ấn bản điện tử, th́ có mười người cùng tên Sujātā. Thứ nhất, đó là một
vị đại đệ tử của Đức Phật Sobhita (theo J. i 10; Bu vii, 22). Thứ hai,
là một đại đệ tử của Đức Phật Piyadassi (theo J.i.39; Bu.xiv.21). Thứ ba,
là mẹ của Đức Phật Padumutara (theo, J.i.37; Bu.xi.19; MA.ii.722;
DhA.i.417). Thứ tư, là mẹ của Đức Phật Kondanna (theo, Bu.iii.25;
J.i.30). Thứ năm, là nữ A-tu-la, về sau trở thành vợ của Thiên chủ (Sakka)
(theo, DhA.i.269, 271, 274ff.; DA.iii.716f.; J.i.201f.; also
J.iii.491f). Thứ sáu, là con gái của gia chủ Senani, vị thôn trưởng gần
Uruvela, cùng với người hầu gái Punna, đă dâng bát cháo sữa cho Đức Phật
khi Ngài chứng đạo (theo, J.i.68f.; DhA.i.71,). Thứ bảy, cận sự nữ
Natika (theo, D.ii.92; S.v.356f.). Thứ tám, em gái của bà Visakha, vị
này có người con gái tên là Dhanañjayasetthi, được gả cho con trai gia
chủ Anathapindika, đều được đề cập chi tiết trong Jātaka 269. Thứ chín,
một nữ tỳ ở Benares (theo, J.ii.125). Và thứ mười là tên một vị Trưởng
lăo ni (theo, Thig.145-50; ThigA.136f).
Như vậy,
trong mười người cùng tên Sujātā, th́ người thứ sáu, nàng Sujātā dâng
cháo sữa cho Đức Phật, là đối tượng cần được khảo sát qua kinh tạng.
2-
Các kinh văn liên quan đến lịch sử Đức Phật
Chúng
tôi đă tập trung khảo sát các bản kinh chứa nhiều dữ liệu liên quan đến
cuộc đời Đức Phật trong năm bộ Nikāya nhưng vẫn không t́m thấy câu
chuyện về nàng Sujātā dâng bát cháo sữa.
Ở kinh Trường
bộ, chúng tôi đă lần lượt khảo sát các bản kinh: kinh A ma trú, số
3; kinh Cứu la đàn đầu, số 5; kinh Đại bổn, số 14; kinh
Đại duyên, số 15; kinh Đại bát Niết bàn, số 16; kinh Đại
thiện kiến vương, số 17; kinh Khởi thế nhân bổn, số 27.
Ở kinh Trung
bộ, chúng tôi đă khảo sát các bản kinh: kinh Sợ hăi và khiếp đảm, số
4; Đại kinh sư tử hống, số 12; kinh Thánh cầu, số 26; Đại
kinh Saccaka, số 36; kinh Makhadeva, số 83; kinh Hy hữu vị
tằng hữu pháp, số 123.
Ở kinh Tăng
chi, kinh Tương ưng và kinh Tiểu bộ (từ Tiểu bộ 1 đến
Tiểu bộ 10), chúng tôi không phát hiện câu chuyện về nàng Sujātā dâng
bát cháo sữa. Chỉ riêng kinh Tăng chi, chương Một pháp, phẩm
Người tối thắng, kinh Nữ cư sĩ, có đề cập đến tên Sujātā và xác
định rằng: “Trong các vị đệ tử nữ cư sĩ của Ta, này các Tỳ-kheo,
người đi đến quy y đầu tiên là Sujātā Senāndīhitā”. Đây là thông tin
quan trọng cần được mở rộng.
Cần phải
xác định rằng, không hề có sự kiện dâng cúng bát cháo sữa được đề cập
trong bản kinh Tăng chi ở trên. Thứ hai, tên Sujātā Senāndīhitā
chính là nàng Sujātā đă cùng với người hầu Punna dâng cháo sữa cho Đức
Phật vừa được nêu dẫn. Nếu nàng Sujātā Senāndīhitā là nữ
cư sĩ quy y đầu tiên, th́ câu chuyện cúng bát cháo sữa cho nhà khổ hạnh
Siddhārtha Gotama chỉ là hư cấu. Bởi lẽ, khi đă quy y làm đệ tử, thông
tin đó đồng thời xác tín rằng Đức Phật đă thành đạo.
Hơn thế
nữa, trong tác phẩm nổi tiếng chuyên khảo về Ni giới và nữ cư sĩ của I.B.
Horner, nguyên Chủ tịch Hội Pāli Text Society(4),
có tám lần đề cập đến tên Sujātā nhưng không có một thông tin nào liên
quan đến nàng Sujātā dâng bát cháo sữa, và cũng không có thông tin nào
xác nhận rằng Sujātā là nữ cư sĩ đệ tử đầu tiên. Như vậy, thông tin từ
kinh Tăng chi vừa dẫn, không liên quan đến câu chuyện nàng Sujātā
dâng bát cháo sữa trước khi Thế Tôn thành đạo.
3-
Khảo sát tác phẩm Nidanakatha thuộc hệ Nikāya
Trong
văn hệ Pāli, một trong những tài liệu liên quan đến lịch sử Đức Phật
được học giới ghi nhận là bản văn Duyên khởi luận (Nidanakatha)(5),
được cho là trước tác của Buddhaghosa (Phật Âm) vào thế kỷ thứ V(6).
Tác phẩm này là một cơ sở quan trọng để Hajime Nakamura biên soạn công
tŕnh Lịch sử Đức Phật Gotama(7).
Nidanakatha bắt đầu với việc mô tả các tiền sinh của Đức Phật, các sự
kiện khi thái tử ra đời; đặc biệt, văn bản này ghi lại đầy đủ câu chuyện
nàng Sujātā và bát cháo sữa hết sức sinh động.
Theo văn
bản này, tại Uruvela, ở thôn Senani, có một thiếu nữ tên là Sujātā đă
cầu nguyện với thần cây Nigrodha rằng: Nếu con được gả cho một nhà môn
đăng hộ đối, và có được một đứa con trai đầu ḷng, con sẽ phụng cúng
thần cây hàng năm với những lễ vật quư giá. (If
I am married into a family of equal rank, and have a son for my
first-born child, then I will spend every year a hundred thousand on an
offering to thee)(8).Lời
nguyện được viên thành, cô đă tinh chế sữa từ một ngàn con ḅ, tạo ra
món cháo sữa hết sức đặc biệt; và vào ngày trăng tṛn tháng Năm, cô cùng
với người hầu Punna đem món cháo sữa đặc biệt đó dâng cúng cho Bồ-tát.
Thọ dụng cháo sữa xong, Bồ-tát xuống tắm ở ḍng sông Niranjana và nhận
bó cỏ từ người mục đồng Sotthiya cúng dường. Sau đó, Ngài đi đến gốc
Bồ-đề và dũng mănh phát nguyện: “Cho dù da thịt, gân xương trở nên khô
cằn, máu trong thân này dẫu có cạn kiệt, nhưng nếu không đạt đạo, Ta
quyết không rời chỗ này”. (My skin, indeed, and
nerves, and bones, may become arid, and the very blood in my body may
dry up; but till I attain to complete insight, this seat I will not
leave!)(9).
Câu
chuyện là sự tổng ḥa nhuần nhuyễn giữa những yếu tố hiện thực lịch sử
và các chi tiết huyền thoại hùng tráng. Bản văn đă tạo tiền đề để nhiều
nhà nghiên cứu Phật học sáng tạo lịch sử Đức Phật theo xu thế cảm xúc,
văn chương.
NÀNG SUJĀTĀ VÀ BÁT CHÁO SỮA TRONG HỆ BẮC TRUYỀN
1-
Ngũ phần luật
Lần lượt
khảo sát các kinh văn theo bảng phân định các kinh tương đương với năm
bộ Nikāya ở hệ A hàm, chúng tôi vẫn chưa phát hiện được bất kỳ tư liệu
liên quan đến câu chuyện nàng Sujātā và bát cháo sữa. Tưởng chừng hướng
khảo sát đi vào ngơ cụt, th́ t́nh cờ chúng tôi phát hiện câu chuyện chi
tiết về bát cháo sữa của nàng Tu Xà Đà (須闍陀) trong Ngũ
phần luật(10), và
đặc biệt, tư liệu này c̣n đề cập đến việc quy y Nhị bảo của tín nữ Tu
Xà Đà. Thế nhưng, do v́ Ngũ phần luật có niên đại xuất hiện
khá muộn(11),nên
chúng tôi chuyển hướng khảo sát vào các bộ kinh thuộc hệ Bản duyên theo
sự phân loại trong Đại chính tạng (Đại chính tân tu đại tạng kinh).
2-
Thái tử thụy ứng bản khởi kinh
Mặc dù
vậy, khi khảo sát bản kinh đầu tiên từ hệ thống này là Thái tử thụy
ứng bản khởi kinh (太 子 瑞 應 本 起 經)(12), có
niên đại xuất hiện khá sớm vào đời Đông Ngô (229-280), do cư sĩ Chi
Khiêm dịch, chúng tôi không t́m thấy chi tiết về câu chuyện nàng Sujātā.
3- Tu
hành bản khởi kinh
Nỗ lực
khảo sát của chúng tôi đă được đền đáp, khi phát hiện toàn văn câu
chuyện nàng Sujātā và bát cháo sữa trong kinh Tu hành bản khởi (修行本起經)(13).Tu
hành bản khởi kinh gồm hai quyển, do đại sư Trúc Đại Lực và cư sĩ
Khang Mạnh Tường dịch vào đời Hậu Hán (25 -220). Kinh văn xác nhận có
hai cô gái nhưng không rơ tên, phụng cúng sữa cho Bồ-tát và sau đó quy y
Tam tôn (令女歸三尊). Có một chi tiết đặc biệt lưu ư, đó là việc tạo ra tinh
phẩm cúng cho Bồ-tát bằng cách tinh chế sữa từ năm trăm con ḅ. (當 取 五 百
牛 乳, 展 轉 相 飲 至 于 一 牛).
4-
Phổ diệu kinh
Theo hệ
Bổn duyên và dựa vào niên đại, chúng tôi khảo sát kinh Phổ diệu (普
曜 經), bản kinh được xem là xuất hiện khá sớm trong thời Tây Tấn
(265-316)(14) và
câu chuyện về nàng Sujātā xuất hiện ở phẩm Sáu năm chuyên cần khổ
hạnh, thứ mười lăm. Theo kinh, tại làng Tu Xá Mạn Gia (修 舍 慢
加) có một trưởng giả nữ. Người tín nữ này trước khi lấy chồng đă từng
phát nguyện, nếu như có được một đứa con trai, sẽ dâng lễ phụng cúng sơn
thần, thọ thần(15). Đặc
biệt, bản kinh mô tả chi tiết về câu chuyện phụng cúng cháo sữa được
tổng hợp, chế biến từ nhiều con ḅ sữa mà ở đây là một ngàn con ḅ sữa(16). Và
cũng theo kinh văn mô tả, ngoài tín nữ ra, c̣n có một thị tỳ hầu cận,
phụ giúp tín nữ thực hiện hạnh nguyện của ḿnh. Ngoài việc chuyển tải
câu chuyện như đă nêu, với những khảo sát sơ bộ của chúng tôi, cho thấy
kinh Phổ diệu nội hàm những tư liệu quư báu tương tự như kinh Tập
và những bản kinh cổ trước đó.
5-
Phật bản hạnh tập
Bộ kinh
đồ sộ mô tả về cuộc đời Đức Phật cùng thuộc hệ Bản duyên đó là kinh Phật
bản hạnh tập (佛 本 行 集 經) gồm sáu mươi quyển. Kinh do đại sư Xà Na
Quật Đa (Jnānagupta) dịch vào đời nhà Tùy. Đại sư người nước Kiền Đà La
(Gandhara), Bắc Ấn Độ, đến kinh đô Tràng An (Trung Hoa) vào khoảng
559-560, là một gương mặt dịch thuật nổi bật của Phật giáo đời Tùy.
Theo
kinh, nhà Bà-la-môn Tư Na Da Na (斯 那 耶 那) có hai người con gái. Một
người tên là Nan-đà, tiếng Tùy gọi là Hỹ (難 陀, 隋 言 喜), một người tên là
Ba-la, tiếng Tùy gọi là Lực (婆 羅, 隋 言 力). Hai cô con gái đó cúng dường
Bồ-tát thức ăn, nước uống và dầu để xức thân. Chi tiết khá đặc biệt, đó
là hai nàng mong ước sánh duyên cùng Bồ-tát (我 願 彼 人 作 於 我 夫). Sau khi
nghe Bồ-tát khuyên bảo, hai nàng từ bỏ ư định nhưng vẫn phụng cúng vật
phẩm. Không lâu sau, có một người chăn dê đảm nhận trách vụ này măi đến
khi Bồ-tát hồi phục hoàn toàn sức lực, sau sáu năm khổ hạnh.
6- Phương
quảng đại trang nghiêm kinh
Kinh do
Địa Bà Ha La dịch vào đời Đường (618 – 907), cũng được gọi là Thần
thông du hư kinh (方 廣 大 莊 嚴 經 (一 名 神 通 遊 戲)(17),
gồm 12 quyển. Kinh văn có kết cấu chặt chẽ, mô tả cuộc đời Đức
Phật từ cung trời Đâu Suất đến khi phú pháp, dặn ḍ. Nhiều nhà nghiên
cứu phương Tây như M. Winternitz và J.K. Nariman nghi ngờ rằng bản kinh
này được trước tác trên nền tảng kinh Phổ diệu. Chi tiết câu
chuyện nàng mục nữ dâng sữa xuất hiện ở quyển bảy, phẩm 18, Đến sông
Ni liên. Tên nàng mục nữ dâng sữa là Thiện Sinh (名 曰 善 生) và người
hầu tên là Ưu Đa La (優 多 羅 女). Do được thiện thần mách bảo nên biết
Bồ-tát tu khổ hạnh và đă tinh chế món cháo sữa từ một ngàn con ḅ để
dâng cúng. Chi tiết câu chuyện pha lẫn nhiều yều tố thần thông biến hóa
hơn so với các kinh văn ở giai đoạn sơ kỳ.
7-
Phật sở hành tán (Buddhacarita)
Tác phẩm
cuối cùng chúng tôi khảo sát không thuộc kinh, nhưng vẫn nằm trong hệ
Bản duyên, đó là tác phẩm Phật sở hành tán (佛 所 行 讚)(18) của
Mă Minh (Asvaghosa), một tác gia của nhiều bộ luận Đại thừa nổi tiếng. Phật
sở hành tán là một trường ca cổ bằng Phạn ngữ và được dịch sang Tạng
ngữ, Hán ngữ và nhiều ngôn ngữ khác. Niên đại xuất hiện của Mă Minh cũng
như của tác phẩm này có nhiều thuyết, chưa được các nhà nghiên cứu Phật
học có thẩm quyền thống nhất. Tuy nhiên, căn cứ vào bản Hán văn trong
Đại chính tạng th́ tác phẩm này có mặt tại Trung Hoa vào thời Bắc Lương
(397 - 439). Đây là một áng văn chương trác tuyệt viết về cuộc đời Đức
Phật và có đề cập ngắn gọn về chi tiết nàng Sujātā cúng bát cháo sữa. Do
v́ độ nén của văn chương thi ca, cho nên trong tác phẩm chỉ ghi rằng, có
một người trưởng nữ chăn ḅ, tên là Nan-đà (有 一 牧 牛 長, 長 女 名 難 陀); sau
khi nghe tiên nhân thuật về Bồ-tát đang tu khổ hạnh, nàng mục nữ đă phát
tâm cúng cháo sữa (乳 糜). Sau khi thọ dụng cháo sữa, Bồ-tát đă đến gốc
bồ-đề thiền tọa và cuối cùng đắc thành chánh giác.
8-
Vài ư kiến về tư liệu thuộc hai hệ thống
Trong
các tư liệu vừa khảo cứu, cứ liệu sớm nhất về nàng mục nữ dâng sữa có
mặt ở kinh Tu hành bản khởi vào đời Hậu Hán (25-220). Tuy nhiên,
chi tiết quy y tam tôn cho thấy có sự bất cập nơi nội dung bản kinh này.
Có thể nói, nội dung đầy đủ về câu chuyện nàng Sujātā dâng cháo sữa theo
khảo sát của chúng tôi là kinh Phổ diệu. V́ lẽ, ngoài câu chuyện
vừa nêu, đây c̣n là bản kinh chứa đựng những cứ liệu quan trọng tương tự
như hai chương cuối của kinh Tập (Sutta Nipata), một bản kinh tối
cổ, được các nhà nghiên cứu Phật học đánh giá cao.
Về câu
chuyện nàng Sujātā dâng cháo sữa. Thứ nhất, cách phiên âm Tu Xá Mạn
Gia (修 舍 慢 加) từ kinh Phổ diệu rất gần với tên gọi Uruvela của
văn bản Nidanakatha cũng như nhiều bản văn khác. Thứ hai, mục đích cúng
dường cháo sữa là nhằm tạ lễ sơn thần v́ sở nguyện cầu tự đă thành tựu.
Thứ ba, sữa cúng dường được tinh chế từ nhiều con ḅ. Thứ tư, ngoài tín
nữ ra c̣n có một thị tỳ hầu cận. Thứ năm, do sự mách bảo của thiên thần
nên nàng tín nữ mới biết Bồ-tát đang khổ tu. Thứ sáu, niên đại xuất hiện
của bản Hán dịch kinh Phổ Diệu khá sớm, tức cuối thế kỷ thứ ba và đầu
thế kỷ thứ tư sau Tây lịch.
Tất cả
những chi tiết này đều giống hệt các sự kiện trong tác phẩm Nidanakatha.
Căn cứ vào niên đại, th́ giữa Nidanakatha và kinh Phổ diệu xuất
hiện rất gần nhau. Do v́ không có trong tay Phạn bản kinh Phổ diệu,
nên chúng tôi chưa thể xác quyết có phải kinh Phổ diệu có trước
bản văn Nidanakatha hay không? Với những điểm tương đồng về chi
tiết câu chuyện nàng Sujātā dâng sữa ở hai văn bản vừa nêu, chúng tôi
chỉ dám quyết rằng, cả hai bản văn Nidanakatha và kinh Phổ
diệu có sự liên hệ đến một bản văn cổ, có niên đại xuất hiện rất
sớm, chí ít là những năm đầu Tây lịch mà chúng ta chưa khám phá ra.
Nghi vấn
đó của chúng tôi hoàn toàn có cơ sở. V́ lẽ, khảo sát về lịch sử Đức Phật
được thể hiện qua các tác phẩm nghệ thuật Gandhara được các nhà khảo cổ
học xác định có niên đại rất sớm, từ thế kỷ thứ I sau Tây lịch. Từ kết
quả thu được tại 40 điểm khai quật trải dài trên đất nước Pakistan và
Afghanistan của các nhà khảo cổ, đă cung cấp một hệ thống hiện vật liên
quan đến lịch sử và cả huyền thoại của Đức Phật Thích Ca hết sức sống
động(19).
Đặc biệt, chi tiết câu chuyện nàng Sujātā dâng bát cháo sữa xuất hiện
trên một phù điêu mang kư số Acc. No: PM_01425 có niên đại xuất hiện từ
thế kỷ II - III sau Tây lịch(20).
Điều này đă minh chứng rằng, các huyền tích và hành trạng của Đức Phật
đă xuất hiện bằng văn bản, hoặc ít nhất là văn chương truyền miệng vào
những năm đầu Tây lịch.
Từ khảo
sát bước đầu, chúng tôi cho rằng kinh Phổ diệu là bản kinh có
nhiều ảnh hưởng quan trọng trong giới trí thức Phật giáo Trung Quốc thời
bấy giờ, ngay cả ngài Pháp Hiển và ngài Huyền Tráng. Theo chúng tôi, từ
câu chuyện cúng cháo sữa được ghi nhận ở kinh Phổ diệu, ngài Pháp
Hiển khi sang Tây trúc cầu pháp vào năm Kỷ Hợi, niên hiệu Hoằng Thỉ thứ
hai (tức năm 399), đă xác tín vị trí: Lại đi về
phía Bắc hai dặm th́ đến chỗ nữ nhân Di Da hiến sữa cho Phật(21) (又
北 行 二 里 得 彌 家 女 奉 佛 乳 糜 處)(22).
Ở đây, tên nàng Sujātā, phiên âm thành Di Da của ngài Pháp Hiển,
có cơ sở hơn sự phiên âm bằng Nan Đà của Phật bản hạnh tập hay Phật
sở hành tán. Hơn thế nữa, chi tiết nền nhà của hai nàng mục nữ dâng
cháo sữa theo ghi nhận của ngài Huyền Tráng(23) cũng
là một cứ liệu bổ sung, và đồng xác tín sự ảnh hưởng về mặt tư liệu của
kinh Phổ diệu này.
Trong
các tác phẩm c̣n lại, giữa Phật bản hạnh tập và Phật sở hành
tán có sự kế thừa lẫn nhau về tên gọi. Hơn thế nữa, hai cô mục nữ
cúng dường thực phẩm cho Bồ-tát với mong ước được lấy Bồ-tát làm chồng ở
kinh Phật bản hạnh tập là sự phóng tác quá mức. Kinh Phương
quảng Đại trang nghiêm có nội dung gần giống kinh Phổ diệu,
do v́ niên đại xuất hiện khá trễ nên có khả năng kế thừa các bản kinh
trước đó. Chi tiết quy y của nàng tín nữ Tu Xà Đa ở Ngũ phần
luật, cùng với việc quy y Tam tôn ở Tu hành bản khởi kinh là
sự việc trái với quy ước căn bản của Phật giáo, tương tự như người đi
đến quy y đầu tiên là Sujātā Senāndīhitā được ghi lại trong kinh Tăng
chi được dẫn ở trên.
Có thể
nói, nguồn gốc câu chuyện nàng Sujātā dâng bát cháo sữa tuy không được
văn hệ Pāli chính thức đưa vào kinh tạng; thế nhưng căn cứ vào mức độ
giống nhau về chi tiết câu chuyện này giữa kinh Phổ diệu và văn
bản Nidanakatha, cùng quan điểm từ bỏ con đường khổ hạnh ép xác,
đă xác tín rằng, Bồ-tát đă thọ dụng vật thực b́nh thường sau sáu năm khổ
hạnh. Lẽ tất nhiên, với một cơ thể quá suy kiệt th́ món cháo sữa là một
lựa chọn hợp lư, dù ở bất cứ thời đại nào.
Người
cúng vật thực cho hàng xuất sĩ không nhất thiết là một người và cũng
không dễ nhớ tên, nhất là chỉ cúng một lần trong khi Ngài chưa chứng đạo
và xung quanh không có nhiều người. Đây có thể là lư do khiến các sử gia
nổi tiếng viết về lịch sử Đức Phật không đưa sự kiện này vào chính sử.
Đó là trường hợp của H.W Schuman trong tác phẩm The Historical Buddha (Đức
Phật lịch sử); là trường hợp của Maha Thera Narada trong tác phẩm The
Buddha and His Teachings (Đức Phật và Phật pháp). Mặc dù vậy, để
đánh dấu thời điểm từ bỏ khổ hạnh của Bồ-tát, phải chăng bát cháo sữa
cúng dường của một người vô danh, bỗng lung linh tỏa sáng khi có sở
nguyện rơ ràng.
Thay lời kết hay đi t́m tháp, mộ nàng Sujātā
Như đă
tŕnh bày ở phần đầu, ngành du lịch Ấn Độ hiện tại đang cho rằng, ngôi
tháp gạch tại bờ Đông sông Falgu (Niranjana) hiện tại là ngôi tháp của
nàng Sujātā. Sự khẳng định này dựa vào những thông tin khảo cổ của ngài
Cunningham, các công tŕnh khảo cổ của Ấn Độ và ghi chép của ngài Huyền
Tráng.
Lần
ngược lại thông tin của nhà khảo cổ Cunningham vào năm 1861-1862, trong
bản báo cáo chi tiết về khu vực Buddha Gaya, ông đă khẳng định rằng: “Trong
số 33 trụ đá cổ xưa được mô tả ở trên, th́ có 10 trụ đá được khai thác
từ một nơi xa nào đó và 23 trụ đá granite được lấy từ những ngọn đồi lân
cận. Tất cả chúng đều có cùng kích thước và cùng niên đại; nhưng có vẻ
như là hai bộ trụ đá được phát hiện từ những nơi khác nhau. Mặc dù không
tách rời, tôi tin rằng các trụ đá này có nguồn gốc h́nh thành khác nhau.
Các trụ đá được cho là đă được phát hiện ở phía nam Đại Tháp và gần cây
Bồ-đề. Do đó tôi cho rằng các trụ này nguyên thủy được xây dựng làm
tường rào xung quanh cây Bồ-đề. Những cột đá granite được nói là đă được
phát hiện cách phía đông Đại Tháp khoảng 50 mét; và tôi nghĩ có thể rằng
chúng tạo thành tường rào xung quanh ngôi tháp được xây dựng đánh dấu
nơi Đức Phật nhận bát cháo sữa từ hai cô mục nữ. Theo ngài Huyền Tráng,
ngôi tháp này nằm phía Tây nam của Đại Tháp”(24).
Theo
khảo sát của chúng tôi, ngài Huyền Tráng trước đó đă xác nhận rằng: Phía
bên ngoài ṭa Kim cang và cây Bồ-đề về hướng Tây nam có một bảo tháp.
Đây vốn là căn nhà của hai nàng mục nữ dâng bát cháo sữa. (菩 提 樹 垣 外
西 南 窣 堵 波. 奉 乳 糜 二 牧 女 故 宅)(25).
Căn cứ vào đoạn văn trên của nhà khảo cổ học Cunningham và ghi nhận của
ngài Huyền Tráng, th́ đă có một bảo tháp được dựng để kỷ niệm nơi nàng
Sujātā sinh sống, và bảo tháp ấy nằm ở phía Tây nam so với cây Bồ-đề,
nơi Phật thành đạo. Hơn thế nữa, trong bản đồ mô tả chi tiết, Cunningham
đă xác định vị trí Bồ tát thọ dụng cháo sữa bằng kỳ hiệu g trên
bản đồ khu vực Bodh Gaya ở Tây ngạn sông Falgu(26).
Như vậy, nếu bảo tháp của nàng Sujātā c̣n tồn tại cho đến ngày nay, th́
phải nằm ở phía Tây ngạn sông Niranjana, cùng phía với tháp Đại Giác (Mahabodhi
Temple), chứ không phải nằm ở Đông ngạn như hiện nay. Như vậy, bảo tháp
được xem là của nàng Sujātā hiện nay, thực chất là tháp của ai?
Đọc thêm
thông tin từ nhà khảo cổ Cunningham: “Về phía
Đông của Buddha Gaya, đối diện với bờ sông Phalgu hay c̣n gọi là sông Ni
Liên Thiền, thẳng đến phía Bắc của ngôi làng Bakror, có một tàn tích
bằng gạch rất lớn, cùng với một chân trụ đá ở gần đó về hướng Bắc. G̣
tàn tích đó được gọi là Katani (27),
có đường kính chân g̣ rộng 150 feet và cao 50 feet. Nó được xây bằng
loại gạch lớn thường thấy 15 x 10 x 3. Đă có nhiều cuộc khai quật diễn
ra tại đây nhằm t́m kiếm gạch và vật quư. Khoảng 70 năm trước, từ những
cuộc khai quật kể trên, có nhiều khuôn dấu đỏ mang h́nh Đức Phật được
phát hiện tại địa điểm này. Những thứ này được in trong cuốn The
Hindu Pantheon của Edward Moor, bản mang số
hiệu LXX, gồm các h́nh 6, 7 và 8, và ở đó những hiện vật này được cho là
đă được khai quật từ khu vực Buddha Gaya. Tuy nhiên, thông tin của tôi
là được lấy từ Mahant(28), và
v́ làng Bakror chỉ cách Buddha Gaya nửa dặm về phía Đông, nên sẽ chính
xác hơn để mô tả vị trí là gần Buddha Gaya”(29).
Thông tin chi tiết về ngôi tháp gạch của nhà khảo cổ học Cunningham đă
làm sáng tỏ một số tư liệu không liên quan đến Phật giáo, và trong cả
đoạn văn không hề khẳng định bất cứ chi tiết nào liên quan đến nàng
Sujātā.
Sử dụng
không ảnh của Google Maps, bảo tháp Sujātā hiện lên rất to và rơ ràng.
Tuy chưa đo đạc bằng số liệu, thế nhưng bằng cảm quan trực tiếp, từ
không ảnh và từ khảo sát thực địa tại hai nơi này, bảo tháp nàng Sujātā
hiện tại có kích cỡ tương đương như bảo tháp kỷ niệm nơi trà tỳ kim thân
Đức Từ phụ tại Kusinagar (Ramabhar Stupa). Phải chăng, bảo tháp Sujātā
hiện nay vốn là bảo tháp kỷ niệm nơi Bồ-tát vào
sông Ni Liên Thiền tắm gội(30), hay
tháp của một vị thánh tăng, một vị Phật quá khứ nào đó?
Đọc lại Đại
đường tây vực kư của ngài Huyền Tráng, xác chứng rằng: Phía Đông
nam núi Gaya có một bảo tháp. Đây là quê quán của ngài Ca Diếp Ba. Phía
Nam lại có hai bảo tháp. Đây là chốn của Dà Da Ca Diếp Ba, và cũng là
của ngài Ca Diếp Ba. (伽 耶 山 東 南 有 窣 堵 波. 迦 葉 波 本 生 邑 也. 其 南 有 二 窣 堵
波. 則 伽 耶 迦 葉 波 捺 地 迦 葉 波)(31).
Và ngài Huyền Tráng đă bổ sung thêm: Chung quanh bốn phía cây Bồ-đề
đều có những bảo tháp lớn (菩 提 樹 垣 內 四 隅 皆 有 大 窣 堵 波)(32).
Không những thế, với những ghi nhận sớm hơn của ngài Pháp Hiển, cũng
đồng xác chứng rằng, xung quanh khu vực Bồ Đề Đạo Tràng có rất nhiều
chùa chiền. Theo ngài Pháp Hiển: Chỗ Phật thành chánh giác th́ có 3
ngôi chùa, đều có chư Tăng cư trú. Chư Tăng được dân chúng hiến cúng,
không thiếu thốn ǵ. (佛 得 道 處 有 三 僧 伽 藍. 皆 有 僧 住. 眾 僧 民 戶 供 給 饒 足 無
所 乏 少)(33).
Từ những
thông tin khá sớm của ngài Pháp Hiển cho đến những ghi chép cẩn thận của
ngài Huyền Tráng, đă đồng chứng minh rằng, xung quanh khu vực Đức Phật
thành đạo, có rất nhiều ngôi tháp của các vị Phật quá khứ cũng như của
các vị thánh tăng. Vị trí tháp nàng Sujātā hiện nay không quá xa so với
tháp Đại Giác. Được biết, trong báo cáo cuối cùng vào năm 2006, chính
quyền bang Bihar đang quy hoạch các cụm di tích ở bờ Đông sông Falgu (Niranjana)
như tháp Sujātā, Dhammaranya và Sujātā Kuti vào dự thảo quy hoạch tổng
thể thành phố(34).
Thông tin này càng làm cho chúng tôi trăn trở, v́ nguồn cội của ngôi
tháp gạch đến giờ phút này vẫn chưa được xác quyết rơ ràng.
Đọc lại
lần nữa ḍng giới thiệu đầu tiên trên tấm biển xanh ở tháp Sujātā hiện
tại, đă cho thấy: Ngôi tháp gạch này được xây dựng để kỷ niệm nơi cư
trú của nàng Sujātā, người con gái đă dâng cháo sữa cho Đức Phật (This
brick stupa was constructed to commemorate the residence of Sujātā, the
maiden who offered milk rice to Lord Buddha).
Liên hệ
với thông tin được ghi nhận từ ngài Huyền Tráng, và kết quả khảo sát
thực địa của nhà khảo cổ Cunningham về địa điểm ngôi tháp của nàng
Sujātā ở phía Tây ngạn sông Niranjana, chúng tôi tin tưởng rằng, đó là
những thông tin xác thực hơn là những thông tin do ngành du lịch Ấn Độ
đưa ra.
Với khả
năng và hạn chế của tài liệu, chúng tôi mong rằng, nếu như có sự chung
tay và bổ sung thêm tư liệu từ nhiều nhà nghiên cứu, th́ ngôi tháp được
cho là của nàng Sujātā hiện nay, sẽ được làm sáng tỏ từ màn sương huyền
thoại.
Chú
thích
(1) Hajime
Nakamura, Đức Phật Gotama, một tiểu sử căn cứ vào những bản kinh uy
tín nhất, Trần Phương Lan dịch, NXB. Phương Đông, 2011, tr. 72.
(2) 林
光 明 & 林 怠 馨, 合 編. 梵 漢 梵 大 辭 典. 嘉 豐 出 版 社. India, 2004, p. 1226.
(3) Buddhist
Dictionary of Pali Proper Names. Most of the entries have been taken
from the “Dictionary of Pali Names” by G P Malalasekera (1899-1973),
which is available as printed version from “London, The Pali Text
Society”.
(4) Horner,
Isaline Blew, Women under Primitive Buddhism:
Laywomen and Almswomen, India, 2007.
(5) For
the first time edited in the original Pali by Y Fausboll, and translated
by T.W. Rhys Davids, Buddhist Birth stories or, Jataka Tales. The
oldest collection of folk-lore extant: Being the Atakatthavannana.
Volume I, London, 1880.
(6) Dẫn
lại từ Hajime Nakamura, Đức Phật Gotama, một tiểu sử căn cứ vào những
bản kinh uy tín nhất, Trần Phương Lan dịch, NXB. Phương Đông, 2011,
tr. 23.
(7) Hajime
Nakamura, Sách đă dẫn.
(8) For
the first time edited in the original Pali by Y Fausboll, and translated
by T.W. Rhys Davids, Buddhist Birth stories or, Jataka Tales. The
oldest collection of folk-lore extant: Being the Atakatthavannana.
Volume I, London, 1880, p. 92.
(9) Ibid,
p. 96
(10) 大
正 新 脩 大 藏 經 第 二 十 二 冊 No. 1421 彌 沙 塞 部 和 醯 五 分 律, 宋 罽 賓 三 藏 佛 陀 什 共 竺 道
生 等 譯 第 三 分 初 受 戒 法 上. Nguyên văn: “彼 女 須 闍 陀。見 佛 威 相 殊 妙。前 取 佛 缽 盛 滿 美
食 以 奉 世 尊。佛 受 食 已 語 言。汝 可 歸 依 佛 歸 依 法。即 受 二 自 歸。是 為 女 人 中 須 闍 陀 最 初 受 二
自 歸 為 優 婆 夷”.
(11) Niên
đại Lưu Tống (420 - 479). 彌 沙 塞 部 和 醯 五 分 律, 宋 罽 賓 三 藏 佛 陀 什 共 竺 道 生 等
譯.
(12) 大
正 新 脩 大 藏 經 第 三 冊 No. 185, 太 子 瑞 應 本 起 經, 吳 月 支 優 婆 塞 支 謙 譯.
(13) 大
正 新 脩 大 藏 經 第 三 冊 No. 184, 修 行 本 起 經, 後 漢 西 域 三 藏 竺 大 力 共 康 孟 詳 譯.
(14) 大
正 新 脩 大 藏 經 第 三 冊 No. 186, 普 曜 經, 普 曜 經 卷 第 五, 西 晉 月氏 三 藏 竺 法 護 譯, 六 年 勤
苦 行 品 第 十 五.
(15) 普
曜 經. Nguyên văn: 時 長 者 女, 始 出 嫁 時, 有 願 生 男 子 者, 必 當 與 作 甘 美 餚 膳, 祠 山 樹
神。時 長 者 女, 生 得 一 男 心 中 歡 喜.
(16) 普
曜 經, Nguyên văn: 千 頭 牛 展 轉 相 飲.
(17) 大
正 新 脩 大 藏 經 第 三 冊 No. 187, 方 廣 大 莊 嚴 經.
(18) 大
正 新 脩 大 藏 經 第 四 冊 No. 192, 佛 所 行 讚.
(19) Ihsan
Ali & Muhammad Naeem Qazi, Gandharan Sculpture in the Peshawar Museum
(Life Story of Buddha), Hazara University Mansehra NWFP, Pakistan,
2008, p.17-20.
(20) Ibid,
p. 125.
(21) Cao
tăng Pháp Hiển, Trí Quang dịch, NXB. TP. HCM, 1995, tr. 77.
(22) 大
正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 一 冊 No. 2085, 高 僧 法 顯 傳.
(23) 大
正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 一 冊 No. 2087, 大 唐 西 域 記. 卷 第 八 (一 國) . Nguyên văn: 奉 乳
糜 二 牧 女 故 宅.
(24) Alexander
Cunningham, Archaeological Survey of India, Four reports made during
the years 1862, 63, 64 and 65, Volume I, Simla printed at the
Government Central Press, 1871, p.10-11: Of the 33 ancient pillars above
described, there are 10 of sand stone from some distant quarry, and 23
of granite from the neighbouring hills. They are all of the same
dimensions and of the same age; but as the two sets of pillars were
found in different localities, although not apart, I believe that they
originally formed different. The sand stone pillars are said to have
been found at southern side of the Great Temple, and close to the Pipal
tree. I believe, therefore, that they originally an enclosure round the
Bodhi tree itself. The granite are said to have been discovered about 50
yards to the east the Great Temple; and I think it probable that they
formed an enclosure either round the stupa which stood the spot where
Buddha received a bowl of rice and milk two milkmaids. According to Hwen
Thsang this stupa to the south west of the Great Temple.
(25) 大
正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 一 冊 No. 2087, 大 唐 西 域 記. 卷 第 八 (一 國).
(26) Alexander
Cunningham, Archaeological Survey of India, Reports tours in the
Gangertic provinces from Badaon to Bihar in 1875 - 76 and 1877 - 78,
Volume XI, Calcutta, 1880, p 148. See also Bodh Gaya, Flate XL.
(27) Katani: Theo Marathi
to English Dictionary, hệ chữ viết là Devanagari, mang nghĩa liên
quan đến chăn nuôi, trồng trọt. Theo English - Hindi Dictionary cũng
liên quan đến nông nghiệp như gặt lúa, nghĩa chính của từ là thu hoạch.
Theo Bengali to English Dictionary mang nghĩa là một cô gái nhỏ
nhắn, gợi dục. Từ Katani có xuất hiện trong thơ Rabindranath
Tagore. Tất cả nghĩa vừa nêu không liên quan đến nàng Sujata.
(28) Theo
Alexander Cunningham, đó là một ngôi đền của Bà-la-môn nằm trong khu
Bodh Gaya. Xem, Alexander Cunningham, Archaeological Survey of India,
Four reports made during the years 1862, 63, 64 and 65, Volume I,
Simla printed at the Government Central Press, 1871, p. 10.
(29) Alexander
Cunningham, Archaeological Survey of India, Four reports made during
the years 1862, 63, 64 and 65, Volume I, Simla printed at the
Government Central Press, 1871, p. 12: To the eastward of Buddha Gaya,
on the opposite bank of the Phalgu or Lilajan River, and immediately to
the north of the village of Bakror, there are the ruins of a large brick
tope, with a stump of a sand stone pillar at a short distance to the
northward. The ruined mound which is called Katani, is 150 feet in
diameter at base, and 50 feet high. It is built of the usual large
bricks, 15 x 10 x 3. Several excavations have been made in it in search
of bricks and treasure. About 70 years ago numerous lac seals impressed
with a figure of Buddha, were found in excavating this tope. These are
engraved in Moor’s Hindu Pantheon, Plate LXX., Figures 6, 7, and 8,
where they are said to have been dug up at Buddha Gaya. My information
was, however derived from the Mahant himself, and as Bakror is only half
a mile to the eastward, it would have been more correct to have
described the locality as near instead of at Buddha Gaya.
(30) 大
正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 一 冊 No. 2087, 大 唐 西 域 記. 卷 第 八 (一 國).
(31) Sách
đă dẫn.
(32) Sách
đă dẫn.
(33) 大
正 新 脩 大 藏 經 第 五 十 一 冊 No. 2085, 高 僧 法 顯 傳.
(34) Shri
Ramesh K Safaya, B.Arch, M.Urban Design, M.Planning, Ms. Simrandeep
Taneja, B. Plan, M. Urban Planning. Sh. Neeraj Sethi, Btech (Civil),
MBA. City Development Plan for Bodhgaya under the JNMURM, Revised
Final Report, Consultans - Housing and Urban Development Corporation.
Ltd., 2006, p. 4.
Chúc
Phú