V́ sao vương quốc
Sakya bị tiêu diệt?
Hai nước
Cộng ḥa Sakya và Koliya nằm trên hai phía của ḍng sông Rohiṇī. Các
thành viên thống trị của hai vương quốc này được gọi là các rājās, và
người thống lănh các rājās này được gọi là Maharājā. Cả hai vương quốc
đều có quyền tự trị trên phạm vi lănh thổ của ḿnh. Tuy nhiên, các tiểu
vương quốc này không hoàn toàn độc lập như vương quốc Vesālī, bởi v́ cả
hai đều là những nước chư hầu của quốc gia láng giềng hùng mạnh Kosala.
Người dân
của hai vương quốc Sakya và Koliya đều là những người thuộc ḍng dơi
Chiến sĩ (khattiyas) thuộc bộ tộc Ādicca (Ikśvāku) trong vương triều mặt
trời. Do không có ḍng tộc nào khác trong vùng sánh ngang với họ, do đó
mà họ chỉ kết thân với nhau. Cả hai ḍng tộc này đều rất tự hào về sự
tinh khiết trong việc truy tŕ một ḍng máu hoàng tộc của họ và luôn giữ
ǵn truyền thống hôn phối trong phạm vi ḍng dơi này từ lâu đời. Chẳng
hạn, người cô của vua Tịnh Phạn (Suddhodana) được gả cho vua Anjana của
nước Koliya. Rồi con gái của họ là Hoàng hậu Maya (Mahāmāyā) và
Ma-ha-ba-xà-ba-đề (Mahāpajāpati Gotamī) đều kết hôn với vua Tịnh Phạn,
người đứng đầu bộ tộc Sakya. Tương tự, Da-du-đà-la (Yashodhara) là con
gái của vua Suppabuddha (Suppabuddha là con của Anjana), được gả cho
Thái tử Sĩ-đạt-đa (Siddhattha). Do vậy, cả hai ḍng tộc này đếu có mối
quan hệ hôn nhân với nhau từ thời xa xưa.
Mặc dầu vậy,
thỉnh thoảng vẫn có những rạn nứt giữa hai ḍng tộc mà đôi khi biến
thành thù địch lẫn nhau.
Nông nghiệp
là nghề truyền thống của hai bộ tộc này. Vùng đất thấp của lănh thỗ
Tarāī nằm dưới chân dăy núi Hy-mă-lạp-sơn (Himalayas) hùng vĩ này rất
mầu mỡ. Ḍng sông Rohiṇī êm đềm luôn mang nước từ dăy Hy-mă-lạp-sơn và
tưới tẩm đầy đủ cho những vùng nông nghiệp trù phú của hai quốc gia. V́
thế mà đời sống người dân trong cả hai vùng lănh thổ này đều rất thịnh
vượng.
Ban đầu, khi
dân số trong hai quốc gia c̣n ít, sông Rohini do đó đă cung cấp đầy đủ
nước cho việc phát triển nông nghiệp. Tuy nhiên, dần dà, khi các dải đất
lồi lơm bao quanh con sông đă được phát triển thành những vùng nông
nghiệp để đáp ứng nhu cầu tăng trưởng của dân số. Nước sông do đó không
c̣n đủ để cung cấp cho sự gia tăng đó nữa. Sự thiếu hụt nguồn nước đă
bắt đầu trở thành mối xung đột giữa hai quốc gia.
Người dân ở
hai bên bờ sông bắt đầu lên án nhau v́ sử dụng quá nhiều nước lấy từ
ḍng sông. Rồi họ bắt đầu thực hiện các thỏa ước về việc san sẻ nguồn
nước, tuy nhiên việc vi phạm nó cứ lặp đi lặp lại.
Khi dân số
tiếp tục tăng lên th́ đất đai dành cho nông nghiệp cũng do đó tiếp tục
bị thu hẹp lại, và người dân ở phía thượng nguồn của con sông hiếm khi
có đủ nước để dùng. Ḍng sông Rohini lúc bấy giờ chỉ c̣n rất ít nước khi
nó chảy đến các vùng thủ đô của hai quốc gia. Mặc dầu cả hai nước cộng
ḥa này đă cùng nhau xây dựng một con đập chắn ngang ḍng sông để trữ
nước, nhưng mực nước của nó cũng rất cạn mỗi khi mùa hè tới.
Khủng hoảng
đă bắt đầu lan tỏa trong suốt thời gian Phật c̣n tại thế. Chỉ mới vào
tháng 5 thôi, mực nước của con sông đă trở nên cạn. Những cánh đồng lúa
của cả hai phía sông đă bị cháy sém bởi sức nóng của mùa hè. V́ không đủ
nước, những cánh đồng lúa đă bị hư hoại. Nước c̣n lại trong ngăn đập chỉ
đủ để tưới cho một phía của con sông; phía c̣n lại phải chịu cảnh khô
hạn.
Nếu như nước
trong con đập được chia đồng đều cho cả hai bên th́ mùa màng của cả hai
phía đều khô héo v́ thiếu nước. C̣n nếu tất cả nguồn nước đó được dùng
cho một bên thôi th́ mới cứu được mùa màng cho nó.
V́ thế,
những người nông dân của cả hai quốc gia đă họp với nhau để bàn thảo về
việc chia sẻ nguồn nước ít ỏi trong hồ chứa nước. Tuy nhiên, bên nào
cũng khăng khăng rằng, mùa màng của họ phải được giữ vững, và người nông
dân của phía bên kia cũng muốn phần tốt cho mùa thu hoạch của họ. Chẳng
ai chịu nhượng bộ ai. Cứ thế, những tranh cải bắt đầu nổ ra và nóng dần
lên. Họ trao đổi với nhau bằng miệng lưỡi ác độc, rồi đánh nhau. Họ
chưởi bới nhau, nhục mạ những vị Thầy của họ, rồi tổ tiên của những tộc
trưởng.
Những người
nông dân sau đó thông báo lại cho những ông chủ của họ. Sau khi nghe
nhục mạ tổ tiên của ḿnh, sự thù địch giữa hai cộng đồng càng tăng lên.
Những tranh
căi rồi đến tai những quan lại của hai quốc gia, rồi các vị thái tử và
vua chúa. Khi những vị hoàng tử trẻ tuổi của cả hai bên nghe được sự
nhục mạ về tổ tiên của họ, họ rơi vào phẫn nộ và thề sẽ trả thù. Bị lửa
sân đốt cháy, họ tụ tập lại hai phía bờ sông, mang theo đủ các vũ khí,
và rồi thách thức đánh nhau. T́nh huống đă trở nên căng thẳng và khả
năng về cuộc chiến dường như sắp xảy ra.
Khi Đức Phật
biết được cuộc chiến sắp sửa nổ ra, Ngài liền đích thân đến đó. Khi nh́n
thấy con người mà cả hai bên đều tôn kính và ngưỡng mộ đi đến, các chiến
binh của cả hai phía đều hết sức bối rối. Họ vội bỏ vũ khí và thành kính
đảnh lễ Ngài. Đây là cách truyền thống thể hiện ḷng tôn kính đối với
Đức Thế Tôn khi Ngài c̣n tại thế.
Mỗi khi vua
Pasenadi (Ba-tư-nặc) của nước Kosala (Kiều-tát-la) đi đến đảnh lễ Đức
Phật, ông thường để lại những vật dụng như là gươm đao, áo măo, dù lọng,
quạt, và giày dép ở phía bên ngoài cùng với đoàn tùy tùng của ḿnh trước
khi đi vào thiền thất của Phật.
Đức Phật đă
ngồi vào chỗ đă soạn sẵn trên nền đất trống cạnh bờ sông. Dân chúng hai
vương quốc Sakya và Koliya đều đảnh lễ Ngài và cung kính ngồi xuống một
bên. Đức Phật đă giải thích cho họ rằng, máu của họ c̣n quan trọng hơn
nhiều so với nước của con sông. Họ không nên gây đổ máu. Thay vào đó,
nên t́m một giải pháp để chia sẻ ḍng nước trong ḥa b́nh. Đức Phật là
một người kiến tạo ḥa b́nh với đầy ḷng nhân từ. Ngài không cho nó là
đúng khi mạng người bị mất đi chỉ v́ việc t́m kiếm những lợi ích vật
chất tầm thường.
-Bản chú
giải Kinh Tập, số 2.362
So với nước
láng giềng hùng mạnh Kosala, cả hai nước cộng ḥa Sakya và Koliya đều là
những nước nhỏ và yếu. Họ đă từng giao nộp lănh thổ của họ cho vương
quốc Kosala. Chính v́ mối bất ḥa này, có nhiều khả năng họ sẽ bị mất
quyền tự trị của ḿnh nữa.
Nếu hai bộ
tộc Sakya và Koliya đánh nhau, th́ cả hai đều bị diệt vong. C̣n nếu như
họ giao hảo với nhau, th́ cả hai đều tăng cường được sức mạnh ḥa hợp.
Thủ lĩnh của vương quốc Kosala sẽ không thể bành trướng thêm nữa con
đường chinh phạt của họ. Tuy nhiên, nếu họ giữ vững mối giao hảo, th́ họ
thậm chí hoàn toàn có thể tự giải phóng ḿnh khỏi sự thống trị của vương
quốc Kosala. Biết rơ điều này, Đức Phật đă giảng dạy cho họ những lợi
ích của việc duy tŕ sự ḥa hợp.
Đức Phật
biết rằng, xung đột đă trở nên căng thẳng v́ sự thiếu hiểu biết lẫn
nhau. Những người nông dân đă phỉ báng tổ tiên các rājās (lănh tụ) của
nhau. Nhưng các rājās th́ lại được báo cáo là những rājās kia đă phỉ
báng tổ tiển của họ. Nếu sự việc đó mà được thông báo đúng đắn rơ ràng
cho các rājās của cả hai phía rằng, những người nông dân thiếu trách
nhiệm là những người có lỗi, họ nên khiển trách những người nông dân của
họ, th́ sự việc sẽ được kết thúc ở đó; sự cố đó không nên đưa đến nguy
cơ đổ máu. Cả hai nước nên duy tŕ sự ḥa hợp.
Biết rất rơ
những sự việc thường xảy ra như thế, Đức Phật đă mô tả nó trong một câu
chuyện Tiền Thân của Ngài. Các sự việc đôi khi càng trở nên dễ hiểu bằng
việc kể về một câu chuyện. Chính v́ thế, Đức Phật đă thuật lại câu
chuyện tiền thân Duddubha Jataka (tiếng động mạnh) để mô tả cái cách mà
một người ngu đă tự làm hại ḿnh khi trở thành nạn nhân của niềm tin mù
quáng. Tuy nhiên, người trí chỉ muốn t́m kiếm chân lí và tự cứu ḿnh
thoát khỏi khổ nạn.
-Chuyện
Tiền Thân Duddubha Jataka (tiếng động mạnh)
Chuyện kể
rằng, có một con thỏ khi đang nằm nghỉ dưới gốc một cây táo, th́ bất ngờ
một trái táo chín rơi xuống đất gần chỗ nó đang nằm. Tiếng động của trái
táo rơi xuống đất khiến nó giật ḿnh. V́ hốt hoảng, nó liền chạy khỏi
nơi đó. Nó thông báo cho tất cả những con vật khác khi nó gặp trên đường
bỏ chạy rằng, trời sụp xuống rồi, và quả đất th́ đang nứt ra. Tất cả các
loài thú khác như là, thỏ, nai, heo, linh dương, trâu, ḅ, cọp, voi,
v.v., sau khi nghe thông tin đó th́ tin liền. Chúng bắt đầu bỏ chạy
trong hoảng loạn. Trong cuộc tháo chạy v́ sợ hăi này, chúng đă lao ḿnh
vào đại dương phía trước khu rừng rậm và bị chết ch́m dưới biển.
Khi con sư
tử chúa, là vua của cánh rừng, thấy được sự nguy hiểm này, liền chặn
những con thú đang dẫm đạp lên nhau mà chạy này, rồi cảnh báo cho chúng
biết. Nó bảo rằng, “Nào, chúng ta hăy đi đến địa điểm nơi mà con thỏ đă
nghe thấy tiếng động khi quả đất vỡ ra.” Tất cả các con thú đều đi cùng
với con thỏ kia đến chỗ cái cây nơi mà con thỏ đă nằm nghỉ. Khi chúng
nh́n thấy trái táo đă rơi rụng, chúng nhận ra ngay sự thật và hoàn hồn
trở lại.
Khi một ai
đó mù quáng tin tưởng vào những lời đồn đại và rồi hành động thiếu suy
nghĩ th́ người đó sẽ tạo ra tai hại lớn. Cho thấy rơ điều này, Đức Phật
đă nói như sau:
Appatvā
padaviññāṇaṃ, paraghosānusārino;
Panādaparamā bālā, te honti parapattiyā.
(Jātaka
1.4.322, Duddubha Jātaka)
Nếu tự ḿnh
không hiểu rơ sự thật, khiến hướng theo những tuyên bố của người khác và
theo đuổi một cách mù quáng, là một kẻ ngu si bất cẩn.
Đức Phật
giải thích rằng, vào thời điểm khi mà lời nhục mạ qua lại của những
người nông dân ngu muội đến tai những ông chủ của họ, đến tai những vị
quan lại, quần thần, vua chúa, và những thái tử nóng nảy, tất cả họ đều
bị hiểu sai và rồi sẵn sàng để tự hủy hoại ḿnh. Nếu họ b́nh tĩnh kiểm
chứng sự thật, th́ việc họ cần làm là khiển trách những người nông dân
của họ, và cuộc tranh căi sẽ chấm dứt ngay ở đó.
Cuộc tàn
sát bộ tộc Sakya
Vua Pasenadi
(Ba-tư-nặc) của vương quốc Kosala là người thuộc ḍng dơi Sát-đế-lợi
(chiến sĩ), đồng thời cũng là lănh chúa của vương quốc Sakya. Tuy nhiên,
những người Sakya của bộ tộc mặt trời này th́ được cho là thuộc giai cấp
cao hơn. Người dân Sakya rất tự hào về giai cấp cao quư của họ. Ngay cả
vua Pasenadi là người cai trị của họ cũng bị xem là thuộc giai cấp thấp
hơn. Điều này khiến vua Pasenadi vô cùng bực ḿnh. Ông ta thấy sự tự hào
về giai cấp của bộ tộc Sakya là không chấp nhận được. Nhưng ông không
thể làm ǵ được. Mặc dầu ông đă chinh phục vương quốc Sakya, nhưng cũng
không làm thế nào để vượt qua được hệ thống giai cấp được thiết lập quá
mạnh mẽ này.
Nhà vua nảy
sinh một ư nghĩ. Không có hoàng hậu nào thuộc giai cấp cao trong cung
điện của ông. Ông suy nghĩ, sẽ là rất tốt nếu ta cưới một công chúa của
vương quốc Sakya và rồi ban tặng cho nàng một tước hiệu chánh cung hoàng
hậu. Rồi con của hoàng hậu sẽ trở thành đông cung thái tử. Khi thái tử
kế vị ngai vàng, thái tử và hàng hậu duệ sẽ được xem là những người
thuộc ḍng dơi chiến sĩ cao cấp. V́ vậy, những người Sakya sẽ không c̣n
cho rằng họ thuộc giai cấp cao hơn ḍng dơi của Kosala.
Ngoài ra,
c̣n có một sự kiện khác nữa. Vua Pasenadi nh́n thấy hàng trăm vị Tăng
đến nhà của các đại thí chủ như Cấp-cô-độc (Anāthapiṇḍika), Tiểu
Cấp-cô-độc (Cūḷa Anāthapiṇḍika), nữ thí chủ Visākhā và Suppavāsā để nhận
thực phẩm cúng dường. Nhà vua cũng muốn làm người dâng cúng thức ăn cho
chư Tăng. Ông thỉnh Phật gởi 500 vị Tăng hàng ngày đến khất thực. Các
Tỳ-kheo đi đến cung điện của nhà vua để khất thực nhưng họ đă không đến
khất thực nữa chỉ vài ngày sau đó. C̣n ở những nơi cúng dường khác, các
thí chủ đều có mặt tại đó và thành kính hiến cúng thực phẩm sau khi các
Tỳ-kheo đă an tọa. Điều này không thể diễn ra ở tại cung điện. Nhà vua
quá bận rộn nên không thể có mặt hàng ngày để cúng dường thức ăn cho các
Tỳ-kheo được. Hoàng hậu cũng không thể làm tṛn bổn phận này một cách
thỏa đáng được. Chính v́ thế, các Tỳ-kheo không đến cung điện nữa. Vua
Pasenadi nghĩ rằng, nếu ông nuôi nấng một công chúa thuộc bộ tộc Sakya
và cho trở thành hoàng hậu, th́ hoàng hậu sẽ rất vui mừng tiếp đón các
Tỳ-kheo và quan tâm chu đáo, v́ bà ta là một thành viên của bộ tộc Sakya
mà Đức Phật cũng thuộc bộ tộc này khi Ngài c̣n là thái tử. Rồi các
Tỳ-kheo sẽ đến cung điện hàng ngày để khất thực.
-Pháp Cú
chú giải, 1.46, Viṭaṭūbhavatthu
Suy nghĩ như
thế, vua Pasenadi đă gởi một tối hậu thư đến vương quốc Sakya yêu cầu
cưới một công chúa của nước này. Bức thư này đă gây xôn xao trong bộ tộc
Sakya. Vua Pasenadi cũng là hoàng đế của nước họ, và là một vị chiến
binh hùng mạnh. Nếu bộ tộc Sakya từ chối lời đề nghị này th́ ông ta sẽ
nổi giận. Lănh thổ của ông rất rộng lớn và quân đội th́ hùng mạnh. Nếu
ông ta tấn công, bộ tộc Sakya sẽ bị đập tan, và họ sẽ mất đi thậm chí
quyền tự trị của họ.
Những người
Sakya cũng rất ư thức về những chi tiết đau đớn về một sự việc tương tự
xảy ra trong quá khứ. Nếu từ chối lời yêu cầu của người thống trị vương
quốc Kosala, th́ họ sẽ đối mặt với khả năng đáng sợ lặp lại trong lịch
sử của chính họ. Họ không muốn nh́n thấy quốc gia của ḿnh bị tiêu diệt
thêm một lần nữa. Tuy nhiên, họ không thể chấp nhận điều kiện của vua
Pasenadi được. Làm sao họ có thể đem bất ḱ một công chúa nào của vương
quốc Sakya gă cho ông ta được? Ông ta là một người Sát-đế-lợi giai cấp
thấp. Niềm tự hào về giai cấp cao quư của người Sakya sẽ khiến họ không
nuốt trôi điều nhục nhă này.
V́ thế, một
hội đồng của các bô lăo của bộ tộc Sakya đă tập hợp lại để thảo luận về
cuộc khủng hoảng này. Sau nhiều tranh luận và tư vấn, họ quyết định chọn
ư kiến của trưởng giả Mahānāma là đem một người nữ tỳ trong nhà của ông
có tên là Vāsabhakhattiyā (Mạt-Lợi) giả làm công chúa rồi sau đó đem gă
cho vua Pasenadi. Những người Sakya cũng quyết tâm luôn luôn giữ kín sự
thật về gốc gác của tỳ nữ này. Họ cố thuyết phục những sứ giả của vua
Pasenadi là người nữ tỳ này là một công chúa của nước Sakya bằng cách để
cho họ nh́n thấy và tin rằng Mahānāma và Vāsabhakhattiyā cùng ăn chung
với nhau trong một mâm. Các sứ giả hoàn toàn bị thuyết phục.
Mạt-Lợi sau
khi được gă cho vua Pasenadi đă nhanh chóng trở thành một chánh cung
hoàng hậu. Không lâu sau đó, bà sinh hạ một hoàng tử và đặt tên là
Viṭaṭūbha (Lưu Ly). Khi thái tử Lưu Ly lớn lên, thái tử đă xin mẹ đưa
trở về thăm quê ngoại. V́ nghe bạn bè kể nhiều câu chuyện hấp dẫn về bên
ngoại, cũng như cho thấy những món quà nhận được từ bên ngoại, nên thái
tử càng háo hức được gặp gỡ những người thân và nhận quà từ tay họ. Tuy
nhiên, phu nhân Mạt-Lợi luôn t́m cách để tránh cuộc trở về. Bà biết rơ
rằng, nếu như vua Pasenadi khám phá ra bí mật về gốc gác của ḿnh th́
hậu quả thật khó lường.
Khi thái tử
Lưu Ly lên 16 tuổi, thái tử cương quyết sẽ về thăm, ngay cả khi mẹ thái
tử không có đi cùng. Phu nhân Mạt-Lợi đă gởi một bức thư cho Mahānāma
nói rằng thái tử Lưu Ly muốn về thăm Ca-tỳ-la-vệ. Họ nên quan tâm và đối
xử với thái tử một cách đúng mực để giữ điều bí mật không bị phơi bày
bằng mọi cách. Những người Sakya đă xử lí t́nh huống này cũng rất khéo
léo. Họ chào đón và tiếp đăi thái tử ngang bằng vị trí của một vị vua.
Tuy nhiên, họ đă khéo léo gởi những thái tử trẻ tuổi hơn thái tử Lưu Ly
ra khỏi thành phố để mà, mặc dù thái tử Lưu Ly có chào hỏi những người
lớn tuổi hơn ḿnh, vẫn không có ai phải chào hỏi lại thái tử.
Thái tử Lưu
Ly vô cùng hoan hỷ với ḷng hiếu khách có thừa này trước khi trở về lại
nước Xá-vệ (Sāvatthi). Trên đường ra về, một người tùy tùng báo tin
rằng, thái tử đă bỏ quên thanh gươm, và rồi quay lại để lấy nó. Khi trở
lại, anh ta đă kinh ngạc khi thấy chiếc ghế mà thái tử từng ngồi đang
được chùi rửa bằng sữa pha loăng. Người nữ tỳ vừa lau rửa nó vừa chửi
rủa lớn tiếng rằng, Viṭaṭūbha, là con của một người nô tỳ, đă ngồi trên
chiếc ghế vương giả này và làm nhơ nhớp nó. Do đó, phải rửa nó bằng sữa
mới có thể sạch được.
Người tùy
tùng biết được toàn bộ sự thật về phu nhân Mạt-Lợi từ người nữ tỳ này,
liền trở về thuật lại cho thái tử Lưu Ly nghe. Sau khi nghe xong, ngọn
lửa hận thù bùng phát lên trong tim thái tử. Thái tử Lưu Ly thề rằng khi
lên ngôi sẽ tiêu diệt bộ tộc của những thái tử ḍng Sakya này với những
con người quá tự hào về giai cấp của họ. Thái tử Lưu Ly c̣n thề sẽ rửa
chiếc ghế mà họ rửa nó bằng sửa bằng chính máu lấy từ cái cổ của họ.
Sau khi về
lại Xá-vệ, bí ẩn về gốc gác của phu nhân Mạt-Lợi được phơi bày. Vua
Pasenadi vô cùng tức giận. Ông tước bỏ vương vị, đặc ân và những bảo bọc
từng ban cho hoàng hậu và thái tử. Cả hai giờ đây chỉ được phép ngang
bằng với những người nô lệ b́nh thường mà thôi. Tuy nhiên, ngọn lửa tức
giận trong tim của thái tử Lưu Ly thậm chí c̣n lớn hơn.
Khi Đức Phật
biết được chuyện này, Ngài đă kêu gọi vua Pasenadi không nên đặt tầm
quan trọng cho những địa vị cao hay thấp chỉ đơn thuần là dựa vào giai
cấp. Lấy ví dụ về chuyện tiền thân Kaṭṭhahāri Jataka (nàng lượm củi),
Đức Phật đă nói rằng, người con gái sau khi cưới nhà vua th́ trở thành
hoàng hậu, dù cho người con gái ấy có là con gái của một người lượm củi.
Đứa con trai khi được cô ta sinh ra sẽ trở thành vua, cũng giống như vua
Kaṭṭhavāhana trong câu chuyện tiền thân này vậy.
-Chuyện
tiền thân 1.1.7, Kaṭṭhahāri Jātaka
Giai cấp đă
làm được ǵ ở đây? Phu nhân Mạt-Lợi (Vāsabhakhattiyā) là vợ của vua,
không phải là một người nô lệ. Thái tử Lưu Ly (Viṭaṭūbha) là đứa con
trai hợp pháp của vua. Tại sao lại cho rằng thái tử là giai cấp thấp?
Vua Pasenadi đă nguôi giận từ những lời nói này của Phật, và rồi phục
hồi lại nguyên chức và danh dự cho hoàng hậu Mạt-Lợi và thái tử Lưu Ly.
Nhưng ngọn
lửa thù hận cháy trong tâm khảm của thái tử Lưu Ly chưa được dập tắt.
Thái tử Lưu Ly vẫn âm mưu toan tính với người thủ lĩnh đại binh là Dīgha
Kārāyana (Khổ Mẫu), và, cơ hội đầu tiên là lật đổ ngai vàng. Vua
Pasenadi đă trốn thoát để cứu lấy thân ḿnh rồi chạy đến thành Vương-xá
(Rājagaha) để cầu cứu sự giúp đỡ của người con rể của ḿnh là vua
A-xà-thế (Ajātasattu). Khi ông ta đến nơi th́ cổng thành đă đóng cửa.
Ông phải ở suốt đêm bên ngoài cổng thành, và v́ kiệt sức ông đă chết
trước khi trời sáng. Tuyên bố lên ngôi của thái tử Lưu Ly đă giải phóng
tất cả những cản trở. Với thù hận luôn đốt cháy trong ḿnh, ông ra lệnh
cho đại quân tiến thẳng tới thành Ca-tỳ-la-vệ (Kapilavatthu).
Khi Phật
biết ra cuộc tấn công đă tiềm tàng này, Ngài thân hành đến ngồi dưới gốc
cây khô dưới ánh nắng trời chiều gần thành Ca-tỳ-la-vệ. Khi vua Lưu Ly
nh́n thấy Đức Phật, ông cảm thấy ái ngại. Bởi v́, nhờ Phật mà ông với mẹ
ḿnh được vua cha phục hồi thân phận ở hoàng cung. Lúc bấy giờ, ông hỏi
rằng, “Cớ sao Đức Thế Tôn lại ngồi dưới gốc cây khô phía trước những
người Sakya như thế? Mong Ngài hăy ngồi dưới bóng cây đa mát mẻ trong
phạm vi bảo bọc của chúng con.” Đức Phật liền trả lời rằng, “Đại vương,
bóng mát mà người thân chở che đang sắp sửa biến mất.” Lưu Ly hiểu ra
rằng Đức Phật ngồi đó là để bảo vệ người thân ḍng họ Sakya. V́ thế, ông
đă cho quân rút lui và quay lại thủ đô.
Vài ngày
sau, ông lại dẫn độ đội quân hùng mạnh thẳng tiến đến vương quốc Sakya.
Tuy nhiên, ông vẫn thấy Đức Phật ngồi ở đó và lại dẫn quân trở về. Điều
đó đă diễn ra tới 3 lần như thế.
Lần thứ tư,
Lưu Ly quyết lập một cuộc tấn công vô cùng mạnh mẽ, xác định là phải
vượt qua bất ḱ sự can gián nào để rửa mối hận gây ra bởi bộ tộc Sakya.
Đức Phật biết rơ quyết tâm của ông và cũng biết rằng thời khắc đă chín
muồi cho những nghiệp quả mà bộ tộc Sakya đă gây tạo. V́ thế, Ngài không
can thiệp nữa.
Vua Lưu Ly
ra lệnh cho quân đội của ḿnh không được giết những người Sakya trong
cung điện của Mahānāma. Tất cả những người khác phải giết không thương
tiếc. Sau cuộc tàn sát đẫm máu này, Lưu Ly chuẩn bị để lên đường trở về
Xá-vệ cùng với trưởng giả Mahānāma và quyến thuộc của vị trưởng giả mà
ông bắt giữ. Sáng hôm sau, Lưu Ly yêu cầu Mahānāma cùng ăn sáng với
ḿnh. Có lẽ ông đă nắm giữ niềm kiêu hănh về giai cấp của trưởng giả
Mahānāma và quyến thuộc của ông để ép buộc họ phải cùng ăn chung một
mâm. Mahānāma không muốn tuân theo, nên ông mượn cớ rằng muốn được tắm
rửa dưới hồ nước gần đó trước khi ăn. Ông lặn xuống hồ nước và không nổi
lên nữa.
Tiếp tục
cuộc hành tŕnh trở về lại Xá-vệ, khi Lưu Ly cùng đội quân đi đến ḍng
sông Aciravatī th́ trời tối. Ông và quân đội của ḿnh cắm trại nghỉ đêm
trên bờ sông. Trong khi đang ngủ say th́ bổng nhiên một ḍng thác lũ bất
ngờ đổ đến từ ḷng sông. Nước sông dâng lên cao cuốn trôi Lưu Ly và đội
quân của ông trong ḍng nước xoáy và giết chết họ.
-Pháp Cú
lược giải 1.46, Viṭaṭūbhavatthu
Không có sự
ghi chú lịch sử nào về những ǵ xảy ra đối với các thành viên khác trong
gia đ́nh của trưởng giả Mahānāma. Một số họ chắc hẳn đă chạy thoát bởi
v́ nhiều người trong số họ đă thiết lập cuộc sống sau này ở Vediśāgiri ở
miền Nam. Họ trở thành những thương gia, rồi con gái của một trong những
con cháu của họ là Sakyakumarī Vediśādevī sau đó trở thành người vợ thứ
nhất của vua A-dục trước khi A-dục trở thành đại đế.
Trong cuộc
tàn sát bộ tộc Thích-ca ở thành Ca-tỳ-la-vệ gây ra bởi quân đội của Lưu
Ly, một số người trong bộ tộc Thích-ca đă tự cứu lấy ḿnh bằng cách trốn
thoát. V́ thế, vương quốc Sakya không hoàn toàn bị tiêu diệt. Vài ngày
sau cuộc tàn sát đó, Đức Phật cũng đă nhập Niết Bàn tại Câu-thi-na
(Kusinārā). Người dân của hai bộ tộc Sakya của Kapilavatthu và Koliya
của Rāmagāma sau đó cũng tuyên bố nhận một phần Xá-lợi Phật và tôn thờ
trong một đại tháp huy hoàng trong thủ đô sau đó của họ.
-Trường Bộ
Kinh 2.239, Kinh Đại Bát Niết Bàn
Kinh
Đại-bát-niết-bàn chứng minh rằng, Lưu Ly không tàn sát tất cả những
người thuộc bộ tộc Thích-ca, mặc dầu rơ ràng, ông ta đă giết hại phần
lớn trong số họ.
Qua những sự
kiện này, chúng ta hăy kiểm chứng xem có phải những cáo buộc cho rằng,
chính lời dạy của Đức Phật chịu trách nhiệm cho sự diệt vong của vương
triều Sakya là đúng sự thật hay không.
Có một thật
tế quan trọng cần thấy là, nước cộng ḥa Sakya là một quốc gia nhỏ bé so
với đế chế Kosala rộng lớn. Chỉ trước khi cuộc tàn sát diễn ra bởi quân
đội Lưu Ly thôi, có tới 500 hoàng tử của cả hai quốc gia Sakya và Koliya
trở thành Tỳ-kheo. Cũng trước thời gian này, nhiều thanh niên của hai
tiểu quốc này đă từ bỏ đời sống thế tục. Điều này có lẽ đă không tạo nên
sự khác biệt rơ ràng về sức mạnh tương đối của quân đội hai nước. Ngay
cả khi 500 vị hoàng tử này không xuất gia đi nữa, th́ quân đội của nước
Kosala đă đủ hùng mạnh để triệt tiêu nước cộng ḥa Sakya.
Một thực tế
quan trọng khác nữa đó là, Cộng ḥa Sakya không hoàn toàn là một quốc
gia độc lập giống như nước Cộng ḥa Vajjian (Bạt-ḱ). Nó chỉ là một tỉnh
của vương quốc Kosala. Có rất nhiều t́nh tiết trong Tam Tạng chứng minh
rằng Cộng ḥa Sakya là một phần của vương quốc Kosala.
Khi Thái tử
Tất-đạt-đa từ bỏ hoàng cung để đi t́m chân lí, trước tiên Thái tử đă đi
đến thành Vương-xá (Rājagaha) thủ đô của nước Ma-kiệt-đà (Magadha). Ấn
tượng bởi vẻ đẹp vương giả của người thanh niên ẩn sĩ này, vua Bimbisāra
(Tần-bà-sa-la, B́nh sa vương) đă thân hành đến gặp. Nhà vua hỏi Ngài là
ai và muốn dâng một phần vương quốc của ḿnh cho Ngài. Thái tử Sĩ-đạt-đa
liền trả lời:
Ujuṃ
janapado rāja, himavantassa passato;
Dhanavīriyena sampanno, kosalesu niketino.
Trong lănh
thổ Tarāī thuộc vùng Hi-mă-lạp-sơn này, có một ông vua có đầy đủ của cải
và sức mạnh, đó chính là vua của vương quốc Kosala.
Ādiccā nāma
gottena, sākiyā nāma jātiyā;
Tumhā kulā
pabbajitemhī, na kāme abhipatthayaṃ
-Kinh Tập
424-5, Pabbajjāsutta
Ông ta thuộc
bộ tộc Mặt trời (Ādicca) và ḍng dơi Sakya khi sanh. Tuy nhiên, từ nơi
ḍng dơi đó, ta từ bỏ và tiến lên phía trước, không tham đắm dục lạc.
Rơ ràng là,
lănh thổ của bộ tộc Sakya là một phần của vương quốc Kosala. V́ thế, tất
cả những người Sakya, thậm chí cả vua, cũng đều được gọi là những người
Kiều-tát-la (Kosalan).
Những người
Sakya đều phải quy phục vua của nước Kosala; tuy nhiên, họ rất miễn
cưỡng khi phải bày tỏ ḷng tôn kính đối với ông ta. Họ cảm thấy bực bội
nhưng không làm ǵ được. Mặt khác, vua Pasenadi kính lễ dưới chân Đức
Phật, và Đức Phật cũng là người thuộc ḍng dơi Sakya khi sinh ra. Khi
Phật hỏi ông ta lí do v́ sao ông tỏ ḷng tôn kính tột bực như vậy, ông
bảo rằng, ông tôn kính đảnh lễ dưới chân Phật v́ Phật là Bậc giác ngộ,
giáo Pháp được Phật khéo giảng nói, và những đệ tử của Ngài đều thực
hành theo những điều đúng đắn. Cuối cùng, khi thiết lập một mối quan hệ
cá nhân trực tiếp với Phật, ông nói, “Đức Phật là một người Chiến sĩ và
tôi là một người Chiến sĩ; Đức Phật là một người Kosala và tôi cũng là
một người Kosala.”
-Kinh Trung
Bộ 2.366-374, Kinh Pháp Trang Nghiêm
Rơ ràng là
nước Cộng ḥa Sakya là một phần lănh thổ của vương quốc Kosala, và v́
thế, ông ta đă gọi Phật là một người Kosala.
Ngoài ra,
c̣n có một dẫn chứng mạnh mẽ khác. Vua Pasenadi phải đi vi hành đến tất
cả những nước chư hầu để kiểm tra các vấn đề về an ninh. Ông cũng thường
xuyên du hành đến nước Sakya. Trong một chuyến vi hành như thế, ông đă
viếng thăm một thị trấn gọi là Nagaraka thuộc nước Cộng ḥa Sakya cùng
với Dīgha Kārāyana (Khổ Mẫu), là người chỉ huy quân đội nước Kosala.
-Kinh Trung
Bộ 2.364-366, Kinh Pháp Trang Nghiêm
Sự có mặt
của Khổ Mẫu trong suốt chuyến vi hành này chỉ ra 2 điều: Thứ nhất, người
thống trị vương quốc Kosala phải có những căn cứ quân sự của ḿnh ở mỗi
nước thuộc địa. Những nước thuộc địa này phải gánh chịu những khoản chi
phí cho những đơn vị quân sự chiếm đóng của Kosala. Do đó, vua của nước
Kosala phải đảm bảo rằng những người đứng đầu tại mỗi thuộc quốc này
phải chăm sóc tốt cho quân đội của ông.
Thứ hai, ông
phải đảm bảo rằng nước thuộc địa không được bí mật tăng cường sức mạnh
quân đội. Sự tăng cường sức mạnh chỉ chấp nhận ở những nơi địa phương.
Nếu không tuân thủ nó th́ khả năng nước thuộc địa sẽ có cơ hội để lật
đổ. Sẽ rất là b́nh thường khi luôn ư thức cảnh giác về mối nguy cơ tiềm
ẩn và người chỉ huy chính là người phải có trách nhiệm nghiên cứu khả
năng xảy ra này. V́ thế, sẽ rất là quan trọng khi một người chỉ huy như
thế luôn đi cùng với vua trong những chuyến vi hành qua những thuộc quốc
như thế.
Trong một
chuyến như thế, sau khi vua Pasenadi đă hoàn thành công việc kiểm tra
hành chánh trong thị trấn Nagaraka vào đầu buổi chiều th́ quyết định đi
thăm viếng công viên tại nơi đó vào chiều tối. Ông bước vào chiếc xe
ngựa của ḿnh, cùng với những chiếc xe khác, thẳng đến công viên.
Khi ông bước
vào công viên, vẻ đẹp tự nhiên, yên b́nh và tỉnh lặng của khuôn viên gợi
ông nhớ lại cảnh thường xuyên gặp Đức Phật trong một khung cảnh đẹp đẽ
như thế. Mỗi khi Đức Phật trú lại ở đâu cho dù chỉ một khoảnh khắc ngắn
cũng làm cho cảnh trí ở đó trở nên đẹp đẽ và lôi cuốn. Đức Phật đă nói
rằng:
Gāme vā
yadi vāraññe, ninne vā yadi vā thale;
yattha
arahanto viharanti, taṃ bhūmirāmaṇeyyakaṃ.
Dù trong
ở trong làng mạc, trong thung lũng, trong rừng núi, hay trên đồi cao,
Ở đâu có
các vị A-la-hán, ở đó chính là nơi khả ái nhất.
-Pháp Cú
98, phẩm A-la-hán
Vua Pasenadi
tin chắc rằng Đức Phật đang ở gần đó. Ông đă hỏi Dīgha Kārāyana rằng
phải chăng Đức Phật đang trú ở vùng gần đây. Dīgha Kārāyana trả lời
rằng, Đức Phật đang trú ở một thị trấn của Sakya gọi là Medāḷupa, chỉ
cách đây 3 do tuần (yojanas). Vua Pasenadi rất vui mừng và thân hành đến
gặp Phật.
-Trung Bộ
Kinh 2.4.365-366, Kinh Pháp Trang Nghiêm
Toàn bộ điều
tự sự này chỉ ra rằng, lănh thổ của vương quốc Sakya nằm dưới quyền quản
lí trực tiếp của vua Pasenadi, v́ thế nhà vua đă tự do đi lại mỗi khi
ông muốn. Ông cũng không cần phải báo tin cho bộ tộc Sakya, cũng không
cần phải chờ quyết định của họ.
Dường như
mối quan hệ giữa vương quốc Kosala và Cộng ḥa Sakya cũng giống như mối
quan hệ giữa đất nước Ấn Độ và chính phủ Anh quốc ở Delhi trong thời ḱ
Anh quốc đô hộ vậy.
Nhà vua và
quan thái thú có quyền tự trị đối với các vấn đề hành chánh trong nước
trong lănh thổ của họ. Họ cũng duy tŕ một lực lượng cảnh sát để quản lí
địa phương nhưng họ không được phép duy tŕ một lực lượng quân đội có
thể đe dọa chính phủ Anh quốc. So với quân đội hoàng gia của Delhi, sức
mạnh của lực lượng cảnh sát của họ là không đáng kể. Nếu quân đội Anh
quốc xâm chiếm một nước công quốc với bất ḱ lí do ǵ, th́ quốc gia đó
cũng không thể tự ḿnh đối phó được với quân đội Anh quốc.
Tương tự,
nếu người thống lănh vương quốc Kosala đem quân đội của ḿnh tấn công
nước chư hầu Sakya, th́ người Sakya cũng không thể đối đầu với lực lượng
quân đội hùng mạnh của Kosala được, v́ quân lính ở đây chỉ là để đảm bảo
vấn đề an ninh trong nước mà thôi. Điều này rơ ràng là, nước Cộng ḥa
Sakya không thể nào kháng cự nổi quân đội Kosala được, cho dù họ có chịu
ảnh hưởng về tác động của giáo lí bất bạo động của Phật hay không.
Tuy thế, vẫn
có một quan niệm sai lầm của nhiều người rằng, giáo lí của Phật chính là
nguyên nhân dẫn đến sự diệt vong của vương quốc Sakya. Tuy nhiên, rơ
ràng là, lời Phật dạy đă giúp duy tŕ sự ḥa hợp giữa hai vương quốc
Sakya và Koliya. Tương tự như vậy, Đức Phật đă giảng dạy về 7 nguyên tắc
bất bạo động của người lănh đạo dành cho những hoàng tử ḍng họ Licchavi
để họ luôn luôn đề pḥng cảnh giác bảo vệ chủ quyền lănh thổ của họ.
Nước Sakya
đă trở thành chư hầu của vương quốc Kosala khi nào?
Có một điều
đă được xác định rơ trong Tam Tạng Kinh điển là, Cộng ḥa Sakya là một
nước chư hầu yếu của đế chế Kosala hùng mạnh, nhưng vẫn không rơ ràng là
khi nào và như thế nào mà người Sakya phải chịu sự khuất phục đó.
Chúng ta t́m
thấy câu trả lời này trong lịch sử các vương triều cổ đại của Miến Điện.
Sự kiện này xảy ra vài thế kỉ trước khi Phật ra đời. Người dân Sakya của
nước Ca-tỳ-la-vệ và người dân Koliya của Devadaha đều là những người
thuộc ḍng dơi Chiến sĩ của triều đại mặt trời. Là những người nối dơi
trực tiếp từ vua Ikśvāku, cả hai bộ tộc đều rất tự hào về sự tinh khiết
trong ḍng máu hoàng tộc của họ và v́ vậy chỉ chấp nhận kết hôn với
nhau. Họ cũng không để một người con gái nào trong bộ tộc của họ được
cưới hỏi những người thuộc bộ tộc khác, cũng không chấp nhận người phụ
nữ nào đến từ các bộ tộc khác.
Vương quốc
Sakya và Koliya cũng là những nước nhỏ trong thời ḱ này. Trong sự tương
quan đó, vương quốc Kosala và Pañcāla nằm ở phía Tây là những quốc gia
hùng mạnh. Vua của nước Pañcāla quy phục vương quốc Kosala. Niềm kiêu
hănh của ông cũng tăng lên dữ dội bằng sự gia tăng quyền lực này của
ông. Ông là người thuộc ḍng Chiến sĩ, nhưng bị xem là thấp hơn so với
ḍng dơi Sakya và Koliya. Với ham muốn có được ḍng máu tinh khiết của
bộ tộc Ikśvāku để không bị xem là thấp hơn trong vấn đề giai cấp, ông đă
gởi một bức thư đến vương quốc Sakya và Koliya yêu cầu được kết hôn với
một công chúa của họ.
Theo thông
lệ, một người sẽ cho ḿnh là may mắn nếu như con gái của người đó được
gă cho một đấng quân vương hùng mạnh và trở thành một nữ hoàng. Tuy
nhiên, bộ tộc Sakya và Koliya lại quá tự hào về sự tinh khiết của ḍng
dơi tổ tiên ḿnh nên đă không chấp nhập yêu cầu gă công chúa cho vua
nước Pañcāla. Hậu quả là, vua Pañcāla nổi giận nên đă xâm chiếm và tiêu
diệt cả hai vương quốc.
Sau sự sụp
đổ này, thủ lănh của bộ tộc Sakya là Abhirājā đă t́m đường trốn thoát,
cùng với những người đồng hành của ông, tiến về phía đông xuyên qua
Kāmarūpa (Assam). Băng qua những dăy núi khó khăn nhất giáp ranh với đất
nước Miến Điện, họ đến được vùng đất giữa những con sông Chindwin và
Ayeyarwady.
Ở đây, họ
t́m được nơi trú ẩn và nhiều thứ hơn thế. Người dân tốt bụng ở đây đă ấn
tượng sâu sắc với kinh nghiệm lâu năm trong quản lí của con người mới
tới này, v́ thế họ đă chọn người thủ lĩnh Abhirājā này làm người lănh
đạo của họ. Abhirājā đă xây dựng vương quốc Ta Gaung, cách thành phố
Shwebo ngày nay khoảng 70 dặm về phía Bắc. Những di tích của thành phố
cổ này nay vẫn c̣n được t́m thấy. Theo các sử gia Miến Điện, các vương
triều Miến Điện, cũng như lịch sử các dân tộc Miến, đă bắt đầu từ người
thống lănh Abhirājā này.
-Hrman Nan
Yarzawin (Glass Palace Chronicle -Tập niên sử Lâu Đài Pha Lê)
Cả hai vương
quốc Sakya và Koliya đều chịu khuất phục quyền thống lănh của vương quốc
Pañcāla sau khi Pañcāla và Kosala sát nhập thành một vương quốc. Sau đó,
Pañcāla được chia thành hai vương quốc trở lại. Vương quốc Kosala gần
với Sakya và Koliya hơn là gần với Pañcāla, v́ thế cả hai đều trở thành
thuộc quốc của Kosala. Có lẽ từ đó mà cả hai đă trở thành những nước chư
hầu của vương quốc Kosala.
Khi vua
Pañcāla yêu cầu cưới công chúa của Sakya và Koliya, và họ đă từ chối v́
quá tự hào về giai cấp của họ, đă làm cho ông ta nổi giận và tiêu diệt
họ, th́ lúc đó vẫn chưa có mặt lời dạy của Phật. Vậy tại sao lúc đó cả
hai nước này đều bị tiêu diệt? Tương tự, khi vua Lưu Ly của Kosala tấn
công họ, nguyên nhân của cuộc đánh chiếm chính là niềm tự hào giai cấp
của bộ tộc Sakya.
Kosala là
một vương quốc hùng mạnh và Sakya không thể ngang bằng với thế lực có
thừa của họ. V́ thế, sự sụp đổ của vương triều Sakya là điều chắc chắn.
So với trường hợp trước đó, họ c̣n yếu thế hơn, v́ lúc này cả hai đều là
những nước chư hầu. Trong t́nh trạng đó, sẽ không ngạc nhiên khi quân
đội Kosala tấn công và đập tan họ hoàn toàn. Vậy th́ tại sao Đức Phật và
lời dạy của Ngài lại phải chịu trách nhiệm cho sự sụp đổ của vương triều
Sakya? Rơ ràng, đây chỉ là một cái cớ bậy bạ nhằm bôi nhọ giáo lí của
Phật.
Lí do mà
vương quốc Sakya bị tiêu diệt rơ ràng là do ḷng tự cao tự đại về giai
cấp và chủng tộc của họ. Trong suốt thời gian trị vị của vua Abhirāja,
họ đă từng bị tiêu diệt chỉ v́ niềm tự hào giai cấp, và rồi trong suốt
thời ḱ của vua Lưu Ly, họ cũng đă bị giết hại cũng cùng với lí do đó.
Thế nhưng, ngày nay, bỏ qua những thật tế lịch sử này, một cáo buộc hoàn
toàn sai lầm đă được hư cấu lên. Ư đồ chính yếu của bất cứ ai đă tạo nên
và tuyên truyền sự hư cấu này cũng chính là để phỉ báng giáo Pháp của
Phật bằng mọi cách.
Toàn bộ giáo
lí của Phật rơ ràng cho thấy rằng, ngay cả nếu muốn hệ thống bốn giai
cấp được chấp nhận, cũng không nên dựa vào giai cấp khi sanh. Khi điều
này xảy ra, nó sẽ là sự hạ thấp về giáo Pháp của Phật, và là nguyên nhân
gây tổn hại cho Phật Pháp. Theo như niềm tin này, một cá nhân sống cuộc
sống vô cùng xấu xa vẫn được tôn kính v́ sinh ra trong một gia đ́nh
thuộc giai cấp cao. Ngược lại, một con người sống có nhân cách cao
thượng vẫn bị xem là hạ tiện chỉ v́ sinh vào gia đ́nh thuộc giai cấp
thấp. Điều này có nghĩa rằng, giai cấp của một gia đ́nh có vai tṛ quan
trọng hơn đời sống của một con người. Để từ bỏ cái nhận thức nguy hại
này, và để thiết lập lại giáo Pháp thanh tịnh, Đức Phật đă nhấn mạnh
rằng cá nhân sẽ trở thành cao hay thấp, sang hay hèn, vinh hay nhục,
không phải là dựa vào giai cấp của người đó, mà là dựa vào những căn bản
về nghiệp quả và đức hạnh của người đó.
Tuy nhiên,
những người Sakya lại đi ngược lại với lời dạy Phật và khuyến khích cái
niềm tin vào t́nh trạng cao hay thấp dựa trên căn bản của giống ṇi.
Niềm tin mù quáng này đă dẫn đến hậu quả là họ bị tiêu diệt lần thứ hai.
Người dân
Bạt-ḱ (Vajjian) bị lụi tàn cũng v́ họ đă trở thành nạn nhân của sự lừa
dối của giáo sĩ Bà-la-môn Vassakāra và bắt đầu quên đi những lời dạy của
Phật. Tương tự, bộ tộc Sakya bị tiêu tan không phải v́ họ đă tin theo
lời Phật dạy, mà là v́ họ đă coi thường lời Phật dạy rằng, sanh không
phải là cái nền tảng cho cái t́nh trạng cao hay thấp. Những người thuộc
ḍng dơi Chiến sĩ (khattiya) của các bộ tộc Sakya và Koliya th́ quá kiêu
ngạo về tính cao thượng về bộ tộc của họ đến nổi không muốn gả bất ḱ
đứa con gái nào của ḿnh cho thậm chí cả các ḍng dơi Chiến sĩ khác.
Trong sự xem
xét này, lời dạy của Phật rất rơ ràng:
Jātitthaddho
dhanatthaddho, gottatthaddho ca yo naro;
saññātiṃ
atimaññeti, taṃ parābhavato mukhaṃ
-Kinh Tập 104, Kinh Bại
Vong (Parābhavasutta)
Nếu người nào tự hào về
sanh, về tài sản và ḍng họ, mà xem thường bà con của ḿnh, th́ đó là
nguyên nhân của sự bại vong.
Đây chính
xác là những ǵ đă diễn ra. Các bộ tộc Sakya và Koliya đều bị đầu độc
bởi tính cách tự phụ giai cấp, mà trong quá khứ, họ đă từng khinh miệt
vua của nước Pañcāla khi từ chối gả con gái của họ cho ông ta, mặc dầu
ông ta là người thuộc ḍng Chiến sĩ. Cũng vậy, họ cho rằng, vua Pasenadi
là một người thuộc giai cấp thấp và đă lừa dối ông ta, thay v́ gả một
công chúa cho ông.
Trong cả hai
trường hợp, họ đều bị tiêu diệt. V́ thế, nguyên nhân chính của diệt vong
là sự tự hào quá mức về giai cấp của họ. Người Sakya đă không vâng giữ
lời Phật dạy; thay vào đó, họ hành động ngược lại lời dạy. Đó chính là
lí do khiến cho họ bị tiêu diệt.
Nguyên nhân
thật sự của sự suy tàn của Ấn Độ trên b́nh diện quốc gia chính là hệ
thống giai cấp hủ nát này. Hệ thống giai cấp đă chia rẽ con người thành
những phe phái và làm họ suy yếu. Đất nước vẫn chưa thể thống nhất thành
một khối để chống đỡ, mà đang phải chịu đựng những hệ quả khủng khiếp từ
t́nh trạng bất ḥa hợp này. Chúng ta hăy quyết tâm từ bỏ mối hiểm họa
của hệ thống giai cấp này khỏi xă hội chúng ta.
TVN (Translated from the article
titled, “Why was the Sakyan Republic Destroyed?” By S.N. Goenka, from
Vipassana Research Institute)