KỶ YẾU ĐỨC
TỊNH SỰ
(1913-1984)
TỊNH TÂM THAM HỌC NƠI TRỜI THÁI
SỰ NGHIỆP TU HÀNH TẠI ĐẤT NAM
CHƠN DUNG
CHƠN lư tổ truyền thật khéo hay
DUNG nhan tuần tú bậc thiên tài
CỬA thầy để: Tàng kinh các
ĐỨC trí thầy truyền: Pháp tự khai
HOÀ hiệp cổ kim xây dựng đạo
THƯỢNG nhơn tâm cựu phá lầm sai
TỊNH thiền, tŕ giới không hành lạc
SỰ lư viên dung, đức tánh Ngài.
GIÁC TÔNG
PHI - LỘ
<< Gió lộng hương trầm văn bút khai
Trần gian ghi đậm đức công Thầy >>
Tập << Kỷ Yếu Đức Tịnh Sự >> do Ban Tổ Chức Tang
Lễ của Ngài sưu tập các bài thơ, văn của Chư Tôn, Đại Đức, Tăng,
Ni và các Đạo hữu hồi tưởng, cảm niệm, suy tư, cảm đề, phung
điếu, truy niệm,… sáng tác tại chỗ.
Bài << Tiểu Sử Đức Tịnh Sự >> do Đại Đức Giác
Chánh biên soạn theo << lư lịch >> của Ngài, theo lời tường
thuật của những nhân thân trong gia đinh Ngài và theo lời tường
tŕnh của các Vị Tôn Túc, đại Đệ tử của Ngài. Có lẽ c̣n rất
nhiều thiếu xót.
Rất mong quư Ngài, cùng Chư Vị nào biết rơ sự
thật những nét đặc thù về đời phạm hạnh của Ngài mà trong bài
Tiểu sử nói riêng, tập kỷ yếu nói chung c̣n thiếu sót, xin đóng
góp bổ túc thêm. Chúng dệ tử rất tri ân và đa tạ.
Bài << Từ Sử Đức Tịnh Sự >> do các Vị Đệ tử của
Ngài phóng tác theo bài Tiểu sử và theo những lời tường thuật
của Chư Tăng và các Đạo hữu kể lại.
Các bài thơ trong mục << Tưởng niệm Đức Tịnh Sự
>> do Chư Tăng, Ni cảm đề trong buổi tang lễ Ngài.
Các bài thơ trong mục << Nghĩ về Đức Tịnh Sự >>
do các Đạo hữu truy niệm sau tang lễ.
Bài Văn Điếu << Đức Tịnh Sự >> do các Hiếu đồ
Pháp tử đồng soạn và đọc trong tang lễ.
Chương tŕnh tang lễ và bài ghi nhanh những ngày
tang lễ do Ban Tổ Chức tang lễ Đức Tịnh Sự biên soạn.
Ngoài ra, c̣n các bài thơ << Khóc Thầy >>, v.v...
của các Vị đệ tử của Ngài gởi về sau, cũng được thu nhận vào tập
Kỷ Yếu ..., và nếu sau này có nữa, chúng tôi vẫn tiếp tục cho
đăng vào tập Kỷ Yếu nầy.
Riêng những mẫu chuyện về Đức Tịnh Sự, Ban Tổ
Chức tang lễ đề nghị là những vị nào, quen biết về những chuyện
trong đời tu hành của Ngài một cách xác thực, hăy viết từng
chuyện ngắn đóng góp vào tập Kỷ Yếu nầy.
Tại tang lễ, Ban Tổ chức nhận được khoảng mười
chuyện. Sau tang lễ, nhận thêm hơn mười lăm chuyện. Nhưng chọn
lọc bỏ bớt những chuyện kể trùng nhau (hai, ba người cùng kể một
chuyện) và những chuyện nhạt nhẽo không có ư nghĩa mấy, nên c̣n
hai mươi chuyện. Trong tương lai nếu có ai gởi thêm, sẽ đăng
thêm. Đề nghị viết ngắn gọn, dễ hiểu, chuyện có thật (có chứng
nhân cùng nghe thấy)!
V́ tôn trọng ư của các tác giả và để h́nh dung
bối cảnh tang lễ của Đức Tịnh Sự thật chính xác, Ban Tổ Chức ghi
nhận thế nào th́ để y nguyên văn thế ấy, không dám sửa chữa, mặc
dù Ban Tổ Chức nhận thấy có một vài đoạn hơi lượm thượm không
được tinh xảo lắm, nhưng vẫn đành chịu! Mong Chư Tăng và các Đạo
hữu cảm thông cho.
Tập Kỷ Yếu Đức Tịnh Sự do nhiều người đóng góp,
chứ không phải chỉ riêng của các Đệ tử của Ngài viết.
Thật là:
<< Nhơn sinh tự cổ thuỳ vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hản thanh >>
BAN TỔ CHỨC
Tang Lễ Đức Tịnh Sự
Kính đề,
DI ẢNH
DI truyền Tạng Luật, quyết hoằng khai
ẢNH hưởng hằng lưu đất Việt nầy
ĐỨC cả ngàn năm c̣n kính tiếc
CỐ ngôn muôn thuở tiếng tăm Ngài
HOÀ ḿnh dạy Đạo trong Tăng tục
THƯỢNG đức khiêm nhường quá đẹp hay
TỊNH chỉ bốn mươi đề mục đủ
SỰ t́nh như thế, chẳng mờ phai.
_GIÁC HOA_
TIỂU SỬ ĐỨC TỊNH SỰ
Ngài TỊNH SỰ, thế danh là VƠ VĂN ĐĂNG, sanh năm
1913 tại Xă Hoà Long, Quận Lai Vung, Tỉnh Sa Đức (Đồng Tháp).
Thân phụ của Ngài là cụ Ông VƠ VĂN TỎ, thân mẫu
của Ngài là cụ Bà TRẦN THỊ THÔNG.
Ngài được sanh trong một gia đ́nh Nho Giáo. Với
bản chất thông minh, nên vừa Bảy (7) tuổi, thân phụ Ngài cho học
vỡ ḷng chữ Nho. Ngài tiếp thu rất lẹ, lănh hội rất mau. Những
người thân tộc vui tánh gọi Ngài là << Thần Đồng Lê Quí Đôn >>.
Khi Mười Hai (12) tuổi, Ngài vào Chùa Bửu Hưng (cùng
xă Hoà Long) tu và học Kinh Luật Sa Di thuộc hệ phái Phật giáo
Bắc Tông. Thấy Ngài quá thông minh nên Thầy của Ngài bấy giờ đặt
Pháp danh cho Ngài là HUỆ LỰC.
Lúc Hai Mươi (20) tuổi. Ngài sang Chùa Kin Huệ (tại
Sa-Đéc) tu và học Kinh Luật Tỳ Kheo.
Đến Hai Mươi Lăm (25) tuổi, Ngài về trụ tŕ Chùa
Phước Định ở Chợ Lách.
Khi Ba Mươi (30) tuổi, Ngài sang trụ tŕ Chùa
Viên Giác tại Long Hồ - Vĩnh Long.
Lúc Ba Mươi Lăm (35) tuổi, Ngài sang nước
Campuchia (Cao-Miên) thọ lại giới Sa-Di tại Chùa Kùm-Pung (Treyloko)
ở Trà Pét thuộc Phật Giáo Nam Tông.
Đến Ba Mươi Tám (38) tuổi, Ngài lại sang nước
Thái Lan, thọ giới Tỷ-Khưu tại Chùa Pakknam ở Bangkok. V́ thấy
Ngài chuyên tâm hành đạo, nên vị Thầy tế độ đặt Pháp danh Ngài
là TỊNH SỰ. Nơi đây Ngài đi đầu đà, hành thiền Chỉ (Samatha), tu
Thiền Quán (Vipassana) và học luận A-Tỳ-Đàm (Abhidhamma) đến Sáu
(6) năm, Bảy (7) tháng mới trở về Việt Nam.
Khi Bốn Mươi Lăm (45) tuổi, Ngài về trụ tŕ Chùa
Viên Giác lại như trước, nhưng bây giờ Ngài thay đổi hoàn toàn
từ h́nh thức lẫn nội dung đều theo truyền thống Phật Giáo Nam
Tông. Thời gian trụ tŕ tại Chùa Viên Giác, Ngài dịch Tạng Luật,
các bộ A Hàm, dạy Pháp Học Siêu Lư và Pháp Hành Tứ Niệm Xứ.
Lúc Năm Mươi Chín (59) tuổi, Ngài về trụ tŕ Chùa
Siêu Lư tại Sài G̣n. Tại đây, Ngài mở trường Phật Học – chuyên
dạy môn Abhidhamma và dịch các sách giáo khoa Phật học như Vô Tỷ
Pháp sơ đẳng, trung đẳng, cao đẳng và Tạng Luận.
Đến Bảy Mươi (70) tuổi, Ngài mới hoàn thành các
dịch phẩm nói trên.
Qua năm Bảy Mươi Mốt (71) tuổi, Ngài thọ bệnh tại
Chùa Siêu Lư ở Thành Phố Hồ Chí Minh, rồi về Chùa Viên Giác Vĩnh
Long dưỡng bệnh.
Đêm mùng 6 tháng 5 Giáp Tư, Ngài thọ bệnh kiết lỵ.
Đến nữa đêm, Ngài gọi Chư Tăng đến ban lời di huấn và gởi lời
sám hối phổ thông đến toàn thể Chư Tăng trong Giáo Hội, rồi gom
tâm an trú trong Chánh Niệm Tĩnh Giác. Lúc 6h15 phút, sáng ngày
mùng 7 tháng 5 ÂL, nhằm ngày 05 tháng 6 năm 1984, Ngài đang ngồi
với Sư Giác Tâm, bỗng Ngài ngước lên nh́n trần nhà và mĩm cười
rồi tịch.
Sự nghiệp Đạo Pháp của Ngài có thể kể tóm lược
như sau:
A-
DỊCH PHẨM:
1.
Bộ Pháp Tụ (Dhammasaṅgini)
2.
Bộ Phân Tích (Vibhaṅga)
3.
Bộ Chất Ngữ (Dhātukathā)
4.
Bộ Nhơn Chế Định (Puggalapaññatti)
5.
Bộ Ngữ Tông (Kathāvaṭṭhu)
6.
Bộ Song Đối (Yamaka)
7.
Bộ Phạm Trí (Paṭṭhāna)
8.
Diệu Pháp Lư Hợp ( Abhidhammaṭṭhasaṅgaha)
9.
Vô Tỷ Pháp Sơ Đẳng
10.
Vô Tỷ Pháp Trung Đẳng
11.
Vô Tỷ Pháp Cao Đẳng
12.
Thanh Tịnh Đạo (Visuddhimagga)
B-
TẠO TỰ:
-
Chùa Viên Giác
-
Chùa Pháp Độ
-
Chùa Long Linh
-
Chùa Trúc Lâm
-
Chùa Giác Phước
-
Chùa Siêu Lư
-
Chùa Thiền Quang I
-
Chùa Thiền Quang II
-
Chùa Tứ Phương Tăng...
C-
TẠO TĂNG:
Ngài cho xuất gia hằng trăm vị Tăng Sư. Vị đệ tử
đầu tiên là Sư Hoà Thiện, vị đệ tử cuối cùng là Sadi Chánh Tâm.
Sự ra đi của Ngài đă để lại cho toàn thể Tăng Tín
đồ một niềm kính tiếc vô biên.
BODHISAMMA
TỪ SỬ ĐỨC TỊNH SỰ
Tỉnh Đồng Tháp Miền Nam nước Việt
Quận Lai Vung, Sac Đéc, Hoà Long
Có nhà Nho giáo Vơ Ông
Vợ là Trần thị vốn ḍng Phật gia.
Ông Bà rất hiền hoà nhơn đức
Tánh thẳng ngay một mực ở đời
Bỗng Bà trong dạ mang thai
Nghe như thay đổi cả người khác xưa
Kể từ đó Bà ưa món lạ
Dùng hoa sen thay cả thức ăn
Suốt trong chín tháng cưu mang
Bà ưa nh́n ngắm sắc vàng huỳnh y
Rồi đến lúc khai huê nở nhuỵ
Sanh một trai hoa mỹ vẹn toàn
Đặt tên là VƠ VĂN ĐANG
Tướng trông kháu khỉnh đăng trang Thần Đồng
Đến bảy tuổi vỡ ḷng Nho học
Sách huấn mông, Tam Tự Kinh xong
Minh tâm Bửu giám nằm ḷng
Tứ thơ, Ngũ điển lăo thông tinh tường
Đă đến lúc noi gương Đại Giác
Chùa Bửu Hưng theo Bác tu hành
Mười hai tuổi, mái đầu xanh
Quy y thí phát trở thành Sa Di
Chuyên tu học chẳng khi giải đải
Sách Sa Di luật giải thuộc làu
Qui sơn cảnh sách Thầy trao
Chỉ trong một tháng, đứng đầu bộ môn
Hai mươi tuổi, trí khôn đă đủ
Chùa Kim Huê kết tụ giới đàn
Chư tôn vân tập lưỡng ban
Truyền cụ túc giới, giữa hàng Tỷ Kheo
Năm năm đầu nương theo Hoà Thượng
Luôn ở nơi phương trượng học hành
Pháp Hoa, Phương Đảng, Khế Kinh
Kim Cương, Duy Thức, Nhơn Minh được truyền
Vừa năm hạ trường lương giáo thọ
Phước Định Chùa qua đó trụ tŕ
Nơi đây Ngài họp Tăng Ni
Mở khai gia giáo, trường kỳ tạo Tăng
Đến Mười hạ, Ngài sang Viên Giác
Hội Chư Tôn khai thác Tam Tàng
Đốt liều: Cầu Pháp, tạo Tăng
Mười hai liều đúng, Đạo tràng hoảng kinh
Kể từ đó lừng danh Huệ Lực
Viện chủ ngôi Viên Giác chấn hưng
Khắp nơi Phật tử vui mừng:
Việt Nam có bậc Đại nhân giáng trần
Rồi tiếp tục trường hương, khoá hạ
Lập giới đàn truyền cả Tăng Ni
Thiện nam, Tín nữ quy y
Hàng hàng lớp lớp thiếu ǵ môn sinh
Một hạ nọ, Tứ phần luật giảng
Thấy sai lầm: Tương phản Luật Kinh
Riêng than sầu muộn một ḿnh
<< Biết đâu là thật, sách kinh Phật truyền >>
Ngài quay sang A Hàm nghiên cứu
Thấy rơ ràng Pháp nhủ Phật thân
Luật kinh nhất trí sáng ngần
Không c̣n mâu thuẫn nan phân đạo mầu
Trí suy luận: Bắt đầu làm lại
Cuộc đời tu theo phái Nam Tông
Thế rồi tự tháo củi lồng
Dẹp tâm cố chấp, bỏ gịng “xe to”
Ngày ra đi chẳng cho ai biết
Sẽ về đâu dị biệt không lường
Dưới h́nh << Hành cước du phương >>
Ngài sang Cam- bốt t́m đường tiến tu
Nước Cao- Miên, Tỳ Khưu người Việt
Ngài Hộ Tông, Thiện Luật, Bửu Chơn
Thông Kham, Hộ Giác vân vân
Vui mừng đón tiếp đưa sang Chùa Thầy
Tạm ở đây đêm ngày học Luật
Chữ Pa-li, Sanscrit, Khmer
Thông minh, khiêm nhượng, kiêng dè
Chư Tăng Miên Việt chở che giúp Ngài
Thời gian sau cho Ngài thọ giới
Chùa Kùm Bung, tu lại Sa Di
Thế rồi tiếp tục hành tŕ
Oai nghi tế hạnh, Bát y chơn truyền
Bỗng tiếng đồn, Đất thiêng Phật Quốc
Nước Thái Lan chánh pháp thạnh hành
Hàng hàng lớp lớp Tăng sinh
Đều qui tụ đến học hành Thiền na
Thật phỉ dạ thiết tha cầu học
Lập tức sang Bangkok học thiền
Đến nơi Ngài dạo khắp miền
Gặp nhiều Thiền Đức cần chuyên pháp hành
Tham cứu măi phát sanh chán năn
Ngài chuyển qua đi hạnh Đầu Đà
Ở nơi nghĩa địa tha ma
Gốc cây, thạch động, rừng già ẩn tu
Chùa Rakkham, Tỳ Khưu đàn giới
Được Chư Tăng cu hội khẩu truyền
Tỷ Kheo TỊNH SỰ tân niên
Về Chùa Paknam tu Thiền quán minh
Kế tiếp đến Ngài xin nhập học
Abhidham cấp tốc chín chương
Xong rồi chánh thức vào trường
Sơ, Trung, Cao đẳng, các phương pháp hành
Bảy năm sau hoàn thành luận án
A-TỲ-ĐÀM chỉ soạn một trang:
Bảng nêu chi pháp hàm tàng
Bảy bộ Diệu Pháp hoàn toàn nhiếp thâu
Danh luận sư bắt đầu được nổi
Các học Tăng sớm tối hỏi han
Lại nhiều Tín nữ Thái Lan
Tới lui dâng hộ, vấn an, thăm thầy...
Vài thiếu nữ thầy lay thăm hỏi
Việc gia đ́nh xă hội Việt Nam
Một nàng quá đỗi oái oăm
Nguyện theo sửa tráp nâng khăn cho Thầy
Ngài lo sợ đường dài khó giữ
Hạnh Sa Môn nên dự hồi hương
Noi gương Tam Tạng đời Đường
Ba kho Thành Điển Nam phương đủ đầy
Thanh Tịnh Đạo... các quầy Tục Tạng
Đều thỉnh luôn cho rạng lư mầu
Hành trang lo liệu trước sau
Giả từ Thầy Bạc bấy lâu nương nhờ
Đến sân bay, phi cơ cất cánh
Tiễn đưa Ngài, Thiện tín rất đông
Khi đi chí lớn riêng ḷng
Ngày về chí lớn hoà trong mọi người
Tân Sơn Nhứt, máy bay đáp xuống
Cả rừng người chực sẵn đón Ngài
Chư Tăng, thiện tín trong ngoài
Nam Tông, Bắc Phái đón Ngài hồi hương
Ngài về trụ Đạo trường thuở trước
Đó là Chùa Viên Giác – Vĩnh Long
Khởi đầu thay đổi trai pḥng
Dời ngôi Chánh Điện, kết ṿng Si Ma
Đệ tử cũ nhiều nhà thắc mắc
Bởi việc làm “quá quắc” của Ngài
Tỳ Kheo Ni băi bỏ ngay
Trở thành Tu nữ từ rày Bát Quan
Thầy Tỳ Kheo bắt hoàn tục cả
Lập giới đàn tu lại mới xong
Trong Chùa thờ một Thế Tôn
Thích Ca Phật Tổ Chánh Tông Giáo Truyền
Những Tăng sự, Chơn Tăng được thỉnh
Phi chơn Tăng dự thính bên ngoài
Pa-li Tam Tạng hoằng khai
Luận Vô Tỷ Pháp dịch ngay từ đầu
Bộ Pháp Tụ thoạt đầu khai mở
Matika rực rỡ huy hoàng
Bộ Phân Tích Luận hành tàng
Bao nhiêu công án, lời vàng bấy nhiêu
Bộ Chất Ngữ, cao siêu Pháp lơi
Mỗi mỗi câu đều hội nghĩa chơn
Bộ Nhơn Chế Định phi thường
Phân chia tâm lư sở trường chúng sanh
Bộ Ngữ Tông phân rành từ nghĩa
Phá lập thành rút tỉa từng câu
Bộ Song Đối rất nhiệm mầu
Thuận tùng, đối lập từng câu từng lời
Bộ Phát Trí rạng ngời ánh sáng
Bển duyên sinh, duyên hệ trùng trùng
Để cho sáng tỏ Huyền Môn
Diệu Pháp Lư Hợp, chín phương dịch vần
In kinh thẻ, xa gần thí pháp
Tứ phương Tăng, thiết lập nhiều nơi
Quyết ḷng hoá đạo độ đời
Cùng hàng đệ tử khắp nơi giáo truyền
Đến Vĩnh B́nh, Pháp Kiên đầu phục
Tu theo Ngài, kiến trúc Bửu Chân
Cần Thơ vừa đến đă thâu
Sư Năm, Bửu pháp thỉnh cầu chấn hưng
Đất Hà Tiên, pháp luân vận chuyển
Độ nhiều tṛ tiệm tiến xuất gia
Chùa Thiên Trước được lập ra
Thiện Nam Tín Nữ nhiều nhà qui y
Về Phước Định, Chùa xưa đổi hiệu
Kể từ nay Pháp Độ là tên
Tiếp theo Chùa cổ Long Linh
Thỉnh Ngài về trụ Tăng sinh nương nhờ
Tạ nơi đây, Nhà Sư Khất sĩ
Đến xin làm đệ tử xuất gia
Ngài cho theo luật Tăng Già
Biệt cư bốn tháng mới là đắp y
Rồi hạ kế, Ngài về Long Đức
Tiếp nhận thêm Chùa Phật Bắc Tông
Ngài cho xây cất Tăng pḥng
Để Chư Tăng chúng bốn phương tu hành
Ít hạ sau, Ngài sang Ḥn Nghệ
Tứ Phương Tăng, giữa bể một ngôi
Cất xong Ngài lại phản hồi
Về Chùa Viên Giác là nơi Tổ Đ́nh
Hạ kế tiếp, Sài Thành mở Đạo
Buổi đầu tiên truyền giáo năm tṛ
Lần lần Văn sĩ, Đồ nho,
Những nhà trí thức thăm ḍ hạnh tu
Các thí chủ rủ nhau xây cất
Ngôi giảng đường, tịnh thất cho Thầy
Tức Chùa Siêu Lư hôm nay
Trung tâm phiên dịch hoằng khai thạnh hành
Bảy mươi tuổi, hoàn thành Tạng Luận
Cho xuất gia, nhỏ lớn hằng trăm
Các Chùa Diệu Pháp, Trúc Lâm
Thiền Quang Tu viện: Pháp Âm của Ngài
Bảy mốt tuổi, đức Thầy thọ bệnh
Đau tầm thường, linh tính báo nguy
Học tṛ Nam Nữ doanh vây
Ngày đêm túc trực bên Thầy thuốc thang
Với kinh nghiệm bản thân tu tập
Biết rằng ḿnh sắp nhập Kim quan
Lệnh truyền trở lại đạo tràng
Tổ Đ́nh Viên Giác dưỡng an tâm thần
Ba tháng sau đêm gần an tịnh
Bệnh phát sanh, nguy kịch vô cùng
Canh đầu kiết lỵ nhiều lần
Nửa đêm Giáo Giới Chư Tăng Pháp hành
Nhắc tập tục Thái Lan Quốc Giáo
Người hung, hiền Tam Bảo không quên
Kể xong Ngài gượng ngồi lên
Tỉnh Tăng sám hối khai tên từng điều
Giao cáo phó Tỷ Khưu Giác Giới
Chuyển lời Ngài sám hối phổ thông
Rồi Ngài ngự xuống Tăng pḥng
Dạy Tăng tụng đọc nằm ḷng Tam Qui
Cả Bắc Phạn, Pa-li đúng giọng
V́ Giới Đàn, quan trọng phát âm
Giáng xong, Ngài trở bộ nằm
Rồi quang phản chiếu nhiếp tâm xuất thần
Ngay lúc đó ngoài sân hừng sáng
Canh cuối cùng đă măn đêm nay
Sáu giờ, mười lăm, ba giây
Tháng năm, mùng bảy, nhằm ngày thứ ba
Sư Giác Tâm bước ra tuyên bố:
<< Đức Tôn Sư diệt độ, các Ngài! >>
Tức th́ tiếng khóc ù tai
Kẻ th́ đấm ngực, người nhoài thân la
Nửa giờ sau, gần xa đều biết
Điện tín đi khắp miệt cho hay
Kỳ Viên nhận được tin nầy
Liền cho thông báo các Ngài Cao Tăng!
<< Đức Cố Vấn của Ban Chưởng Quản
Hội Tăng Già, đă măn phần rồi >>
Chư Tăng Đệ tử rụng rời
Nơi nơi tấp nập kéo về thọ tang
Đại tang lễ, Liên Ban tổ chức
Cả Tăng Ni hợp sức hoà đồng
Nam Tông, Khất Sĩ, Bắc Tông
Lục Miên, Sư Việt, một ḷng tống chung
Lễ đưa tiễn người không ở lại
Cả bầu trời hôm ấy mịt mờ
Trai lành gái tín ngẩn ngơ
Nh́n nhau nhuốm lệ bây giờ Thầy đâu?!
Vẫn biết rằng bóng câu cửa sổ
Vẫn cảm thông lư khổ đại đồng
Đă đành ngữ uẩn giai không
Đă đành... đành vậy, nhưng ḷng vẫn đau!
Một ngựa đau, cả tàu bỏ cỏ
Huống chi Thầy, ơn đọ trời cao
Trọn đời, Diệu pháp truyền trao
Bây giờ vĩnh biệt làm sao đừng buồn!
Cây có gốc, cành buông lá ngọn
Nước có nguồn, bể rộng sông sâu
Thầy đi là mất đầu tàu
C̣n ai dẫn lối đi vào vô sanh!
Từ đây dẫu chí thành tu học
Kẹt lư kinh, ngồi khóc hỏi ai!
Rừng thiền c̣n lắm góc gai
Thầy đâu c̣n nữa dạy bày đường tu
Các Đại Đức Tỷ Khưu cũng tủi
Nhưng dằn tâm như nguội ḷng phàm
Chợt nghe Tín nữ Thiện nam
Thơ than khóc lóc càng làm động tâm
Có nhiều Vị không cầm giọt lệ
Liền lui ra ngoài ghế trai pḥng
Th́ thầm: << Sắc tức thị không >>
Ngoài môi nói vậy, trong ḷng buồn tênh
Có những vị bề trên lớn hạ
Mặt làm tươi, trong dạ héo xào:
<< Từ đây phải tự lái lèo
Gặp cơn giông tố, gieo neo chốn nào! >>
Càng nghĩ đến, càng đau, càng xót
Càng thương Thầy, năo ruột héo von:
<< Cha c̣n gót đỏ như son
Hôm nay Cha mất, gót son vùi bùn! >>
Ơn Thầy Tổ, muôn trùng chưa trả
Nghĩa chưa đền, Thầy đă qui thiên
Cung Trời Đẩu Suất Thầy yên
Chúng con đau khổ ở miền nhơn gian
Các Đệ tử hàng hàng đồng lạy
Trước Kim quang nguyện vái một lời
<< Tôn Sư nay đă qua đời
Chúng con chua xót ră rời tâm cang
Để tỏ ḷng tri ân Hoà Thượng
Chúng con xin phát nguyện hai điều:
Một là, tiếp tục hành theo
Pa-li Tam Tạng, cố đào tạo Tăng
Nối huệ mạng, hoằng hưng Phật Giáo
Chùa Tứ Phương Tăng tạo dựng thêm
Hai là, xả bỏ thù hiềm
Tương thân tương ái, lỗi lầm nhắc nhau
Nguyện đoàn kết giồi trau Tam học
Nguyện đồng tâm bảo bọc đệ huynh
Thầy v́ tṛ đă hy sinh
Tṛ thương Thầy nguyện giữ ǵn hạnh tu >>
Ngài ra đi, ngh́n thu vĩnh biệt
Ngài ra đi, đồng trụ chiết rồi
Ngài đi, Giáo Hội bùi ngùi
Ngài đi, c̣n để những lời vàng son:
<< Sa Bà khổ, ta c̣n trở lại
Dẫn chúng sanh qua ải vô thường
Giáng trần tuỳ lúc, tuỳ phương
Chuyển mê khai ngộ vào đường vô sanh >>
⃰⃰⃰⃰
Đấy tâm nguyện, sở hành Bồ Tát
Từ khi sanh đến thác đôi đàng
Hôm nay tóm lược vài hàng
Lời quê góp nhặt nên trang SỬ TỪ
CHUNG
TƯỞNG NIỆM NGÀI TỊNH SỰ
I.
Một mănh trăng tà vương mỏng manh
Một con thuyền nhỏ vượt qua gành
Một ngôi sao sáng trời tăm tối
Một mănh huỳnh y giữa thị thành
Một nhánh sanh ra trăm lộc trổ
Một thân tê giác giữa rừng xanh
Một Y, một Bát t́m chơn lư
Một vị ra đời độ chúng sanh
PHÁP THANH
II.
Chánh pháp ṃn tan giữa chợ đời
Bảy mươi năm cạn sức Thầy tôi
V́ đời, thân xác gầy năm tháng!
Bởi Đạo, lao tâm phí tuổi trời!
Đă thấy bâng khuâng, đồng trụ đế!
C̣n nghe thổn thức, ánh sao rơi!
Thầy đi để lại nhiều thương nhớ
Nhớ nét từ bi ở nụ cười
PHÁP THOẠI
III.
Phưởng phất am vân ngọn khói trầm
Nhớ Ngài xây dựng cảnh già lam
Tiếng chuông thuở trước nhiều bi cảm
Lời giảng sau này lắm động tâm
Cảm cảnh Thầy xưa đà khuất bóng
Tưởng công Sư Tổ mấy mươi năm
Chấp tay kính lạy ân Tam Bảo
Nhớ măi lời vàng chuyển Pháp ân
THANH LIÊN
IV.
Có những ḷng người lưu vấn vương
Khi thăm Viên Giác cảnh Phật đường
Nơi đây thuở trước Ngài thuyết giảng
Chốn ấy bây giờ ngộp khói hương
Ngơ ngẩn bảng nêu tơ nhện đóng
Sụt sùi bản thảo mối đầy rương
Biết ai tâm sự cùng trao trút
Chùa đấy, Thầy đâu luống đoạn trường
BẠCH LIÊN
V.
Một mảnh y vàng chửa bạc phai
Than ôi! Ḥa Thượng đă qua đời
Tổ Đ́nh c̣n đó, Thầy đâu nhỉ?!
Tu viện c̣n đây, ai thế Ngài?!
Dẫu biết có sanh th́ có diệt
Nhưng ḷng con vẫn cứ bi ai
Ngập ngừng trăm ngă đường tâm sự
Muôn nỗi xót xa đă nghẹn lời
CHÁNH TRI
VI.
TỊNH SỰ Đức Thầy chí Pháp Vương
Ra đi t́m đạo lư chơn thường
Mong tầm Chánh Pháp vui chung hưởng
Lại gặp tà tâm khổ đoạn trường
Thương Bậc chơn tu y hoại sắc
Ghét phường đối thế áo thoa hương
Gương thầy trong sáng soi kim cổ
Ai sẽ thay Ngài, Pháp xiển dương?!
CHÁNH GIÁC
VII.
Được tin điện thoại báo tang Ngài:
<< Quá cố tại Chùa lúc sớm mai >>
Sét đánh ngang tai, như đất sụp
Hung tin trước mặt, tợ trời xoay
<< Ngài đi >> hai tiếng mờ sông núi
<< Thầy tịch >> đôi lời mịt khói mây
Bồ Tát chuyển thân con vẫn biết
Thầy ôi! Sao vội cảnh Như Lai!
THIỆN TUỆ
VIII.
Nghe tin Sư phụ đă qui thiên:
Nghe tiếng thời gian giục cửa Thiền
Nghe ánh trăng vàng phơi trước điện
Nghe đồn nắng nhạt phủ bên hiên
Nghe ḷng Tu sĩ buồn ray rứt
Nghe ư Tăng sinh hận huyển huyền
Nghe cả mùa thu sầu tan tác
Nghe trời Nguyên Thủy lệ sơn xuyên
THIỆN TRÍ
NGHĨ VỀ ĐỨC TỊNH SỰ
SƠ TỔ
H̉A đồng Giáo lư Bắc Nam Tông
THƯỢNG đẳng dung ḥa nghĩa sắc không
TỊNH tuệ song tu thành Chánh giác
SỰ viên lư túc phá tà tông
SƠ tu Phật giáo nghiên tŕ luật
TỔ tổ tương truyền giới tự thông
DIỆU nghĩa viên minh phi hữu biệt
PHÁP mầu tối hậu thị chơn không
HUỆ HIỀN
LUẬN CHỦ
H̉A hợp Tăng già hạnh phúc thay!
THƯỢNG thừa nhiếp phục tà tâm dậy
TỊNH tu nhiếp phục tà tâm dậy
SỰ lư dung ḥa nghĩa chẳng hai
LUẬN Đạo, quí là không cố chấp
CHỦ tâm, tốt nhất ư đừng sai
VÔ vi sở đắc ba đời Phật
Tỷ dụ Níp Bàn: Phương tiện thay!
HUỆ H̉A
BỒ TÁT
H̉A văn đại tạng thỉnh chưa về
THƯỢNG giới thiên đàng một sớm đi
TỊNH viện thiền sinh ḷng măi đợi
SỰ hành chưa được lại phân ly
BỒ đoàn vắng bóng Thầy Tam học
TÁT chứng thiếu Ngài dạy Tứ Y
VIỆT luận từ nay đành mất Tổ
NAM tông Phật giáo khuyết chơn Thầy
MINH TRÍ
THAM HỌC
TỊNH ḷng dưỡng tánh thuở đầu xanh
TÂM địa từ ḥa đức hiếu sinh
THAM cứu Đạo Thiền môn chỉ quán
HỌC hành tịnh tuệ cửa vô sanh
NƠI nơi thắm đượm cơn mưa Pháp
TRỜI đất c̣n ghi dạ chí thành
THÁI Tổ sơ khai nhiều công đức
RỒI thôi chẳng kể đến ân lành
TRÍ KHÔNG
TU HÀNH
SỰ lư tṛn đầy, lẽ Đạo cao
NGHIỆP duyên đă năn, tự tiêu dao
TU lâu cao hạ càng từ tốn
HÀNH Đạo thâm niên lại ngọt ngào
TẠI chỗ Thiền sàng đành giản dị!
ĐẤT Chùa Siêu Lư được là bao!
NAM TÔNG Giáo Hội: tay rường cột
Xong việc th́ đi chẳng đợi chào
TRÍ TỊCH
VĂN ĐIẾU ĐỨC TỊNH
SỰ
Hỡi ôi!
Một ánh sao băng!
Một Đại Ṭng trốc gốc!
Một Trụ Ḱnh thiên sụp đổ!
Một Pháp Cổ đă vỡ tung!
Bổn Sư TỊNH SỰ qua đời
C̣n đâu
Sớm hôm nghiêm huấn, dạy lời vàng son
Ôi thôi! Thôi đă thôi rồi
Bậc Thầy khả kính vừa rời am vân
Hiếu đồ Pháp tử tang thương
V́ Thầy dẫm bước vô thường mà đi
Nhớ khi xưa
Thầy vốn ḍng Nho giáo
Sớm đầu Phật xuất gia
Tu học Kim Huê
Trụ tŕ Viên Giác
Trường Hương: Giáo thọ
Bồ Tát: yết ma
Di Na: dẫn chúng
Cầu Pháp đốt liều...
Đào tạo Tăng Ni Bắc Phái
Cho xuất gia Đệ tử rất nhiều
Mười lăm năm ấy vẫn lưu hương cho đời
Đức hùng biện như Na Tiên tốc trí
Tài dịch kinh tương tợ Huyền Trang
Rồi một hạ nọ
Tứ phần Luật giảng
Biết sai lầm nên cất bước sang Miên
Xuất gia lại ở miền Tapek
Học Pali tại nước Campuchia
Nhưng rồi
Chí Tu học có dễ chi dừng nghĩ
Ngài lên đường tiếp tục Pháp du
Sang nước Thái Lan quyết tu chỉ quán
Đến các Chùa: Pak Nam, Rakkham
Vào Trường ABHIDHAMMA...
Học Vô Tỷ Pháp, Thủ Khoa mới về
Rồi từ đó:
Nơi quê hương bừng dậy
Ánh đạo vàng Siêu Lư tỏa hào quang
Bước khởi đầu: Viên Giác, Kỳ Viên
Rồi tiếp đến các miền Lục Tỉnh
Nơi nào có Pháp Chu cập bến
Th́ hàng hàng Thiện Tín đến nương nhờ
Và lớp lớp Tăng Ni vào cầu Pháp
Cũng từ đó: Cốc, am, chùa, tháp
Được dựng lên khắp chốn tu hành
Kia là giảng đường Siêu Lư
Nọ là Viên Giác Tổ Đ́nh
Đây là các Thiền Quang Học Viện Tăng sinh
Đó là những Chùa Tứ Phương Tăng tạm trú
Khắp nơi được tuôn rơi Pháp vũ
Tam Tạng Kinh đầy đủ cả ba
Thập Thất Niên dừng bước ta bà
Bảy mốt tuổi Pháp loa bặt tiếng!
Nào những tưởng Pháp luân vận chuyển
Giọng Pháp âm c̣n măi chốn sa bà
Ngờ hay đâu thuyền Bát Nhă nhổ neo
Giờ đă điểm Pháp Đăng chợt tắt
Vẫn biết rằng
Chư Hành vô thường
Thị sanh diệt Pháp
Như mộng huyển bào ảnh
Như lộ diệc như điển
Nhưng Đệ tử chúng con
Vẫn không cầm giọt lệ
Vẫn luyến tiếc mến thương
Vẫn ưu bi sầu năo
Ḥa Thượng ôi! Bổn Sư ôi!
Tháp y chỉ chúng con đà đổ vỡ
Nhờ lời Ngài dạy:
<< Hăy ḥa thuận và tinh tấn tu hành >>
Chúng con nguyện ghi tâm khắc cốt
Y giáo phụng hành
Mong giác linh Ngài từ bi chứng giám
PHÁP TỬ Đồng Kính Điếu
TANG LỄ
ĐỨC TỊNH SỰ
BAN TỔ CHỨC TANG LỄ ĐỨC CỐ VẤN HỆ PHÁI
TĂNG GIÀ PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY VIỆT NAM
Chỉ đạo tổng quát:
1) Thượng Tọa Thích Đắc Pháp (Trưởng Ban Trù bị
thành lập Ban Trị Sự Phật Giáo Tỉnh Cửu Long)
2) Đại Đức Giác chánh (Ủy viên Phật Giáo Long
Thành - Tỉnh Đồng Nai)
Trưởng Ban:
Đại Đức Giác Tâm - quyền Trụ Tŕ Chùa Viên Giác
Phó Ban:
Ông Huỳnh Văn Phước (Ủy viên Ủy Ban Mặt Trận Tổ
Quốc Việt Nam Thị xă Vĩnh Long)
Các Tiểu Ban:
Tiếp tân:
Thượng Tọa
THÍCH LONG H̉A
(Bắc Tông)
Đại Đức
GIÁC ĐĂNG
(Nam Tông)
Đại Đức
GIÁC LƯ
(Nam Tông)
ÔngHUỲNH VĂN PHƯỚC
Cư sĩ
H̉A
Bà
TRẦN VĂN
Bà
TÍN MỸ v.v...
Nghi lễ:
Đại Đức
THIỆN PHÁP
(Nam Tông)
Thượng Tọa
THÍCH NHƯ TƯỚC
(Bắc Tông)
Đại Đức
GIÁC GIỚI
(Nam Tông)
Ni Sư
CHÁNH NIỆM
(Bắc Tông)
Đại Đức
TỊNH THÂN
(Nam Tông)
Đại Đức
PHÚC HỶ
(Nam Tông)
Đại Đức
HỘ ĐẠO (PALO)
(Nam Tông)
Đời sống:
Bà
VINH THỌ ĐƯỜNG
Ni Sư
PHƯỚC VIÊN
Bà
THANH TRÍ
Bà
TƯ YÊN
ĐH
TRẦN VĂN PHÚ
ĐH
THIỆN GIÁC
ĐH
DIỆU NGỌC
ĐH
LÊ HOÀNG THỌ
ĐH
DIỆU PHÁP
ĐH
MỸ LINH
ĐH
LÊ THỊ ĐÔNG v.v...
Trang âm:
Đại Đức
BỮU CHÁNH
(Nam tông)
Sư
GIÁC ÁNH
(Khất Sĩ)
Và một số Cư sĩ
Trật tự:
Sư
CHÍ TÂM
Sư
GIÁC TÂN
Và một số Cư sĩ
Liên lạc:
Đại Đức
GIÁC TRÍ
Sư
CHÁNH PHÁP
Và một số Cư sĩ
CHƯƠNG TR̀NH TANG
LỄ
ĐỨC CỐ VẤN
HỆ PHÁI TĂNG GIÀ NGUYÊN THỦY VIỆT NAM
Từ ngày 07 đến 09/5 ÂL
Tức ngày 03-07/6/1984
Ngày 07/05 ÂL Giáp Tư, tức ngày 5/6/84
Chiều:
15g00
Lễ Nhập Quan
16g00
Khóa Lễ Cầu Siêu
19g00
Luân phiên Tụng Niệm đến sáng
Ngày 08/05 ÂL Giáp Tư, tức ngày 06/6/84
Sáng:
07g00
Khóa Lễ Cầu Siêu
08g00
Các khóa lễ viếng của các Phái Đoàn
11g00
Trai Tăng
Chiều:
14g00
Các khóa lễ viếng
16g00
Khóa lễ Cầu Siêu
18g00
Lễ Bái Tam Bảo
19g00
Thuyết Pháp (Đại Đức GIÁC CHÁNH)
21g00
Luân phiên tụng niệm đến sáng
Ngày 09/5 ÂL, tức ngày 07/6/1984
Sáng:
06g00
Khóa lễ Cầu Siêu
08g00 Các Khóa Lễ Viếng
10g00 Trai Tăng
12g00
Lễ Truy Niệm và Cung Nghinh
Kim Quan Nhập Bảo Tháp
-
Chư Tôn Ḥa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni
và đồng bào Phật tử tề tựu trước Kim Quan Cố Ḥa Thượng
-
Giới thiệu chương tŕnh và thành phần dự lễ
-
Niệm hương
-
Diễn văn khai mạc Lễ Truy Niệm do Đ.Đ.Giác Tâm
đọc
-
Tiểu sử Cố Ḥa Thượng do Đại Đức Giác Chánh đọc
-
Điếu Văn của Chủ Tịch Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc
Việt Nam Thị Xă Vĩnh Long, do Bà Nguyễn Thị Nguyệt đọc
-
Cảm niệm của Tổng Thư Kư hệ phái Nam Tông do Ngài
Thiện Tâm đọc
-
Điếu văn của Ban Trù Bị thành lập Tỉnh Hội Phật
Giáo Cửu Long do Thượng Tọa Thích Đắc Pháp đọc
-
Điếu văn của các hệ phái
-
Điếu văn của môn đệ hiếu đồ do Đ.Đ Giác Lư đọc
-
Khóa Kinh Cầu Siêu
-
Lễ rước Kim Quan nhập Tháp
-
Nhiễu Phật
-
Thời Kinh Nhập Tháp
-
Lời cảm tạ của Ban Tổ Chức
-
Hồi Hướng Công Đức
_HOÀN MĂN_
Ghi nhanh
NHỮNG NGÀY TANG LỄ
Những ngày đầu mùa Hạ, Miền Nam trời đổ những cơn
mưa trên khắp nẻo đường, và vạn vật như nhuốm màu tang tóc đau
thương v́ tiễn đưa Bậc Đại Nhân về nơi vĩnh cửu vô biên.
<< Người tuôn nước mắt, trời tuôn mưa >>. Quả
thật vậy, điều đó đă là hiện thực cho toàn thể Phật Tử Nguyên
Thủy nói riêng và Phật Giáo đồ nói chung.
Đức Cố Vấn hệ phái Tăng già Nguyên Thủy Việt Nam
đă ra đi vĩnh viễn lúc 6 giờ 15 phút, sáng ngày 7-5 ÂL Giáp Tư,
tức 05-6-1984, tại Chùa Viên Giác - Vĩnh Long Miền Nam nước Việt.
Tin Ḥa Thượng Cố Vấn viên tịch, được điện về Kỳ
viên Tự (Trụ sở hệ phái) sau 5 phút. Từ Kỳ Viên Tự, tin Ḥa
Thượng Cố Vấn viên tịch được truyền đi khắp các Chùa trong Thành
Phố. Những Chùa Trúc Lâm, Siêu Lư, Giác Quang hay tin sớm nhất.
Ngày hôm ấy, mưa tầm tă từ không trung đổ xuống, như muốn nói
lên tâm trạng u buồn của Chư Thiên.
Ở Vĩnh Long, một số quư Thượng Tọa, Đại Đức các
Chùa Nam Tông, Bắc Tông, Khất Sĩ đă có mặt bên nhục thể của Ngài
từ sáng sớm hôm ấy.
Riêng ở các Tỉnh và Thành phố, được tin Thầy Tổ
viên tịch, một số đệ tử, các Ngài và quư Thượng Tọa, Đại Đức đă
vội vă vân tập về Tổ Đ́nh Viên Giác để thọ tang. Chúng tôi thấy
có mặt các vị trụ tŕ Chùa Trúa Lâm (TP-HCM), Thiền Quang (Tỉnh
Đồng Nai), Diệu Pháp (TP-HCM), Nguyên Thủy (Thủ Đức), Siêu Lư (Tỉnh
Cửu Long) và Chư Đại Đức các Chùa Khmer: Chùa Hang, Chùa Tri Tân,
Chùa Ông Mẹt, Chùa Hạnh Phúc Tăng, v.v... Trong không khí tang
lễ, chẳng ai nói với ai lời nào, nhưng tất cả như đă thầm héo
von tự cơi ḷng theo từng sát na trôi qua...
Đúng 15 giờ, ngày 07-5 ÂL, nhục thân của Đức Cố
Vấn đă được chính tay các Đại Đức khâm liệm bằng bộ Tam Y, đội
mũ vàng trong oai nghi cảm mến. Kế thời kinh Cúng dường Cố Ḥa
Thượng do Chư Đại Đức Tăng tụng đọc. Trong giây phút niệm kinh
để tiễn đưa Ngài, hằng trăm trái tim người Phật Tử hiện diện đă
thổn thức, uất nghẹn, tiếc thương một v́ sao sáng đă rụng, một
chiếc thuyền từ đă tách bến, một đại thọ trốc gốc.
Và khi màn đêm buông xuống, các Đệ tử xuất gia,
tại gia, quây quần bên kim quan Cố Ḥa Thượng để luân phiên tụng
đọc các bài kinh Phật được trích từ Tam Tạng Pa-li, để cầu
nguyện giác linh của Ngài cho đến sáng hôm sau.
Ngày 08/5 ÂL Giáp Tư, tức ngày 06/6/1984, qua một
đêm trống trăi và lạnh lẽo, sáng nay trời vẫn mang một màu tang
tóc. Các đệ tử ở xa lần lượt vân tập về Tổ Đ́nh Viên Giác Vĩnh
Long. Tất cả đều hiện lên một nét mặt u buồn, tiếc nuối Cha lành
thương yêu đă không c̣n nữa. Và tất cả như hiểu rằng, từ đây lời
ngọc ngà chánh pháp không c̣n được Cha lành khuyên dạy êm đềm,
rồi đây, trong đạo tràng này không c̣n tàng cây râm mát, và
khách lữ hành lỡ đường sẽ không có chỗ nghỉ chân.
Chiều ngày 08-5 ÂL, vào lúc 15 giờ, Phái đoàn Chư
Tôn, Ḥa Thượng, Thượng Tọa, Đại Đức, Tăng Ni các hệ phái và Ban
tổ chức Phật giáo tại Tỉnh Cửu Long đă đến viếng giác linh Cố
Ḥa Thượng. Phái đoàn khoảng 100 đại biểu Tăng Ni, Phật tử.
Trước khi mở khóa kinh cầu nguyện, một bậc tôn túc trong phái
đoàn đă tỏ ḷng thương tiếc Cố Ḥa Thượng và chia buồn cùng Môn
đồ Đệ Tử. Và sau đó, các hệ phái, phái đoàn tổ chức Phật Giáo ra
về. Kế đến, các đệ tử xuất gia, tại gia của Cố Ḥa Thượng luân
phiên tụng niệm để tỏ ḷng tôn kính Bậc từ ḥa khả kính.
Đến tối 08-5 ÂL, chư Phật tử tề tựu tại Chánh
điện Tổ Đ́nh Viên Giác để nghe Pháp do Sư Giác Chánh thuyết có
đề tài: “Về Đức Bổn Sư”. Qua thời Pháp, mọi người cảm nhận thật
nhiều về lời dạy của Đức Phật khi thấy cuộc đời là vô thường,
khổ năo, vô ngă, mà con người đến và đi như một bóng chớp chiều
tà chợt hiện và tan biến như màn sương mỏng ban mai. Cái hiện
hữu luôn luôn biến chuyển, sự biến chuyển ấy là đau khổ ngập
tràn và sau đó con người không thoát khỏi cái chết.
<< Đời người như lá héo
Diêm sứ chực chờ người
Đang đứng trước cửa chết
Đường trường thiếu tư lương >>
<< Đời người nay sắp tàn
Tiến gần đến cơi chết
Dọc đường không quán trọ
Dậm trường thiếu tư lương! >>
<< Con tôi tài sản tôi
Nghĩ quấy người ngu khổ
Thân ta c̣n không có
Con đâu tài sản đâu? >>
Buổi thuyết Pháp ấy, Pháp Sư đă đem lại cho mọi
người con Phật hiện diện trong đạo tràng có sự nhận thức rơ về
Lư Vô ngă trong nhà Phật, ngơ hầu xoa dịu, an ủi cái tâm trạng
bi thương của mọi người bằng nguồn Chánh Pháp. Sau thời pháp của
Pháp Sư Giác Chánh, các đệ tử xuất gia, tại gia của Cố Ḥa
Thượng đă quây quần bên kim quan của Ngài, để thay phiên tụng
đọc Kinh Phật cúng dường giác linh Ngài cho đến hôm sau.
Sáng ngày 09-5 ÂL, tức 07-6-1984, các phái đoàn
tiếp tục đến viếng giác linh Cố Ḥa Thượng. Chúng tôi nhận thấy
có phái đoàn của Ủy Ban Mặt Trận Tổ Quốc Việt Nam thuộc thị xă
Vĩnh Long, Ban Dân Vận Mặt Trận Phường và Chính quyền địa phương,
kế Phái đoàn Phật Giáo Tỉnh Đồng Tháp và đồng bào Phật tử môn đệ
hiếu đồ ở xa cũng đă vân tập về và túc trực bên kim quan của
Ngài, để 12 giờ dự Lễ truy niệm và Nhập tháp. V́ thời gian chỉ
con mấy tiếng đồng hồ nữa thôi th́ kim quan của Cố Ḥa Thượng sẽ
được cung nghinh để nhập Bảo Tháp. Trong giây phút thật ngắn
ngủi nầy, như chờ đợi, như ngóng trông những môn đệ, hiếu đồ,
các Vị Ḥa Thượng tôn túc, các hệ phái bạn, nhất là Phái đoàn
Trung Ương Phật Giáo Việt Nam mà Ban Tổ Chức tang lễ đă nhận
được tin là Phái Đoàn đang trên đường về Vĩnh Long, nhưng v́
đường xa nên chưa về kịp.
Đến lúc 11 giờ 20 phút cùng ngày, xe của Phái
đoàn Trung Ương Phật Giáo Việt Nam do Ḥa Thượng Thích Minh
Nguyệt - Phó Pháp Chủ Hội Đồng Chứng Minh Giáo Hội Phật Giáo
Việt Nam dẫn đầu đă về tới Viên Giác Tự. Phái đoàn viếng giác
linh Cố Ḥa Thượng, đặt ṿng hoa tưởng niệm và dự lễ truy niệm
Cố Ḥa Thượng. Trong phái đoàn gồm có:
1)
Ḥa Thượng Thích Minh Nguyệt - Phó Pháp Chủ Hội Đồng Chứng Minh
GHPGVN.
2)
Ngài Siêu Việt - Phó Tăng Thống Hệ Phái Nam Tông, Phó Ban Hoằng
Pháp Trung Ương GHPGVN, Phó Trưởng Ban Trị Sự, kiêm Trưởng Ban
Hoằng Pháp Thành Hội Phật Giáo Việt Nam TP. Hồ Chí Minh.
3)
Ngài Thiện Tâm - Ủy Viên Hội Đồng Trị Sự Trung Ương GHPGVN, Tổng
Thư Kư Thành Hội Phật Gáo Việt Nam TP. Hồ Chí Minh.
4)
Ngài Viên Minh - Chánh Văn Pḥng hệ phái Nam Tông, trụ tŕ Chùa
Kỳ Viên TP. Hồ Chí Minh.
5)
Ngài Bửu Phương - Đại diện các Chùa Phật Giáo Nam Tông tại TP.
HCM.
Đúng 12 giờ, lễ truy niệm bắt đầu, dưới sự Chủ
Tọa của Ḥa thượng Thích Minh Nguyệt - Phó Pháp Chủ GHPGVN, c̣n
có sự hiện diện của Bà Nguyễn Thị Nguyệt Chủ Tịch UBMTTQVN thuộc
Thị xă Vĩnh Long TT. Thích Huệ Phương - Chánh Văn Pḥng GHPG
Tỉnh Đồng Tháp, TT. Thích Đắc Pháp Trưởng Ban Trù bị thành lập
Tỉnh Hội Phật Giáo Tỉnh Cửu Long, Quư vị đại diện Chính quyền và
Mật Trận địa phương, cùng sự tham dự đông đảo của Chư Tôn, Ḥa
Thượng, Thượng Tọa, Chư Đại Đức, Tăng Ni, đồng bào Phật Tử...
Sau khi làm lễ truy niệm tại kim quan, lễ nhập
Tháp chuẩn bị cử hành, dẫn đầu là các ṿng hoa, phướng, tiếp
theo là Chư Tôn Ḥa Thượng, Tôn Túc, các Vị Thượng Tọa, Đại Đức,
Tăng kế đến là di ảnh Cố Ḥa Thượng, lư hương, các b́nh hoa,
tiếp theo là kim quan của Cố Ḥa Thượng, hai bên kim quan là các
đệ tử y áo chỉnh tề theo hầu Thầy lần cuối, sau kim quan Cố Ḥa
Thượng là các môn đệ, hiếu đồ, đồng bào Phật Tử. Kim quan Cố Ḥa
Thượng được rước đi nhiễu Phật, đảnh lễ Đức Thế Tôn, sau đó,
được cung nghinh đến Bảo Tháp.
Bầu trời xẩm lại, không gian ch́m lắng, thời gian
như ngừng trôi, gió không reo, cây cỏ ngừng rung chuyển, chim
chóc buồn không muốn hót. Tất cả như ngậm ngùi tiễn đưa Ḥa
Thượng Cố Vấn về an nhiên tự tại.
Sau cùng, ông Huỳnh Văn Phước - Ủy viên UBMTTQVN
thuộc thị xă Vĩnh Long. Đại diện Ban Tổ Chức đọc lời cảm tạ và
kết thúc lễ nhập Bảo Tháp. Kế thời kinh hồi hướng được các Phật
Tử cùng đọc để cúng dường giác linh Ngài lần cuối cùng.
Cố Ḥa Thượng đă ra đi, nhưng Ngài vẫn c̣n sống
măi trong tâm hồn của toàn thể Phật Giáo đồ, v́ Ngài là hiện
thân của ánh sáng chơn lư, một người được kết hợp bởi TỪ BI, TRÍ
TUỆ, VÔ ÚY, VỊ THA.
Thế nhân đời đời sẽ ghi măi trong ḷng h́nh ảnh
và đức tính từ bi của Ngài.
KHÓC THẦY
Con khóc thật nhiều một sớm mai
Khi hay Ḥa Thượng đă qua đời
Người Cha quí kính ĺa nhân thế
Ḷng vấn khăn tang lệ thắm mi
Ḥa Thượng ra đi nhưng c̣n măi
Ḷng con in đậm bóng từ bi
Con thuyền Chánh Pháp ai nâng đỡ
Thầy hỡi! Sao đành sớm biệt ly.
Sa Di GIÁC NGUYÊN
KÍNH DÂNG THẦY
Con nhớ thương Thầy buổi biệt ly
Trời buồn như nhuộm sắc ai bi
Ḷng con đau đớn như se thắt
Khi điện báo Ngài đă ra đi
Chua xót ḷng con, nhưng phải chịu
Trước lẽ thường t́nh pháp hữu vi
Cầu nguyện phước lành con tu tập
Kính dâng Ḥa Thượng phước tùy nghi
Sa Di GIÁC NGUYÊN
TẤM L̉NG THẾT
THẠCH
Thầy tôi đă sống bảy mươi dư
Người yếu nhưng tâm ngập đức Từ
Viết sách, dịch kinh ṃn mơi xác
Hành Thiền, luyện Đạo, trí tâm thư
Thảo lư dưa muối xa danh lợi
Thích lập thêm Chùa, nhận cảnh hư
Vi Diệu sở trường đem quảng bá
Tấm ḷng thiết thạch chí như như
Tỳ Khưu GIÁC NIỆM
MỪNG THẦY VIÊN TỊCH
Sống cho sanh chúng, thác cho Ngài
Cô tịch th́ ưa, ghét quấy rầy
Siêu Lư cây lành sao chẳng đậu?
T́m nơi vắng vẻ cảnh miền Tây!
Măng lo Đạo Pháp thân khô héo
Tuổi quá thất tuần nở thế xoay...
Ứa lệ đôi gịng khi xa cách
Mừng Thầy viên tịch thoát bèo mây
Tỳ Khưu GIÁC NIỆM
HOÀI NIỆM
Trở lại chùa xưa vắng bóng Thầy
Mặt Trời đă lặn hướng miền Tây
Giảng đường vẫn thoảng hương sen trắng
Viên Giác c̣n nghe vẳng tiếng Thầy
Bảo Tháp hiên ngang cùng tuế nguyệt
Phước lành vang dội với ngàn cây
Hậu lai ghi măi hồng ân đức
Thắng Pháp Trời Nam có bóng Thầy
GIÁC ĐĂNG
NHỮNG
MẪU CHUYỆN VỀ ĐỨC TỊNH SỰ
1.
CHUYỆN BÔNG SEN
Nhiều Thiện Tín lăo thành được nghe thân Mẫu của
Ngài TỊNH SỰ kể lại rằng: Khi cụ Bà có thai Ngài th́ cụ Bà thèm
ăn Hoa Sen, đến đổi cụ Bà ăn luôn cánh hoa sen, gương sen như
thay cả món ăn chánh. Rồi khi sanh Ngài lúc mặt trời đứng bóng (chánh
ngọ). Song thân đặt tên cho Ngài là ĐOAN (Đoan Ngọ). Khi lớn lên
làm giấy tờ sửa lại là ĐANG.
2.
CHUYỆN VỚT KIẾN
Chuyện nầy được các Vị bô lăo trong làng sinh
quán của Ngài truyền khẩu lại rằng: Thuở niên thiêu, Ngài đi
chơi, thấy người ta thọc tổ kiến vàng để lấy trứng câu cá. Những
con kiến vàng bị rơi xuống gịng rạch, bơi lội bềnh bồng trên
mặt nước, lớp sắp chết đuối, lớp sắp bị cá ăn. Động ḷng thương
xót chúng sanh, Ngài bèn t́m những chà cây thả ngay gịng rạch
để kiến tấp vào chà và ḅ lên bờ. Nhờ vậy, kiến khỏi chết tập
thể.
3.
CHUYỆN HÁI TRÂM
Một lần khác, Ngài đi theo bạn trẻ hái trái trâm,
bị kiến vàng bu phủ đầy đầu, đầy cổ, đầy ḿnh, và kiến cắn tưng
bừng. Các bạn trẻ của Ngài họ ṿ kiến trên đầu, cổ, chà kiến
dưới chân trong ḿnh. Riêng Ngài nhảy xuống đất, chạy trên đất
trống, đứng thong thả gỡ từng con một. Lúc ấy, có vài người lớn
đi ngang trông thấy Ngài làm vậy, họ ngạc nhiên hỏi:
<< Sao cháu không phủi kiến như mấy đứa kia cho
mau, hơi đâu mà bắt từng con, kiến mà bắt chậm chừng nào th́ nó
cắn nhiều chừng nấy, làm sao chịu nổi? >> Ngài đáp:
<< Thưa Bác, nếu cháu phủi mạnh th́ sẽ có những
con kiến vàng bị chết. Dù kiến là siinh vật nhỏ bé, nhưng chúng
vẫn có mạng sống, giết chúng là “bất nhân”; lại nữa, đâu phải tự
nhiên kiến vàng tấn công tụi cháu, mà tại tụi cháu hái trâm, phá
hoại nhà cửa của chúng, chúng có quyền tự vệ, nếu cháu ỷ lớn
hiếp bé là “bất công”. Hơn nữa, kiến vàng giúp ích cho người
trồng cam, v́ nhờ có kiến vàng trái cam được nhiều nước. Nếu ta
giết kiến vàng th́ sẽ làm mất phần lợi ích cho những người trồng
cam; c̣n đối vật có công với đời mà ta giết nó là “bất nghĩa”!
Các vị lớn tuổi nghe Ngài nói vậy họ giựt ḿnh,
nh́n nhau rồi nh́n lại Ngài và nói:
<< Thằng nhỏ nầy chắc lớn lên nó sẽ đi tu>>
4.
CHUYỆN XẢ THÂN CẦU ĐẠO
Thuở Ngài c̣n tu theo phái Bắc Tông, có tục lệ:
Những vị Thầy tinh tấn tu hành th́ đốt liều trên trên đầu cúng
dường Pháp Bảo để phát tâm Bồ Đề cầu Đạo vô thượng Chánh Đẳng
Chánh Giác. Vị Thầy nào chí nguyện mạnh lắm th́ đốt năm ba liều
là quá lắm rồi, nhừng Ngài đốt đến mười hai (12) liều tất cả,
khiến Tăng Ni đều kinh hăi trước ư chí đại hùng đại lực của Ngài,
nên nhiều vị quá cảm phục bèn gọi Ngài là “ Vô úy Bồ Tát”.
5.
CHUYỆN BA CÂY THƯỚC
Chuyện xảy ra khi Ngài c̣n tu ở hệ phái Bắc Tông,
về sau, Ngài muốn sang Kampuchia nghiên cứu Phật Giáo Nam Tông,
Ngài mới đến sở làm việc của Tây xin giấy đi Nam Vang, nhưng tên
quan làm việc cho Tây không cho. Ngài cố năn nỉ măi, tên quan
nầy nổi giận, lấy cây thước đập vào đầu Ngài liên tiếp ba cây
nhưng Ngài vẫn đứng yên cho đập. Khi tên quan nầy đập xong, tự
nhiên đầu hắn bổng nhiên nóng phừng lên và đau nhức vô cùng. Hắn
hoảng sợ bèn xin lỗi Ngài và cấp giấy cho Ngài đi Nam Vang.
6.
CHUYỆN CHÚA SƠN LÂM TRÁNH ĐƯỜNG
Chuyện khi Ngài sang Cao Miên, Ngài xuất gia lại
theo phái Nam Tông được một thời gian, t́nh cờ Ngài hay tin một
người bạn của Ngài bị sở mật thám Tây theo dơi và sắp bị bắt v́
họ t́nh nghi là Việt Minh. Đêm ấy, Ngài lập tức đi băng đường
rừng khoảng 20 cây số để báo tin cho bạn hay. Lúc nửa đêm, Ngài
đang đi một ḿnh dưới ánh trăng rừng mờ mờ, phía trước có con
cọp. Ngài dừng lại và suy tư rằng: “ Tôi đi t́m Đạo để tự độ và
độ tha, tự giác giác tha và việc đi hôm nay là v́ bạn, v́ người
chứ không phải v́ ḿnh. Nếu nghiệp tôi chưa đến, th́ xin ông Hổ
hăy tránh đường”. Lạ thay! Tự nhiên cọp lặng lẽ đi thẳng như
không hay biết sự có mặt của Ngài tại đấy.
7.
CHUYỆN KẺ THÙ TỰ ẢI
Thuở Ngài ở Thái Lan tu học Abhidhamma, có một
người nghiện rượu cứ đến xin tiền Ngài. Ban đầu, Ngài cũng cho,
nhưng hắn cứ đến xin măi, Ngài không có tiền để cho nữa. Đêm ấy,
hắn đến hành thích Ngài. Ngài đang ngủ, bỗng nghe có tiếng động
phía dưới sàng cốc (ở Thái Lan Chư Tăng quen ở cốc sàng), linh
tính báo cho Ngài sẽ xảy ra chuyện bất thường, nên Ngài định
ngồi dậy. Nhưng mới vừa cất đầu lên th́ Ngài bị hắn đâm lên
trúng vào đuôi chơn mày bên phải (cái thẹo ấy vẫn c̣n, mỗi khi
kể chuyện nầy cho đệ tử nghe th́ Ngài chỉ cho coi cái thẹo ấy).
Ngài lanh trí, liền ḅ qua phía sàng cốc đóng bằng phiến ván lớn
mà ngồi, và nguyện cầu Chư Thiên hộ tŕ Ngài. Tiếng đâm đứt đệm
và chiếu nghe bựt, bựt,… vẫn tiếp tục. Hắn đâm chỗ nào có kẻ hở
một hồi lâu rồi mới bỏ đi.
Sáu ngày sau, hắn tự thắt cổ chết trong nhà tắm
của hắn. Thân nhân của hắn đến Chùa thỉnh Chư Tăng đến nhà tụng
kinh cầu siêu cho hắn. Trong số Chư Tăng đi tụng kinh cầu siêu,
cũng có Ngài cùng đi.
8.
CHUYỆN THIÊN THẦN HỘ MẠNG
Hồi mới sang Thái Lan, thời gian đầu Ngài đi Pháp
hành Đầu Đà, chuyên sống trong núi rừng thạch động, bỗng Ngài bị
chứng bệnh sốt rét rừng, rồi sang chứng phù thủng. Ngài nằm
trong hang đá mà chịu. Có vài vị Đại Đức người Thái Lan ở các
hang đá gần Ngài cũng đi hạnh Đầu Đà, mới đi khất thực về nuôi
Ngài, nhưng bệnh t́nh không thuyên giảm mà càng ngày càng trầm
trọng thêm. Một hôm, các Vị Đại Đức ấy đi vào xóm khất thực, th́
có một vị Thiện Tín Thái Lan ra để bát cho các vị Đại Đức nầy,
rồi hỏi:
<< Bạch Đại Đức, trong núi có vị Đại Đức nào bị
bệnh không?>>
Các Vị Đại Đức nầy ngạc nhiên bèn đáp là << Có >>
rồi hỏi:
<< Nhưng tại sao Đạo hữu biết và hỏi vậy?>> Vị
Thiện Tín ấy đáp:
<<Bạch Đại Đức, v́ liên tiếp mấy đêm rồi, tôi nằm
chiêm bao thấy có Ông già đến kêu tôi và nói “Trong núi có Vị
Đại Đức chơn tu đang bệnh nặng hăy đến hộ giúp Ngài”, v́ vậy tôi
mới hỏi Quí Ngài >>
Thế rồi, người Thiện Tín ấy rủ thêm vài người
khác đem xe ngựa vào núi rước Ngài và đưa vào Bệnh Viện.
9.
CHUYỆN Ư CHÍ
Chuyện lúc Ngài c̣n tu theo hệ phái Bắc Tông, có
một người em ruột là Chú Vơ Minh Quang tham gia Cách mạng kháng
chiến chống Pháp hy sinh tại Vàm Xă Sĩ ở Vĩnh Long. V́ có em
tham gia Cách Mạng nên Ngài bị t́nh nghi và người ta giữ Ngài để
điều tra. Trong thời gian bị tạm giữ, người ta dọn cơm cho Ngài
với thức ăn cá thịt, Ngài chỉ ăn cơm lạt. Sau người ta nấu thịt
cá trong cháo, rang cơm với mỡ heo cho Ngài ăn th́ Ngài nhịn đói
chứ không ăn. Cuối cùng, người ta biết rơ Ngài là bậc chơn tu
nên thả Ngài về. Đến sau Ngài xuất gia lại theo phái Nam Tông,
những Thiện Tín, Tăng Ni đă thân thiện với Ngài từ trước đến yêu
cầu Ngài:
<< Bạch Sư, dù Nam Tông không chấp chay, nhưng
Thiện Tín từ xưa đă quen tục lệ “tu là phải ăn chay”, Vậy xin Sư
cho phép chúng con ít nhất cũng giữ bốn ngày chay trong một
tháng>>.
Ngài đáp: << Khi xưa, Đề Bà Đạt Đa xin Phật năm
điều, th́ có một điều xin cho ăn chay, Đức Phật không chấp thuận.
Nay quư vị đại diện cho Đề Bà Đạt Đa để xin th́ tôi cũng thay
mặt Đức Phật mà từ chối>>
Các vị nầy hoảng sợ đảnh lễ và lui ra.
10.
CHUYỆN CỐC KHÔNG CHÁY
Vào năm Mậu Thân (1968), Ngài có một cái Cốc tại
đường Trưng Nữ Vương ở Thị Xă Vĩnh Long. Cái Cốc nầy do các học
viên cất để Ngài đến dạy Siêu Lư. Đất cất Cốc do Bà Đội Huy dâng
( ngang nhà xác Vĩnh Long). Khi cách mạng tấn công Thị Xă Vĩnh
Long, th́ khắp khu phố nầy đều bị cháy và bị đập.
Hôm đó, Ngài với một chú giới tử tên Tâm (sau này
là Sa Di Giác Tâm) đang ở tại cái cốc. Hôm sau, có nhiều người
chung quanh mới thỉnh Ngài tạm vào Bệnh Viện Nguyễn Trung Trực (sau
này là Bệnh Viện Vĩnh Long) ngang đó để ở, sẽ không bị máy bay
bắn. Ngài nghe theo, vào Bệnh viện được người ta cho Ngài một
chỗ ở an toàn. Cho đến mùng bốn, Sư Giác Chánh và Sư Tâm An ra
t́m Ngài và rước Ngài về Chùa Viên Giác. Suốt thời gian hai bên
đánh nhau, nhà đồng bào ở khu phố đó đều cháy rụi, nhà Bà Đội
Huy cũng cháy luôn. Nhưng kỳ diệu làm sao, Cốc ngài vẫn tự nhiên.
Lửa cháy nhà chung quanh táp lên mấy cây dừa lăo cạnh Cốc Ngài
cũng bị cháy đọt, thế mà Cốc của Ngài ở th́ chẳng hề hấn chi cả.
Sau vụ đó, có một số người ở chung quanh phát đức
tin, đến xin quy y.
11.
CHUYỆN TỨ ĐẾ (ARIYASACCA)
Thuở Ngài c̣n du học ở Thái Lan, một hôm có người
thỉnh Ngài cùng một vị Pháp Sư bạn của Ngài đi dự cuộc làm phước
ở một chùa gần đó. Người ta thỉnh vị Pháp Sư kia thuyết Pháp về
đề tài “Tứ Diệu Đế”.
Khi thuyết xong có người đứng lên hỏi:
<<Bạch Ngài, thời Pháp hôm nay Ngài giải về Tứ Đế,
vậy từ lúc Ngài lên Pháp ṭa đến bây giờ, Ngài có được mấy Đế?>>
Vị Pháp Sư kia lúng túng chưa biết đáp thế nào,
th́ Ngài lên tiếng giải đáp:
<<Thưa quư vị, trong khi Pháp Sư chúng tôi thuyết
Pháp, thời gian nầy không có đắc Đạo th́ không có Đạo Đế. Mà
không có Đạo Đế th́ đâu có tỏ ngộ Níp Bàn nên cũng không có Diệt
Đế. Chí có nghe mệt mỏi v́ ngồi lâu nên chắc chắn có Khổ Đế; c̣n
Tập Đế cũng có thể có là khi nào Pháp Sư chúng tôi quên ḿnh, để
ư đến Tứ vật dụng của quư vị dâng, hoặc thẩm mỹ dung sắc của các
cô, các bà th́ mới có Tập Đế>>
Cả Pháp hội cười rần lên và khâm phục lời giải
đáp của Ngài, vừa khôi hài vừa rất ư nghĩa.
12. CHUYỆN VÔ NGĂ (ANATTA)
Một lần khác, cũng tại Thái Lan, một hôm có bà Tu
nữ người Thái Lan bị bệnh. Ngài cùng một vị Luận Sư đi thăm bà
Tu nữ ấy. Vị Luận Sư kia giảng đạo cho bà Tu nữ nghe về lư vô
ngă: Sắc thân chẳng phải là Ta, chẳng phải là của Ta, chẳng phải
là tự ngă của Ta,v.v... Giảng xong hai vị ra về. Vị Luận Sư kai
bỏ quên cái dèm trên cốc bà Tu nữ. Đến khi hai vị vừa xuống
thang cốc, th́ bà Tu nữ kêu lại và nói:
<< Cái dèm của vị Đại Đức nào bỏ quên đây nè! >>
Vị Luận Sư kia sực nhớ quay lại nói: <<Của tôi>>.
Bà Tu nữ liền bắt bẻ rằng:
<< Khi năy Ngài nói không có cái ǵ là Ta, là của
Ta... Sao bây giờ Ngài lại nói cái dèm nầy là của Ngài?>>
Vị Luận Sư lúng túng đỏ mặt lên, th́ Ngài liền đỡ
lời đáp rằng:
<< Khi năy chúng tôi nói về phương diện
PARAMATTHASACCA (Chơn Đế), c̣n bây giờ là nói về phương diện
SAMMUTISACCA (Tục Đế)>>
Bà Tu nữ nghe Ngài giải đáp, hoan hỉ.
13. CHUYỆN VÔ THƯỜNG (ANICCA)
Một lần nọ tại Chùa Viên Giác, có một người khách
nghe tiếng Ngài nên t́m đến cầu Pháp. Người khách nầy có quan
niệm rằng <<Thân xác là Vô Thường, c̣n tâm là thường hằng bất
biến>>. Ngài dạy rằng: <<Dù thân hay tâm đều là vô thường>>.
Người khách không chịu, liền lấy vài quyền sách
đưa Ngài để chứng minh lập luận của ông. Ngài cầm quyển sách rồi
liệng vào mặt ông khách và đứng dậy bỏ đi. Người khách nổi giận
nói lớn tiếng với Ngài rằng:
<< Sư là người tu hành mà ngă mạn, khinh người,
coi thường Kinh sách vậy sao?>> Ngài mới quay lại cười và nói
rằng:
<<Hồi năy ông không sân, bây giờ ông đă sân. Vậy
tâm ông là thường hay vô thường?>>
Người khách chợt tỏ ngộ, liền sụp xuống lạy Ngài
và xin làm đồ đệ.
14. CHUYỆN NÍP BÀN (NIBBANA)
Một lần khác, tại Chùa Siêu Lư ( Sai gon) có một
vị khách Tăng đến viếng Ngài và hỏi Ngài về Níp Bàn. Vị ấy hỏi
rằng:
<< Bạch Ḥa Thượng, Chư Phật và các vị A-La-Hán
khi nhập Níp Bàn c̣n hay không c̣n?>> Ngài mới đưa tay nhịp
xuống bàn ba tiếng, rồi hỏi:
<< Thầy có nghe ǵ không?>> Vị ấy đáp:
<< Bạch Ḥa Thượng con có nghe tiếng nhịp bàn>>
Ngài hỏi:
<< Bây giờ tiếng đó đâu rồi?>> Người khách Tăng
ngơ ngẩn chưa hiểu, Ngài liền lấy hộp quẹt, bật mấy cái cho lửa
cháy lên mấy cái, rồi hỏi:
<< Thầy có thấy ǵ không?>> Vị ấy đáp:
<< Bạch Ḥa Thượng, con có thấy đóm lửa!>> Ngài
hỏi:
<< Bây giờ đóm lửa đó đâu rồi?>>
Vị khách Tăng chợt tỏ ngộ liền cúi xuống đảnh lễ
Ngài.
15. CHUYỆN THIỀN CHỈ (SAMATHA)
Chuyện tại Chùa Siêu Lư (Sai gon), có anh sinh
viên đến thăm Ngài và hỏi về Thiền định. Ngài dạy rằng:
<< Muốn được thiền định th́ chọn một trong bốn
mươi đề mục SAMATHA như Đất, Nước,v.v... cho thích hợp với tŕnh
độ, căn tánh của ḿnh, rồi làm đúng phương pháp như trong sách
Chánh Định có dạy, rồi cứ nh́n vào đấy lâu ngày sẽ gom tâm nhập
định chứ có ǵ>> Anh sinh viên nầy không bằng ḷng nên nói:
<< Như vậy th́ đâu có ǵ là mầu nhiệm>>
Sẵn trước mặt có cái đèn Tây đang thắp, Ngài lấy
một miếng giấy đưa lên ngọn ống khói đèn, miếng giấy liền cháy,
Ngài bèn quăng miếng giấy ấy đi và lấy một miếng giấy khác rồi
dở ống khói đèn ra, Ngài đưa miếng giấy lên khoảng vị trí cũ rồi
hỏi:
<< Sao hồi năy miếng giấy cháy, bây giờ không
cháy?>>
Anh sinh viên chợt tỏ ngộ, vui mừng cuống lên và
cúi xuống đảnh lễ Ngài.
16. CHUYỆN THIỀN QUÁN (VIPASSANA)
Một lần khác tại Chùa Viên Giác, có Bà Giáo sư từ
Trà Vinh lên thăm Ngài và hỏi Ngài về Pháp Tứ Niệm Xứ. Ngài
giảng tỷ mỉ từng chi tiết cách hành Tứ Niệm Xứ, nhưng Bà Giáo sư
nầy không hài ḷng bèn hỏi rằng:
<< Bạch Sư, nếu theo lời Sư dạy th́: Khi mắt thấy
sắc chi chỉ biết là thấy. Tai nghe tiếng chi chỉ biết là nghe.
Mũi ngửi mùi chi chỉ biết là ngửi. Nếm vị chi chỉ biết là nếm.
Thân xúc chạm vật chi chỉ biết là xúc chạm. Ư suy nghĩ việc chi
chỉ biết là suy nghĩ...>>
Th́ có chi là cao siêu đặc biệt, mà trong kinh Tứ
Niệm Xứ Đức Phật dạy:
<< Có con đường duy nhất, thắng quá tham ưu, diệt
tận khổ đau, thành tựu chánh trí, chứng ngộ Níp Bàn?>> Ngài liền
hỏi lại:
<< Tại sao các cơ quan hay xí nghiệp người ta cho
lính gác, để chi vậy>> Bà đáp:
<< Dạ để ngừa kẻ gian...>> Ngài hỏi tiếp:
<< Ban đêm, nhà cầm quyền cho lính đi tuần tra
chi vậy?>> Bà đáp:
<< Dạ để canh pḥng trộm cướp...>> Ngài dạy:
<< Th́ chánh niệm tỉnh giác cũng thế>>
Bà Giáo sư ấy tỏ ngộ, liền đảnh lễ Ngài mà lănh
giáo.
17. CHUYỆN RẢI TÂM TỪ
Vào một lần nọ, Ngài thuyết pháp tại Chùa Trúc
Lâm (Sài g̣n), có người thiện nam hỏi Ngài:
<< Bạch Ngài, rải tâm từ được mười một quả phúc.
Trong mười một quả phúc ấy có hai điều: 1) Không chiêm bao ác
mộng; 2) Được người thương mến. Thế mà mỗi đêm con tụng kinh rải
tâm từ hằng chục biên, nhưng con vẫn bị ác mộng và vẫn bị người
thù nghịch ghen ghét, vậy là sao?>>
Ngài cười rồi với lấy một cành hoa, Ngài nhắm
người nam ấy mà răi mấy cái, rồi hỏi:
<< Sư rải như vậy. Ông có được giọt nước nào
không?>>
Người thiện nam đáp:
<< Bạch Ngài, không! V́ Ngài đâu có nhúng nước>>
<< Vậy à!>> Ngài bèn nhúng hoa vào nước và nhắm
người ấy rải mấy cái rồi hỏi:
<< Ông có được giọt nước nào không?>> Người thiện
nam đáp:
<< Bạch Ngài, được rất nhiều>> Ngài mới nói tiếp:
<< Cách rải tâm từ cũng vậy. Muốn rải tâm từ cho
người nào, trước hết ḿnh phải có tâm từ. Tâm từ là trạng thái
tâm mát mẻ, tụng kinh rải tâm từ không phải là rải tâm từ, rải
tâm từ không phải là tụng suông.>>
Người thiện nam lănh hội được, hết sức vui mừng
cúi xuống lạy và tạ ơn.
18. CHUYỆN TIÊN TRI
Sau thời gian qua Campuchia thọ giới lại rồi Ngài
trở về (Sài g̣n). Một hôm Ngài gặp Tu sĩ Lư Hườn ( tức Nguyễn
Thành Đạt) tự mang Y Bát đi lang thang các nơi mở Đạo. Gặp Ngài,
ông mừng rỡ thỉnh Ngài hợp tác với ông. Ngài khuyên ông hăy thọ
giới cho đàng hoàng, tu học chín chắn, rồi sẽ lo đến việc hoằng
pháp. Lư Hườn nói:
<< Tôi đă tu đúng chánh pháp Thích Ca, có y bát
chơn truyền rồi mà c̣n thọ giới ǵ nữa?>> Ngài hỏi lại Lư Hườn:
<< Ông bảo là ông tu đúng chánh pháp Thích Ca, có
y bát chơn truyền, vậy ông thọ y bát từ đâu?>> Lư Hườn bí lối,
lúng túng không đáp lại được, liền chuyển thế công kích rằng:
<< Không có chỗ nào xứng đáng cho tôi thọ giới cả,
v́ phái Tiểu Thừa th́ ăn mặn, c̣n phái Đại Thừa th́ phá giới v.v...>>
Ngài liền quở Lư hườn rằng:
<< Dù Nam Tông hay Bắc Tông, người ta đều có Tam
Tạng kinh điển, nếu ông chê hết th́ căn cứ vào đâu mà ông tu học,
mà không tu học theo Tam Tạng của Phật th́ sao gọi là “đúng theo
chánh pháp”. Ông c̣n trẻ, tính háo thắng mà thất học, lại lung
lăng ham làm Thầy làm Tổ, coi chừng tổn đức và thiệt mạng nhé!>>
Quả thật như lời Ngài nói, Lư Hườn mới 31 tuổi bị
giết chết (Lư Hườn nhỏ hơn Ngài 10 tuổi).
19. CHUYỆN TẬN THẾ
Một thời, Ngài ở tại Chùa Viên Giác lúc bấy giờ
có phong trào đồn “Sắp tận thế”, nhiều người đến hỏi Ngài:
<< Bạch Sư, người ta đồn “sắp tận thế”, vậy Sư
nghĩ sao?>> Ngài hỏi lại những người đó:
<< Tận thế là ǵ?>> Họ đáp:
<< Tận thế là thế giới bị tiêu diệt, chúng sanh
bị tiêu diệt>> Ngài cười và đáp:
<< Nếu được vậy là tốt chứ có hại ǵ, v́ thế giới
và chúng sanh đều tiêu mất th́ được hết khổ, đó là việc đáng
mừng, tại sao lại lo sợ. Lăo tử cũng nói: <<Ta có nạn lớn v́ có
thân này, nếu không có thân, khổ sanh ở đâu?>> Rồi Ngài kệ rằng:
“Đời là người, cơi: với hành vi …
Rối ráo Níp Bàn: chẳng có chi
Tính kể bao lâu, không thể hết
Được mà “Tận Thế” đó toàn vui!”
20. CHUYỆN CHIA BUỒN
Một lần nọ, tại Chùa Tứ Phương Tăng ở Vĩnh Long,
có vài Thiện Tín đến thăm Ngài, Ngài hỏi:
<< Kỳ rồi sao quí vị không đến nghe Pháp?>> Các
thiện tín ấy đáp:
<< Bạch Ngài, kỳ rồi tụi con không đi nghe Pháp
được là v́ có người bạn từ trần, nên chúng con phải đi phân ưu,
chia buồn với tang quyến thân nhân của bạn tụi con>> Ngài mới
hỏi:
<< Quí vị đi chia buồn với tang quyến ấy mà quí
vị chia thêm hay chia bớt?>> Các thiện tín ấy ngơ ngác, không
hiểu Ngài muốn nói ư nghĩa ǵ, bèn hỏi lại:
<< Bạch Ngài, “chia thêm” là sao và “chia bớt” là
sao, chúng con chưa được hiểu?>> Ngài giảng rằng:
<< “Chia thêm” là tang quyến đang buồn rầu v́
người thân đă chết, quí vị đến nói hoặc làm cho họ khổ đau thêm,
như quí vị nhắc rằng: “Hồi nào du lịch giang hồ, bây giờ nhắm
mắt mà vô quan tài, hồi nào lượt giắt trâm cài, bây giờ gởi xác
ra ngoài g̣ hoang, hồi nào trao ngọc chuốt vàng, v.v..” làm cho
họ càng nuối tiếc người thân đă chết và họ sẽ khóc than sầu khổ
hơn, đó là quí vị chia buồn mà “chia thêm”; C̣n “chia bớt” là
thân nhân của người chết đang khổ đau, quí vị đến nói hoặc làm
cho họ hết khổ đau hoặc bớt khổ đau, như Chư Tăng thường khi đến
viếng các đám tang hay tụng bài kệ Tam Tướng phổ thông:
“Pháp nào có tên là “vô thường” là Pháp có trạng
thái sanh diệt không thường; Pháp nào có tên gọi là “khổ năo” là
Pháp có trạng thái đau đớn, buồn rầu; Pháp nào có tên là “vô ngă”
là Pháp có trạng thái không phải là của ta. Những Pháp ấy chẳng
phải chỉ có riêng cho những người trong một xứ, trong một xóm,
hay trong một gia tộc đâu, mà những Pháp có chung một súc sanh,
nhơn loại, chư thiên, ma vương và phạm thiên cả thảy.v.v...” Khi
nghe Chư Tăng đọc những bài kinh hay kệ như vậy, tang quyến có
trí họ sẽ suy tư rằng: “À! Thật vậy, đâu phải chỉ riêng người
thân của ta phải chết, tất cả chúng sanh đều phải chết, mà người
thân của ta cũng là chúng sanh, như vậy người thân của ta cũng
phải chết”, đó là chuyện đương nhiên, thường t́nh, có ǵ lạ đâu
mà phải than khóc. Như vậy gọi là chia buồn mà “chia bớt” vậy>>.
Các thiện tín ấy nghe xong, họ rất hoan hỷ và tán
dương cái lư chia buồn của Ngài vừa tŕnh bày.
“Thế gian bảy báu lợi thường đời
Chỉ giúp cho ta đến dứt hơi
Pháp Phật hộ tŕ vô lượng kiếp
Đến chừng hết khổ mới là thôi”
H.T Tịnh Sự
“Sống cả trăm năm chẳng ích chi
Nào hay sanh diệt những là ǵ
Chào đời nhứt nhựt tường sanh diệt
Đó mới hơn kia, quí lạ kỳ”
H.T Tịnh Sự
“Đặng thân nhơn loại rất là mai
Gặp Phật ra đời có mấy ai
Thính Pháp văn Kinh đâu phải dễ
Hiểu lời Phật dạy mới là hay”
H.T Tịnh Sự