Thiền sư Thích Nhất Hạnh, thế danh Nguyễn
Xuân Bảo, sinh năm Bính Dần (1926) tại làng Thành Trung,
huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. Là con kế út
trong gia đ́nh có sáu anh chị em, cha là cụ ông Nguyễn
Đ́nh Phúc, mẹ là cụ bà Trần Thị Dĩ.
Năm 1942, xuất gia tại Tổ đ́nh Từ Hiếu
với Thiền sư Thanh Quư Chân Thật, được ban pháp danh
Trừng Quang.
Tháng 9 năm 1945, thọ giới Sa di với Bổn
sư, được ban pháp tự Phùng Xuân.
Năm 1947, theo học Phật học đường Báo
Quốc, Huế.
Năm 1949, rời Huế vào Sài G̣n tiếp tục tu
học. Bắt đầu sự nghiệp sáng tác với pháp hiệu Thích Nhất
Hạnh, một trong nhiều bút hiệu của Thiền sư. Đồng sáng
lập chùa Ấn Quang, làm giáo thọ Phật học đường Nam Việt.
Tháng 10 năm 1951, thọ Giới Lớn tại chùa
Ấn Quang, Sài G̣n với Ḥa thượng Đường đầu Thích Đôn Hậu.
Năm 1954: Tổng Hội Phật Giáo giao trách
nhiệm cải cách giáo dục, làm Giám học Phật Học Đường Nam
Việt.
Năm 1955, làm chủ bút Nguyệt san Phật
giáo Việt Nam, cơ quan ngôn luận của Tổng hội Phật Giáo
Việt Nam.
Năm 1957, thành lập Phương Bối Am, Bảo
Lộc.
Năm 1961 – 1963, tham học, nghiên cứu và
giảng dạy tại đại học Princeton và Columbia, Hoa Kỳ.
Sáng tác đoản văn “Bông Hồng Cài Áo”.
Năm 1964, được mời trở về Việt Nam tham
gia lănh đạo Giáo hội Phật giáo Việt Nam Thống nhất (GHPGVNTN),
thành lập Viện Cao đẳng Phật học Sài G̣n tại chùa Pháp
Hội (tiền thân của Viện đại học Vạn Hạnh) và nhà xuất
bản Lá Bối. Làm chủ bút tuần san Hải Triều Âm, cơ quan
ngôn luận của Viện Hóa Đạo.
Năm 1965, thành lập trường Thanh Niên
Phụng Sự Xă Hội. Năm 1966, thành lập Ḍng tu Tiếp Hiện.
Ngày 1.5.1966, được Bổn sư phú pháp
truyền đăng tại chùa Từ Hiếu và được kế thừa Trú tŕ Tổ
đ́nh Từ Hiếu sau khi Bổn sư viên tịch.
Ngày 11.05.1966, rời Việt Nam kêu gọi Ḥa
b́nh, bắt đầu 39 năm lưu vong.
Năm 1967, được mục sư Martin Luther King
Jr. đề cử giải Nobel Ḥa b́nh.
Năm 1968 – 1973, vận động ḥa b́nh cho
Hội nghị Ḥa b́nh Paris (1968-1973). Trong thời gian này,
được mời dạy môn “Lịch sử Phật giáo Việt Nam” tại trường
đại học Sorbonne, Pháp Quốc và soạn Việt Nam Phật giáo
Sử luận 3 tập với bút hiệu Nguyễn Lang.
Tháng 9 năm 1970, được GHPGVNTN chính
thức đề cử làm lănh đạo Phái đoàn Phật giáo Ḥa b́nh tại
Hội nghị Paris.
Tháng 5 năm 1970, tham gia soạn thảo
Tuyên ngôn Menton về vấn đề tàn hại sinh môi, ô nhiễm
môi trường và sự gia tăng dân số. Cùng các cộng sự gặp
ông U Thant, Tổng thư kư Liên Hiệp Quốc và được ông cam
kết yểm trợ.
Năm 1972, chủ tŕ Hội nghị Môi trường có
tên Đại Đồng với nội dung: sinh thái học bề sâu, tính
tương tức và tầm quan trọng của việc bảo hộ trái đất.
Năm 1971, thành lập Phương Vân Am, Paris.
Năm 1976, cứu giúp thuyền nhân và thực
hiện chương tŕnh “Máu chảy ruột mềm”.
Năm 1982, thành lập Đạo tràng Mai Thôn
tại Pháp.
Năm 1998, thành lập Tu viện Thanh Sơn,
Hoa Kỳ; năm 2000, thành lập Tu viện Lộc Uyển, Hoa Kỳ.
Năm 1999, cùng với các chủ nhân giải
Nobel Ḥa b́nh soạn thảo Tuyên ngôn 2000 về một nền ḥa
b́nh và bất bạo động cho thiên niên kỷ mới.
Năm 2005, trở về Việt Nam lần thứ nhất.
Thành lập tu viện Bát Nhă, Bảo Lộc.
Năm 2007, trở về Việt Nam lần thứ hai, tổ
chức ba Đại Trai Đàn B́nh Đẳng Chẩn Tế tại ba miền.
Năm 2008, trở về Việt Nam lần thứ ba,
thuyết giảng tại lễ Vesak Liên Hiệp Quốc.
Từ năm 2008, thành lập Viện Phật học Ứng dụng Châu Âu,
Đức; Tu viện Bích Nham, Tu viện Mộc Lan, Hoa Kỳ; Thiền
đường Hơi Thở Nhẹ, Paris; Làng Mai Thái Lan; Viện Phật
học Ứng dụng Châu Á, Hong Kong; Tu viện Nhập Lưu, Úc; Ni
xá Diệu Trạm, Ni xá Trạm Tịch, Việt Nam, tiếp tục mở
rộng công tŕnh hoằng pháp và xây dựng Tăng thân trên
khắp thế giới.
Tháng 10 năm 2018, trở về an dưỡng tại Tổ
đ́nh Từ Hiếu, Việt Nam.
00:00 giờ ngày 22 tháng Giêng năm 2022, an nhiên thị
tịch tai Thất Lắng Nghe, Tổ đ́nh Từ Hiếu.
Nhất tâm đảnh lễ Tân Viên Tịch, Tự Lâm Tế
Tông Tứ Thập Nhị Thế, Liễu Quán Pháp Phái Đệ Bát Thế, Từ
Hiếu Tổ Đ́nh Niên Trưởng Trú Tŕ, Mai Thôn Đạo Tràng
Quốc Tế Khai Sơn, Huư Thượng Trừng Hạ Quang, Tự Phùng
Xuân, Hiệu Nhất Hạnh Thiền Sư, Nguyễn Công Hoà Thượng
Giác Linh.