H̉A THƯỢNG GIÁC
CHÁNH
MỘT TẤM GƯƠNG HOẰNG PHÁP KHÔNG MỆT MỎI
Sáng nay lúc 4g bàng hoàng khi biết tin Ḥa Thượng Giác
Chánh trưởng lăo cao tăng, giáo phẩm hộ pháp Phật Giáo Nam Tông Việt
Nam, trụ tŕ chùa Bửu Đức viên tịch, một niềm tiếc thương không thể nào
tả nổi. Một chiếc thuyền từ đă tách bến ra khơi, một ngôi sao của Phật
Giáo Nam Tông Việt Nam đă không c̣n soi sáng bầu trời.
Xúc động bồi hồi khi xem trưc tiếp (live stream) thời
kinh Pāli hộ niệm trong giờ phút viên tịch của Ḥa Thượng Giác Chánh do
Ḥa thượng Thiện Pháp, giáo phẩm Phật Giáo Nam Tông chủ tŕ cùng chư
Tăng mà không thể cầm ḍng nước mắt chảy tuôn.
Nhớ trước Tết mấy ngày cùng đi với Thượng Tọa Tuệ Quyền
(Chùa Quảng Nghiêm) và Đại Đức Chánh Hạnh (Thiền Viện Phước Sơn) đến
bệnh viện đa khoa Đồng Nai (mới) thăm Ḥa Thượng và xin phép Ngài đi Hoa
Kỳ một tháng để gieo duyên với các Phật tử tha hương, Ngài rất mừng khi
gặp và c̣n nói “Tôi kiếp này không đủ duyên đi nước ngoài hoằng pháp v́
“lăo lai tài tận”, “lực bất ṭng tâm”, Sư Bửu Chánh c̣n đi được cố gắng
đi để hoằng pháp như lư tưởng ban đầu mà nhóm Siêu Lư đă đề ra.”. Con
nghe mà ḷng xót xa quá, ra về trong tâm trạng bùi ngùi.
Con biết Ngài từ năm 1974, lúc đó con là Sadi ở chùa
Phước Hải Vũng Tàu (chùa do Ngài Ḥa Thượng Thiện Tâm, trụ tŕ cũng là
bổn sư của con) khi Ngài ra thuyết pháp vào những ngày Sám Hối 14-30 AL
hằng tháng do Ḥa Thượng Trụ tŕ và Ban Hộ tŕ Tam Bảo thỉnh mời. Ngài
lúc đó rất trẻ, tướng hảo quang minh nhiều người mến mộ, thuyết giảng
rất hay, nội dung xúc tích, chi pháp rơ rang, có văn có thư, có câu
chuyện minh họa.
Những năm sau 1975, Ngài vẫn thường xuyên thuyết pháp các
nơi trong đó có ngôi chùa Phước Hải nơi con xuất gia tu hành.
Con nhớ có một lần Ngài giảng xong bài pháp trong đêm Sám
hối tại chùa Phước Hải khoảng năm 1976, con vô pḥng nghỉ đấm lung cho
Ngài, con đọc thuộc ḷng mấy câu Kinh Pháp Cú, Ngài khen con c̣n cho quà
nữa, Ngài c̣n dặn Cô Tư Khánh Huy, Phật tử thí chủ của chùa Phước Hải
lúc bấy giờ là phải nên quan tâm đến con, trợ duyên cho con việc tu học,
sau này có thể giúp ích cho Phật pháp. Con mừng lắm, lúc đó con học lớp
9 trường Trung học Vũng Tàu.
Năm 1978 từ Vũng Tàu con vô chùa Thiền Quang, B́nh Sơn,
Long Thành để học lớp Vi Diệu Pháp và lớp Huấn luyện pháp sư do Ngài tổ
chức và trực tiếp giảng dạy trong dịp 3 tháng hè, sau đó là thứ bày, chủ
nhật hàng tuần. Ngôi chùa này do Ngài Thiện Pháp và Ngài xây dựng. Nhờ
vậy mà con bắt đầu học được môn Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) cao siêu trí
tuệ của Đức Phật.
Con c̣n nhớ Ngài trao giải thưởng cho ai học thuộc long
bài kinh Tứ Niệm Xứ trong quyển Vi Diệu Pháp nhập môn do Ngài biên soạn,
con đă nhận được giải thưởng của Ngài. Con c̣n nhớ trong bài giảng của
Ngài trong khóa Huấn luyện Pháp sư tại chùa Thiền Quang Long Thành năm
1978, Ngài nói rằng Pháp sư không được “tự tán hủy tha” khen ḿnh chê
người khi ngồi trên pháp ṭa, bài pháp phải đầy đủ các yếu tố “Lời hay,
ư đẹp, điển tích, danh ngôn”. Hằng tuần vào tối thứ bảy Ngài tổ chức cho
các vị tăng sinh tập sự thuyết tŕnh Phật pháp cho đại chúng nghe, có
Ngài tham dự và nhận xét, nhờ vậy mà học viên tiến bộ rất nhanh.
Năm 1978, Ngài lập Ban Hoằng Pháp Diệu Pháp để truyền bá
Phật pháp đến với mọi người, nhất là giáo pháp Abhidhamma. Ngày nay Ban
Hoằng Pháp Diệu Pháp không c̣n nữa nhưng những thành viên “cổ xưa” đó
vẫn đang ngày đêm giảng dạy môn học này. Bằng chứng là con hay tin Ngài
viên tịch khi đang dạy Abhidhamma cho một nhóm nhỏ Phật tử ở Little Sài
G̣n – Nam Cali – Hoa Kỳ, cũng là “Tất cả là pháp, pháp được chia làm 2,
pháp Tục đế, pháp Chơn đế, pháp Chơn đế được chia làm 2, chơn đế vô vi,
chơn đế hữu vi…” Hiện nay môn học này con cũng đang giảng dạy tại Học
Viện Phật Giáo Hà Nội, Học Viện Phật Giáo Huế, Học Viện Phật Giáo
TP.HCM.
Một lần con nghe Ngài nói: “Nước trong không cá, Xét quá
không người”, tức là việc tiếp Tăng độ chúng nếu khó quá th́ không có
người như 2 câu thơ của Ḥa Thượng Minh Đức Triều Tâm Ảnh
“Tăng tài khó nổi chọn người
Cốt ḷng rộng mở chào mời hữu
duyên.”
Nhờ hiểu được ư nghĩa đó mà tại Thiền viện Phước Sơn,
Chùa Lá Giang nơi con trụ tŕ có nhiều người đến tu học. Con cũng hiểu:
“Chùa nhiều người phiền năo nhiều, chùa ít người ít phiền năo, chùa
không có người không có phiền năo”.
Con nhờ học thuộc ḷng những bài pháp trong quyển Pháp Âm
1, 2, 3 mà ngày nay con trở thành giảng sư được nhiều người biết đến.
Con nhớ có lần Ngài dạy “ráng học thuộc ḷng 10 bài pháp th́ có thể đi
thuyết pháp được rồi”. Những bài pháp Ngài tóm tắt bằng thơ con đă thuộc
ḷng mà đến tận ngày nay sau hơn 40 năm con vẫn sử dụng trong các bài
thuyết giảng của ḿnh.
Như tóm tắt những câu chuyện về nhân quả và nghiệp lúc
lâm chung từ trần.
“Con trăn nọ tiền duyên Sư Cả
Đem ngọc vàng ra mă cất chôn
Đến khi giờ phút lâm chung
Nhớ vàng chôn cất làm trăn giữ
ǵn”.
Hay như:
“Có vị sư b́nh sinh hà tiện
Được tín đồ dâng hiến y sinh
Chẳng bao giờ đắp vào ḿnh
Lâm chung nhớ tiếc thác sinh
rệp ḅ”.
Hoặc là:
“Như bầy dơi xưa có năm trăm
Nghe tăng đọc Abhidham
Sau khi măn kiếp được làm chư
thiên”.
“Somana xưa nguyên gà mái
Nhưng hằng năm bên chái nghe
kinh
Luân hồi nhiều kiếp tục sinh
Đến khi đắc quả bởi kinh nghe
thường”.
"Tứ vật dụng thường thường dâng
cúng
Kiếp tương lai phước cũng đều
đều”.
Và nhiều nhiều bài khác nữa mà Ngài đă tóm tắt bằng thơ
giúp cho các học viên dễ thuộc ḷng đại ư bài pháp.
Con nhớ hoài các bài giảng Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) của
Ngài như: Chia pháp, Gồm pháp, Định nghĩa danh từ Abhidhamma, 17 pháp
Căn bản như Tâm Sở Hữu Tâm Hợp Đồng, 3 Tánh, 4 Giống, 3 Thời, 12 Hạng
người, 31 Cơi, 6 Nhân, 6 Môn, 5 Thọ, 14 Sự, 21 Cảnh, Lộ Sắc, Lộ Tâm, 5
Uẩn, 12 Xứ, 18 Giới, 4 Đế, Đầu Đề Tam. Đầu Đề Nhị, Nhị Đề Kinh, 24
Duyên, 12 Nhân Duyên.
Những bài giảng Abhidhamma của Ngài vẫn c̣n măi với thời
gian vô cùng, không gian vô tận do các thế hệ tiếp tục truyền thừa.
Nói đến Vi Diệu Pháp (Abhidhamma) tại Việt Nam không thể
nào quên được Ngài Ḥa Thượng Tịnh Sự, Ḥa Thượng Giác Chánh, Cô Bảy
Vĩnh Phúc, Cô Trần Quỳnh Hương, Cư sĩ Báu vv… Có lần con nói với Ngài Vi
Diệu Pháp sao khó quá, Ngài nói t́m cách đi dạy lại sẽ giỏi. Nhờ lời
khuyên này mà con học tới đâu đi dạy tới đó, nhờ vậy mà con hiểu thêm
được nhiều. T́nh cờ con đọc câu này trên mạng và thấy thấm thía lời
khuyên của Ngài:
“If you want to master
something. Teach it.
The more you teach, the better
you learn.
Teaching is a powerful tool to
learning”.
(Nếu bạn muốn thông thạo vấn đề ǵ. Hăy dạy nó. Càng dạy
nhiều th́ bạn càng học tốt hơn. Dạy học là một phương tiện hữu hiệu nhất
cho việc học.)
Cả cuộc đời của Ngài là một sứ giả Như Lai. Hoằng pháp độ
sanh không mệt mỏi. Ngài như một ngôi sao càng nh́n càng sáng.
Trong thời bấy giờ Ngài là thần tượng của nhiều Tăng ni
Phật tử, là niềm khích lệ, là nguồn động viên cho các thế hệ kế thừa
nhất là về phương diện nghiên cứu học hỏi kinh điển Nguyên Thủy và Giáo
Lư Abhidhamma cũng như phương diện truyền bá Phật pháp đến mọi người.
Đặc biệt Ngài biên soạn rất nhiều tác phẩm Phật học nhất là Vi Diệu Pháp
như Vi Diệu Pháp Nhập môn, Siêu Lư học và các tác phẩm Phật học bằng thơ
khác.
Khoảng 10 năm trở lại đây Ngài bắt đầu lâm bệnh nhưng vẫn
luôn luôn sống với Phật pháp, biên soạn nhiều sách Phật học, thuyết
giảng Phật pháp thông qua mạng Internet. Ngài thực tập chánh niệm hơi
thở và dạy mọi người thực hành Tứ Niệm Xứ. Ngài là một tấm gương hoằng
pháp không mệt mỏi, một ngôi sao, một đời người. Ngài tiếp độ, đào tạo
hằng trăm chư Tăng Ni, thành lập, xây dựng và trùng tu hàng chục ngôi
chùa góp phần duy tŕ và phát triển Phật Giáo. Công đức của Ngài thật to
lớn.
Sự nhiệt tâm v́ đạo pháp của Ngài ai cũng thấy ai cũng
biết và tác động rất lớn đến nhiều Tăng Ni Phật tử trong đó có con. Ngài
giỏi Abhidhamma, thông thạo chữ Hán Việt, thông suốt về kinh điển Nguyên
Thủy, là giảng sư có thẩm quyền, nổi tiếng trên 45 năm qua. Ngài là viên
ngọc quư của Phật Giáo Nguyên Thủy Việt Nam. Những năm khó khăn nhất
Ngài xuất hiện như một vị Bồ Tát “cứu nhân độ thế", đă khích lệ, cứu
giúp được nhiều người trong đó có con. Con không bao giờ quên Ngài
khuyên con về Thiền Viện Phước Sơn (Chùa Lá Giang) để tu tập và hoằng
pháp – Ngày nay Chùa Lá Giang (T.V Phước Sơn) là nơi tu học của gần 500
Tăng Ni, là một đạo tràng tiêu biểu của Phật Giáo Nam Tông Việt Nam. Lời
khuyên đó từ năm 1984 đến hôm nay 2020, quả là lời khuyên có tầm nh́n
lớn.
Con xin kính cẩn nghiêng ḿnh trước công đức vô lượng của
Ngài – Xin cảm ơn Ngài đă đến với cuộc đời bằng một tấm ḷng quảng đại
v́ quần sanh, đă trao cho cuộc đời một của hồi môn tâm hồn hướng thiện.
Từ nơi ngàn trùng xa cách, nửa ṿng trái đất, con xin
thành kính tri ân Ngài, nguyện cầu Ngài an lạc trong cảnh giới mới. Đúng
ra con phải có mặt trong tang lễ của Ngài nhưng v́ đại dịch virus Corona
đang hoành hành khắp nơi trên thế giới, con không thể về Việt Nam trong
lúc này (v́ quá cảnh Hong Kong cách ly 14 ngày) Xin Ngài từ bi hỷ xả.
“Người đi để lại nụ cười
Cho yêu thương nối t́nh người ngàn sau
Cho cây đơm lá xanh màu
Cho hoa nở nhụy nhịp cầu thủy chung”
(Thơ –VM)
“Gặp nhau rồi lại chia tay
Đường trường đôi ngả ngăn mây
cách trời
Gặp nhau rồi lại ra khơi
Ngài về phương ấy dâng lời kính
thương”.
Chùa Nhỏ, Little Sài G̣n, California, Hoa Kỳ
Ngày 7 tháng 2 năm 2020
14 tháng Giêng âm lịch năm Canh Tư
Tỳ Kheo Bửu Chánh
Trang Ngài Trưởng
Lăo Giác Chánh