HÀNH TR̀NH SANG XỨ PHẬT
TK Bửu Chơn
MỤC LỤC
Phi Lộ.
Khởi hành
từ Nam-Vang qua Vọng Các.
Từ Vọng Các
sang Rangoon.
Từ Rangoon
sang Calcutta.
Lịch sử
Phật giáo Tích Lan.
Chiêm bái
mấy chỗ động tâm và đi ṿng quanh Ấn Độ.
Thỉnh Ngọc
Xá lợi Đức Phật Tổ.
PHI LỘ
Người Trung Huê và Việt Nam, mỗi năm đến tiết thanh minh thường bày ra
lễ tảo mộ để tỏ ḷng nhớ đến ân đức ông bà, cha mẹ đă quá cố. Cũng như
người Pháp thường đến viếng thư viện của văn hào Victor Hugo, hay pḥng
thí nghiệm của nhà thông thái Pasteur, v́ ái mộ sự nghiệp văn chương
khoa học của các Ngài. C̣n người tu Phật th́ lại được hy vọng viếng
những nơi thánh tích về Đức Phật Tổ Thích Ca Mâu Ni. Hồi xưa đường giao
thông bất tiện đă có biết bao nhiêu nhà mộ đạo như thầy Huyền Trang
chẳng hạn dám hy sanh mạng sống trải qua băi sa mạc và nhiều quốc độ dă
man rừng rú để sang tận Trung Ấn Độ để chiêm bái mấy chỗ động tâm.
Về
phần tôi từ khi xuất gia nương theo chánh Pháp và hấp thụ được chút ít
chơn lư giải thoát th́ hằng nhớ đến ân đức của đấng Cha lành. Những nhà
sư muốn cúng dường Đức Thế Tôn th́ chỉ có cách là ráng hành theo lời dạy
của Ngài hầu mau dứt khổ, với một di sản vỏn vẹn với tam y và quả bát,
giống như loài chim có cái mỏ và cặp cánh, th́ mong ǵ được sang tận xứ
Ấn Độ để chiêm bái mấy nơi thánh tích. Đó là không nói đến thời cuộc
quốc tế khó khăn hiện nay đă làm trở ngại cho việc xuất dương không nhỏ.
Nhưng bỗng đâu nhóm thiện tín Sài G̣n rất trong sạch với ngôi Tam bảo
yêu cầu tôi sang Tích Lan và Ấn Độ để nghiên cứu và học hỏi thêm Phật
giáo Nguyên Thủy. Lúc đầu tôi c̣n do dự v́ nghĩ rằng tại Cao Miên cũng
có đầy đủ Kinh Luật Pāli, nếu hành giả nào hết ḷng tu tập th́ cũng được
kết quả theo sở nguyện, hơn nữa trong thời buổi vật chất này, cuộc viễn
du của một nhà sư thật là cam go bất tiện, nhứt là giới luật cấm nhặt sự
mang tiền bạc theo ḿnh. Nhưng tôi sực nhớ lại lúc gần nhập Niết-bàn,
Đức Phật có thuyết cho tôn giả Ānanda nghe như vầy: “Này Ānanda, sau khi
Như Lai nhập diệt và trong buổi Như Lai nếu có người muốn thấy Như Lai
th́ nên đi viếng bốn chỗ động tâm sau đây: Chỗ Như Lai giáng sanh tại
vườn Lumbini, chỗ Như Lai thành đạo tại Bồ Đề Tràng (Bodhigaya),
chỗ Như Lai quay bánh xe Pháp lần đầu tiên tại vườn Lộc Giả (Isipatana)
và chỗ Như Lai diệt độ tại rừng Kusinara dưới hai hàng cây song long thọ.
“Những ai có duyên lành đi tới bốn chỗ động tâm ấy để chiêm nghiệm về ân
đức của đấng Chánh đẳng Chánh giác và sự vô thường của đời Ngài, rồi
phát tâm chán nản thế sự, th́ có khi cũng được đắc đạo quả Niết-bàn hay
ít ra cũng thoát khỏi bốn đường dữ trong kiếp vị lai”. V́ nhớ đến câu
Phật ngôn ấy nên tôi mới quyết dạ hy sinh, không nài khó nhọc, nguyện
xông pha đất lạ quê người, nơi mà khí hậu, phong hóa, ngôn ngữ và cách
sinh hoạt mỗi mỗi đều khác hẳn xứ ta.
C̣n nói qua chuyện xin giấy tờ xuất dương cho một Việt kiều ngụ tại đất
Miên, th́ đó là một việc hết sức cam go. Người đương sự phải trải qua
nhiều cơ sở chuyên trách Pháp-Miên và các lănh sự quán ngoại quốc: Xiêm,
Ấn Độ, Miến Điện. Tích Lan .v.v…Hơn nữa, cuộc xuất ngoại của một nhà sư
cần phải được hội Tăng già bổn xứ ưng thuận sau khi biết rơ hạnh kiểm và
tŕnh độ học thức về Kinh Luật. Trải qua một thời gian hơn 3 tháng nhứt
là nhờ ngài Đốc Phủ Như đă tận tâm lo giấy tờ và thiện tín các nơi hộ độ
chi phí mà cuộc xuất dương của tôi mới được thực hiện và buổi khởi hành
nhứt định vào lúc 4 giờ chiều ngày 13-6-1952 tại phi trường Pochengtong
(Pnom-Penh).
Trước ngày xuất dương có nhiều thiện tín nhứt là thầy Huỳnh-V-Niệm yêu
cầu tôi để làm một cuộc lễ tiễn hành, nhưng tôi nghĩ rằng ḿnh tài hèn
đức kém không dám nhận lănh, túng thế nên chư thiện tín mời thỉnh tôi bố
thí một thời Pháp tại nhà ông Đốc Phủ Như để nhắc nhở tấm ḷng mộ đạo
của chư thiện tín trước khi tôi từ giă thủ đô Kim Biên.
Trong hôm ấy thầy H.V.N có đọc một bài diễn văn để tiễn hành tôi như vầy:
Bạch Đại đức,
Trong cơ hội này, chúng tôi được hay tin Ngài sắp đắc kỳ sở nguyện trong
cuộc viễn du qua Ấn Độ và Tích Lan để t́m đường tu học, tôi xin thay mặt
cho tất cả chư thiện nam tín nữ đang cu hội nơi đây có đôi lời kính xin
Ngài hoan hỷ tha thứ cho.
Bạch Đại đức,
Thuở trước kia, vừa được 29 tuổi xuân Ngài c̣n là một công chức đang
sống trong cảnh gia đ́nh đầm ấm, hạnh phúc, no cơm, ấm áo có nhiều hy
vọng tương lai tốt đẹp của đời. Bỗng đâu duyên kỳ đă đến nhờ trí huệ xét
đoán cao siêu về nỗi vô thường khổ năo của vạn vật, nên Ngài đă can đảm
chặt đứt các sợi dây trói buộc, từ giă chốn đô thành huyên náo đầy dẫy
những điều tội lỗi dấn thân vào chốn rừng sâu núi thẳm quyết dạ hy sinh
để nối gót đấng Cha lành. Rồi từ đó trở đi, trải qua nhiều năm, nhiều
tháng chúng tôi không có dịp hội kiến cùng Ngài. Có lẽ trong thời kỳ cố
gắng trên đường phạm hạnh, Ngài đă có dịp hưởng hương vị thiêng liêng
cho đến nỗi không c̣n màng chi đến việc tế thế độ nhân. Nhưng rất may!
Trong mấy năm gần đây chúng tôi rất vui mừng được thấy chí hướng của
Ngài có bề thay đổi, chẳng dành thọ hưởng kho tàng Pháp bảo một ḿnh,
nên Ngài đă có nhiều cơ hội đem cả tấm ḷng bác ái, đứng ra hoằng pháp
độ sanh, đúng theo chánh giáo để nhắc nhở, d́u dắt chúng tôi trên đường
giải thoát.
Bạch Đại đức,
Đúng lẽ th́ chúng tôi phải tạo ra một cuộc lễ long trọng để tiễn hành
Ngài v́ trong ít hôm nữa Ngài sẽ từ biệt chúng tôi, lên đường sang Ấn Độ
và Tích Lan du học, Tích Lan là một căn cứ của Hội Phật giáo Thế giới và
nơi mà mùi vị của Phật giáo Nguyên Thủy c̣n đương nồng hậu, sẽ có dịp
được nhận thêm một bực hành giả có đầy đủ nghị lực như Ngài.
Bạch Đại đức,
Nhưng chúng tôi không thể thực hành sự tiễn đưa Ngài y theo ư nguyện, v́
hoàn cảnh trái ngược đời và đạo, nên khiến cho Ngài không ưng thuận cho
phép chúng tôi làm tṛn phận sự của hàng môn đệ. Tuy nhiên, chúng tôi
không đành thờ ơ lănh đạm với một đấng ân nhân cao cả như Ngài, bởi cớ
ấy chúng tôi xin kính mấy lời cảm tạ công ơn vô lượng của Ngài đă dạy dỗ
chúng tôi từ bấy lâu nay.
Chúng tôi xin cầu nguyện cho Ngài được luôn luôn khỏe mạnh và mau đạt
thành đạo quả Niết-bàn, và rất trông mong rằng trong một ngày vị lai
Ngài sẽ trở về xứ sở mang theo nhiều tài liệu để chấn hưng Phật giáo,
hầu tế độ quần sanh mau được thoát khỏi chốn sông mê bể khổ. Đó là một
công tŕnh vĩ đại tương đương với chí khí của Ngài Huyền Trang thuở
trước (đọc ngày 1-6-1952).
Thật là:
Trong buổi chia phôi luống chạnh ḷng,
Tiễn người tầm đạo, tách rời đông.
Đem theo chánh kiến, y cùng bát,
Coi rẻ kim ngân nhẹ tợ lông.
Ư trước nhận hành gương cứu khổ,
Duyên sau gắng độ giống ṇi hồng.
Quay về Phật giáo thời nguyên thủy,
Đức cả công dày rạng núi sông.
Huỳnh Văn Niệm
Sở kiểm soát tài chánh P.Penh
Đại đức Bửu Chơn họa nguyên văn:
Theo dấu người xưa nguyện dốc ḷng,
Một h́nh một bóng giă miền Đông.
Tung mây bay thẳng sang Tây-Trước,
Lướt sóng thuyền đưa tới Xây-Lông (Ceyion)
No đói chỉ nhờ nơi quả bát,
Ấm thân sở cậy lá y hồng.
Mài gươm trí tuệ vào nguyên thủy,
Tam tạng thỉnh về rạng núi sông.
Để
đáp lại tâm nhiệt thành của một số đông Phật tử đă hy sinh công của
trong cơ hội ấy, và nhứt là muốn bày tỏ sự lợi ích từ cuộc xuất dương,
tôi xin cho xuất bản quyển “Hành tŕnh sang xứ Phật” này để cống hiến
đến chư độc giả.
Những kư ức được chép trong quyển sách đều do sự nghe thấy của tôi tại
mấy nơi mà tôi đă hân hạnh được đặt chơn đến. Ngoài ra, lại có nhiều
h́nh ảnh về những chỗ động tâm và thánh tích trong mấy xứ: Ấn Độ, Tích
Lan, Miến Điện, Xiêm v.v… được in nơi mỗi bài tường thuật cho người đọc
dễ lănh hội và phát tâm cảm thích.
Nhà sư tu hành c̣n kém khuyết, học hỏi ít oi, ngôn ngữ văn chương không
trôi chảy, nếu có điều chi sơ thất trong quyển sách này, xin chư cao
Tăng, Đại đức và quư độc giả vui ḷng chỉ dạy.
Tác
giả
Tỳ khưu Bửu Chơn.
KHỞI HÀNH
TỪ NAM-VANG QUA VỌNG CÁC.
Lúc trưa ngày 13-6-1952 lên xe rời khỏi Chùa Mahamontrey, tôi rất thâm
cảm tấm ḷng từ bi khiêm tốn của các vị Đại đức Maha Sès, Achar Tích,
Achar Sim, Hộ Tông và một số đông chư tăng Việt Nam không nệ mệt nhọc
trong buổi nắng hè, vui ḷng đưa tôi ra tận phi trường Pochengtong. Nối
đuôi theo sau đoàn xe của chư tăng, có rất nhiều thiện tín ở phương xa
như: Kratié, KG. Cham, KG. Chnang, Sài G̣n… đă tụ họp lại từ mấy hôm
trước, vậy đoàn cùng các Phật tử Việt Nam tại Kim Thành tiễn chân tôi
sang đất Ấn. Khi 2 giờ rưỡi trưa đoàn xe vào đến phi trường Pochengtong
th́ tôi thấy đă có nhiều người đang chực sẵn tại đó.
Phần chư tăng th́ vị nào cũng tỏ vẻ hoan lạc thỏa thích v́ rất hân hạnh
được một bạn đồng đạo sang tận Tích Lan tu học, các Ngài cho cuộc hành
tŕnh của tôi là bước đầu tiên để khuyến khích nhiều vị Sư khác xuất
dương. Bên phía thiện tín th́ có người thản nhiên b́nh tĩnh và cũng có
người lo âu về cuộc hành tŕnh xa xôi, khó nhọc của tôi, không biết lúc
nào trở về và bề độ nhựt của tôi tại đất khách ra sao? Thấy tấm ḷng
chiếu cố nhiệt thành của chư Đại đức và của thiện nam tín nữ, tôi cũng
bâng khuâng ái ngại nửa mừng nửa lo. Mừng là được đạt kỳ sở nguyện sang
tận đất Phật khảo cứu Kinh Luật Nguyên Thủy và chiêm bái mấy chỗ động
tâm, c̣n lo là nỗi cô thân lạ cảnh lạ người, không biết cuộc xuất ngoại
của tôi sẽ đem lại kết quả thế nào và có bổ ích chi cho đồng bào? Tôi
chỉ biết nguyện thầm ân đức Tam bảo gia hộ tôi đến nơi được an vui khỏe
mạnh, tu học dễ dàng, hầu đáp lại mối thạnh t́nh của một số đông Phật tử
đă hy sanh công của lo lắng cho tôi.
Chúng tôi kẻ đứng người ngồi, chuyện tṛ chờ đợi, măi tới 3 giờ rưỡi mới
thấy dạng phi cơ của hăng Thái-Airways từ Sài G̣n trở lên và đáp xuống
phi trường. Sau khi hành khách tŕnh giấy tờ và hành lư cho nhà chức
trách khám xong th́ đúng 4 giờ chiều, con hạc sắt lại rồ máy cất cánh
bay về Vọng Các. Trên phi cơ ḍm xuống, trong giờ phút nắng bức này là
một cảnh vật linh động đủ màu sắc thiên nhiên của các xứ của miền nhiệt
đới. Ngoài mấy cơ sở tân thời của phi trường Pochengtong và những liều
tranh lẻ tẻ của nhóm nông dân, th́ toàn là đồng ruộng bao la bát ngát,
lấp lánh những mảnh gương màn bạc chói ngời, điểm dấu các ao hồ, ng̣i
rạch, cảnh vật ấy lại thêm phần cảm động khi tôi nh́n về phía nhà ga
thấy lố nhố nhóm người đến tiễn chân vẫy tay dở nón. Bay được một đoạn
đường mây bắt đầu trở nên đen sẫm, dông mưa ào ạt tuôn xuống, phi công
phải cẩn thận cho bớt máy và măi gần 6 giờ chiều tới Vọng Các, lúc ấy
mưa cũng vừa dứt. Bức màn u ám đă gieo rắc mối lo sợ cho hành khách lại
nhường chỗ cho một bầu trời quang đăng trong tươi. Thoạt nghe tiếng c̣i
báo động cho biết phi cơ sắp đáp xuống sân bay, phi trường này ở cách xa
thủ đô Thái Lan ngót 28 cây số ngàn, lớn hơn phi trường Tân Sơn Nhứt
nhiều và kiến trúc rất tối tân, những ghế ngồi trong pḥng khách đều bọc
toàn bằng da. Cũng như nơi các phi trường khác, ở đây số người đưa rước
nhiều gấp bội số hành khách nên nghề buôn bán thực phẩm và nước giải
khát rất phồn thạnh. Khi xuống phi cơ và vào đến nhà ga, ai nấy đều có
người thân đến rước, riêng tôi chẳng được cái may mắn ấy và đang suy
nghĩ không biết chùa nào đặng xin ngụ đỡ vài hôm. Măi đến một giờ sau
tôi mới gặp một người Việt Nam quen là thầy Tám X… cư ngụ tại xứ Thái đă
lâu, cũng như đoàn thám hiểm gặp được giếng nước giữa băi sa mạc, người
xứ lạ gặp được bạn đồng hương là một chuyện may vô cùng.
Ở
đây người thường nói tiếng Thái hoặc tiếng Anh, thành thử tiếng Pháp của
tôi trở nên vô dụng, may thay trước khi xuất dương tôi cũng có học được
đôi chút hai thứ tiếng ấy nên dễ bề trao đổi ngôn ngữ với người bổn xứ.
Tôi được vào trọ nơi chùa Thep Serin trong ba hôm để chờ chuyến máy bay
đưa sang Miến Điện, lúc tôi ở đây mọi việc đều nhờ thầy Tám X… hộ độ và
có vài vị cư sĩ Cao Miên đến thăm để đưa tôi đi viếng kinh đô Vọng Các,
xem các ngôi chùa, nhất là chùa Phật Ngọc (Wat Préah Keo).
Thái Lan là một nước hoàn toàn theo Phật giáo Nam Tông từ vua chí dân,
thảy thảy đều giữ đạo Phật, dân số chừng 18 triệu, trong ấy có trên 5
triệu Hoa kiều cùng một số người Việt Nam và Cao Miên, chư tăng có tới
250.000 vị, Chùa chiền rất nhiều và kiến trúc tương tợ như ở xứ Cao Miên.
Theo luật bổn xứ người ngoại quốc mới đến phải tŕnh cho sở Tân đáo và
đóng một thứ thuế vào xứ chừng 8 đồng bạc Thái (gần 30 đồng bạc Đông
Dương). Những khách ghé tạm để chờ phi cơ đưa sang xứ khác được phép lưu
trú đỡ (Visatransit) không quá một tuần lễ. Nước Thái Lan cũng có
đầy đủ Kinh Luật như Miến Điện và Tích Lan, Pháp học ở đó được tấn triển
khả quan, nhưng Pháp hành th́ kém sút hơn hai xứ nói trên và Cao Miên.
TỪ VỌNG CÁC SANG
RANGOON
Cách 3 ngày sau có chuyến máy bay sang Miến Điện, đúng 10 giờ sáng th́
phi cơ cất cánh và bay măi tới 1 giờ chiều mới tới thủ đô Rangoon. Phi
trường tại đây nhỏ hơn ở Vọng Các, hôm ấy trời cũng mưa dầm, phi cơ vừa
đáp xuống th́ đă có ông Maṅgala U Bathan chực sẵn tại phi trường để rước
tôi. Ông là một thương gia rất tín thành với Phật giáo được thầy Tám X…
từ Vọng Các đánh điện văn cho hay trước, ông đưa tôi về Chùa Sasanāyetha
ở gần thủ đô Rangoon được sắp đặt theo những điều kiện thuận lợi cho các
hành giả chuyên tu về phép thiền định. Vị Sư cả là Đại đức Bhadanta
Muninda suốt thông Kinh Luật, giới hạnh trang nghiêm đă xuất gia hơn 20
hạ.
Cũng như ở Thái Lan người Miến lấy Phật giáo làm quốc đạo, phần đông
người bổn xứ đều sinh hoạt theo khuôn khổ Phật giáo, ngoài ra có một số
ít tín đồ Thiên Chúa giáo. Diện tích xứ Miến Điện lớn hơn xứ Thái Lan
nhưng dân số cũng chừng 19 triệu, tăng chúng có lối 180.000 vị và có rất
nhiều am thất dành riêng cho các tín nữ (cô Diệu) thọ
tŕ thập giới đến học kinh hoặc tham thiền. Tôi cũng có dịp được viếng
một ngôi chùa trong ấy có đến 130 tín nữ (cô diệu) từ 10 tuổi sắp lên ở
tu học. Nơi Miến Điện pháp hành được tấn triển hơn các xứ trong khối
Phật giáo Nguyên Thủy, người Miến lại c̣n có đức tin trong sạch với ngôi
Tam bảo hơn mọi nơi nên bề khất thực của các bực xuất gia rất dễ dàng.
Một hôm được viếng chùa Shrewdagoon nhằm ngày bát quan trai, tôi có gặp
hơn 50 tín đồ đến nghe một vị Đại đức lăo thành thuyết về “minh sát huệ”.
Cả thảy thính giả đều là người giữ bát quan trai giới, đến ở luôn tại
giảng đường trọn ngày đêm. Hành vi cao thượng của các cư sĩ Miến Điện
trong ngày lễ bát quan trai càng khêu gợi đức tin của người t́m đạo. V́
hiện nay trên thế gian khó t́m đâu ra một số người tại gia đông đúc như
thế, dám bỏ phế việc đời vào chùa tham thiền, niệm Phật.
Hôm tới Miến Điện tôi nghe người ta cho biết có một vị A-la-hán vừa tịch
diệt trước mấy hôm, xác c̣n quàn mà không hôi thúi, và có nhiều bực khác
đắc từ Tu-đà-huờn cho đến A-na-hàm quả, tôi có tọc mạch hỏi thăm coi các
ngài hành theo pháp nào th́ nhiều người cho biết rằng hành theo pháp Tứ
niệm xứ.
Chùa Shrewdagoon một bảo tháp nguy nga đồ sộ có danh tiếng trong hoàn
cầu, để thờ tám sợi tóc của Đức Phật. Theo lịch sử Phật giáo sau khi Đức
Thế Tôn đắc đạo dưới cội Bồ đề được 3 tuần nhựt và Ngài c̣n đang vui
hưởng hương vị giải thoát, th́ một hôm nọ có hai người lái buôn Miến
Điện đi ngang qua gặp, họ liền phát tâm trong sạch dâng bánh đến Ngài và
xin qui y Nhị Bảo là Phật và Pháp mà thôi, v́ lúc ấy chưa có Tăng già.
Cúng dường xong hai người lái buôn xin một vật di tích của Ngài để đem
về xứ thờ phụng chiêm bái, Đức Phật liền nhổ tám sợi tóc trao cho họ đem
về xứ tạo tháp Shrewdagoon thờ cho đến ngày nay.
Một hôm tôi được viếng chùa Donanasari Kudi ở Hangavadi là nơi hội họp
của hàng phụ nữ đến học tham thiền, chùa này có thể chứa được gần 200
tín nữ thọ thập giới hoặc bát quan trai giới, y phục của họ toàn là màu
cam, dưới mặc một cái cũn, phần trên cái áo tràng chẹt tay và phía ngoài
họ choàng một lá y không có may điều. Các cô đều học Pāli trong ba lớp:
hạ, trung, thượng. Những giáo sư đều là người nữ trừ ra vị giám đốc là
một vị Đại đức đến xét hỏi giảng dạy đôi khi, nhóm tín nữ này được hội
Phật giáo Prariyati Sassana hộ độ 4 món vật dụng và 300 đồng bạc Miến
mỗi tháng, tiền cung cấp dầu xăng và một chiếc xe hơi để đưa đến nhà các
thí chủ lănh gạo, củi, khô cá và phẩm vật khác đem về chùa nấu lấy mà
chi độ. Khi tôi đến viếng th́ có chừng 130 tín nữ đang ngụ tại chùa
Donanasari Kudi, hôm sau lại được đi viếng chùa Thế Giới Ḥa B́nh là chỗ
đang sửa soạn để kết tập Tam Tạng lần thứ 6 tại Kaba Aye.
Nói về sự thành lập xă hội Phật giáo Miến Điện.
Không ở đâu hơn xứ Miến Điện được kết quả tốt đẹp về sự thành lập một xă
hội căn cứ vào Phật giáo. Mỗi người nào lần đầu tiên đến viếng xứ Miến,
đi bằng đường hàng không hoặc đường thủy chẳng hạn sẽ có cảm giác là
thường v́ thấy những phong cảnh tô điểm với những kiểu tháp đầu nhọn
khác nhau, sơn trắng hoặc thếp vàng lố nhố trong những rặng cây. Nếu du
khách khi tới Rangoon sẽ thấy sự xa xăm, sự chói sáng dưới ánh thái
dương của bảo tháp Shrewdagoon (tháp thờ tóc 8 sợi tóc của Đức Phật) ở
trên chót đồi và lố nhố những bảo tháp thếp vàng dọc theo bờ sông
Rangoon, những bảo tháp này chẳng những là một phong cảnh tuyệt vời của
xứ Miến mà cũng là một biểu hiệu về Phật giáo của đời người Miến. Trong
19 triệu dân có lối 16 triệu tín đồ Phật giáo.
Phật giáo dạy chung cho tất cả thế giới một phong hóa hay là một kỷ luật
hoàn toàn tốt đẹp là mỗi người Phật tử ít ra phải giữ ngũ giới hay là
thập giới. Tuy nhiên, trong một nước nào hay là một tôn giáo nào cũng có
kẻ tốt người xấu, cũng thế, người ta cũng thấy ít người không được tốt
của xứ Miến vậy. Dầu sao, xứ Miến cũng có thể nói là một xứ chịu ảnh
hưởng của Phật giáo từ nhiều thế kỷ đă qua, do nhờ phái Tăng già dắt dẫn.
Nhờ sự dắt dẫn của các nhà sư mà mỗi đứa trẻ đều được xuất gia sa di
hoặc tỳ khưu ít ra từ một tuần cho tới một năm. Những đứa bé ấy trước
kia đều được vào học trong các chùa địa phương, bắt đầu học chữ Miến và
những phép toán, văn chương đạo đức v.v…Các giáo sư đều là nhà sư dạy
không cho những trẻ em ấy, nhờ đó mà 56 phần trăm người Miến đều được
biết văn chương lỗi lạc. Một khi đứa trẻ đă vào xuất gia rồi th́ giao
phó cho ông thầy dạy dỗ và có thể tu luôn suốt đời hoặc sau một năm học
tập, muốn hoàn tục ra cũng được. Sau khi ra đời tánh t́nh cử chỉ cũng
chịu ít nhiều ảnh hưởng của ông thầy đă huấn luyện. Chư tăng chẳng những
phải thực hành về mặt đạo đức mà c̣n là một bực hướng dẫn về phần tinh
thần cho dân chúng nữa.
Trong mỗi làng không có chuyện chi quan trọng mà không cần đến sự hiểu
biết của chư tăng, v́ vậy mà các Ngài được dân sự Miến, dầu cho trong
làng thật nhỏ cũng sùng bái và dâng cúng vật thực hằng ngày. Nếu mỗi khi
có cuộc lễ chi th́ họ lại càng dâng cúng rất dồi dào, có cả 4 món vật
dụng là: y phục, vật thực, chỗ ở, thuốc men. Nếu có người nào tạo được
một bảo tháp hoặc một Tăng đường để được nhiều phước báu đặng mau đến
Niết-bàn, th́ đối với xă hội Miến, rất được nhiều danh dự hơn người giàu
có muôn hộ. Mỗi người Phật tử đều ḍm thấy những vật chung quanh là vô
thường, vô ngă, v́ vậy mà hiện nay dân Miến ít có người giàu có danh
tiếng v́ họ được hấp thụ một phần ảnh hưởng lớn lao của Phật giáo.
Trên lịch sử từ trước th́ người ta nhận biết rằng người Miến là một dân
tộc sống về nghề canh nông, cho tới ngày nay họ cũng rất thạnh vượng
trong nghề ấy. Đời giản dị trong nghề canh nông của họ lại nảy sanh ra
nhiều câu ca dao đă hơn 100 năm về trước như sau:
Ca
dao đời nhà nông (dịch):
Khi đă đến mùa mưa tầm tă,
Đôi vợ chồng ẵm cả đứa con.
Vai mang giỏ cũ đă ṃn,
Ḿnh mặc rách rưới đầu tṛn bịt khăn.
Đi
theo bờ ruộng lăng xăng,
Miệng ngậm ống điếu dài nhằn cả gang.
Kia ḱa cua ở trong hang,
Hoặc là ốc hến theo đàn lượm vô.
Rau lang rau dệu bắp ngô,
Đem về nấu với ớt khô mắm ṃi.
Với cơm đă chín xong rồi,
Dọn ra hủ hỉ xúm ngồi cùng ăn.
Đứa con quá lạnh run lên,
Vào ngồi ḷng mẹ lấy khăn trùm ḿnh.
Kia xong công việc gia đ́nh,
Cùng nhau bàn tính chương tŕnh ngày mai.
Bài ca dao trên đây để tỏ cuộc đời giản dị, mộc mạc của nhà nông sống
một cách thái b́nh vui thú. Tuy nhiên, họ cũng có một sự lo lắng là
thiếu nước mưa, nếu trời mưa dồi dào th́ mùa màng họ rất thạnh vượng.
Phụ nữ Miến rất cực nhọc vất vả về công việc ruộng nương gia đ́nh, họ
cũng giúp chồng cày, cấy, gặt, hái v.v… họ lại c̣n biết thêu dệt những
mền chăn để hỗ trợ gia đ́nh và làm ngapi (mắm) để chi dụng măn
năm. Phụ nữ Miến rất tự do và tỏ ra ḿnh không có hấp thụ theo văn minh
lố lăng của Âu châu, luôn luôn ăn mặc theo phong hóa nước nhà và theo kỷ
luật của Phật giáo. Họ không bị bắt buộc ǵ về sự kết hôn hay ly dị đều
do họ thỏa thuận, chớ không có liên quan ǵ đến Phật giáo, khi nào họ
thôi nhau th́ của cải được chia đồng, nếu chồng chết th́ phần đông họ
vẫn ở vậy và lo làm ăn như lúc chồng c̣n sống.
Phật tử người Miến vẫn khoan dung đại độ đối với tất cả những người có
tôn giáo khác, họ không chấp giai cấp và ḍng giống. Về mặt chính trị,
kỹ nghệ, thương măi và xă hội họ cũng đối đăi b́nh đẳng nhau cả, họ rất
trọng quyền lợi của nhau và ḷng tự ái của kẻ khác. Họ không khi nào có
tên riêng (Surnom) như đạo Gia-tô, tên họ lại không liên quan đến tên
của gia quyến, họ chỉ có một tên riêng biệt của mỗi người thôi.
Xứ
Miến phía nam giáp ranh với Ấn Độ, phía tây với Tàu, phía bắc với Thái
Lan, là xứ dẫy đầy những tháp và lọng, có nhiều sông rạch, ruộng lúa,
hột saphir và nhiều thứ rubis. Nhiều dân tộc khác cho xứ Miến là xứ phụ
nữ đáng yêu, ông Ptolemy một nhà địa dư học cho là một bán đảo vàng khắp
mọi nơi, nếu từ tháng 5 tới tháng 10 th́ toàn xứ trở nên xanh um với
thửa ruộng đă cấy xong, v́ lúa là một hầm vàng của xứ Miến, nên xứ Miến
không có ai nạn đói bao giờ. Miến Điện mở mang một xă hội đời sống và
tinh thần đều căn bản nơi Phật giáo. Hiện nay họ sống vẫn đầy đủ hạnh
phúc, có thể nói họ cười, giỡn, tranh đấu và chết cũng đồng trong một
lúc.
Trong trận chiến tranh thế giới thứ nh́, người ta chết hằng vạn, nhưng
không làm mất sự vui thú của họ một mảy may nào đó cũng nhờ tinh thần
Phật giáo, nên họ luôn luôn được vui cười, họ có thể tự hào rằng: Phật
giáo và cơm nước đem lại cho họ muôn vàn hạnh phúc.
Trong 5 hôm ở Rangoon tôi được ông U Ba Than và ông chưởng lư U Tchan
Htong hộ độ và mỗi bữa cho xe đến rước tôi đi chiêm bái mấy nơi Phật
tích. Đến ngày thứ 6 lúc 10 giờ rưỡi tối mới có chuyến máy bay qua
Calcutta.
TỪ RANGOON SANG CALCUTTA
Hôm ấy tôi từ giă Rangoon sang Calcutta lối 10 giờ rưỡi đêm.
Ban đêm biết trời ở trên hư không lạnh lắm, hăng máy bay có phát mền nỉ
cho hành khách đắp, v́ trời khuya gió lạnh phần th́ mệt mỏi quá nên tôi
ngủ quên măi đến 4 giờ sáng mới thức dậy và nghe c̣i báo hiệu cho biết
phi cơ sắp đáp xuống phi trường Calcutta. Bên trên nh́n xuống th́ toàn
là một vùng sáng trắng mênh mông lập ḷe của đèn điện trong tỉnh thành
xem rất ngoạn mục, đây là giờ phút im lặng nhứt tại một đô thị đông đảo
trong khi người người đang yên giấc.
Các hành khách mới đến phải tŕnh giấy thông hành và biên vào 4, 5 mảnh
giấy theo luật Chánh phủ Ấn Độ, xong việc phải qua pḥng y tế cho quan
thầy khám xét giấy chủng đậu và giấy tiêm thuốc ngừa dịch tả, rồi qua
pḥng thương chánh cho khám hành lư và khai rơ các vật dụng mang theo
ḿnh, nhứt là vàng bạc. Ở đây sở thương chánh xét rất gắt gao để đánh
thuế những món đồ ngoại quốc nhập cảng, v́ phi trường ở xa tỉnh thành
ngót 20 cây số nên hành khách phải chờ sáng ra mới có xe của hăng đưa về
Calcutta. Hội Đại Bồ Đề được tin trước có cho người đến rước nhưng máy
bay đến trễ nên phái đoàn đă trở về. Tôi hết sức lo âu, nhưng cũng may
hội ấy lại ở cùng một đường với sở hàng không nên khi xe chạy ngang
ngừng lại cho tôi xuống trước cửa chùa.
Theo luật Chánh phủ Ấn, người ngoại quốc chỉ được lưu măn, nên 3, 4 ngày
sau tôi phải rời khỏi Calcutta lúc 8 giờ sáng đặng qua Tích Lan, không
được đi chiêm bái mấy nơi động tâm. Đến 1 giờ trưa th́ máy bay đáp xuống
phi trường Madras, cách tỉnh thành 25 cây số, tôi được người rước về
nghỉ tại chi ngành hội Đại Bồ Đề ở đây, cũng đông không thua ǵ
Calcutta, dân số thành Madras có tới 6 triệu, phần nhiều là người Tamil,
c̣n ở Calcutta th́ lối 8 triệu thuộc về giống Bengali.
Sáng hôm sau mới có phi cơ bay qua đảo Tích Lan, tối được nhân viên hội
Đại Bồ Đề đưa vào một nhà hàng ăn điểm tâm. Tại đây, cách tŕnh bày nơi
pḥng ăn, sự tiếp khách và các thực phẩm, mỗi mỗi đều khác xứ ta, khi
khách ngồi xong th́ người bồi đến đặt trên bàn một miếng lá chuối rồi
sớt cơm và đồ ăn mỗi món chừng vài muỗng, ai nấy đều ăn theo lối cổ điển,
nghĩa là dùng tay trộn cơm và các món ăn lộn chung nhau rồi bóc từng
nhúm đút vào miệng nhai ngỗm ngoăm. Ăn xong người khách liếm cả tay rồi
mới đi rửa sau, tôi rất bỡ ngỡ v́ không quen, nhưng cũng phải ăn theo
cách b́nh dân ấy đặng ra phi trường cho kịp giờ.
Tới 11 giờ rưỡi trưa máy bay mới cất cánh rời khỏi địa phận Ấn Độ, bay
ngang qua Ấn Độ Dương để sang Tích Lan. Một giờ rưỡi sau phi cơ đáp
xuống phi trường Jeffna, ở đây sự khám xét giấy tờ và hành lư c̣n gắt
hơn ở Ấn Độ để đánh thuế các hàng hóa nhập cảng, hành khách phải đến bác
sĩ khám bịnh 3 lần, ai được phép lưu trú lâu (entered visa) đều
bị thâu giấy thông hành và nhận giấy tạm 1 tuần rồi sau sẽ đến sở Tân
đáo xin nhứt định thời hạn cư ngụ trong xứ. Từ Jeffna tôi phải lên một
chiếc phi cơ khác đi Colombo, thủ đô của xứ Tích Lan. Trên không ḍm
xuống th́ toàn là rừng núi xanh um và đầy dẫy những vườn dừa sum suê bao
la phủ tất cả xóm làng thành thị, phong cảnh Tích Lan cực đẹp khiến
người trong nước tự hào rằng đó là cơi thiên đàng.
Phi cơ vừa đáp xuống th́ có bác sĩ Jayavikrama thay mặt ông Malalasekara
đến rước tôi về Chùa Vajirāma an nghỉ, chùa này lớn đứng vào bực nhứt ở
Colombo thuộc về phái Amarapura Nikaya, có cả thư viện cho người tới xem
Kinh hoặc các tạp chí về Phật học.
Tôi quyết sang Tích Lan để nghiên cứu và học hỏi thêm về PGNT, nhưng
chùa này không có trường học, nên 4, 5 hôm sau lại sang ngụ tại chùa
Dhammaduta Vidyalaya ở Dematagoda cách xa đó chừng 6 cây số, nhằm lúc
gần nhập hạ. Tại đây có học đường và luôn cả giáo sư về anh văn nên rất
tiện, trường Phật học này có dạy 6 thứ tiếng: Pāli, Tamil, Sanscrit,
Hindi, Singalese và Anh ngữ cho nhà sư dễ bề khảo cứu và đi truyền đạo
khắp nơi. Vị Sư trưởng tên là Vajirañāna là một tiến sĩ khoa triết học
tại Luân Đôn rất cao hạ, kiêm luôn chức giám đốc các Phật học đường
trong xứ Tích Lan nên được nhiều người sùng bái, yêu v́.
LỊCH SỬ PHẬT GIÁO TÍCH LAN
Tích Lan là một nước vừa được độc lập, dân số chừng 8 triệu người gồm
lại có nhiều sắc: Tamil, Anh, Ấn, Ḥa Lan, Sihala v.v… Kinh thành
Colombo cũng khá to, được xây dọc theo bờ biển dài lối 20 cây số nên khí
hậu rất mát mẻ.
Phật giáo Tích Lan chia ra 3 phái: phái Siam Nikaya lâu đời nhứt từ nước
Xiêm-la truyền sang trên 200 năm và chư tăng đông hơn hết có trên 15
ngàn vị, phái này có bổn phận ǵn giữ và phụng thờ răng nhọn của Đức
Phật tại tỉnh Kandy; phái Ramañña Nikaya từ Miến Điện truyền sang cách
đây 150 năm và có chừng 3 ngàn vị sư; phái Amarapura Nikaya cũng từ Miến
Điện truyền sang và cũng lâu như phái Ramañña Nikaya, số tăng có chừng 2
ngàn vị. Tổng cộng lại xứ Tích Lan có lối 20 ngàn chư tăng đều thuộc về
Phật giáo Nam Tông, có nhiều vị sư xuất thân từ các trường cao đẳng hoặc
trung học thông suốt 6 thứ tiếng nói trên. Về tôn chỉ th́ 3 phái ấy đều
giống nhau, nhưng sự thực hành có khác nhau đôi chút, như tỳ khưu, sa di
trong phái Siam Nikaya th́ cạo lông mi, c̣n hai phái kia th́ để tự nhiên.
Phái Ramañña th́ không dùng dù mà chỉ lấy lá buôn x̣e lớn ra như cây
quạt để che nắng, c̣n phái Amarapura th́ đi đầu trần, phái sau này thực
hành Kinh Luật đúng đắn hơn mấy phái khác, Đại đức Narada cũng thuộc về
phái ấy.
Chùa chiền.
Tại Colombo có ngôi chùa tên là A Dục tự (Asokārāma) kiến trúc cực kỳ
xinh đẹp, tốn hơn 1 triệu rupies, bên trong lót toàn bằng đá cẩm thạch,
có kim thân của 28 vị Phật tổ quá khứ và h́nh các Chư Thiên, Phạm Thiên,
đục nổi trên mặt tường trông rất mỹ thuật.
Theo cổ truyền sau khi Phật tịch diệt được 218 năm, vua A Dục có cho hai
người con là đức Mahinda và công nương Sanghamitta đem Phật giáo qua
truyền bá trong đảo Tích Lan. Từ Ấn Độ hai vị ấy có mang theo một nhánh
cây Bồ đề được trồng lần đầu tiên tại Anuradhapura mà hiện nay vẫn c̣n
tàng lá sum suê. Về các ngọc Xá lợi th́ được chia sớt trong khắp xứ Tích
Lan cho dân chúng tạo bảo tháp thờ phụng, hiện nay c̣n có nhiều bảo tháp
ấy, có cái bị sụp đổ v́ lâu đời, có cái được tu bổ nên c̣n nguyên vẹn.
Tại tỉnh Anuradhapura có tháp Maha Cetiya cao đến 60 thước tây, chu vi
chừng 300 thước được vô số người tới chiêm bái ngày đêm không ngớt,
nhiều nhứt là mấy hôm rằm hoặc 30.
Tại Seruvela thuộc tỉnh Tricomale có một bảo tháp thờ xương trán Đức Thế
Tôn rất nguy nga đồ sộ.
Tại Mahintale cũng có nhiều bảo tháp và trái núi mà trước kia đức
Mahinda đă bay đến phóng hào quang ra sáng ḷa trong xứ, cái động đá của
Ngài ngự tham thiền hiện nay vẫn c̣n.
Trong tỉnh Hatton có trái núi Siri Pada cao hơn 2.000 thước, sử truyền
rằng khi Đức Phật Thích Ca bay qua Tích Lan lần thứ nh́, Ngài có để lại
trên chót núi ấy một cái dấu chơn mà hiện nay người bổn xứ hay tới chiêm
bái, núi này cao nhứt trong đảo Tích Lan. Lúc Đức Phật qua Tích Lan đầu
tiên tại xứ Mahinyangama có cho đức vua mấy sợi tóc để tạo tháp phụng
thờ, bây giờ tháp ấy đă hư sụp và chính phủ Tích Lan đang định tu bổ lại.
Cách tỉnh thành Kandy độ 15 cây số có trái núi Aloka Vihara rất đẹp đẽ
và là chỗ Đại đức Buddhagosā đă hội tất cả chư tăng trong đảo Tích Lan
để kết tập Tam Tạng lần thứ tư theo yêu cầu của vua Devanampa Tissa,
chính trong kỳ này Kinh Luật Pāli được chép ra bằng chữ Tích Lan lần thứ
nhứt sau khi Phật nhập diệt hơn 900 năm. Tại Kandy ở giữa xứ Tích Lan có
đền thờ răng nhọn của Đức Phật tổ, đền thờ ấy trước kia là một đền vua
được dâng vào Tam bảo sau lúc ngài thăng hà. Mỗi năm tới tháng 7 th́ có
cử hành cuộc lễ Perahara, kiệu răng nhọn ra khỏi đền cho người chiêm bái.
Cuộc lễ vô cùng long trọng có cả 60 thớt voi mang đồ trang sức quư giá,
sau mỗi cặp voi có 10 người đánh trống, thổi kèn và cầm đuốc đi theo,
con tượng sau cùng mang một cái bành đặc biệt hơn các con khác, trên
bành có để tháp đựng răng nhọn. Cuộc lễ dàn ra hơn một cây số rưỡi, hàng
vạn người từ các nơi hội đến nghinh lễ, mỗi người đều cầm hoa đi theo
hàng ngũ một cách cung kính.
Đền thờ Xá lợi.
Đền này ở trong đền thành vua trước kia, cất làm hai tầng. Tầng trên là
chỗ thờ Xá lợi, mỗi ngày chia ra làm 4 thời cho dân chúng vào chiêm bái
bảo tháp chớ không được xem Xá lợi, v́ phải có nhiều ch́a khóa mới mở
tới bên trong. Sớm mai từ 5 tới 6 giờ, trưa từ 10 tới 11 giờ, chiều từ 2
tới 3 giờ và tối từ 7 tới 8 giờ. Người đi lễ mang theo bông hoa khi vào
trước điện th́ quỳ xuống dâng bông cho vị thượng tọa rồi đảnh lễ lui ra
một phía nhường chỗ cho vô số người khác vào chiêm bái, trong lúc hành
lễ đều có kèn trống giúp thêm vẻ trang nghiêm long trọng.
Đức Xá lợi được giữ rất cẩn thận và cơ hội để cho người xem không có
nhứt định trước, trong một hoặc hai năm không chừng, chỉ khi nào có các
thương khách ngoại quốc hoặc do lời yêu cầu của quần chúng th́ mới có
lịnh mở tháp cho xem. Tin khai tháp được loan trên mặt báo 3 ngày trước,
rồi mỗi ngày Xá lợi được thỉnh ra giữa giảng đường cho người xem. Phải
có 90 cái ch́a khóa do nhiều vị Đại đức giữ, khi hội đủ các ngài mới có
thể mở tới Xá lợi để trong nhiều ngăn nắp rất kiên cố. Đầu tiên phải mở
3 ṿng cửa mới tới chỗ để tháp Xá lợi, tháp cao độ 1 thước rưỡi Tây an
vị trong cái cũi bằng đồng. Muốn mở cũi phải cần đến 2 cái ch́a khóa
thật to do 2 vị bác sĩ cất giữ, kế đó một vị thượng tọa đem lại một cái
ch́a khác đặng mở nắp tháp. Tháp làm bằng đồng pha vàng màu lóng lánh vô
cùng đẹp đẽ, bên trong có vô số bửu vật do tín đồ thập phương cúng dường
Xá lợi. Xong lại có hai vị thượng tọa khác đem ch́a đến mở thêm hai ngăn
tháp nữa cũng chứa đầy ngọc ngà châu báu, sau rốt một vị thượng tọa khác
đến mở nắp tháp cuối cùng mới tới đức Xá lợi. Răng nhọn dài độ ba phân
rưỡi hoặc bốn phân tây hơi cong một chút, to bằng cỡ ngón tay út màu
lóng lánh như vàng hoặc như ngà voi đă lên nước, v́ tôi là nhà sư ngoại
quốc nên được hân hạnh đứng gần xem rơ.
Khi mở ngăn tháp sau cùng th́ chư tăng và những người có phận sự đều
đứng cung kính yên lặng chiêm ngưỡng về ấn đức của Phật, công chúng
không được đến gần. Xong việc vị thượng tọa cao hạ nhứt mới thỉnh Xá lợi
để qua một tháp nhỏ lộng kiếng rồi mới để ra giữa giảng đường cho ai nấy
cùng xem, mỗi lần xem có hàng vạn người nên Chánh phủ phải phái cảnh sát
đến giữ trật tự. Mỗi nhóm người vào chiêm bái chỉ được vài phút rồi phải
lui ra nhường chỗ cho nhóm khác, nhiều lúc hết giờ mà người xem c̣n sót
lại rất đông nên phải hoăn lại 4, 5 hôm đặng làm vừa ḷng hàng tứ chúng.
Cách tỉnh thành Kandy chừng hai cây số có một tịnh thất của hai nhà sư
người Đức ở tu pháp thiền định. Một ngài lấy danh hiệu là Ñānnatiloka tu
đă lâu năm và có nhiều thanh danh trên thế giới, nhiều tác phẩm về Phật
giáo Nam Tông do ngài soạn ra bằng tiếng Đức và được phiên dịch ra tiếng
Anh và Pháp.
Tại Dodanduvva thuộc tỉnh Galles, Đại đức Ñānnatiloka có sáng tạo một
chỗ tham thiền trên cù lao rất thanh tịnh dành riêng cho các nhà sư
ngoại quốc đến hành đạo, hiện đă có một vị người Ḥa Lan, một vị người
Tiệp Khắc và một vị người Anh.
Đi ṿng quanh Tích Lan.
Lúc nghỉ học và nhân dịp có phái đoàn chư tăng đi chiêm bái các nơi Phật
tích trong toàn xứ Tích Lan, tôi cũng xin nhập đoàn đặng đi xem xét khảo
cứu tường tận những cổ tích. Cuộc hành tŕnh phải cần lối 20 ngày và tốn
phí ngót 100 rupies (chừng 500 đồng bạc ta).
Theo phong tục người bổn xứ sự đi chiêm bái các thánh địa đem lại rất
nhiều hạnh phúc, v́ đó hễ lúc nào đường giao thông thuận tiện th́ họ họp
lại từng đoàn mướn xe, sắp đặt vật thực, lũ lượt kéo nhau lên đường. Đi
tới chỗ nào có suối nước bóng cây th́ họ mới dừng lại nấu nướng ăn uống
rồi tiếp tục đi nữa cho tới khi viếng đủ các nơi Phật tích.
CHIÊM BÁI MẤY CHỖ
ĐỘNG TÂM
VÀ ĐI V̉NG QUANH ẤN ĐỘ
Vào tháng 11 sau khi ra hạ, hội Đại Bồ Đề Tích Lan có tổ chức cuộc đi
ṿng quanh Ấn Độ để chiêm bái mấy chỗ động tâm, cuộc hành tŕnh kéo dài
hơn một tháng rưỡi tổn phí hết 800 rupies (chừng 4.000$ đông dương), nếu
đi riêng một ḿnh th́ sở tổn phải lên gấp hai.
Tất cả phái đoàn gồm lại 29 người, có 6 vị sư kể luôn tôi do ông
Karunaratna là đại biểu của hội làm hướng đạo, đó cũng là một dịp may
cho tôi v́ được người giải thích rành rẽ mỗi khi tới chỗ nào có thánh
tích.
Phái đoàn khởi hành nhằm ngày 1 tháng 11 – 1952 DL, một hôm trước chúng
tôi được hội Đại Bồ Đề mời tới xem chớp bóng mấy chỗ sắp đi viếng, có
ông Karunaratna giải thích rành rẽ, xong việc lại có thỉnh chư tăng đến
tụng kinh cầu an cho phái đoàn đi đường dễ dàng.
Đúng 7 giờ tối, tàu hỏa rời khỏi nhà ga Colombo chạy đi Talamana thuộc
miền ranh giới Tích Lan để chuyển sang tàu thủy vượt biển qua xứ Ấn Độ,
tỉnh thành ở xứ Colombo chừng 340 cây số ngàn. Phái đoàn nhờ mướn luôn
một toa xe hạng nh́ nên cuộc hành tŕnh khỏi chật vật, mỗi toa đều có
giường cho hành khách đi đường xa nghỉ đêm, ngoài tiếng động cơ ph́
phịch, tiếng cọ xát giữa bánh xe và đường sắt, thỉnh thoảng một tiếng
hét của c̣i báo hiệu làm cho hành khách giật ḿnh, bên ngoài là một cảnh
trời tinh khiết êm đềm, muôn sao lấp lánh, khiến cho người lữ khách
nhiều thú vị thần tiên trong đêm tối ở xứ Tích Lan.
Con rắn sắt khổng lồ băng đồng lướt bụi, uốn éo theo những khúc quanh,
măi gần sáng mới tới Talamana. Đúng 6 giờ sáng hành khách mới được xuống
xe để sang qua tàu thủy sau khi sở thương chánh và cảnh sát khám xét
xong. Tàu chạy ngót hai tiếng rưỡi đồng hồ mới tới Dhamuskodi, một hải
cảng địa đầu của Ấn Độ. Phái đoàn phải dừng lại để tới 12 giờ trưa mới
lo xong giấy tờ rồi lên xe lửa sang thành Madras, cách xa chừng 800 cây
số, tàu hỏa phải chạy suốt một ngày một đêm cho tới 9 giờ sáng hôm sau
mới đỗ vào ga Madras.
Thành Madras được xây dọc theo bờ biển dài ngót 40 cây số, dân cư trên 6
triệu, phần đông là người Tamil, ở đây phụ nữ thường xỏ lỗ mũi một bên,
hai bên hoặc ngay chính giữa để đeo dây vàng tḥng xuống tới môi, c̣n
phần đông đàn ông đều đeo bông. Chúng tôi được đưa vào nghỉ trong các
gian pḥng của hội Đại Bồ Đề Madras xa ga xe lửa chừng 200 thước, phái
đoàn được đưa đi xem nhiều vật quí vô giá trong viện cổ tang và các thú
lạ tại vườn bách thú.
Cách đây độ 15 cây số là vườn Adyar trụ sở của hội Thông thiên học,
trong vườn có một thư viện chứa nhiều tác phẩm và kinh sách cổ điển lâu
trên ngàn năm. Một bảo tháp rất đẹp được dựng lên tại đây để thờ Đức
Phật. Nhờ ở gần mé biển nên có một khí hậu rất mát mẻ, dân sự theo đạo
Gia-tô rất đông,
nên có nhiều đền thờ nguy nga đồ sộ, trái lại chẳng thấy có một cái chùa
Phật nào, trừ ra hội Đại Bồ Đề.
Vào lúc 7 giờ tối hôm 4-11-1952, phái đoàn lại ra ga đi Calcutta, cách
xa ngót 1.700 cây số, xe lửa phải chạy hết hai ngày đêm và tới nơi lúc
12 giờ trưa. Hội Đại Bồ Đề có phái Đại đức Jinaratna đến rước chúng tôi
về an nghỉ, đây là hội ngành của hội Đại Bồ Đề trên toàn xứ Ấn Độ cất
làm ba tầng có nhiều pḥng cho khách nghỉ tạm. Phía trước nhà hội có một
ngôi chùa hai tầng, tầng trên thờ Phật, tầng dưới là giảng đường, trước
chùa có một cái hồ rộng độ 80 thước vuông để người ra tắm gội khi trời
nóng. Tỉnh thành Calcutta vô cùng rộng lớn, dài trên 60 cây số và rộng
40 cây, nằm dọc theo bờ biển Bengale khí hậu rất nóng, dân cư gần 8
triệu phần đông là người Bengali. Cách chùa độ 3 cây số có một cái đài
kỷ niệm nữ hoàng Victorya cất toàn bằng đá cẩm thạch trắng trên một khu
đất chừng hai cây số vuông. Cũng cách chùa chừng một cây số về phía đông
có một cái đền thờ lộng lẫy của nhóm tu Lơa Thể (Jainisme).
Lúc 7 giờ tối 7-11-1952 có ông D.Valisinha tổng thư kư hội Đại Bồ Đề tới
khai Xá lợi của hai vị đại A-la-hán Mục Kiền Liên và Xá lợi Phất cho
chúng tôi xem và chiêm ngưỡng tại chùa Siridhamma, trong chùa có chừng
6, 7 vị sư ở hoằng pháp tại xứ Ấn Độ: 1 vị người Ấn trước kia là một
tiến sĩ luật xuất gia, 1 vị người Anh cử nhân văn chương, 1 vị người
Népal, c̣n bao nhiêu đều là nhà sư Tích Lan.
Chiều hôm sau phái đoàn có dịp chứng kiến một cuộc lễ dâng Tam Tạng Pháp
Bảo và kim thân Phật vào chùa do hội Hymalayan của người Tây Tạng tổ
chức. Đây là một cơ hội cho tôi thấy tận tường phẩm cách và những nghi
lễ của các nhà sư Tây Tạng. Người họ hơi mập, mặc y phục bề bộn, bẩn
thỉu, mũi trẹt, mí mắt dày và híp lại mường tượng như người Tàu, Nhựt,
Mông cổ… nước da ngăm, cạo tóc nhưng để râu, đầu đội măo cao nhọn ở phía
trên có một chùm lông túa ra trông rất lạ mắt, có vị cầm kèn dài độ hai
thước tây phải có hai người đỡ lên, vị th́ ôm mơ, vị mang phèn la,
chiêng v.v… Khi kim thân được an vị xong, một sư trưởng lại dâng rượu
cúng Phật rồi đọc kinh bằng tiếng Tây Tạng trong lúc trống kèn nổi lên
vang rền giống như những cuộc hành lễ trong các chùa Việt Nam, mỗi nhà
sư đều giữ một phần âm nhạc mà họ cho là rất quan trọng. Than ôi! Cũng
v́ sự chia rẽ và hiểu sai Chánh pháp nên ngày nay trên toàn cơi Á Châu,
mỗi tông mỗi phái thật hành giáo lư của đức Bổn Sư theo thể thức riêng
của ḿnh, khiến có nhà khảo cứu Phật học người Âu thốt rằng: “Phật giáo!
Một kẻ khách quan khi nghe đến hai danh từ ấy không khỏi hoang mang ngờ
vực v́ những hành động và nghi lễ phức tạp của tín đồ chia ra nhiều tông
phái, không khác nào một đám rừng rậm có nhiều loại cây lẫn lộn rất khó
cho người t́m được ngơ ra vào”.
Đến 9 giờ tối 8-11-1952 th́ phái đoàn lại từ giă Calcutta để qua thành
Vương Xá (Radjagahs) thuộc miền Trung Ấn Độ cách xa chừng 450 cây
số. Tàu chạy suốt đêm măi tới 8 giờ sáng hôm sau mới tới ga Bukkatiapur,
từ đây phải sang qua xe lửa nhỏ chạy thêm 60 cây số nữa mới tới thành
Vương xá, thủ đô của vua Tần-Bà-Sa và A-Xà-Thế thuở trước, chúng tôi gặp
bên vệ đường vô số thánh tháp bằng gạch đă sụp đổ. Bây giờ người bổn xứ
không c̣n theo Phật giáo nữa mà hầu hết đều thuộc Ấn Độ giáo hoặc Hồi
giáo, chỉ có một ngôi chùa do người Miến Điện dựng lên để duy tŕ Phật
giáo tại đây. Lúc phái đoàn tới chùa th́ trời sắp tối nên đồng an nghỉ
đợi sáng ra mới đi viếng các nơi. Vị sư trụ tŕ tại đây là người Miến,
biết nói tiếng Anh rất vui vẻ. Ngài cho biết rằng tại đây không có tín
đồ Phật giáo, mà chỉ có trên 3.000 người mộ đạo từ phương xa đến viếng
hằng năm.
Sáng ra, sau khi điểm tâm xong, chúng tôi được đưa đi xem cảnh điêu tàn
của những đền đài vua A-Xà-Thế. Đây là một khu vực rộng răi bao la gồm
toàn những đống gạch đá hư đổ và chân tường trơ trọi đă trải qua biết
bao nhiêu cảnh tang thương, khi phồn thạnh lúc điêu vong do luật vô
thường chi phối. Đi thêm chừng nửa cây số th́ gặp một cái tháp toàn bằng
đá xanh do vua A-Xà-Thế dựng lên để thờ Xá lợi Đức Phật. Xa một đổi nữa
th́ tới chùa Trúc Lâm (Veluvan) của vua Tần-Bà-Sa dâng cho Tăng
hội thuở trước, nhưng hiện nay là một cánh đồng không mông quạnh ít
người lai văng. Đi một chặng nữa th́ tới suối Ôn Tuyền (Tapoda),
suối này do 10 cái mọi lớn bằng ống tre cho nước chảy ra nóng gần như
nước sôi, Chánh phủ có cho cất nhiều buồng tắm cho dân chúng tùy tiện.
Tôi cũng có vào tắm thấy trong ḿnh khỏe khoắn lạ thường, tục truyền
rằng suối này từ dưới đáy quả địa cầu chảy ngang qua địa ngục Đồng Sôi (Lohakambhi)
nên nước mới nóng như thế. Người bổn xứ tin rằng suối này có thể chữa
khỏi bịnh hoạn cho những ai xuống tắm, nên chi hằng buổi có cả trăm
người đến tắm khỏi tốn kém chi. Tắm xong chúng tôi lại trèo qua chót núi
Papphali Guhara là nơi mà Đại đức Ca-Diếp thường ngồi tham thiền khi
trước, lúc Đại đức Ca-Diếp lâm bịnh, Đức Thế Tôn có ngự đến đây thuyết
cho ngài nghe về bảy nhân sanh quả Bồ đề (Sattasambojjanga).
Trong động nh́n xuống thấy toàn là đồng ruộng mênh mông xanh tốt của xứ
Ma-Kiệt-Đà (Magodha), khiến cho tôi sực nhớ lại trước kia, lúc đi
ngang qua chỗ này Đức Phật có dạy cho tôn giả Ānanda nên cắt y theo h́nh
thửa ruộng ấy, gọi là phước điền y mà bây giờ các nhà sư Nguyên Thủy c̣n
mặc.
Bữa sau chúng tôi đi viếng núi Kicchakuta là nơi trước kia Đức Phật
thường ngự đến, dọc đường phái đoàn có ghé lại động Satta Panna Guha là
chỗ hội của 500 vị đại A-la-hán do Ngài Ca-Diếp chủ tọa sau khi Phật
Niết-bàn 100 ngày để kết tập Tam Tạng Pháp bảo lần thứ nhứt bằng khẩu
truyền. Đi một đoạn nữa chúng tôi gặp những chân tường bằng gạch đă sụp
đổ và được người cho biết rằng đó là ngục thất mà trước kia hoàng tử
A-Xà-Thế v́ nghe lời Đề-Bà-Đạt-Đa, nên đành giam hăm vua cha cho đến
chết để đoạt ngôi. Đi lần tới th́ gặp một cái bảo tháp thờ Xá lợi của
Đức Phật tổ do vua A-Xà-Thế sáng tạo. Lúc 218 năm sau vua A Dục cho đào
tháp đem Xá lợi ra rồi tạo thêm 84.000 thánh tháp khác cho dân chúng thờ
phụng. Cách đây một đổi là cảnh rừng hoang nằm dưới chơn núi Kicchakuta
mà trước kia là ngôi chùa Ajivakarama của vị đại thần Ajivaka dâng cho
Đức Thế Tôn. Từ đây chúng tôi phải khó nhọc trèo núi hơn hai cây số mới
tới chỗ Phật thường ngự hồi xưa, phía dưới có một cái động của đức
Ānanda để hầu Phật, phái đoàn lên tới nơi th́ trời vừa xế bóng, chúng
tôi đồng thành tâm đảnh lễ một ngôi tháp đă hư sập trên chót núi. Chỗ
này trước kia Đức Thế Tôn có ngự đến thuyết pháp về Anādādiya Sutta cho
bốn vị Tứ Đại Thiên Vương nghe, xong lại chúng tôi trèo xuống viếng động
của đức A-nan rồi vội vă trở về v́ trời sắp tối, mà chỗ này là một cảnh
hoang vu nguy hiểm, người người vừa đi vừa tụng kinh măi gần 9 giờ đêm
mới về tới nhà trọ.
Sáng bữa sau chúng tôi lại đi viếng học đường (Nalanda) ở cách
chùa hơn 10 cây số, phải đi tàu hỏa và lúc tới nơi mỗi người phải lấy
một cái vé giá 2 annas (chừng 6 cắc tiền ta) để vào cổng. Chỗ này khi
xưa nào là vô số tăng đường, trai đường nguy nga đồ sộ mà nay chỉ c̣n
lại những đống gạch đá vụn đă bị phong sương bao phủ trải qua một thời
gian dày dặn. Trên một khu vực rộng lớn toàn là những chân tường dày lối
8, 9 tấc tây, lúc trở về t́nh cờ chúng tôi gặp một vị tỳ khưu và một vị
sa di là người Anh nên dùng tiếng Anh để giao thiệp, nhưng thấy ông ta
bỡ ngỡ và nhờ một vị tỳ khưu cho biết rằng ông ấy là người Pháp tên
Adam, trước kia làm kỹ sư tại sở hàng không Paris hơn tám năm. V́ ông
nhận thức cuộc đời là khổ nên qua Ấn Độ xuất gia sa di hơn một tuần nay
và c̣n đang học hỏi kinh luật để thọ cụ túc giới theo luật tỳ khưu. Tôi
liền nói tiếng Pháp th́ ông hết sức mừng rỡ hỏi thăm về tôi, sau khi
biết tôi là người Việt Nam ông lại càng thỏa thích v́ tại đây ít khi gặp
được một người biết tiếng Pháp để tṛ chuyện, nhứt là bàn về Phật giáo,
c̣n vị tỳ khưu là một cử nhơn văn chương người Ấn xuất gia lấy pháp danh
là Kasyap.
Viếng bồ đề đạo tràng (Bodh Gaya)
Sáng hôm sau lúc 8 giờ phái đoàn lại từ giă thành Vương Xá để sang xứ
Uruvela cách xa 130 cây số chiêm bái Bồ Đề Đạo Tràng là nơi Đức Phật
Thích Ca đắc đạo, chúng tôi tới tỉnh Gaya rồi phải đi thêm 13 cây số nữa
mới tới nơi. Hội Đại Bồ Đề có xe hơi chực sẵn để rước chúng tôi về nhà
trọ ở cách Bodh Gaya chừng 150 thước, nhà trọ này do hội Đại Bồ Đề sáng
tạo coi rất rộng răi mỹ thuật có thể chứa được nhiều du khách. Gần bên
là một ngôi chùa Tây Tạng có 20 nhà sư Đại Thừa ở tu, tôi vào chùa thấy
vô số cốt Phật, thánh thần, trống kèn, chuông mơ bề bộn như các chùa ở
xứ ta, xa đó chừng 500 thước là một ngôi chùa Trung Huê với vài vị sư,
và cách xa 2 cây số nữa mới đến một ngôi chùa Nguyên Thủy do các người ở
Miến Điện ở để trông nom Bồ Đề tràng.
Nói về bốn chỗ động tâm th́ chỉ có Bồ Đề tràng là quan trọng hơn hết, v́
chính tại chỗ này Đức Thích Ca đă đắc quả Chánh đẳng Chánh giác và
thường thuyết về Tứ niệm xứ kinh (Sati Pathna Sutta), theo kinh
giảng th́ thuở trước tại xứ này phần đông đều hành theo pháp Tứ niệm xứ
nên khỏi bị sa đọa và được sanh về cơi trời sau khi thác. Nhưng hiện nay
trái hẳn hầu hết người bổn xứ đều theo Hồi giáo hay Ấn Độ giáo, họ chặt
cây bồ đề và đốt gốc rễ hết ba lần cốt ư làm tiêu diệt di tích của Phật
giáo, tuy nhiên cây vẫn mọc như thường và bây giờ lớn khoảng hai ôm. Hơn
nữa, họ tàn phá luôn cả một cái bảo tháp cao gần 50 thước do vua A Dục
dựng lên hồi xưa và thỉnh thoảng lại tàn sát, đánh đập chư tăng ngoại
quốc đến ở tu gần đó. Cách đây chừng mấy chục năm có 4 nhà sư Tích Lan
đến ngụ trong một kiểng chùa gần đó, bị bọn Hồi giáo tuôn vào giết hết
hai, ba vị, c̣n một vị bị trọng thương trốn thoát. Bồ Đề tràng là một di
tích tinh thần cao cả của đấng Cha lành mà chẳng có một người Ấn Độ nào
để ư tới.
Than ôi! Đă ngót 2.500 năm qua, xứ Ấn Độ bị thời gian thay đổi màu sắc
nhiều lần, người trong xứ v́ thời cuộc và hoàn cảnh nên phải chịu ảnh
hưởng của ngoại đạo không nhỏ. Khởi đầu là một sự cưỡng bách tinh thần
do bọn chinh phục đem vào, nhưng lần lần thành thói quen, các con cháu
hiện nay đều giữ đạo của tổ tiên thuở trước như: Hồi giáo, Bà-la-môn
giáo, Gia-tô giáo v.v… Rốt cuộc Phật giáo trên đất Ấn phải điêu vong,
một phần lớn do sự tàn sát phá hoại của bọn xâm lăng Hồi giáo từ miền
Trung Đông kéo sang từ lối thế kỷ thứ VIII sau Phật Niết-bàn. Hơn nữa,
những kiểu mẫu chùa chiền và tổ chức Tăng già theo qui củ khiến cho giặc
dễ nhận biết mà tàn sát phá hoại. C̣n phái Bà-la-môn th́ sống rời rạc
không tổ chức nên dễ trà trộn với thường dân đặng lánh nạn. Trạng thái
vô thường của đạo Phật trên đất Ấn hiện nay không khác ǵ t́nh cảnh đạo
Gia-tô, hội thánh căn bản th́ ở tại thành Rome nhưng các thánh tích về
đức Christ lại c̣n ở Jérusalem thuộc xứ Palestine giữa các quốc độ theo
Hồi giáo. Có một điều khác nhau là các tín đồ nhà Phật không hề dùng vơ
lực để đoạt lại những thánh tích của Đức Thế Tôn, c̣n nhóm Gia-tô Âu
châu trong những thế kỷXIII, XIV, XV đă bao lần đem binh sang Palestine
công phạt bọn Hồi giáo và Do Thái để đoạt các di tích của đức Christ,
nhưng các cuộc viễn chinh đều thất bại và hao hơn 20 triệu sinh linh.
Cách đây độ 60 năm ông Dhammapala người Tích Lan tới chiêm bái Bồ Đề
tràng phát tâm cảm động v́ cảnh điêu vong của Phật giáo nên cố gắng sáng
lập ra hội Đại Bồ Đề. Ông đă gặp biết bao trở ngại và phải nhờ tới sự
can thiệp của Chánh phủ măi tới ngày 28 Mai 1953 mới được thu hồi Bồ Đề
tràng về cho các Phật tử thế giới và giao phó cho hội Đại Bồ Đề trông
giữ.
Xa
Đại Bồ Đề tràng chừng 200 thước th́ tới sông Ni Liên (Nerañjara)
nơi Đức Bồ tát xuống tắm trước khi thành đạo, trước kia nước dưới sông
luôn luôn lưu thông tràn tới bờ vừa cho con quạ đậu trên đất chúi mỏ
xuống uống được, nhưng hiện nay là một băi cát trắng phau với vài ḍng
nước sâu tới đầu gối. Thật ra, luật vô thường đă làm cho biển cạn non
ṃn đến thế. Tôi cùng ít người trong phái đoàn lội qua sông rộng độ một
cây số rưỡi, chỗ th́ sâu, chỗ th́ cạn, chỗ là băi cát trồi lên, mới qua
tới xóm của nàng Sujata đă dâng cơm trộn sữa dê cho đức Bồ tát trước khi
thành đạo. Trước kia xóm này rất phồn thạnh nhưng nay chỉ c̣n có một trụ
đá trơ trọi để làm dấu tích, lúc trở về v́ trời nóng tôi liền thay y ra
tắm thấy trong người khỏe khoắn lạ thường.
Chung quanh Bồ Đề tràng có nhiều tháp nhỏ thờ các vị đại A-la-hán, trước
cội Bồ đề có một cái bảo tọa bằng đá chạm trổ khéo léo bề dài độ 2 thước
rưỡi tây, bề ngang 1m50 do vua A Dục tạo ra để kỉ niệm nơi đức Thích Ca
tĩnh tọa. C̣n cái bảo tọa đầu tiên mà đức Chánh Biến Tri ngồi đắc đạo
th́ nay đă ch́m sâu dưới quả địa cầu.
Mỗi đêm tôi đều ra một nơi thanh vắng gần đó để niệm kinh và cầu nguyện
sự an vui cho tất cả chúng sanh, nhứt là các thiện tín có tâm trong sạch
hộ độ tôi được đến chốn này. V́ gần tới tháng 11 nên tiết trời lạnh thấu
xương, với bộ tam y mỏng manh tôi cũng ráng chống chọi với phong sương
để làm tṛn bổn phận.
Bỗng đâu tôi nhớ lại những lời đầu tiên của Đức Chánh Biến Tri khi vừa
thành đạo như vầy: “Anekajāti saṃsāraṃ, sandhavissaṃ anibbissaṃ,
gahakāraṃ gavesanto, dukkhā jāti punappunaṃ. Gahakāraka ditthosi, puna
gehaṃ na kāhasi, sabbe te phāsukā bhaggā, gahakūtaṃ visaṅkhataṃ,
visaṅkhāragataṃ cittaṃ, tanhānaṃ khayamajjhagāti”. Nghĩa: “Khi Như
Lai chưa thành bực Đại giác và đang t́m thợ cất nhà là cái tâm ái dục mà
chưa gặp đặng, th́ Như Lai phải chịu sanh tử luân hồi khổ năo trong vô
số kiếp. Này anh thợ cất nhà, nhưng bây giờ Như Lai bắt được người rồi.
Người không sao dựng lại cái nhà ngũ uẩn của Như Lai được nữa. V́ sườn
nhà là phiền năo ta đă bẻ găy, cái nóc là vô minh ta cũng phá tan, Như
Lai đă đắc pháp ‘Vô vi Niết-bàn’.
Viếng vườn Lộc Giả.
Sáng hôm 15-11-1952 vào lúc 12 giờ trưa phái đoàn từ giă Bodhi Gaya để
sang vườn Lộc Giả (Isipatana Miggadāyavana) thuộc xứ Bénarès cách
xa chừng 220 cây số là nơi Đức Phật thuyết pháp lần đầu tiên cho năm
thầy Kiều Trần Như nghe, vườn Lộc Giả bây giờ lấy tên mới là Sarnath ở
cách thành Bénarès chừng 8 cây số, tại đây có một ngôi chùa làm toàn
bằng đá cẩm thạch. C̣n có một ṭa lầu hai tầng gồm lại có 64 cái pḥng
có cả dưỡng đường và đại học đường do vua thương măi Birla cất cho Phật
tử thập phương đến ngụ để học tập hoặc chiêm bái thánh tích. Gần đó có
một bảo tháp cao độ 40 thước, châu vi 100 thước do vua A Dục dựng lên kỷ
niệm nơi Đức Thế Tôn quay bánh xe pháp lần thứ nhứt và vô số Tăng đường
đă sụp đổ.
Sử
chép rằng một hôm nọ bọn Hồi giáo v́ ganh ghét sự phồn thạnh của đạo
Phật nên cùng nhau âm mưu bao vây Tăng đường tàn sát hàng ngàn vị sư
trong lúc các ngài đang thọ thực, chỉ có một số ít trốn khỏi. Ngoài ra,
chúng lại tiêu hủy các tịnh thất, trai đường và đập vỡ những kim thân
Phật, cái th́ găy cổ, sứt tay, bể mũi, găy chân, mà hiện nay Chánh phủ
Ấn cho sở khảo cổ đem vào chưng trong bảo tàng viện rất lớn được cất gần
nơi đó.
Lúc viếng vườn Lộc Giả. Tôi có nhớ bài Phật ngôn như vầy:
“Evamme suttaṃ ekaṃ samayaṃ bhagavā bārānasīyaṃ viharati Isipatane
Migadāye tatra kho Bhagavā pañca vaggiye bhikkhū amantesi. Dve me
bhikkhave anta pabbajītena na sevitabbā katame dve? Yo cāyaṃ kāmesu
kāmasukhallikānuyoko hīno gamo pothujjaniko anariyo anatthasañhito yo
cāyaṃ attakilamathānuyogo dukkho anariy anatthasañhito. Ete te kho
bhikkhave ubho ante anupagamma majjhimā patipadā tathagatena
abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñānakaranī upasamāya abhiññāya saṃbodhāya
nibbānāya saṃvattati. Katamā ca sā bikkhave majjhimā patipadā
tathāgatena abhisaṃbuddhā cakkhukaraṇῑ ñānakaraṇῑ upasamāya abhiññāya
saṃbodhāya nibbānāya saṃvattati? Ayameva ariyo aṭṭhaṅgiko maggo,
seyyathῑdaṃ? Sammādiṭṭhi, sammāsaṅkappo, sammāvācā sammākammanto,
sammāājῑvo, sammāvāyāmo, sammāsati, sammāsamādhi. Ayaṃ kho sā bhikkhave
majjhimā patipadā tathagatena abhisambuddhā cakkhukaraṇī ñānakaranī
upasamāya abhiññāya saṃbodhāya nibbānāya.
Nghĩa: Ta là Ānanda đă nghe như vầy: “Một thuở nọ đức Thế Tôn ngự tại
vườn Lộc Giả thuộc xứ Baranasῑ. Lúc ấy Ngài kêu năm anh em Kiều Trần Như
mà thuyết rằng: này các thầy tỳ khưu, có hai điều thái quá mà bậc xuất
gia cần phải xa lánh. Hai điều ấy như thế nào? Một là đời sống luông
tuồng theo ngũ dục, say mê trong ngũ dục, thật xấu xa thô bỉ thấp hèn vô
ích. Hai là tư cách theo khổ hạnh, hành hạ xác thân cho kiệt quệ, không
thanh cao mà cũng chẳng bổ ích vào đâu. Này các tỳ khưu Như Lai đă t́m
ra con đường trung đạo, không dùn quá hay thẳng quá theo hai cách ấy.
Nhờ hành theo con đường giữa mà Như Lai đă phát sanh trí tuệ diệt trừ
phiền năo thống khổ làm cho thân tâm trở nên thanh tịnh. Mà con đường
trung đạo ấy là như thế nào? Chính là Đạo bát chánh: chánh kiến, chánh
tư duy, chánh ngữ, chánh nghiệp, chánh mạng, chánh tinh tấn, chánh niệm,
chánh định. Này các tỳ khưu, nhờ hành theo con đường giữa ấy mà Như Lai
phát sanh trí tuệ, thấu rơ ba tướng của vạn vật làm cho thân tâm yên
lặng, đắc pháp thần thông, diệt trừ phiền năo thống khổ”.
Đi
xa độ một cây số, cổ tháp xây toàn bằng gạch để kỷ niệm chỗ Đức Phật gặp
năm ông Kiều Trần Như lần đầu tiên. Tại đây nơi nhà trọ của hội Đại Bồ
Đề có hai vị sư Tích Lan ở để duy tŕ Phật giáo. Chiêm bái xong, chúng
tôi lại trở ra viếng thành Bénarès nằm dựa bờ sông Hằng Hà. Thành này
rất lâu đời và có một lịch sử vĩ đại nhứt về tôn giáo trong xứ Ấn Độ.
Đây là nơi tự cổ chí kim đă nảy ra vô số đạo giáo như: đạo Lơa thể, Khổ
hạnh, Đa thần giáo và nhiều tông phái của Bà-la-môn giáo. C̣n đạo Phật
th́ chỉ thạnh hành trong khi đức Như Lai giáng thế và phải suy vong sau
khi một thời gian Ngài nhập diệt. Hiện nay, mỗi khi người khách để chơn
vào xứ th́ có cảm giác rằng ḿnh đang ở giữa bầu không khí huyền bí lạ
lùng.
Về
sông Hằng Hà, trong kinh giải rằng bề dài của nó tới 500 do tuần (mỗi do
tuần chừng 16 cây số ngàn), bề ngang 1 do tuần và bề sâu cũng 1 do tuần.
Người Ấn rất tin vào sự huyền bí của sông ấy. Bây giờ sông đă cạn và hẹp
nhỏ lại, nhưng dân sự vẫn tấp nập xuống tắm để rửa tội rất đông. Trên bờ
lúc nào cũng có cả trăm cả ngàn người chực sẵn thay phiên nhau xuống tắm
và có bán đủ thứ nhang đèn lễ vật dùng vào việc tế rửa tội. Người chết
mà xác được rửa nước sông Hằng th́ sẽ được nhiều phước lành. Thật hết
sức dị đoan huyền bí làm cho con người hoang mang điên đảo không nhỏ.
Nhưng cái đó chẳng riêng ǵ xứ Ấn Độ. Sự tin tưởng vô căn cứ ấy vẫn lan
tràn khắp vũ trụ. Mà hễ tà đạo tấn triển th́ nhân loại càng thêm thống
khổ v́ không c̣n tin nơi cái nghiệp. Trong hồi đại chiến thứ nhứt, v́
theo khoa phù thủy của lăo Raspoutine mà Nga hoàng Nicolas III phải mất
ngôi. Dân Nga nổi loạn tàn sát tất cả hoàng tộc rồi lập chánh thể Cộng
sản cho tới nay. Bên Pháp c̣n có nhiều người đến Nhà thờ Đức Bà Notre
Dame De Lourdes cầu nguyện cho khỏi bịnh tật.
Hôm ấy, phái đoàn có mướn một chiếc ghe đưa theo ḍng sông xem người bổn
sứ tắm rửa tội. Trên bờ rải rác có nhiều đống lửa tung khói mùi tanh
khét. Đó là những xác chết được đem lên thiêu sau khi được rửa tội bằng
nước sông Hằng. Thiêu xong, thân nhơn lại đùa cả tro tàn xuống sông cho
người chết được an vui. Trong khi ấy, chúng tôi thấy một người ẵm đứa bé
vừa chết đem rửa tội để vào ghe đưa ra giữa sông, đoạn cột xác lại vào
một tảng đá to xô ùm xuống nước. Làm vậy, thân quyến tin rằng đứa bé
được sanh về cơi Thiên đàn.
Thấy trời sắp tối, chúng tôi cho ghe vào bến rồi về nhà trọ của hội Đại
Bồ Đề an nghỉ. Lúc đi ngang qua các đường phố, chúng tôi có gặp một nhà
tu lỏa thể đang ngồi trần truồng trước cửa chùa của họ. Đầu tóc rối bơm,
râu ria xồm xoàm, ḿnh thoa đầy tro và cứt ḅ. Người ấy đang ngồi lim
dim, miệng tụng lầm thầm cái chi không biết và có năm, ba người xúm xít
chung quanh để cầu ông ta ban phước lành cho.
Đến xứ Kusinara.
Lúc 12 giờ trưa ngày 17-11-1952, phái đoàn rời khỏi Bénarès đặng sang xứ
Kusinara, nơi Đức Phật nhập Niết-bàn cách xa 340 cây số (215 dặm Anh).
Chúng tôi phải đi tàu hỏa hết 180 dặm mới tới ga Gorakhpur, rồi từ đây
đi xe hơi 35 dặm nữa mới tới Kusinara. Hai bên đường toàn là cảnh hoang
vu, đồng khô cỏ cháy, cây cối u sầu c̣i cọc như c̣n mang lấy một vết
thương đau khổ về những giờ phút cuối cùng của đấng Chí tôn Chí thánh.
Hiện nay chẳng c̣n thành quách chi cả. Chỉ có một nhà trọ với 5 vị sư
Miến Điện ở tu hành gần chỗ đức Thế Tôn nhập diệt. Ngoài ra, c̣n có một
bảo tháp mà phía sau có một gian pḥng để che đậy nắng mưa cho một kim
thân Phật tổ bằng đá, bề dài hơn 6 thước, nằm nghiêng mặt về hướng tây.
Pḥng này rất hẹp, đủ chỗ cho vài người vô thôi, nên sự lễ bái không
được thong thả. Sau khi lên nhang đèn và đảnh lễ kim thân xong, tôi sực
nhớ lại lời dạy cuối cùng của đức Như Lai trước khi nhập diệt: “‘Handa
dāni bhikkhave āmantayāmi vo vayadhammā saṅkhārā appamādena sampādethāti’.
Ayam tathāgatassa pacchimā vācā”. Nghĩa: “Này các tỳ khưu, Như Lai
cho các ngươi biết rằng những pháp hữu vi đều không bền vững. Vậy các
ngươi chớ nên giải đăi và hăy mau chóng cố gắng làm tṛn phận sự của
ḿnh. Đây là lời dặn cuối cùng của Như Lai”.
Lễ
xong, chúng tôi đi quanh kim thân thấy có vô số báu vật và y bát của tín
thí dâng cúng. Riêng tôi có mang theo một lá y mới do Thiện Tín Kim Biên
dâng để thay đổi trong lúc đi đường. Nhưng thấy cảnh động ḷng, tôi
thành tâm đem y ra đắp lên kim thân rồi cầu nguyện cho quả phước mau
thành tựu đến các thí chủ.
Rồi phái đoàn lại đi viếng nơi làm lễ trà tỳ kim thân Đức Phật ở trong
thành vua Mala cách xa chừng 2 cây số. Đây cũng là một cánh đồng ruộng
mênh mông chỉ c̣n trơ trọi có một bảo tháp đă sụp đổ mà hội khảo cổ đang
đào sâu xuống đáy đặng t́m các báu vật. Chúng tôi cũng lần ṃ vào tận
trung tâm bảo tháp để chiêm ngưỡng. Gần bên tháp có một cây bồ đề kỷ
niệm chỗ thiêu táng Đức Thế Tôn. Dưới cội cây có một vị sư người Tàu tu
theo phái Đại Thừa đă hơn 25 năm và bây giờ ông được 50 tuổi. Nguyên
trước kia, ông là con nhà phú giả, từ Trung Hoa qua chiêm bái mấy chỗ
động tâm rồi phát đức tin trong sạch trở về từ biệt gia đ́nh qua đây ẩn
dật tu hành. Ông có làm một cái lều nhỏ trên chắn ba cây bồ đề đặng ở
tham thiền. Kế đó, chúng tôi đi xem một trụ đá kỷ niệm chỗ con rạch mà
trước kia Đức Phật dạy tôn giả Ānanda đi múc nước cho Ngài dùng trong
khi đang bịnh kiết lỵ.
Nhà trọ nơi đây rất hẹp nên phái đoàn phải lên xe trở ra nhà ga cho kịp
tàu hỏa. Tối hôm ấy đi về phía vườn Lumbini cách xa chừng 100 cây số,
nơi đức Bồ tát giáng sanh trong kiếp chót.
Viếng vườn Lumbini.
Bữa 18-11-1952, lúc 7 giờ tối th́ tàu hỏa rời khỏi ga Gurakhpur đi
Nawatanwa cách xa đó lối 100 cây số. Lúc tới nơi, phái đoàn được vào
nghỉ tại nhà trọ của hội Đại Bồ Đề, trong ấy có một vị sư người Tích Lan
coi sóc.
Sáng hôm sau, cơm nước xong độ 10 giờ, chúng tôi đồng đi viếng vườn
Lumbini ở xa ga Nawtanwa chừng 25 cây số. Đoạn đường này rất cam go v́
không lưu thông đặng nên phải đi bộ hoặc cưỡi ngựa, hay là đi xe ḅ,
mướn người vơng tới giá rất mắc. Nhưng ai nấy đều thích đi bộ nên chỉ
mướn theo vài người khiêng vác hành lư và vật thực thôi. Chỗ này đường
sá quạnh hiu vắng vẻ nên vấn đề vật thực cần phải sắp đặt châu đáo hơn
các nơi khác để pḥng ngừa cơn bất trắc. Đi măi hơn 6 giờ chiều mới tới
nơi. Chúng tôi đi theo đường xe ḅ, lội theo bờ ruộng và băng qua ba con
sông nước cạn tới bắp vế. Nhờ hết mùa mưa nên chúng tôi băng qua sông
rất dễ, thỉnh thoảng lại trải qua mấy băi cát trắng phau và những cánh
đồng ruộng màu vàng ánh trong mùa lúa chín. Khi qua hết hai con sông th́
ông trưởng phái đoàn cho biết rằng đă vào tới địa phận xứ Nepal (trước
kia là xứ Ca-t́-la-vệ). Nhờ đồng trống nên khi c̣n 1 cây số th́ đă thấy
hai ḥn núi rất cao, giữa có hai ṭa tháp bằng gạch cách nhau chừng 300
thước. Đó là ranh giới giữa hai xứ bên nội và bên ngoại của đức Bồ tát
mà trước kia gọi là vườn Lumbini. Gần đó có một nhà trọ rộng răi do
Chánh phủ Nepal tạo riêng cho những người đi chiêm bái nghỉ ngơi. Xứ này
nằm dưới ngọn núi Hy Mă Lạp Sơn nên khí hậu lạnh lắm.
Hôm ấy, phần th́ đói và mệt mỏi nên ai nấy đều nghỉ sớm. C̣n tôi, v́ cảm
thích được may mắn đến nơi thánh địa nên không ngủ, lần ṃ ra ngoài đến
một nơi bằng thẳng gần thạch trụ kỷ niệm chỗ đức Bồ tát giáng sanh đặng
ngồi niệm kinh. Măi tới 11 giờ đêm, phần ở nơi trống trải tuyết lạnh
thấu xương, phần tam y mỏng manh lại không chiếu không mền nên phải trở
về nhà trọ, thân tâm khoan khoái lạ thường. Tôi nhớ lại câu của đức Bồ
tát giáng sanh đi bảy bước rồi ứng thinh lên nói rằng: “Aggohamasmi
lokassa jeṭṭhohamasmi lokassa seṭṭhomasmi lokassa. Ayamantimā jāti
natthi dāni punabbhavo”. Nghĩa: “Ta đây là cao thượng, là đàn anh,
là một bực quư cao hơn tất cả chúng sanh trên thế gian. Kiếp này là kiếp
chót của ta luôn cả cảnh giới để luân hồi cũng không c̣n nữa”.
Sáng ra, chúng tôi lại đi xem xét tường tận th́ gặp rất nhiều dấu vết
của vô số tăng đường, trai đường hồi Phật giáo c̣n phồn thạnh mà nay chỉ
là những đống gạch ngói ngổn ngang và chơn tường sụp đổ. Nơi giữa cảnh
điêu tàn hiu quạnh ấy có một cây trụ đá lớn hơn một ôm, cao lối 5 thước
do đức vua A Dục dựng lên cách đây hơn 2300 năm đặng kỷ niệm nơi đức Bồ
tát giáng sanh.
Viếng xong, phái đoàn trở về nhà trọ lo sắp đặt cơm nước. Nhân dịp ấy,
tôi trèo lên gác trên ngắm xem phong cảnh dăy Hy Mă Lạp Sơn có tiếng là
hùng vĩ đẹp đẽ nhứt trên thế gian. Một lớp tuyết trắng dày luôn bao phủ
vô số chót núi cao chọc trời, khiến người nh́n lâu có cảm giác rằng ḿnh
đang đứng trước một kỳ quan vĩ đại lạ thường không sao tưởng tượng đặng.
Từ nhà trọ tới cánh rừng nằm dưới chơn núi cách xa 60 cây số và từ đây
phải đi thêm 150 cây số nữa mới tới núi. Tuy c̣n xa núi như thế mà trời
lạnh đến nứt cả da. Theo kinh chép lại th́ trên dăy Hy Mă Lạp Sơn có bốn
cái hồ rộng lớn vô cùng, chứa nhiều báu vật.
Viếng chùa Kỳ Viên (Jetavana).
Qua ngày 21-11-1952, lúc 2 giờ trưa, phái đoàn rời khỏi ga Nawtanwa để
sang xứ Savathi (Xá Vệ) cách xa chừng 160 cây số để viếng Kỳ Viên tịnh
xá do vị trưởng giả Cấp Cô Độc đă xuất ra hết 540 triệu đồng vàng cất
lên để dâng cho Đức Phật.
Khi tàu ngừng tại ga Balrampur th́ vào độ nửa đêm, phải chờ tới sáng mới
mướn xe đưa vô chùa c̣n xa chừng 16 cây số.
Cũng như mấy nơi thánh tích khác, đoạn đường này toàn là đồng bằng, cây
cỏ xanh um vắng vẻ không có nhà cửa, xóm làng chi cả. Lúc đến nơi, chúng
tôi thấy một đám rừng toàn là những cây cao thấp lớn nhỏ mọc xen kẽ giữa
mấy đống gạch ngói và chơn tường sụp đổ của cảnh tịnh xá nguy nga đồ sộ
nhứt trong thời kỳ Phật c̣n tại thế. Trước khi vô đến chùa, chúng tôi
thấy hồ Bokkharani bây giờ đă cạn khô. Trước kia, ông Đề Bà Đạt Đa khi
biết ăn năn về những hành vi ác độc của ḿnh, định xuống hồ này tắm gội
sạch sẽ đặng vào sám hối với Phật. Nhưng khi đi gần tới hồ th́ bị đất nẻ
ra chôn sống.
Đi
một đổi nữa th́ gặp một cây bồ đề thật già ở trước cửa chùa. Có tích như
vầy: “Một hôm, có người bạch Phật nên làm cách nào để cúng dường đức Như
Lai bằng vật thực khi Ngài vắng mặt. Ngài dạy nên cúng dường cây bồ đề
th́ cũng được phước như bố thí đến Ngài vậy”. Người bổn xứ liền sang tận
Bodh Gaya chiết một nhánh cây bồ đề cái đem về trồng trước cửa chùa mà
hiện nay vẫn c̣n sống nhưng đă c̣i cọc. Đây là cây bồ đề lâu đời nhứt
được trồng từ lúc đức Thế Tôn c̣n tại thế. Vào trong ranh chùa, vị
trưởng phái đoàn chỉ cho chúng tôi những chỗ mà trước kia là cốc liêu
của các vị đại A-la-hán: Angulimala, Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Ca Diếp,
A Nan. Cái tịnh thất ở giữa là của Đức Phật, gần đó có một cái bảo tọa
rất lớn mà trước kia Ngài thường ngự để thuyết pháp. Chắc chỗ này rộng
lắm mới có thể chứa được cả muôn ngàn thính giả như trong kinh đă nói và
trong chùa có ít nhứt là 500 vị tỳ khưu.
Cách xa chùa Kỳ Viên chừng một cây số là kinh đô xứ Savatthi trước kia
có dân cư nhiều nhứt xứ Ấn Độ, lối 60 triệu mà hết 50 triệu theo đạo
Phật, c̣n bao nhiêu th́ thuộc về các ngoại đạo. Nhưng đô thành huyên náo
phồn thạnh ấy bây giờ trở nên một cảnh điêu tàn gần như bị thời gian che
lấp ít ai để ư tới.
Tôi đương suy nghĩ đâu đâu bỗng phái đoàn cho biết sắp hết giờ nên cần
trở về nhà ga gấp để đáp chuyến xe sang Lucknou cách xa 220 cây số, rồi
từ đây lên tàu hỏa đi thêm 260 cây số nữa mới tới chỗ Đức Phật ngự trên
cung trời Đạo Lợi thuyết pháp cho Phật mẫu nghe trong ba tháng hạ rồi
trở xuống. Chỗ này hiện giờ chỉ c̣n một cây bồ đề và một trụ đá do vua A
Dục dựng lên làm kỷ niệm. Ngoài ra, lại có vô số chân tường sụp đổ ngói
gạch ngổn ngang trong vùng ấy.
Viếng đền thờ Birla ở Delhi.
Rời khỏi xứ Sangkassa, phái đoàn lại trở về nhà ga đặng đáp tàu hỏa sang
Delhi, Thủ đô của xứ Ấn Độ cách xa 310 cây số. Tàu khởi hành lúc 7 giờ
tối bữa 24-11-1952 đến 7 giờ sáng hôm sau, 25-11 mới tới nơi.
Kinh đô Delhi thật vô cùng rộng lớn, kiến trúc tối tân, dân số lối 6
triệu. Muốn đi xem khắp tỉnh thành, phi cơ phải bay đến 15 hoặc 20 phút.
Tại đây có rất nhiều đền đài và cổ tích rất lâu đời. Hôm sau, phái đoàn
được đi xem các cung điện của vua chúa thời xưa, xem tháp Kutab minar
cao lối 75 thước và huê viên kỷ niệm chỗ thiêu táng thánh Cam Địa (Ganđhi).
Sau cùng, chúng tôi được vào xem một đền thờ của đạo Bà-la-môn do vua
thương măi Birla cất. Đền này thật vô cùng nguy nga đồ sộ, kiến trúc mỹ
thuật tinh xảo không thua ǵ một đền vua. Trong ranh đền có nào là nhà
trọ cho khách thập phương yên nghỉ, nào là thư viện cho người xem kinh
đọc sách, nhà cho khách giải lao và nhiều cảnh vật tuyệt đẹp giúp tài
liệu hữu ích cho các nhà nhiếp ảnh. Trong đền có quân lính canh gác khi
vào người khách phải cởi giày, lột nón cho người giữ rồi lấy một cái thẻ
để lúc ra về đổi lại. Đền thờ cất hai tầng. Tầng dưới để chứa báu vật và
chia ra nhiều pḥng để kinh sách hoặc làm việc. Tầng trên để thờ các vị
thần. Có ba nóc cao vọi. Cái giữa thờ đức Vishnou có nhiều tay, cái bên
tả thờ đức Siva có nhiều đầu và cái bên hữu đức Krishna thổi ống sáo.
Vào lúc 11 giờ đêm phái đoàn từ giă Delhi đi qua Agra viếng đền Tajh
Mahal cách xa gần 200 cây số là một kỳ quan vĩ đại kiến trúc theo Hồi
giáo do vua Shah Jahan cho dựng lên gần mé sông Yamuna cách đây độ 300
năm. Đền
Tajh Mahal cất toàn bằng đá cẩm thạch trắng ráp lại, là một công tŕnh
tạo tác hết sức quan trọng trên đất Ấn Độ do hơn 20.000 nhơn công xây
dựng trong 17 năm trường, sở tốn không sao kể siết.
Dự lễ an vị Xá lợi tại Sanchi.
Tới bữa 27-11, lúc 7 giờ chúng tôi sang xứ Sanchi cách xa độ 455 cây số
dự lễ an vị Xá lợi của hai vị đại A-la-hán Xá lợi Phất và Mục Kiền Liên.
Sáng bữa 28-11 mới tới nơi và chúng tôi ở luôn 3 hôm tại đây chờ dự cuộc
Hội nghị Phật giáo Quốc tế.
Hai vị Xá lợi này do một nhà khảo cổ người Anh t́m được trên núi Sanchi
từ lâu đem về để tại bảo tàng viện Luân Đôn. Măi đến khi Ấn Độ được độc
lập, Chánh phủ Anh mới giao lại cho hội Đại Bồ Đề, hội này cho dựng lên
một bảo tháp trên núi Sanchi gần chỗ đào được và mới tổ chức cuộc lễ an
vị hôm nay.
Lễ
này được cử hành hết sức long trọng, có vô số đại diện quốc tế đến dự và
do hai vị thủ tướng Nehru (Ấn Độ) và U Nu (Miến Điện) đến khai mạc. Chỗ
hành lễ trước kia chỉ là một khóm rừng nhờ sự bảo trợ của Chánh phủ
Bhopal mà nay trở nên một tỉnh thành phồn thạnh huyên náo có đến một
triệu dân thuộc về nhiều nước trên thế giới. Có cả một cơ binh coi giữ
trật tự, có máy điện, máy nước, máy truyền thanh và luôn cả một hội chợ
triễn lăm về kỹ nghệ thương măi trưng bày nhiều vật quí lạ trong xứ làm
cho cuộc lễ thêm phần long trọng. Lúc này nhằm giữa mùa đông nên Chánh
phủ có dạy che trại vải dành riêng cho khách thập phương tới dự. Khi
phái đoàn Cao Miên đọc diễn văn trên máy truyền thanh th́ được các hội
viên vỗ tay hoan nghênh nhiệt liệt, v́ xứ Cao Miên đă rộng răi dâng cho
quỹ tổ chức lễ an vị một số tiền hơn 50.000 rupies (chừng 250.000$ xứ ta)
và 10 thùng báu vật do bá tánh cúng dường trong lúc đức Xá lợi quang lâm
đến kim thành.
Trên một con đồi cao có một cái cổ tháp do vua A Dục cho xây đă trên
2.000 năm toàn bằng đá xanh ráp lại bề cao chừng 13 thước và bề kính độ
30 thước. Cách đó 80 thước có một bảo tháp do hội Đại Bồ Đề sáng tạo
kiến trúc theo kiểu tối tân tốn kém ngót 203.500 rupies (hơn 1 triệu bạc
ta).
Tối hôm 30-11-1952 cuộc lễ an vị Xá lợi khởi hành, các viên quan quư
chức và vô số tín đồ sắp hàng dài từ chân núi kéo lên. Người đi đầu là
thủ tướng Miến U Nu đội tháp Xá lợi đến trước cửa tháp. Tới đây thủ
tướng Ấn Néhru cắt dây khai mạc bảo tháp mới rồi tự ḿnh nghinh tháp Xá
lợi vào trong chuyển sang vị thượng tọa Vajiranānā, một bác sĩ triết học
kiêm chức chánh Chủ tịch hội Đại Bồ Đề Tích Lan. Ngài Vajiranānā đón
nghinh rồi đem an vị đức Xá lợi trên bảo đoàn. Chư tăng liền tụng kinh
cung nghinh Xá lợi bằng tiếng Pāli nghe vang rền trong khắp vùng ấy, bấy
nhiêu đó đủ chứng minh rằng đă trải qua mấy ngàn năm mà ân đức cao cả
của hai vị đại A-la-hán Mục Kiền Liên và Xá Lợi Phất hăy c̣n ghi tạc
trong trí năo người đời. Chỉ với một chút xương tàn mà cũng kích thích
mạnh mẽ đức tin và tâm nhiệt thành của khắp hàng Phật tử, huống hồ là ân
huệ vô lượng của Đức Thích Ca Mâu Ni?
Viếng động Ajanta.
Vào bữa 1-12-1952 lúc 12 giờ trưa chúng tôi đáp tàu hỏa sang xứ Jalgoan
ở xa chừng 400 cây số và tới 10 giờ sáng hôm sau th́ tới nơi. Phái đoàn
phải mướn autobus đi thêm 60 cây số nữa mới tới động Ajanta, từ ga
Jalgoan tới tỉnh thành Bombay c̣n xa chừng 420 cây số.
Động Ajanta là một kỳ quan vĩ đại hiếm có trên thế gian, tất cả có 31
cái động kiến trúc liên tiếp nhau dọc theo một dăy núi, do các vị quốc
vương trước kia của Ấn Độ đă tạo ra để kỉ niệm Phật giáo, có động làm
đến một hoặc hai đời vua mới xong. Mỗi cái bề cao lối 14 thước, bề cao 8
hay 10 thước, có cái làm đến hai tầng toàn là đục vào trong núi, chạm
trổ rất công phu mỹ thuật không thể tưởng tượng đặng. Hiện nay có rất
nhiều nhà khảo cổ Âu-Mỹ-Á đến tận nơi xem xét để kinh nghiệm về cách
kiến trúc chạm trổ của động Ajanta.
Trong động phần nhiều tối đen lạnh lùng khiến cho du khách có cảm giác
rằng ḿnh đang ở trong một cảnh hết sức uy nghiêm huyền diệu. Chánh phủ
có làm tạm một cái máy điện cho các người đến chiêm bái hoặc các nhà
khảo cổ mướn để soi sáng bên trong, muốn xem rơ những h́nh tượng chạm
trổ trên vách đá, người khách phải dùng đèn pile và phải có phép của
Chánh phủ mới được vào nhiếp ảnh thâu thập tài liệu. Có vài cái động đă
sụp đổ về phía mặt tiền, có cái làm chưa xong c̣n bỏ dở, công cuộc tạo
tác rất công phu tốn kém, v́ phải đục vào trong núi rồi lấy đá vụn đem
đổ một nơi xa, không biết bao nhiêu năm mới rồi.
Bấy nhiêu đó đủ chứng tỏ sự đúng đắn của câu phương ngôn Pháp “Muốn th́
được”. V́ người đời mỗi khi có đức tin mạnh mẽ với một lư tưởng hoặc một
chủ nghĩa nào rồi, th́ dầu phải làm cho biển cạn non ṃn họ cũng không
nản chí.
Viếng động Ellora.
Sau khi viếng xong động Ajanta phái đoàn lại trở về nhà ga để đáp xe lửa
sang xứ Manmad bữa 2-12 lúc 10 giờ đêm. Từ nhà ga Manmad đến động Ellora
c̣n xa 142 cây số, chúng tôi phải sang qua xe lửa một lần và xe hơi một
lần mới tới nơi.
Động này gồm lại 26 cái, kiến trúc cũng tương tợ như Ajanta nhưng không
phải thuộc về Phật giáo mà là do các tín đồ Bà-la-môn giáo tạo ra để kỉ
niệm và thờ phụng các vị thần của họ. Có động đục từ dưới một trái núi
phủng lên tới trên không, rất mỹ thuật đẹp đẽ, có khi hết 2, 3 đời vua
mới làm xong một cái động.
Đến tỉnh thành Bombay.
Sáng chúa nhựt 4-12-1952, lúc 5 giờ mọi người lại khuân hành lư ra tàu
hỏa để viếng tỉnh thành Bombay. Đây là một đô thị đẹp nhứt của xứ Ấn Độ
được dựng dọc theo bờ biển Oman, bề dài tới 3, 4 chục cây số, dân cư hơn
5 triệu. Tại đây có rất nhiều đền tháp thuộc về các đạo giáo khác nhau
và có một nhà trọ của hội Đại Bồ Đề, toàn dân trong xứ đều theo Hồi giáo
hoặc Bà-la-môn giáo chớ chẳng mấy ai mộ đạo Phật. Xa nhà ga chừng một
cây số có một ngôi chùa tên là Mahajana Vihara do hội Đại Bồ Đề sáng tạo
để t́m cách hoằng dương chánh pháp.
Bữa 6-12 phái đoàn lại rời khỏi Bombay đặng trở về Madras cách xa 1.400
cây số, v́ dọc đường không có Phật tích nên tàu chạy luôn 2 đêm 1 ngày
mới tới nơi vào lúc 6 giờ sáng hôm 8-12. Đến đây là kết thúc cuộc hành
tŕnh ṿng quanh xứ Ấn Độ, phái đoàn phải ở lại vài hôm đợi chuyến phi
cơ về Colombo.
THỈNH NGỌC XÁ
LỢI ĐỨC PHẬT TỔ
Về
đến Colombo tôi cũng luôn luôn cố gắng nghiên cứu học hỏi kinh luật đến
giáp năm. Khi gần về xứ, muốn đáp lại đức tin trong sạch của chư thiện
tín Việt Nam ở Saigon và Kim Biên đă hy sanh công của rất nhiều vào công
cuộc xuất dương sang xứ Phật, tôi t́m cách yêu cầu các vị giáo tông
thuộc nhiều phái ở Tích Lan, đặng thỉnh một ḥn ngọc Xá lợi của Đức Phật
Tổ về xứ cho hàng tứ chúng phụng thờ chiêm bái. Tôi phải vận động nhiều
nơi v́ nếu chỗ này không được th́ c̣n chỗ khác. Nhưng phước thay! C̣n
vài ba hôm nữa lên đường th́ có đức Giáo tông Vipassi thuộc phái Siam
Nikaya hiến cho một ḥn ngọc đức Phật tổ bằng cỡ hột gạo.
Tôi rất thỏa thích về sự kết quả ấy nhưng bỗng đâu dịp may đưa đến dồn
dập bất ngờ, khi c̣n một ngày nữa hồi hương tôi được vị thượng tọa phái
Ramañña Nikaya pháp danh là Gunasiri trụ tŕ chùa Mirissa đánh điện văn
cho tôi hay Ngài sẽ hiến cho một viên ngọc Xá lợi Đức Phật tổ nhỏ cỡ hột
mè, chùa Ngài ở xa Colombo chừng 150 cây số.
Ceylon Télegram
Nagathero 174 dématagoda road maradana
Bringing relic prepare casket
Gurnasiri from mirissa.
Nghĩa: Sửa soạn tháp tôi đem Xá lợi biếu.
Trước kia tôi cũng có yêu cầu Đại đức Narada thuộc phái Amapura Nikaya
Bauy cho một đức Xá lợi đem về xứ Việt Nam cho hàng tứ chúng thờ phụng,
v́ trong xứ ta chẳng có nơi nào thờ Xá lợi cả. Trái lại trên đảo Tích
Lan, trong dịp đi viếng mấy nơi thánh tích tôi gặp rất nhiều tháp thờ Xá
lợi được dựng lên khắp nơi cho các tín đồ chiêm bái, nhứt là bảo tháp
Maha Cetiya tại tỉnh Anuradhapura luôn luôn có hàng trăm hàng ngàn người
tới lui tấp nập để cúng dường Xá lợi.
May thay, khi gần về xứ Đại đức Narada lại cho tôi hay rằng Ngài mới
thỉnh được hai vị Xá lợi Đức Phật tổ nơi chùa Kosgoda do vị thượng tọa
Siri Sumanarevata Nayaka Thera thỉnh từ Ấn Độ đă lâu đời. Quí giá hơn
nữa là Đại đức Narada được người thỉnh sang Tân-Gia-Ba truyền bá Chánh
pháp. Thừa dịp ấy, tôi yêu cầu Ngài tiện đường sang viếng Việt Nam trước
để t́m cách củng cố nền móng Phật giáo Nguyên Thủy, sau nữa, mang ngọc
Xá lợi sang biếu. Như vậy, cuộc lễ cung nghinh sẽ được chánh thức và
thêm phần long trọng hơn là tự tôi thỉnh về.
Trong khi sang viếng Đông Dương nhằm lúc hạ tuần tháng sáu 1953 dương
lịch, Đại đức Narada có hiến cho nhóm PGNT Kỳ Viên một vị Xá lợi, một vị
nữa cho đức Từ cung Hoàng thái hậu để riêng cho Phật giáo Đại thừa toàn
quốc Việt Nam. Ngài cũng hiến một hột Xá lợi khác cho xứ Cao Miên mà
trước kia Ngài có đến ở hoằng Pháp trong một thời gian.
Khi gần trở về xứ đức Phó Giáo tông phái Siam Nikaya tại Kandy Tích Lan
có biếu cho ngọc Xá lợi của Đức Phật Tổ Thích Ca cỡ bằng hột gạo (v́ tôi
có yêu cầu Ngài trước) hiện nay Ngọc Xá lỵ ấy đương để thờ tại chùa
Roka-Kandal Kratié.
Lúc đúng một năm, tôi lo giấy tờ về xứ cho kịp dự lễ cung nghinh Xá lợi
được cử hành trọng thể tại chùa Kỳ Viên tự vào những ngày 21-22-23 tháng
6 năm 1953 và bắt đầu hoạt động làm cho Phật giáo chánh truyền mau tấn
triển trên đất Việt.
– CHUNG –
T.B. Do quả phước thanh cao của sự “Hành tŕnh sang xứ Phật” chiêm bái 4
chỗ động tâm và các nơi thánh tích khác. Tôi xin hồi hướng phần phước
thanh cao này cho thân phụ đă hóa văng và mẫu thân c̣n hiện tiền xin cho
các vị ân nhân ấy hằng được sự an vui. Và cũng xin hồi hướng cho tất cả
chư thiện tín các nơi nhứt là Cần Ché hết ḷng hộ độ tôi về nền tài
chánh trong cuộc xuất dương được thành tựu mỹ măn, luôn cả chư thiện tín
hảo tâm xuất của cải ra để in cuốn kư sự này. Xin cho các vị kể trên đây
hoan hỷ thọ lănh phước báu này và xin cho hằng được sự an vui vĩnh viễn.
ĐĐ. Nāga Thera
Nơi
các xứ theo PGNT không có Tỳ khưu Ni sau khi Đức Phật nhập Niết
Bàn được 1.000 năm (ngày nay các vị ấy được gọi là Tu nữ
(nun)).
Hôm
ấy t́nh cờ tôi gặp một nhà Sư người Mỹ đă xuất gia theo Phật
giáo Nguyên Thủy và đang học tham thiền.
Đạo Gia-tô được truyền vào đây hồi thế kỷ
XV, XVI bởi các nhà truyền giáo người Bồ Đào Nha và Ḥa Lan có
thủy quân ủng hộ. Bị ngoại ban xâm chiếm và muốn được bảo vệ yên
ổn, dân chúng xin vào đạo ấy rất nhiều, hơn nữa tôn chỉ về linh
hồn và đức thượng đế tạo tác của Bà-la-môn giáo và Gia-tô giáo
có nhiều chỗ giống nhau nên hai đạo ấy rất dễ dung ḥa.
Kinh
này phải giảng cho hàng tứ chúng khi ở nơi thành nếu có sự ghê
gớm phát sanh th́ nên niệm ân đức Tam bảo th́ khỏi sợ ngay.
Bồ
Đề Đạo Tràng nghĩa là nơi Bồ tát Sĩ Đạt Ta tĩnh tọa trường kỳ
với chí nguyện đến khi nào đạt được quả Phật toàn giác th́ Ngài
mới chịu đứng dậy.
Có
nhiều nơi thờ 3 vị Vishnou-Brahma-Siva đều là các vị thần do sự
tưởng tượng tạo ra. Đức Brahma thần tạo tác ra vạn vật ở giữa,
đức Vishnou thần bảo tồn vạn vật ở bên mặt và đức Siva thần hủy
diệt vạn vật bên trái.
Vua Shah Jahan cho xây đền Tajh Mahal để thờ bà hoàng hậu yêu
quí nhứt của ngài là Mounfaz Mahal thăng hà trong khi lâm bồn
vào năm 1631.
Về vấn đề nhơn công, có lẽ vua Shal Jahan cũng lạm dụng quyền
thế ép bức dân chúng như vua Tần Thủy Hoàng xây Vạn lư trường
thành mới làm xong việc đại sự như thế.