Tưởng niệm Ân sư Tuyên Luật sư Thích Đỗng Minh, viên tịch 11
tháng 5 năm Ất Dậu – 2005.
CHIẾC ÁO
KHÔNG LÀM NÊN NHÀ SƯ
Câu
thành ngữ mà người Việt thường nghe “Chiếc áo không làm nên nhà
sư” (Das Kleid macht keinen mönch & L'habit ne fait pas le moine),
nghĩa bóng của nó như một lời nhắc nhở mọi người, đừng vội đánh
giá người khác qua hình thức bên ngoài. Nhưng trong đạo, “chiếc
áo không làm nên nhà sư” lại có ý vị sâu xa khác, ví dụ một nhà
sư vì hoàn cảnh binh đao hay thời kỳ tao loạn, ảnh hưởng tính
mạng, nhà sư cần khoác áo thường dân để ẩn dật thì dù mặc y phục
kiểu gì lúc ấy bản thể của tỳ-kheo cũng không bao giờ mất đi.
Bình nhật trở lại, nhà sư cũng không thể mặc hoài y phục thế
gian là thành ông sư, “chiếc y làm nên nhà sư” (quand l'habit
fait le moine). Song, trọng ca-sa hay trọng giới thể đó là điều
chúng ta cần bàn.
Câu chuyện trong chùa. Tôi có vị sư huynh đang tu học theo hệ
Phật giáo Bắc tông, sinh hoạt tại một ngôi cổ tự - Sài Gòn, sư
huynh thọ giới cụ túc năm 1991, nay có ý muốn chuyển sang Phật
giáo Nam tông. Vì nghĩ rằng chiếc y của mình đang khoác không
phải màu y của Phật giáo nguyên thủy chính thống, tuy nhiên còn
phân vân chưa dứt khoát, với lý do nếu qua đó phải làm sa-di và
thọ giới cụ túc lại từ đầu…
1.
GIỚI THỂ VÔ BIỂU
Trong Phật giáo Bắc tông có hai vị Trưởng lão kỳ túc đã đổi y từ
Bắc tông sang Nam tông nhưng không hề thọ giới lại theo truyền
thống Nam truyền, đó là Hòa thượng Thích Minh Châu và Hòa thượng
Thích Đỗng Minh.
Trong giai đoạn Phật giáo đứng trước khúc quanh lịch sử, năm
1978, Hòa thượng Đỗng Minh bị bắt, sau hai năm ở tù trở về, Ôn
đổi y Bắc tông sang y Nam tông, không vì chuyện này mà nói rằng
giới thể “vô biểu” của Ôn bị mất hoàn toàn. Thầy Tuệ Sỹ viết về
Ôn: Hòa thượng là một số rất ít trong các tỳ-kheo trì luật của
Tăng-già Việt Nam kể từ khi Phật giáo được trùng hưng, Tăng thể
được chấn chỉnh và khôi phục… Ngài xứng đáng là bậc Long Tượng
trong chốn tòng lâm, đời sống phạm hạnh nghiêm túc, phản chiếu
giới đức sáng ngời, tịnh như băng tuyết. [1] Và khi Ôn viên tịch,
Hòa thượng Trí Quang kính tiến tán tụng:
“Kính cúng dường bậc Đại đức tôn quý trong hàng tứ chúng, một
đời trì luật, thuận Giới giải thoát (prātimokṣa).” (Phụng cúng
chúng trung tôn, thiện thuận giải thoát giới 奉供眾中尊善順解脫戒). [2]
Vị
Tôn trưởng thứ hai, Hòa thượng Thích Minh Châu sinh năm 1918 (Mậu
Ngọ) tại làng Kim Thành, Quảng Nam. Năm 1946, Hòa thượng xuất
gia đầu sư với ngài Tịnh Khiết (Đức Đệ nhất Tăng thống GHPGVNTN)
tại tổ đình Tường Vân, thành phố Huế. Năm 1949 (Kỷ Sửu) thọ cụ
túc giới tại Giới đàn Hộ Quốc chùa Báo Quốc. Năm 1952, Hòa
thượng du học tại Sri Lanka, sau đó sang Ấn-độ học tại Đại học
Bihar. Tháng 4 năm 1964, trở về nước, Hòa thượng làm Viện trưởng
Viện Đại học Vạn Hạnh... [3] Hòa thượng thọ giới theo truyền
thống Bắc tông (Pháp tạng bộ) rồi chuyển y Nam tông, thời điểm
chuyển y không thấy sử liệu nào ghi chép, có thể là trong giai
đoạn du học?
Từ
thời Phật, khi Ngài chế định việc truyền giới cụ túc phải hiện
diện 10 vị tỳ-kheo mới đủ thẩm quyền để tiến hành việc truyền
giới cụ túc và nghi thức được tiến hành thông qua ba lần hỏi (yết-ma)
lấy biểu quyết của Tăng, và một lần tác bạch thưa thỉnh trước đó
là bốn lần, gọi là Bạch tứ yết-ma (jñapticaturthaṃ karma), [4]
cho đến nay cả hai hệ: Phật giáo Nam tông y cứ trên luật tạng
Pāli và Bắc tông y cứ hệ luật Tứ phần đều thực hiện như nhau. Và
theo các nhà Hữu bộ luận giải, khi giới tử phát sinh tâm niệm
cầu thọ cụ túc giới, được dẫn vào trước Tăng, thành khẩn nói
những lời cầu thỉnh giới sư v.v… cho đến khi Tăng đã thực hiện
một lần tác bạch và ba lần yết-ma, tất cả những diễn tiến này
đều được gọi là gia hành của nghiệp đạo. Sau khi Tăng đã hoàn
tất Bạch tứ yết-ma, giới thể vô biểu đã phát sinh nơi giới tử.
Vô
biểu (Skt. avijñapti, 無表) là những thế lực điều động các hoạt
động của thân và ngữ, không biểu lộ ra bên ngoài cho người khác
có thể thấy. Thế lực đó là khả năng phòng hộ của giới. Nó giống
như sự phản xạ có điều kiện của một người học võ do tập luyện
lâu ngày, có khả năng phòng vệ sinh mạng của mình trong bất cứ
lúc nào và dưới bất cứ trường hợp nào. [5] Và năng lực phòng hộ
này chỉ mất với những trường hợp như sau:
Luật
Pāli (Vin. 3. 26), Tứ phần (p. 571b12) v.v… giải thích: thứ nhất,
đối diện với người có khả năng hiểu mình muốn nói gì, tuyên bố
từ bỏ học xứ, như nói: “Tôi bỏ Phật, Pháp, Tăng, … xả giới, xả
luật, muốn làm cư sĩ…” là mất giới. Thứ hai là phạm ba-la-di (pārājika)
là mất giới. Luận Câu-xá [6] giảng thêm: Mất giới khi mạng chung
(xả tụ đồng phần 捨聚同分); bị lưỡng tính ái nam ái nữ (nhị căn
chuyển sinh 二根轉生); thiện căn bị đoạn (善根斷), như khởi tà kiến
không tin nhân quả, tham, sân, si trỗi dậy làm mất thiện căn,
mất giới. Không thấy giáo nghĩa nào nói, một tỳ-kheo thay đổi y
phục sang hệ phái cùng tông phái Phật giáo là mất giới. Ngoại
trừ tỳ-kheo nào ưa thích muốn làm đệ tử ngoại đạo (titthayasāvakabhāvaṃ
patthayamāno), cải tông mới mất giới hoàn toàn. Vậy vì sao Phật
giáo Nam tông không chấp nhận giới thể của hệ Bắc tông thọ trì
theo hệ Tứ phần – Pháp tạng bộ?
2.
TƯ TƯỞNG TỰ TÔN CỦA TÔNG PHÁI
Mặc
dù, Hòa thượng Minh Châu và Ôn Đỗng Minh đổi y nhưng Phật giáo
Nam tông tại Việt Nam lúc bấy giờ cũng không công nhận là được
“chân truyền”. Sự thật lịch sử:
Tháng 4 năm 1976, Pol Pot lên nắm quyền Campuchia, bãi bỏ mọi
tôn giáo, tiêu diệt các nhà sư Phật giáo. Năm 1978, Việt Nam tấn
công Campuchia lật đổ chế độ Pol Pot và phía chính quyền Việt
Nam muốn Phật giáo Nam tông tại đây được khôi phục, cho nên tổ
chức một phái đoàn Phật giáo Nam tông từ Việt Nam sang truyền
giới cho các nhà sư Campuchia. Theo tài liệu của Đỗ Trung Hiếu
ghi chép, phái đoàn gồm 12 người: 1. Hòa thượng Bửu Chơn (trưởng
đoàn); 2. Hòa thượng Giới Nghiêm (phó đoàn); Thượng tọa Siêu
Việt, Thượng tọa Minh Châu, Thượng tọa Thiện Tâm v.v... Ngày 17
tháng 9 năm 1979, đoàn Phật giáo Việt Nam lên đường. Đến nơi,
chiều ngày 18, Hòa thượng Bửu Chơn trở bệnh nặng... Tiếp ngày
hôm sau, đúng 9 giờ sáng ngày 19 tháng 9 (1979), lễ xuất gia
được tổ chức tại chùa Ounalon (chùa lớn nhất Phnôm Pênh, nơi vua
sãi ở). Có 7 vị sư Campuchia xuất gia. Hòa thượng Giới Nghiêm
làm thầy tế độ, Thượng tọa Siêu Việt, Thượng tọa Thiện Tâm làm
Yết-ma, các vị khác làm thành viên của buổi lễ. Riêng Thượng tọa
Minh Châu vì là Bắc tông nên chỉ tham dự với tư cách khách danh
dự. [7]
Vì
sao Hòa thượng Minh Châu không được tham dự chính thức, nếu nói
do ngài không thạo tiếng Campuchia thì điều này không hợp lẽ,
trong phái đoàn cũng có Thượng tọa Thiện Tâm không biết tiếng
Campuchia, lại làm Yết-ma. Tập tài liệu của ông Hiếu có nhấn
mạnh rõ ràng: “Ngoài Thượng tọa Minh Châu, tất cả sư đều là Nam
tông”.
Trường hợp của Ôn Đỗng Minh cũng không ngoại lệ, Ôn từng kể cho
chúng tôi nghe, có lần Ôn muốn nghiên cứu cách thức tác pháp yết-ma
của Tăng-già Nam tông, Ôn đến tham dự nhưng chỉ dự khán, ngồi
bên ngoài Sīmā, tức chỉ cho cương giới của Tăng Nam tông Yết-ma
truyền giới cụ túc. Vì Ôn không phải túc số của Tăng, ngồi vào
trong thì buổi lễ yết-ma đó sẽ bất thành.
Nghi
thức truyền giới cụ túc của hai hệ Nam tông và Bắc tông tuy sai
khác về văn bản tụng đọc và lễ nghi tổ chức nhưng túc số Tăng để
yết-ma cũng 10 vị tỳ-kheo mà thôi. Bên Bắc tông có thêm vị dẫn
thỉnh (điển lễ) và bốn vị giám đàn, xét trên nguyên tắc những
người này không cần thiết, chỉ ảnh hưởng tập tục nghi tiết của
Trung Quốc, họ không được tính trong túc số Tăng 10 vị.
Theo
chúng tôi biết, hiện nay tại Việt Nam, cả hai hệ phái tổ chức
giới đàn, trong túc số 10 vị không thấy có sự thỉnh mời tham dự
xen lẫn. Giả thuyết, sư Bắc tông không thể tụng đọc Pāli, hay sư
Nam tông không biết tụng đọc âm Hán-Việt, nên không thể ngồi
chung; hoặc lý luận, bên nào quen với truyền thống bên đó, càng
không đúng. Phải chăng chính do đôi bên tự tôn tông phái, nảy
sinh tính kỳ thị, mới có chuyện không chấp nhận nhau và có thành
kiến với y phục, cả sự đắc giới của đôi bên. Thời xưa, những
vùng miền linh hoạt luật học thì không bao giờ có chuyện này.
3.
GIỚI ĐÀN HIỆN DIỆN NHIỀU BỘ PHÁI
Sử
liệu lưu truyền, vào thế kỷ thứ 3 trước Tây lịch, Mahinda (摩哂陀,
Ma-sẩn-đà) con trai vua A-dục (Aśoka) nhận Moggaliputta Tissa
(目犍連子帝須, Mục-kiền-liên Tử Đế-tu) làm Hòa thượng bổn sư (upādhyāya),
Mahādeva (大天 Đại Thiên) là Hòa thượng (A-xà-lê, ācārya, 阿闍黎)
truyền 10 giới sa-di; Madhyāntika (摩闡提 Ma-xiển-đề) là Hòa thượng
(A-xà-lê) truyền giới cụ túc. Trong một giới đàn có ba hệ phái
cùng tham dự: Moggaliputta Tissa là người Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavādin),
Mahādeva là phái Đại chúng (Mahāsaṅghika), Madhyāntika là Thuyết
nhất thiết hữu bộ (Sarvāstivādin). [8] Mahinda chính là Sơ tổ
Phật giáo Nam tông bây giờ. Mahinda cùng các vị đại đức Iṭṭhiya
(Iddhiya), Uttiya, Bhaddasāla và Sambala đến Tích-lan truyền
giáo theo sắc lệnh vua cha và nhóm này hình thành Thượng tọa bộ,
còn gọi Đồng diệp bộ (Tāmraśāṭīyas, bộ phái mặc màu y lá đồng đỏ)
[9], cho đến tận ngày nay dấu chân hoằng hóa của họ phát triển
khắp nơi trên thế giới.
Tại
Trung Hoa, thời kỳ đầu Phật giáo du nhập, lúc này Tăng sĩ chỉ
cạo tóc xuất gia, trọ trì tam quy ngũ giới, không có luật nghi.
Đến năm 250, niên hiệu Gia bình thời Tào Ngụy, Đàm-ma-ca-la (Dharmakāla)
người Ấn-độ đến Lạc Dương, dịch Tăng-kỳ giới tâm; năm 254, niên
hiệu Chánh nguyên, sa-môn Đàm-đế người An tức cũng đến Lạc Dương
dịch Đàm-vô-đức bộ tứ phần giới bổn, thỉnh đủ 10 vị Phạn tăng tổ
chức pháp yết-ma truyền giới tỳ-kheo. Đó là giới đàn truyền giới
tỳ-kheo đầu tiên tại Trung Hoa. Không rõ 10 vị Tăng được thỉnh
mời thuộc tông nào nhưng theo tư liệu Hán dịch nói rằng Đàm-ma-ca-la
và Đàm-đế thuộc tông Pháp tạng bộ trì luật Tứ phần. [10]
Về
ni giới. Cho đến đời Tấn, niên hiệu Thăng bình (357), sa-môn
Đàm-ma-kiết-đa lập giới đàn truyền giới tỳ-kheo-ni cho Tịnh Kiểm
và bốn cô nữa. Đây được kể là tỳ-kheo-ni đầu tiên tại Trung quốc,
nhưng không đủ nhị bộ tăng, mà trực tiếp truyền từ tỳ-kheo Tăng.
Vì bấy giờ Trung quốc chưa có ni thì không thể đủ hai bộ để
truyền như luật định. Đàm-ma-kiết-đa cho rằng giới từ Đại Tăng
mà có, nay Đại Tăng đủ số thì có thể truyền. Sau đó, vào năm
Nguyên gia 6 (429), có sa-môn Cầu-na-bạt-ma (Guṇavarma) đến
Trung quốc, ni cô Huệ Quả đem vấn đề thọ giới đắc pháp ra hỏi,
ngài trả lời: không đắc, vì không đủ nhị bộ tăng. Lúc bấy giờ
tại Trung quốc có 8 vị tỳ-kheo-ni từ Tích lan sang, nhưng Cầu-na
cho là chưa đủ số thập sư nên chưa chịu tổ chức giới đàn. Theo
lời khẩn cầu của các ni cô bấy giờ, Cầu-na-bạt-ma cử người sang
đảo Sư tử, tức Tích-lan ngày nay, thỉnh thêm cho đủ Thập ni để
truyền giới. Về sau, có thêm Thượng tọa ni Thiết-sách-la cùng
bốn vị nữa từ đảo Sư tử sang, nhưng bấy giờ Cầu-na-bạt-ma đã
tịch. Giới đàn khi ấy do Tăng-già-bạt-ma tổ chức, đủ túc số hai
bộ tăng truyền giới tỳ-kheo-ni. Đây gọi là chính thức tỳ-kheo-ni
như pháp được truyền thọ tại Trung quốc. [11] Chúng ta thấy,
giới đàn ni, trong 10 vị Tăng, Tăng-già-bạt-ma (Saṃghavarman) là
người Hữu bộ, những vị Tăng khác có thể Pháp tạng bộ hoặc Hữu bộ,
còn thập sư tỳ-kheo-ni là Đồng diệp bộ (Phật giáo Nam tông).
4.
LUẬN KẾT
Giới
thể của tỳ-kheo và tỳ-kheo-ni được thẩm định từ người hành trì
Phạm hạnh và thọ giới đúng pháp Yết-ma, chứ không đánh giá hình
thức bề ngoài sắc phục là tông phái nào. Giáo pháp và quy chế
của Phật vừa cố định vừa quy ước, nó đã thích nghi với một xã
hội Ấn-độ trước thế kỷ thứ 5 trước Tây lịch. Về sau, Phật giáo
truyền đến các nước, chư Thánh đệ tử đã linh hoạt với nếp sống
hòa nhập, sao cho không trái phạm với nền tảng giới luật của
Phật chế. Mục đích giữ luật không phải cực đoan, cục bộ hay tự
tôn tông phái. Ngày nay Phật giáo Bắc tông là Pháp tạng bộ (Dharmaguptaka),
hệ thống kinh điển và Luật tạng gần như là bản sao của Phật giáo
Nam tông. Phật giáo Nam tông hay gọi Phật giáo Nam truyền cũng
xuất phát từ Phân biệt thuyết bộ (Vibhajyavādin), Tam tạng thánh
giáo và nếp sống gần nguyên thủy, chứ hoàn toàn không phải Phật
giáo Nguyên thủy. Chính Bhikkhu Bodhi là nhà sư Nam tông cũng
công nhận điều này. [12] Nếu nói là Phật giáo nguyên thủy là chỉ
cho Phật giáo tiền bộ phái (Pre-sectarian Buddhism) hay gọi Phật
giáo sơ kỳ (Early Buddhism), tức chỉ cho thời đức Phật tại thế
và kéo dài đến triều đại vua A-dục (Aśoka) (c. 268 đến 232 BCE)
mà thôi. [13]
Năm
1998, tại Bồ-đề đạo tràng (Bodhgaya) Ấn-độ, tổ chức giới đàn
truyền giới cụ túc, với sự hiện diện đầy đủ của nhị bộ Tăng-già,
bên Tăng có sư Nam tông, Bắc tông, bên Ni là các tỳ-kheo-ni Đài
Loan. Trong giới đàn có một số giới tử ni đến từ Tích-lan (Sri
Lanka), Nepal… Thế nhưng những giới tử ni đến từ Tích-lan (Sri
Lanka) đã bị Giáo hội Tăng-già tại Tích-lan từ chối sự đắc giới
của họ, cho rằng đó là giới pháp của Đại thừa (Mahāyāna). [14]
Sự thật này có ghẻ lạnh, vô cảm đến mấy thì Tăng đồ Nam tông
cũng không thể quên đi lịch sử quá khứ, Mahinda Sơ tổ Phật giáo
Nam tông đã đắc giới từ ba vị thầy thuộc ba bộ phái khác nhau,
trong đó Mahādeva là phái Đại chúng phát triển thành Phật giáo
Đại thừa sau này.
Người viết vướng bước trong suy tư quá lâu, nói để khai phóng
tâm hồn. “Chánh pháp thì có được tịnh tín…. Sự tồn tại lâu dài
của Chánh pháp là vì ích lợi cho chúng sinh”.
Tâm Nhãn
1. Tự ngôn trong bản Việt dịch Luật tứ phần, thầy Tuệ Sỹ viết
tại Quảng hương Già-lam, Cuối Đông, 2549.
2. Kỷ yếu Tưởng niệm Tôn sư,
tr. 71.
3.
https://giacngo.vn/tieu-su-truong-lao-htthich-minh-chau.
4. Luật tạng: Thập tụng: p.
148b12-17; Tứ phần: p. 799c12-29; Ngũ phần: p. 111b2-23, 25;
Pāli: I, 28, 3-6, 31, 2; Tăng-kỳ: cf. pp. 412b26 - 413a6, p.
416b7-10.
5. Tuệ Sỹ, Yết-ma yếu chỉ
(2011), chương i và chương iii.
6. 《阿毘達磨俱舍釋論》卷11, T29, no.
1559, p. 235c3.
7. https://vi.wikipedia.org/wiki/Pol_Pot
& “Thống nhất Phật giáo Việt Nam – 1994”, tr. 8-11, Đỗ Trung
Hiếu.
8. 印順導師, 初期大乘佛教之起源與開展, p. 409.
9. Dīpaṃvasa (Đảo vương thống
sử, ch. VIII), Mahāvaṃsa (Đại vương thống sử, ch. XII),
Samantapāsādikā (Nhất thiết thiện kiến luật chú, pp. 63, 19-69,
15); Chuan Cheng, Designations of Ancient Sri Lankan Buddhism in
the Chinese Tripitaka (Journal of the oxford centre for buddhist
studies, vol. 2), p. 104.
10.《四分律刪繁補闕行事鈔》卷2, T40, no.
1804, p. 51c4 & 《佛祖統紀》卷29, 35, T49, no. 2035, p. 296c7, p.
332a12.
11.《四分律刪繁補闕行事鈔》卷2, p. 51c4;
《高僧傳》卷3, T50, no. 2059, p. 342b11); Tuệ Sỹ, Một thời truyền luật.
12. Bhikkhu Bodhi, The revival
of Bhikkhunī ordination in the Theravāda tradition, p. 35-36.
13. Griffiths, Paul J. (1983)
“Buddhist Jhana: A Form-Critical Study”, Religion 13, pp. 55–68.
& Collins, Steven (1990) “On the Very Idea of the Pali Canon”,
Journal of the Pali Text Society 15, pp. 89–126.
14. Bhikkhu Bodhi, p. 36.
Mục Lục
-------------------------
Nguồn
Updated 2023