GIÁO DỤC VẪN LÀ NIỀM TIN SAU
CÙNG CÒN SÓT LẠI
Tâm Nhãn
Đúng
16 giờ 48 phút, ngày 18 tháng 9 năm 2023 (mùng 4 tháng 8 năm Quý
mão), đạo hữu Tâm Thường Định gọi điện cho tôi, nói rằng Ban
biên tập của Hội đồng Hoằng Pháp ở Hải ngoại muốn làm “Kỷ yếu”
về cuộc đời thầy Tuệ Sỹ, mong tôi viết gì đó về thầy, và nhắc
tôi: “Ôn Tuệ Sỹ không thích ca ngợi về Ôn, viết đơn giản chân
chất bình dị thôi.”
Tối,
tôi ngồi lặng lẽ viết lại chương ký ức và ấn tượng trong tôi đối
với thầy. Nhớ gì viết nấy.
1
Tôi
trở thành người học trò của thầy thông qua con đường phiên dịch
Tam tạng từ năm 1989, lúc này tôi chỉ phụ tá Hòa thượng Đỗng
Minh dịch luật. Ấn tượng đầu tiên trong cuộc đời tôi là năm
2001, tôi tháp tùng Hòa thượng Đỗng Minh vào dự lễ húy kỵ của Ôn
Trí Thủ tại chùa Quảng Hương Già-lam, Sài Gòn. Ngày chính thức
tưởng niệm là mùng một tháng ba, nhưng Ôn Đỗng Minh thường vào
trước một hai hôm để thăm hỏi các vị Hòa thượng, Tôn túc trong
chùa. Vào một buổi sáng, tôi lên phòng thầy Tuệ Sỹ thăm, thầy
đang làm việc, mon men lại gần thấy thầy đang tham chiếu một tác
phẩm tiếng Pháp dày cộm khổ lớn trên tay. Tôi thưa hỏi sách gì?
Thầy nói đây là tác phẩm “Đại trí độ luận” (Le traité de la
Grande Vertu de Sagesse de Nāgārjuna - Mahāprajñāpāramitaśastra)
do Étienne Lamotte là Linh mục người Bỉ biên dịch và được ấn
hành từ 1944. Tiếp theo những năm sau đó, cũng ngày ấy tôi tháp
tùng Ôn Đỗng Minh vào Sài Gòn, như lệ cũ tôi đến phòng thầy.
Thầy hỏi tôi, ngoài đó đang làm gì. Tôi thưa, Ban phiên dịch
đang dịch tạng Đại chánh và bộ tùng thư Ấn Thuận v.v… Thầy hỏi,
ngoài Nha Trang có đào tạo tiếng Phạn không? “Dạ không”. Thầy
bảo không học Phạn ngữ biết gì mà dịch. Thầy tặng cho tôi bộ
Phạn-Hòa đại từ điển (梵和大辭典) của Wogihara Unrai (荻原雲來). Từ đó
tôi mới hiểu, Phạn ngữ vô cùng quan trọng cho những dịch giả đeo
đuổi con đường phiên dịch.
Năm
2013, thầy an cư tại Diên Lâm, Diên Khánh, Khánh Hòa, tôi chứng
kiến thầy nói tiếng Pháp với một anh Phật tử. Anh này là người
Việt nhưng làm trong Đại sứ quán, biết nhiều ngôn ngữ, đến thăm
thầy, thử trao đổi tiếng Pháp với thầy. Thầy kể về cuộc đời thầy
bằng tiếng Pháp rất lưu loát. Về sau có dịp tôi hỏi thầy học
tiếng Pháp từ lúc nào, thầy nói học lúc trẻ tại Sài Gòn.
Năm
2015, trước mùa an cư, tôi và Nguyên An vào thăm thầy và “cung
nghinh” thầy ra Nha Trang an cư. Chúng tôi thu xếp hành trang
giúp thầy, gồm y phục, laptop… Thầy nhắc, nhớ bỏ bộ luật Căn bản
thuyết nhất thiết hữu bộ tiếng Tây tạng vào đãy, ra đó làm việc.
Mùa an cư năm ấy, tôi, Nguyên An, Nguyên Thịnh… dịch Xuất gia,
An cư, Tùy ý (Tự tứ) bản Hán thuộc luật Căn bản thuyết nhất
thiết hữu bộ; thầy Tuệ Sỹ đối chiếu văn bản Tây tạng, hiệu đính
và chú giải. Phần “Xuất gia sự” bản Hán có 4 quyển, giữa quyển 3
và 4 mất một đoạn rất dài, chỉ trong bản Tây tạng đầy đủ, thầy
Tuệ Sỹ đã dịch, bổ túc vào bản Việt ngữ cho hoàn bị.
Cuối
tháng bảy Âm lịch năm 2022, thầy không khỏe phải nhập viện điều
trị vài hôm. Tôi vào hầu bên thầy, thấy thầy nằm học tiếng Nhật,
hoặc nghe đài tiếng Đức…
Thời
kỳ thầy mới về chùa Già-lam ở Sài Gòn, thầy kiến thiết thư viện,
mở lớp dạy luật, giáo lý và cổ ngữ, sinh ngữ… Người học từ đông
đến thưa dần, rồi giải tán, thầy cũng đi theo “một cuộc lữ”.
2
Lúc
tuổi hoa niên, chặng đường thế học của tôi dang dở, toán-lý yếu
toàn diện. Nghĩ rằng, vào chùa những thứ đó chẳng cần chi, vui
với câu kinh tiếng kệ sớm hôm là được. Nhưng tôi đã giật mình
khi gặp thầy, được thầy giảng cho nghe về kiến thức toán, lý,
khoa học não… liên hệ đến giáo nghĩa uyên áo trong Tam tạng
thánh giáo. Ngày nay trong giáo dục học đường của Phật giáo Việt
Nam, kể cả hai tông phái lớn là Phật giáo Bắc tông và Nam tông,
người am tường về tri kiến này gần như không có.
Tôi
nêu một vài điểm giáo lý mà thầy dạy cho tôi. Đơn cử, luận
Câu-xá (阿毘達磨俱舍論 1, T29n1558, p. 4b3) dẫn “Do tức lục thức thân,
vô gián diệt vi ý (由即六識身, 無間滅為意 - ṣaṇṇām anantarātītaṃ vijñānaṃ
yad dhi tan manaḥ), nghĩa: “Thức nào trong sáu thức, khi thành
quá khứ vô gián, thức ấy chính là ý”. Thầy giảng, khi chúng ta
nhìn một đóa hoa, ánh sáng mặt trời phản chiếu từ đóa hoa, đi
thẳng vào mắt chúng ta, với tốc độ 300.000 km/s, cùng hàng tỷ
hạt ánh sáng photon mỗi giây xuyên qua đồng tử người nhìn. Các
hạt ấy đi vào võng mạc. Trong võng mạc, 100 triệu tế bào hình
nón bắt đầu hoạt động. Các tế bào của võng mạc được cấu thành
bởi vô số các phân tử. Các phân tử trong võng mạc tiếp tục
truyền đến các nơron trong não dạng dòng điện truyền lan từ
nơron này đến nơron khác. Các dòng điện không ngừng lưu chuyển
trong các mạch nơron, khởi phát những luồng phân tử có nhiệm vụ
truyền đi các tín hiệu và dòng điện nổ lép bép khắp nơi. Trong
vòng vài phần nghìn giây hình ảnh đóa hoa được tái hiện trong
não của chúng ta, cuối cùng chúng ta nhìn thấy nó.
Hiện
tượng “dòng điện nổ lép bép khắp nơi” chính là tín hiệu điện hóa
học chuyển tải thông tin bởi nhiều nơron, trong Câu-xá lý giải
“vô gián diệt” – diệt sinh không gián đoạn, khi cái trước chìm
xuống mất thành quá khứ thì chính lúc ấy là “ý” hình thành, mà
trong Duy thức gọi là mạt-na (manas) hay thức thứ 7, tức “cái
tôi” đang thấy đóa hoa.
Năm
2016, tôi ra chùa Linh Sơn, Vạn Giã (Khánh Hòa, Việt Nam) dự lễ
Tự tứ và Vu-lan, nhân tiện tôi thỉnh thầy giảng cho tôi nghe về
“Thập huyền môn” (mười huyền môn) do nhà sư Pháp Tạng (643-712)
Tổ thứ ba của tông Hoa nghiêm thiết lập thời nhà Đường, tại
Trung Hoa. Trong đó, huyền môn đầu tiên là “Đồng thời cụ túc
tương ưng môn 同時具足相應門”. Nghĩa là nói về vạn vật đồng hiện hữu và
hiện khởi. Tất cả đều hiện hữu không có sự phân biệt giữa quá
khứ, hiện tại và vị lai… hợp nhất thành một thực thể, theo quan
điểm viên dung.
Thầy
nói rằng, đây là giáo lý chứng minh nhân quả đồng thời, tuy
nhiên người xưa nêu ra, nghiêng về lý nhiều hơn là sự. Bởi vì,
một người đứng soi gương, xung quanh có nhiều tấm gương, chúng
ta thấy tất cả hình của mình hiện trong các tấm gương cùng một
lúc, song ánh sáng đi có trước có sau không thể đồng thời. Nhưng
nếu chúng ta vay mượn thuyết cơ học lượng tử thì có thể chứng
minh điều này, gọi là “liên đới lượng tử” là hiện tượng trong đó
một cặp hạt nào đó có sự liên kết với nhau về trạng thái lượng
tử (vị trí, xung lượng, spin, ...). Nếu một hạt trong cặp này
được xác định là có một trạng thái nhất định nào đó thì qua đó
người ta có thể dự đoán trạng thái của hạt còn lại. Cơ học lượng
tử đã trao cho không gian đặc tính tổng thể. Các khái niệm “ở
đây” và “ở kia” trở nên vô nghĩa vì “ở đây” đồng nhất với “ở kia”.
Các nhà vật lý gọi đó là tính “không tách được”. Thuyết “liên
đới lượng tử” hay còn gọi là “rối lượng tử”, “vướng víu lượng tử”
(Quantum entanglement) là do nhà vật lý người Ireland là Bell
(John Stewart Bell, 1928 – 1990) thiết lập, cho nên nó còn tên
“bất đẳng thức Bell”. Và theo Phật học, nói nhân quả có đồng
thời, tức một người vừa phát tâm Bồ-đề là nhân thì quả có ngay
trong đó. Trong A-tỳ-đạt-ma Câu-xá luận (6, p. 33a22) đã chứng
minh điều này, gọi là thủ quả (取果) và dữ quả (與果). Thủ quả là
nhận quả, như một người nào đó vừa tạo nghiệp thì quả liền thành
hình, nghiệp là nhân, bất cứ sát-na nào nghiệp vừa thành hình
thì quả có ngay lúc ấy, gọi là thủ quả. Thời gian có điều kiện
cho ra quả, gọi là “dữ quả” (cùng có kết quả). Nghiệp và quả vẫn
là đồng thời. Mặc dù, quả có sau, chờ điều kiện chuyển biến
nhưng nghiệp vừa tạo có quả ngay tức thì. Nếu học thuyết này áp
dụng vào cuộc sống giáo dục, hay khảo sát các hiện tượng xã hội
có thể giúp ích cho con người, như nhìn một ai đó đang sống với
việc làm, hành động ra sao… sẽ dự đoán được tương lai của họ.
Thầy kể, thời gian thầy ở tù, thường nhờ Phật tử bên ngoài mua
sách toán gửi vô cho thầy đọc và nghiên cứu. Thầy nói, càng lớn
tuổi, có nhiều phương trình toán học cấp Đại học thầy quên dần
không giải được. Về toán học đối với tôi thì “mù tăm” mà nghe
thầy bàn về toán, nhắc tới từ “hàm sóng sụp đổ” khiến tôi phấn
khích vô cùng.
3
“…Một
cọng cỏ non yếu ớt, cố vươn mình đón bắt ánh sáng cho lẽ sống,
dưới sức nặng tàn bạo của khối đá vô tri lầm lì… Người viết đi
theo định nghiệp của mình. Hay của cả dân tộc?... Từ đó cho đến
nay, một, hoặc nhiều thế hệ đã ra đi, biến mất trong bóng tối
của đêm dài sinh tử; nhiều thế hệ mới ra đời. Phôi bào trong Như
Lai tạng vẫn liên tục kết rồi rã, thành rồi hoại. Dòng tương tục
vẫn tiếp nối không ngừng. Năm tháng vẫn như nụ cười trong mộng.”
Đó
là lời tựa thầy viết năm Phật lịch 2543, trong bản kinh
“Thắng-man giảng luận”. Tôi vẫn hiểu thầy, thầy luôn nghĩ, dù xã
hội đi đến chỗ tan nát và tuyệt vọng, giáo dục vẫn là niềm tin
sau cùng còn sót lại.
Mùng chín tháng tám năm Quý mão.
Tâm Nhãn
Mục Lục
-------------------------
Nguồn
Updated 2023