|
Một nhận định về
A-lại-da Thức
Ḥa thượng Walpola Ràhula (1)
Tỳ kheo Giác Nguyên dịch Việt
Trong Du Già
Phái (Yogacara) --
c̣n gọi là Duy Thức Tông(Vijnanavàda) --
có một khái niệm được xem là biểu tượng độc đáo nhất, đó chính là A Lại
Da Thức hay Tàng Thức (Alayavjnana) và
chính ngài Vô Trước (Asanga) đă
là người hoàn chỉnh nó.
Ngài Asanga đă
chia Thức Uẩn (trong ngũ uẩn) thành ba phần Tâm (Citta),
Ư (Manas) và
Thức (Vijnana) trong
khi ở truyền thống Phật giáo Thượng Tọa Bộ th́ ba danh từ này đều trỏ
chung một thức uẩn. Kể cả Hữu Bộ(Sarvastivada) cũng
đồng ư như vậy. Đến Kinh Lăng Già(Larikavatarasùtra), một tác
phẩm đặc biệt của Phật giáo Bắc Tông, cũng xem ba chữ này là các từ đồng
nghĩa, dù trong vài bài kinh có nói tới những cái giống như là ư nghĩa
riêng biệt của từng chữ. Ngài Thế Thân(Vasubandhu) cũng
từng xác định trong Vimsativijnaptimatrasiddhi rằng
ba thuật ngữ này đồng nghĩa nhau. Nhưng theo chỗ nhận định của tôi(Walpola Ràhula) th́
ba danh từ này lột tả những khía cạnh khác nhau của Thức Uẩn nên ta khó
mà xem chúng như những chữ đồng nghĩa một cách dễ dăi như vậy.
Để bảo vệ quan điểm của ḿnh, ngài Asanga phân
tích Thức Uẩn như sau:
"Thế nào là Thức Uẩn (Vijnana-skandha)?
Đó là Tâm (Citta), Ư (Manas)và
Thức (Vijnana).
"Thế nào là Tâm (Citta)?
Đó chính là Tạng Thức (Alayavijnana) bảo
lưu tất cả chủng tử (Sarvabijaka),
trưởng dưỡng tất cả tập khí(Vàsanaparibhavita) của
tất cả Uẩn (Skandha) Xứ (Ayatana) và
Giới(Dhàtu).
"Thế nào là Ư (Manas)?
Chính là sở tri của Tạng Thức và luôn tự có khuynh hướng chấp ngă (Manyanat-maka) với
sự tập nhiễm của bốn thứ phiền năo: Ngă Kiến (Atmadrsti),
Ngă Aùi (Atmasneha),
Ngă Mạn(Asmimàna) và
Vô Minh (Avidya).
"Thế nào là Thức (Vijnana)?
Đó chính là Lục Thức (Sadvijnanakàyah):
Nhăn thức (Caksuvijnana),
Nhĩ thức (Srota), Tỷ
thức (Ghrana), Thiệt
thức(Jivha), Thân thức (Kàya) và
Ư thức (Manovijnana)".
Như vậy chữ Thức (Vijnana) chỉ
cho Lục Thức, 6 phản ứng đơn thuần của các nội căn đối với lục trần
(ngoại cảnh). Đây chính là đặc điểm nổi bật nhất của Thức Uẩn. Ư (Manas) th́
ám chỉ các thuộc tính phụ thứ như suy tư, tầm cầu, tính toán, … của Thức
Uẩn. C̣n Tâm (Citta) tức
A Lại Da Thức th́ lại phản ảnh khía cạnh sâu kín, tinh khôi, tinh tế
nhất của Thức Uẩn. Nó bảo lưu tất cả dấu ấn quá khứ và cưu mang trọn
vẹn những tiềm lực thiện ác trong tương lai mai này. Kinh Giải Thâm Mật(Sandhinimmocana-sùtra) xác
nhận chính Tạng Thức mới là Tâm (Citta),
tiếng Tây Tạng là Sems.
Đại đa số người học Phật đều cho Tàng Thức là tác
phẩm của riêng Đại Thừa Giáo, không có cơ sở trong Phật giáo nguyên
thủy. Nhưng trongMahayana-sangraha chính
ngài Asanga đă
viết rằng: "Theo Thinh Văn Thừa, ba chữ này là đồng nghĩa". Ngài c̣n
trích đoạn Tăng Nhất A Hàm(Ekottaragama): "Chúng sinh phàm phu
thích tích lũy (Alayarata),
ưa cất giữ (Alayarama),
hoan hỷ trong ư nghĩ bảo lưu (Alayasammudita),
thích thú trong sự cất giấu (Alayabhirata).
Khi Chánh pháp được thuyết giảng nhắm đến sự diệt trừ khái niệm cất giấu
đó th́ chúng sanh mới để tâm lắng nghe bằng một sự lóng tai thật sự (Srotam
avadadhanti) và từ đó an
lập tâm tư vào trí tuệ giác ngộ (Ajnacittam upasthapayanti),
sống hành tŕ theo Chánh pháp. Khi đức Như Lai xuất hiện ở đời, điều kỳ
diệu hy hữu này cũng sẽ xuất hiện ở đời".
Giáo sư Lamotte đă đánh đồng đoạn kinh trên đây của
Tăng Nhất A Hàm với đoạn kinh sau này của Tăng Chi Bộ (Anguttaranikàya)(2)
"Alayarama bhikkhave pajà àlaya-ratà
àlayasammudità sa tathàgatena anàlaye dhamme desiyamàne sussuyati sotam
odahati annacittam upatthapeti. Tathàgatassa bhikkhave arahato
sammà-sambuddhassa pàtubhàvo ayam pathamo acchariyo abbhùtadhammo
pàtubhavati".
Bên cạnh đoạn kinh trên đây, thuật ngữ Alaya c̣n
xuất hiện ở vài nơi khác trong kinh điển Pàli cũng
với ư nghĩa tương tự. Các tập sớ giải Atthakathàcủa
Phật giáo Nam truyền giải thích chữ Alaya là
sự mê đắm trong năm dục trần, và chỉ vậy thôi, không c̣n ư nghĩa chuyên
môn nào khác. Nhưng ư nghĩa trên đây trong các sớ giải Pàli cũng đă
nhắc tới một khía cạnh của A Lại Da Thức.
Trong kinh Lăng Già (Lankavatara-sutsa) cho
rằng thuật ngữ Như Lai Tạng (Tathàgatagarbha) đồng
nghĩa với A Lại Da Thức, có bản thể thường trong sáng (Prakrtipra-bhasvara) và
hằng thanh tịnh (Prakrtipari-suddha)nhưng
luôn hiển hiện trong h́nh thức tạp nhiễm bởi nó bị vấy bẩn từ các phiền
năo ngoại lai (Agantuka klesopaklistatàya).
Trong Anguttara-nikàyađức
Phật cũng xác nhận cái gọi là tâm thực ra là trong sáng (Pabhassara)nhưng
do bị tập nhiễm bởi các phiền năo ngoại lai (Agantukehi
upakkilesehi upakkilittham) nên
không c̣n thanh tịnh. Từ đó ta có thể hiểu các thuật ngữ Như Lai Tạng
hay A Lại Da Thức hoặc Tâm (Citta) chỉ
là những từ đồng nghĩa, nhưng phải với những giải thích tương tự trên
đây, không hơn không kém.
Cũng có không ít trường hợp nhiều người cho rằng A
Lại Da Thức là một cái Tôi của đạo Phật, một h́nh thức Linh Hồn thường
hằng bất biến và đây chính là điều sai lầm phải tránh như trường hợp tỳ
kheo Sati đă bị đức Phật quở trách khi chấp sai Thức Uẩn là Linh Hồn,
Bản Ngă.
Theo ngài Asanga,
chứng đạt Níp Bàn chính là sự chuyển hóa A Lại Da Thức (Asrayapravrtti).
Ư niệm này cũng có thể được xem là tương đương với thuật ngữ Alayasamugghàta (đoạn
tận sở tập) đă được kinh điển Pàlixem
là chữ đồng nghĩa với Nibbàna (Níp
Bàn).
Thuật ngữ Alayavijnanapravrtti thỉnh
thoảng cũng được thay thế bằng chữB́japravrtti (sự
chuyển hóa các chủng tử). Chử B́ja ở
đây chỉ choSamklesika dharmab́ja (chủng
tử phiền năo) cái tạo nên ḍng luân hồi. Một người chuyển hóa được các
chủng tử th́ lập tức chứng ngộ Níp Bàn. Ngay trong kinh điển Pàli,
chữ Kh́nab́ja (đoạn
chủng) vẫn được dùng để gọi bậc La Hán, người đă phá nát các mầm móng
phiền năo.
Qua những ǵ vừa tŕnh bày, khái niệm A Lại Da Thức
xem ra đă có cơ sở trong giáo lư nguyên thủy nhưng dĩ nhiên phải với một
định nghĩa rơ ràng, lành mạnh.
(dịch xong trưa 2 tháng 8 năm 2001)
(1)Tác
giả cuốn "What Buddha Taught" (bản dịch của Sư Cô Trí Hải là "Đạo Phật,
Con Đường Thoát Khổ")
(2) Ang. II, P. 131
-ooOo
NGHIÊN CỨU PHẬT PHÁP
|