VI DIỆU PHÁP

Đại cương Thắng Pháp

A. THUYẾT PHÁP

Xin thưa quí vị, hôm nay vô cùng hoan hỉ khi đạo tràng Phật Học Chuyên Đề được khai mở, và tôi cũng được cái may duyên là giảng thời pháp đầu tiên. Thật ra, gọi là Phật Học Chuyên Đề, và với sự thảo luận của ban tổ chức, ban điều hành đạo tràng, tôi đảm nhận phần giảng dạy về Abhidhamma. Hôm nay xem như là bài giảng đầu tiên khai mở, Tựa đề bài này là Đại cương về Thắng Pháp.

Trong Kinh Pháp Cú câu số 60, Đức Phật có dạy rằng: Đêm dài với người khó ngủ, đường dài với người lữ hành mỏi mệt. Nhưng con đường luân hồi thật là dài với những ai không thông diệu pháp. Danh từ diệu pháp ở đây khác với danh từ Thắng pháp như thế nào. Bởi v́ môn học luận A-tỳ-đàm này có nhiều danh từ nào được nói lên. Tuy rằng ư nghĩa th́ giống nhau nhưng có những nét sai biệt khác nhau. Xin thưa quí vị, chữ Diệu Pháp từ chữ Pāḷi là Saddhamma. Chữ  Saddhamma từ chữ SU (tốt đẹp) + DHAMMA (pháp). Pháp tốt đẹp, nên dịch là Diệu Pháp. Nhưng Diệu Pháp ở đây không hẳn chỉ là Tạng Luật,  mà Diệu Pháp ở đây bao gồm những pháp dẫn đến sự giác ngộ. Cụ thể là Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần, Tứ Như Ư, Ngũ Quyền, Ngũ Lực, Thất Giác Chi và Bát Chánh Đạo. Tất cả những pháp môn này đều có bàng bạc khắp nơi ở trong Kinh cũng như trong Luật và trong Luận. Đó là ư nghĩa về chữ Diệu Pháp. Chữ Diệu Pháp này không hẳn chỉ riêng tạng Luận mà bao gồm cả ba tạng. Nhưng để nói về tạng Luận th́ có nguyên từ khác gọi là Abhidhamma. Abhidhamma từ chữ Abhi (cao tột) + dhamma (pháp). Abhidhamma là pháp cao tột, nên được dịch là Thắng Pháp. Chính tạng Luận này, danh từ Thắng pháp ám chỉ cho tạng Luận này một cách rơ ràng hơn và đặc biệt hơn. Và ở trong tạng Luận này được nói cái ǵ? Xin thưa quí vị là có một từ khác để chỉ tạng Luận này, đó là chữ ‘parāmaṭṭha. Parāmaṭṭha từ chữ parāma (cao tột) + aṭṭha (điều đó, vật đó, nghĩa đó, lư đó). Do đó  chữ ‘parāmaṭṭha’ được dịch là ‘siêu lư’. Như vậy khi để chỉ tạng Luận th́ thường thường người ta dùng một từ gọi là Abhidhamma là Thắng Pháp, c̣n những từ như ‘diệu pháp’, ‘siêu lư’ ‘vô tỷ pháp’ v.v..., chỉ là những khía cạnh riêng của tạng Luận này.

Khi cuộc kết tập Tam Tạng lần thứ ba th́ các ngài mới phân giáo pháp của Đức Phật ra thành 3 giỏ, gọi là piṭaka. Trong thời Đức Phật không có cái gọi là Tạng Luận, mà trong thời Đức Phật chỉ có Pháp và Luật, như Kinh văn nói rằng: “Vị tỳ kheo trong Pháp và Luật này.” Trong thời Đức Phật không có Kinh cũng không có Luận mà chỉ có Pháp. Nhưng khi cuộc kết tập Tam Tạng lần thứ ba th́ các ngài mới phân Pháp và Luật của Đức Thế Tôn thành ba tạng hay ba giỏ (piṭaka). Giỏ thứ nhất chưa đựng về Luật nên gọi là Vinaya Piṭaka, chúng ta tạm dịch là Tạng Luật. Giỏ thứ hai chứa lấy những lời Phật dạy theo ư nghĩa sự thật của cuộc đời lẫn sự thật của các pháp và các ngài gọi tạng này là Sutta Piṭaka (tạng Kinh) hay là Nikāya. Và các ngài phân thêm một giỏ thứ ba để chứa đựng những pháp cao tột. Giỏ này được gọi là Tạng Luận. Toàn bộ lời dạy của Đức Phật được kết tập lại là 82 ngàn pháp uẩn. Chúng ta nói là Pháp uẩn chứ không phải là pháp môn. Bởi v́ trong cái từ dhammakkhandha hay dhammakkhandhā, th́ dhamma: pháp, khandha: uẩn, nhóm, khối, đống, một tập hợp. Chữ ‘dhammakkhandhā’ này không thể dịch là ‘pháp môn’, v́ pháp môn chỉ đơn độc là một pháp c̣n dhammakkhandhā (pháp uẩn) này là một nhóm pháp, và nhóm đó phải từ 8 pháp trở lên. Tám pháp trở lên được gọi là nhóm pháp. Cho nên khi nói rằng Đức Phật thuyết giảng trong 45 năm gồm 84 ngàn pháp môn th́ chưa chuẩn lắm. Mà phải nói rằng trong 45 năm Đức Thế Tôn thuyết giảng tất cả là 82 ngàn pháp uẩn.

Khi năy chúng tôi nói quí vị là 84 ngàn pháp môn mà giờ chuyển sang 82 ngàn pháp uẩn? Xin thưa quí vị, ở trong tạng Kinh, phần Trưởng Lăo Tăng Kệ, nói về đức Ānanda, th́ đức Ānanda đă xác nhận rằng: Tự thân tôi nghe từ Đức Thế Tôn 82 ngàn pháp uẩn, c̣n hai ngàn pháp uẩn c̣n lại tôi nghe từ các bậc đồng phạm hạnh. Như vậy th́ chính thức Đức Thế Tôn thuyết giảng trong 45 năm hoằng pháp của Ngài là 82 ngàn pháp uẩn. Và hai ngàn pháp uẩn c̣n lại là các chư thánh đệ tử, chư thánh A-la-hán hoặc các đức Xá Lợi Phất, Mục Kiền Liên, Vangīsa… thuyết giảng và được Đức Thế Tôn chấp nhận đó là chánh pháp. Điển h́nh như chúng ta thấy trong bài Tiểu Kinh Phương Quảng, bà Dhammadinnā  đă thuyết giảng cho nam cư sĩ Visākha về tiến tŕnh của các pháp và sau đó nam cư sĩ Visākha đă đắc thánh A-na-hàm, đă tới đảnh lễ Đức Thế Tôn tŕnh bày lại cuộc thảo luận của ḿnh với bà  Dhammadinnā và lặp lại những câu hỏi cũng như câu trả lời của bà Dhammadinnā  đối với ông. Bấy giờ Đức Thế Tôn dạy rằng: “Này nam cư sĩ, nếu như con hỏi ta những câu hỏi như thế này th́ ta cũng chỉ đáp như con gái của ta mà thôi.” Cái danh từ ‘con gái’ hay ‘con trai’ Như Lai là xác nhận phẩm vị A-la-hán của vị ấy. Trong kinh tạng chúng ta thường bắt gặp những đoạn kinh, con trai hay con gái của Như Lai th́ chính vị ấy được Đức Thế Tôn xác nhận đó là bậc thánh A-la-hán. C̣n nếu như trong kinh tạng chúng ta bắt gặp từ “đệ tử Như Lai” th́ chúng ta hiểu ngay rằng đó là bậc thánh Hữu học. Tức là từ bậc A-na-hàm tới bậc Dự Lưu. Hoặc giả chúng ta cũng ngay trong Trung Bộ Kinh bài Kinh Nhất Dạ Hiền, khi Đức Phật thuyết giảng một cách tóm tắt th́ chư tỳ kheo đă t́m đến đức Mahākaccāyana để hỏi về ư nghĩa sâu rộng.

Đức Mahākaccāyana giảng giải sâu rộng về bài Kinh Nhất Dạ Hiền giả và được tŕnh bày lên Đức Thế Tôn. Đức Thế Tôn dạy rằng, nếu các thầy hiểu Như Lai ư nghĩa bài kinh Nhất Dạ Hiền Giả này th́ Như Lai cũng trả lời như con của Như Lai. Nói cách khác là hai ngàn pháp uẩn đó không phải tự Đức Thế Tôn thuyết, mà các vị thánh A-la-hán thuyết được Đức Thế Tôn chấp nhận đó là chánh pháp. Như vậy tổng cộng là 84 ngàn pháp uẩn. Tạng Luật chiếm 21 ngàn pháp uẩn. Tạng Kinh chiếm 21 ngàn pháp uẩn và tạng Luận chiếm 42 ngàn pháp uẩn.

Tạng Luận mà chúng ta đang đề cập tới hay bộ môn chúng ta sắp sửa học tới xin nhắc lại rằng đó là pháp môn cao tột được gọi là Abhidhamma (Thắng pháp). Nguyên nhân có từ này là pháp môn này được Đức Thế Tôn ngự lên cơi trời Đạo Lợi thuyết giảng cho thiên tử Māyā tiền thân của vị thiên tử Māyā này chính là hoàng hậu Māyā. Vị thiên tử này đang sống ở cơi Trời Đâu Suất và được vua trời Đế Thích cung thỉnh ngự tới cơi Đao Lợi. Khi thiên tử Māyā đi đến ngồi nơi được soạn sẵn, Đức Thế Tôn nghĩ rằng những ḍng sữa trong ḍng luân hồi mà vị thiên tử này đă nuôi dưỡng Như Lai, nuôi dưỡng những tiền kiếp của Như Lai nhiều hơn cả biển của đại dương, vậy th́ Như Lai có pháp môn nào để có thể đền đáp những ḍng sữa ngọt đó khi Như Lai c̣n phải trôi lăn trong ḍng sinh tử luân hồi để nuôi dưỡng Như Lai. Ngài chỉ thấy rằng có cái pháp cao tột này (tức tạng Thắng Pháp) mới đủ sức để mà đền đáp công ơn nuôi dưỡng của thiên tử Māyā khi c̣n trôi lăn trong ḍng luân hồi. Chính do nguyên nhân đó cho nên bộ pháp này hay tạng pháp này được gọi là Thắng Pháp.

Chúng tôi nói như vậy để quí vị khi học pháp môn này chúng ta nắm bắt được những duyên khởi và tên gọi của nó, tại sao nó có như vậy, tại sao những pháp môn này được gọi là như vậy. Ngoài ra sở dĩ được gọi là Thắng pháp do 6 nguyên nhân:

1. Nguyên nhân thứ nhất là sau khi Đức Thế Tôn thành tựu quả vị Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác ở dưới cội Bồ đề và trong 49 ngày Ngài ngự chung quanh gốc cội Bồ đề đó để an hưởng hương vị giải thoát th́ tuần lễ thứ tư, Ngài ngồi ở một góc cạnh cây Bồ đề, bấy giờ Ngài suy ngẫm tới những pháp môn sâu thẳm nhất. Ngài dùng trí tuệ của ḿnh để quán xét những pháp môn sâu thẳm nhất, nghiền ngẫm những pháp môn sâu thẳm nhất. Và Ngài nghiền ngẫm bộ pháp môn này ṛng ră bảy ngày. Tức là những pháp môn khác Ngài không cần phải nghiền ngẫm một cách sâu xa với thời gian dài như vậy. Nhưng với pháp môn này th́ ngài phải suy ngẫm trọn vẹn bảy ngày, tới tận cùng của các pháp. Do nguyên nhân đó nên được gọi là Thắng pháp, mà thậm chí đức Xá Lợi Phất là người am tường pháp môn Thắng pháp này đầu tiên, trong bài kinh Tự Hoan Hỷ trong Trường Bộ Kinh chính đức Xá Lợi Phất đă tán thán Đức Thế Tôn rằng: “Bạch Thế Tôn những pháp sau cao hơn pháp trước, và những pháp Đức Thế Tôn thuyết giảng ra phân tích đến mức độ không c̣n chỗ nào có thể phân tích được nữa”, đến tận cùng như vậy. Đây là lời tán thán của đức Xá Lợi Phất trong bài kinh Tự Hoan Hỷ. Do phải suy ngẫm cả một tuần lễ như vậy, cho nên đây là nguyên nhân pháp môn này được gọi là Thắng Pháp.

2. Nguyên nhân thứ hai. Khi Ngài suy xét tới những pháp môn này th́ hào quang sáu màu của Ngài tự phát sanh. Có nghĩa là càng suy ngẫm th́ Ngài càng cảm thấy hân hoan. Tâm hoan hỷ của Ngài đối với pháp tăng thượng một cách đặc biệt đến nỗi hào quang 6 màu tự tỏa sáng. Một số giáo thọ sư cho rằng khi Ngài thuyết lên tạng Thắng Pháp Ngài tận dụng đến nhất thiết trí của Ngài để phát huy hết năng lực của Diệu Pháp. Xin thưa không phải. Khi đó Ngài thuyết giảng tạng Thắng Pháp này  một cách thoải mái vô cùng không bị g̣ bó không bị ép buộc. Nói cách khác là cũng không cần phải t́m từ để thuyết giảng, nói cách khác nữa là khi nghĩ tới đâu th́ pháp tuôn ào ạt ào ạt như nước suối từ trong nguồn tuôn chảy ra vậy, và tâm Ngài rất là hân hoan và Ngài nhận thức rằng hội chúng này nhận thức được pháp này, tâm Ngài càng hoan hỷ nữa, mặc dù cao tột vậy mà hội chúng nhận thức được nên tâm Ngài càng hoan hỷ và do vậy hào quang tự phát sáng lên chứ không phải Ngài tận dụng hết trí của ḿnh. Thật ra trí của Ngài rất là thoải mái. Khi đó nhất thiết trí của Ngài hiển lộ một cách tự nhiên, tâm Ngài rất là thoải mái. Các Ngài giáo thọ sư tŕ tụng bộ Tạng Luận, có ví dụ như vậy, khi Đức Phật thuyết giảng về tạng Luật th́ ví như là con đại ḱnh ngư phải trườn trên mặt đất để đi tới mục đích. Nghĩa là đối với tạng Luật, với tâm bi mẫn của Đức Thế Tôn, mặc dù Ngài chế định học giới cho chư đệ tử để ngăn trừ đi những ác pháp và để thực hiện nên những thiện pháp, giải trừ đi những tội lỗi nhỏ nhặt nhất trong đời sống hành pháp th́ tâm Ngài cũng không vui chút nào. Buộc ḷng mà thôi. Vậy cho nên, một trong ba mươi thông lệ của Đức Phật, bao giờ có một sự kiện nào khởi lên th́ đấng Như Lai mới chế định học giới. C̣n nếu như chư tăng sống cuộc sống tốt đẹp không vi phạm về thân, không vi phạm về nữ hay không vi phạm về điều tác tệ do thân nữ th́ Như Lai không hề chế định ra học giới. Mỗi khi chế định học giới như vậy mặc dù với tâm tế độ, ngăn trừ những ác pháp sẽ sanh khởi trong tương lai hoặc diệt trừ đi ác pháp đang có trong hiện tại, làm phát triển những tâm thiện hay những thiện pháp sẽ sanh trong tương lai, hay làm tăng trưởng những thiện pháp đang có trong hiện tại, nhưng Đức Phật không vui. Bởi v́ nó có bị cấm chế. Học được tạng Luận chúng ta mới thấy được tâm bi mẫn của Đức Thế Tôn đối với hàng đệ tử. Đặc biệt như vậy. Các ngài ví dụ khi chế định tạng Luật giống như con đại ḱnh ngư trườn trên đất để đi tới mục tiêu. Nhưng khi thuyết giảng về tạng Kinh th́ bấy giờ giống như con đại ḱnh ngư đi vào trong một sông lớn. Mặc dù thoải mái hơn khi phải trườn trên mặt đất. Ngài thuyết giảng về Tứ Niệm Xứ, Tứ Chánh Cần hay Tứ Như Ư, Ngũ quyền, Ngũ lực, Bát Chánh Đạo, tâm Ngài vẫn hân hoan, bởi v́ đó là những pháp môn dẫn tới sự giải thoát.  Nhưng ḍng sông có rộng chăng nữa cũng không đủ không gian để cho con đại ḱnh ngư này vẫy vùng, chỉ là thoải mái hơn trườn trên đất thôi. Và khi đại ḱnh ngư ra biển lớn th́ với một không gian rộng lớn, đại ḱnh ngư càng hoan hỉ và thỏa sức vẫy vùng trong biển lớn đó. Như thế nào cũng vậy, khi nói tới tạng thắng Pháp th́ tâm của Đức Thế Tôn hân hoan vui thích ví như con đại ḱnh ngư kia đi vào biển lớn vậy. V́ sao vậy? V́ ở trong tạng Luận sẽ không t́m thấy những địa danh mà chỉ nói lên những pháp chân đế như uẩn xứ giới đế. Chứ không nói tên những địa danh giống như xứ Magadha, xứ Kosala, vua B́nh Sa vương, vua Ba Tư Nặc, ông Cấp Cô Độc, bà Visākhā… mà chỉ nói sắc thọ tưởng hành thức, ngũ uẩn, mười hai xứ, hoặc đây là khổ, đây là sự diệt khổ, đây là con đường đưa tới sự diệt khổ, đây là chấm dứt khổ v.v... . Nói theo thực tính pháp chứ không nói tới địa danh hay những cái chế định. Cho nên, tâm lư rất là thoải mái giống như đại ḱnh ngư.

Ví dụ, phải giải thích cho một người làm ruộng hiểu thế nào có mưa, th́ nhà học giả  nàyphải giải thích như thế nào đó để người nông dân hiểu rằng những giọt mưa đó chẳng qua là sự kết hợp của khí Hydro cộng với Oxy. Nhưng đối với nhà khoa học th́ chỉ cần nói H2O là xong. Hay là nói tới những nguyên tố của những kim loại, không cần phải nói vàng, nói đồng ǵ hết, chỉ nói tên nguyên tố là người ta hiểu. Như thế nào cũng vậy. Khi nói tới tạng Thắng Pháp th́ Đức Phật dùng những danh từ chỉ thực tính pháp nên tâm ngài rất thoải mái, không phải bận rộn nữa, không phải bận rộn giống như một học giả phải làm thế nào giải thích được cho người nông dân hiểu. Chỉ cần nói ra đại chúng hiểu được là tâm ổng rất là vui, thích thú. Cho nên,  khi Đức Phật thuyết giảng tạng Thắng Pháp này th́ hào quang 6 màu tự xuất hiện, chứ không cần phải ép trí để thể hiện một năng lực của Đức Phật. Chưa có pháp môn nào ngoại trừ pháp môn Thắng Pháp này mà hào quang xuất hiện, do đó đây là nguyên nhân thứ hai.

3. Nguyên nhân thứ ba

Trước khi thuyết tạng Thắng Pháp này th́ Đức Thế Tôn dùng song thông lực để nhiếp phục ngoại đạo. Trong đời Đức Phật chỉ có một lần này thôi. Trong đời Đức Phật chỉ có một lần thể hiện thần thông hai lượt. Những thần thông khác th́ Ngài sử dụng thường. Tức là cùng một lúc mà nước và lửa từ thân Ngài phún ra, hay hào quang xanh hào quang đỏ từ thân người Ngài phún ra. Ở đây có một số sách nói rằng Đức Thế Tôn dùng song thông lực để chiến thắng chúng ngoại đạo. Xin thưa, dùng từ đó không đúng. Tại sao vậy? Chúng ngoại đạo có tranh đấu được với Đức Thế Tôn đâu mà nói Đức Thế Tôn chiến thắng. Họ chỉ thấy uy lực của Đức Thế Tôn là đă khiếp sợ, chứ không phải Đức Phật chiến thắng, mà là nhiếp phục. Và trong đời Đức Thế Tôn tại sao có một lần như vậy? Ngài phải có một lần như vậy là để cho duy tŕ lại được cái hạt giống của Phật Chánh Đẳng Giác. Bởi v́ khi thấy Đức Thế Tôn sử dụng song thông lực như vậy th́ hàng đại chúng hân hoan thích thú muốn được một năng lực đặc biệt như Đức Thế Tôn. Trong hàng trăm hàng ngàn hàng chục ngàn vị thiện nam tử có mặt trong hội trường đó sẽ phát nguyện: Bạch Đức Thế Tôn con sẽ phát nguyện thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác như Đức Thế Tôn trong tương lai. Một trăm, một ngàn, hai chục ngàn, hai trăm ngàn… ít ra cũng c̣n sót lại vài hạt giống trong tương lai. Giống như chúng ta cầm một nắm mè trong tay thảy lên cành cây, phần lớn hạt mè rớt xuống nhưng ít ra cũng c̣n năm ba hạt mè đọng trên cành cây. Do thể hiện song thông lực như vậy để lưu giữ lại hạt giống của đấng Chánh Đẳng Chánh Giác cho nên đó là một trong những nguyên nhân mà tạng Thắng Pháp này thuyết ra được gọi là Thắng Pháp.

4. Nguyên nhân thứ tư.

Thuyết được tạng Thắng Pháp này mới đủ sức để đền đáp công ơn của bà Hoàng hậu Maya. Chính v́ sự kiện Đức Thế Tôn thuyết giảng tạng Thắng Pháp ở cung trời Đạo Lợi cho nên có một số không hoan hỉ tạng Thắng Pháp, v́ lư do nào đó không biết nhưng xuyên tạc là tạng Thắng Pháp này không có thật. Hoặc giả có người nói tạng Thắng Pháp này không đưa đến sự giải thoát. Chúng tôi đă từng nghe luận điệu này. Và chúng tôi xin trả lời rằng, ai nói tạng Thắng Pháp  này không đưa tới sự giải thoát th́ xem như người đó vô t́nh phỉ báng giáo pháp này là một điểm, vô t́nh phỉ báng Đức Thế Tôn là điểm thứ hai. Chính trong bộ Atthasālinī tức là bản Sớ giải của ngài Buddhaghosa khi giải về Bộ Pháp Tụ, ngài Buddhaghosa đă nói rằng người nào bài bác bản Thắng Pháp đồng nghĩa người đó bài bác Nhất thiết trí của Đức Phật, tức bài bác Toàn giác trí của bậc Chánh Đẳng Giác. Một khi bài bác nhất thiết trí th́ quí vị sẽ thấy hậu quả không lấy ǵ làm vui. Chúng tôi nói rằng người nào nói tạng Thắng Pháp này không đưa tới sự giải thoát th́ xem như là hủy báng giáo pháp này. Tại sao? Chúng tôi vừa tŕnh bày với quí vị rằng là toàn bộ lời dạy của Đức Phật trong 45 năm hoằngpháp là 82 ngàn pháp uẩn, 2 ngàn pháp uẩn c̣n lại đức Ānanda thuyết giảng và Đức Thế Tôn chấp nhận. Tạng Luật 21 ngàn pháp uẩn, tạng Kinh 21 ngàn pháp uẩn, tạng Luận 42 ngàn pháp uẩn; cho rằng tạng Thắng Pháp này không đưa tới sự giải thoát th́ đồng nghĩa cho rằng phân nửa gp này không đưa tới sự giải thoát. Chính trong Tương Ưng Kinh Đức Phật dạy: “Này Ānanda, toàn bộ giáo pháp này là thiện bạn hữu, thiện giao du.” Chính đức Ānanda cũng sai lầm, bởi ngài là bậc thánh Hữu học, ngài trả lời vua Ba Tư Nặc rằng là toàn bộ giáo pháp này phân nửa là thiện bạn hữu, thiện giao du, thiện bạn lữ. Đức Thế Tôn dạy rằng: Này Ānanda đừng nói như vậy, toàn bộ giáo pháp này là thiện bạn hữu, thiện giao du, nêu lên đời sống phạm hạnh. Tức là, người ta hỏi rằng, vậy th́ những phiền năo, những tham, sân, si không lẽ dẫn tới giải thoát? Xin thưa, nó cũng làm duyên cho giải thoát. Quí vị nghe cũng thấy tức cười, nhưng mà thật sự như vậy. Chúng tôi dẫn chứng cho quí vị nghe. Ngay cả bài kinh Tứ Niệm Xứ phần Niệm Pháp trong Pháp th́ có phần niệm Năm Triền Cái. Tức là quán xét về cái Tham Dục Cái, Hoài Nghi Cái, Hôn Trầm Cái, những pháp chướng ngại đó là bất thiện pháp, nhưng vẫn quán xét nó, tức là nó làm duyên.  Hôn trầm là một pháp xấu nhưng cũng cứ quán nó, xem xét nó là cảnh. Hoài nghi cũng là một pháp xấu, quán xét nó, xem nó là cảnh. Sân hận, Phóng dật, Tham dục, toàn là những pháp xấu, bất thiện, nhưng vẫn làm duyên để quán xét dẫn tới đạo quả được. Hoặc trong phần Niệm Tâm của Tứ Niệm Xứ,  tâm có tham biết rằng tâm có tham, tâm có sân biết có sân, tâm bất thiện biết rằng tâm bất thiện v.v... để từ đó tránh xa không làm, để từ đó tiêu diệt nó, th́ nó cũng làm duyên để dẫn dắt tới cảnh giới an lạc niết-bàn. Cho nên Đức Phật dạy này Ānanda toàn bộ giáo pháp này là Thiện bạn hữu, thiện giao du. Nhưng nếu nói rằng tạng Luận 42 ngàn pháp uẩn không đưa tới giải thoát th́ đồng nghĩa cho rằng 42 ngàn pháp uẩn kia vô tích sự, vô bổ ích, vô t́nh hủy báng pháp.

Thế nào là vô t́nh hủy báng pháp? Xin thưa. Khi Đức Phật ngự lên cung trời Đao Lợi mục đích là tế độ vị thiên tử Māyā là tiền thân hay hậu thân của hoàng hậu Māyā mẹ của ḿnh. Người mà ngay trong hiện kiếp Ngài tái sanh vô ḷng mẹ. Hoàng hậu Māyā chăm chút lo ǵn giữ, nâng niu ngài. Dĩ nhiên do phước của Ngài rồi, nhưng tâm lư của bà lúc nào cũng muốn bảo vệ đứa con là tâm lư rất đáng trân trọng. Đức Phật luôn luôn dạy, có hai hạng người khó t́m trên đời: Hạng người ra ơn mà không cần nghĩ, và hạng người tri ân. Đối với người không có ơn thâm trọng với Ngài, Ngài đem tạng Kinh, Ngài đem tạng Luật để thuyết giảng giúp cho người đó chứng đạt được đạo quả từ Dự Lưu đến A-la-hán. Nhưng đối với thân mẫu của Ngài hay là hậu thân là vị thiên tử Māyā Ngài đem một pháp môn vô bổ, vô ích, không đem lại giải thoát cho để đền đáp công ơn của bà hoàng hậu Māyā  như vậy th́ có xứng đáng, có đúng là một vị Phật Chánh Đẳng Giác hay không? Nói như vậy vô t́nh hủy báng một vị Phật. Người không có công ơn với Ngài, không có t́nh thâm nghĩa trọng ǵ với Ngài chỉ có duyên lành đạo quả với Ngài th́ Ngài vẫn tiếp tục tế độ để chứng đắc đạo quả. C̣n hoàng hậu Māyā người sanh ra Ngài, có ơn trọng mà Ngài đem pháp môn vô bổ không đem đến giải thoát để đền đáp công ơn của bà được sao? Nói như vậy là vô t́nh hủy báng Phật, chê Đức Phật là người không có pháp tri ân. Vô cùng nguy hiểm, cực kỳ nguy hiểm.

5. Nguyên nhân thứ năm

Ngài thích ṛng ră trong ba tháng tính theo thời gian nhân loại. Tức là thời gian Ngài thuyết giảng tính theo trên cơi trời Đao Lợi th́ không bao lâu cả nhưng tính theo thời gian của nhân loại này th́ khoảng ba tháng. Trong bộ Sớ giải, người ta đặt dấu hỏi, với thân người như vậy làm sao nhịn ăn ba tháng mà nói ṛng ră như vậy. Ḿnh nói từ sáng đến chiều ṛng ră như vậy th́ cũng đứt hơi rồi. Làm sao một người mà nói suốt ba tháng không ăn, không ngủ, không nghỉ. Xin thưa, các ngài giáo thọ sư giải thích rằng, nên nhớ Đức Phật có song thông lực, cho nên, vào rạng sáng, theo thời gian nhân loại th́ Ngài hóa ra một vị Phật ngồi ở trên ngai vàng của vua trời Đế Thích tiếp tục giảng tiếp. C̣n hiện Phật th́ Ngài đi bát ở Kuru, tức Bắc Cưu Lưu Châu. Sau khi có vật thực xong th́ Ngài ngự dưới chân thành Sankassa. Bấy giờ đức Xá Lợi Phất quán xét rằng bậc đạo sư hiện nay đang ở đâu thấy là ở dưới chân thành Sankassa lập tức đức Xá Lợi Phất dùng thần thông đi tới đó để phục vụ Đức Thế Tôn. Nhân đó th́ Đức Thế Tôn mới tóm tắt bài pháp mà Ngài giảng trên cung trời Đạo Lợi cho đức Xá Lợi Phất nắm bắt rồi dặn đức Xá Lợi Phất đem về dạy cho năm trăm vị tân tỳ kheo mới xuất gia khi vừa chứng kiến được song thông lực của Đức Thế Tôn. Bởi v́ do tiền nghiệp của 500 vị tân tỳ kheo này chính là 500 con dơi nằm trong hang trong thời Đức Phật Ca Diếp. Chư tỳ kheo thường đến cái hang đó tụng lên Thắng Pháp. Năm trăm con dơi đó nghe nhiều lần, một lần nọ rất là hoan hỉ, 500 con dơi buông ĺa cái tay và chết. Do tâm hoan hỉ nghe tạng Diệu Pháp, sau khi chết, 500 con dơi tái sanh thiên, vào thời Đức Phật tái sanh thành 500 người thiện gia cư sĩ. Khi thấy Đức Phật thể hiện song thông lực nên hoan hỉ xin xuất gia. Thấy được tiền duyên như vậy nên Đức Phật dạy tóm tắt những phần thuyết trên cung trời Đạo Lợi cho đức Xá Lợi Phất bảo về dạy cho 500 vị tân tỳ kheo đó. Dứt mùa hạ đó 500 vị này là người thuộc ḷng tạng Thắng Pháp đầu tiên, ngoại trừ đức Xá Lợi Phất. Và sau đó th́ các ngài quán sát chứng quả Dự Lưu. Nghe diệu pháp, nghe Thắng Pháp mà có ích lợi. Rồi Ngài nghỉ ở hồ Anottata xong vào buổi hoàng hôn Ngài xuất hiện lại cơi trời Đạo Lợi, khi đó Ngài thu hồi vị hóa Phật và và vị hiện Phật tiếp tục thuyết giảng. Cứ như thế mà ṛng ră ba tháng.

6. Nguyên nhân thứ 6.

Chư thiên chứng đắc được đạo quả sau khi nghe trọn vẹn tạng Diệu Pháp này lên tới khoảng 800 triệu vị. Chưa có pháp môn nào mà số lượng chư thiên thành tựu được đạo quả nhiều như vậy. Những câu kệ ngôn mà xuất sắc nhất của tạng Kinh, những bài Kinh tuyệt diệu nhất của tạng Kinh th́ số lượng chư thiên thành tựu được là khoảng 100 ngàn hoặc 200 ngàn, 300 ngàn. Như trong kinh văn chúng ta thấy, dứt câu kệ Pháp Cú số lượng chư thiên thành tựu là 84 ngàn vị. Nhưng tạng này đem tới đạo quả từ Dự Lưu cho đến A-la-hán tới 800 triệu. Do nguyên nhân đó mà được gọi là Thắng Pháp.

Tóm lại, gọi là Thắng Pháp do 6 nguyên nhân do:

1. Suy xét trọn 7 ngày đêm

2. Suy xét hào quang 6 màu lộ rơ ràng

3. Trước khi thuyết tạng Thắng Pháp th́ Ngài dùng song thông để nhiếp phục ngoại đạo

4. Thuyết tạng Thắng Pháp này mới đủ sức để đền đáp công ơn tiền thân hoàng hậu Māyā nuôi dưỡng Ngài trong ḍng luân hồi.

5. Thuyết ṛng ră trong 3 tháng.

6. Chư thiên thành tựu được 800 triệu vị.

Có một số nghi vấn sau đây được phát sanh lên:

1. Chúng ta trở lại kỳ kết tập Tam tạng lần thứ III, sau khi tạng Luận được phát triển, mỗi người hiểu theo một cách, từ đó nảy sinh ra sự chia chẻ tông phái. Trong cuộc kết tạng lần thứ III với sự bảo hộ của vua A Dục và với sự chủ tọa của ngài Moggaliputta Tissa (Mục-Kiền-Liên-Tử-Đế-Tu), và để chấn chỉnh những tri kiến của 18 tông phái đương thời, thế là bộ thứ 5 Kathāvatthu (Luận Điểm) được thành lập, tạm thời dùng. Và người ta cho rằng cái bộ đó do Moggaliputta Tissa sáng tác ra.

Không nên hiểu như vậy, bởi v́ như chúng tôi vừa tŕnh bày quí vị, trong tạng Kinh, phần  Trưởng Lăo Tăng kệ nói về trưởng lăo Ānanda, chính đức Ānanda đă xác nhận tự thân nghe từ Đức Thế Tôn 82 ngàn pháp uẩn, 2 ngàn pháp uẩn c̣n lại nghe từ bậc đồng phạm hạnh; tạng Kinh 21 ngàn pháp uẩn, tạng Luật 21 ngàn pháp uẩn, tạng Luận 42 ngàn pháp uẩn, nếu như bộ Kathāvatthu (Luận Điểm) được ngài Moggaliputta Tissa sáng tạo ra th́ số lượng pháp uẩn phải tăng lên. Tức là tạng Luận không phải là 42 ngàn pháp uẩn nữa mà phải tăng lên, v́ bộ này do ngài Moggaliputta Tissa sáng tác mà. Thế nhưng tạng Luận vẫn 42 ngàn pháp uẩn. Như vậy bộ Luận Điểm do ngài Moggaliputta Tissa sáng tạo ra đó, lấp đầy khoảng trống 42 ngàn pháp uẩn kia, như vậy lời nói của ngài Ānanda không tin được? Tạng Luận thiếu, cho nên ngài Moggaliputta Tissa mới viết thêm bộ Kathāvatthu để lấp vào cho đủ! Chúng ta không nên hiểu như vậy. Vậy th́ phải hiểu như thế nào? Trên thực tế, cái hiện thực là rơ ràng bộ Kathāvatthu  xuất phát từ kỳ kiết tập Tam Tạng lần thứ III. Sau khi chấn chỉnh sự hiểu sai về giáo pháp của Đức Phật của những tông phái khác mà thành lập. Thực ra ngài Moggaliputta Tissa không sáng tạo ra mà ngài chỉ giải thích rộng những pháp uẩn và thành lập lại. Chính trong bộ Tam tạng tóm tắt có ghi nhận rằng trong bộ Kathāvatthu chính Đức Phật thuyết là có 500 câu vấn đáp và đức Moggaliputta Tissa đă nương theo đó mà soạn thành 1000 câu. Tức là đức Moggaliputta Tissa triển khai thêm 500 câu, nhưng pháp uẩn vẫn là như vậy, pháp uẩn vẫn không có ǵ thay đổi. Ví dụ như chúng tôi nhớ bài kinh Nhất Dạ Hiền chúng tôi tŕnh bày quí vị khi năy, Đức Phật dạy: Quá khứ không truy t́m, tương lai không ước vọng, quá khứ đă đoạn tận, tương lai th́ chưa đến. Khi hỏi ngài Mahākaccayana th́ ngài Mahākaccayana nói: Này chư hiền, cái ǵ là quá khứ? Ngũ uẩn là quá khứ. Cái ǵ là hiện tại? Ngũ uẩn là hiện tại. Cái ǵ là tương lai? Ngũ uẩn là tương lai. Quá khứ không truy t́m là không đi t́m cái ngũ uẩn trong quá khứ. Tương lai không ước vọng là không mơ ước tới một ngũ uẩn trong tương lai. Chỉ có pháp hiện tại, pháp hiện tại này cũng là ngũ uẩn, quán xét sắc thọ tưởng hành thức đang diễn tiến trong hiện tại này. Để từ đó, thấy được vô thường, khổ, vô ngă. Tức là từ chữ quá khứ đó, đức Mahākaccayana triển khai thành ngũ uẩn trong quá khứ. Từ chữ tương lai đó ngài Mahākaccayana triển khai thành ngũ uẩn trong tương lai, mà pháp uẩn (nhóm pháp) đó không ǵ khác nhau, chẳng qua khác danh từ. Ngũ uẩn đă mất đă diệt, ngũ uẩn sẽ có, chuẩn bị có. Cái ngũ uẩn chuẩn bị có, sẽ có đó là tương lai, ngũ uẩn đă diệt đă mất, đó là quá khứ, ngũ uẩn đang sinh sinh diệt diệt đó là hiện tại, chẳng qua là thay đổi từ chớ pháp uẩn không có ǵ thay đổi. Như thế nào cũng vậy, từ 500 câu hỏi, thuộc bộ Kathāvatthu  mà Đức Thế Tôn thuyết giảng bao gồm bao nhiêu pháp uẩn th́ đức Moggaliputta Tissa triển khai ra, giảng rộng ra, nhưng vẫn bảo vệ nguyên vẹn số lượng pháp uẩn ở tạng Luận, do đó, số lượng pháp uẩn vẫn là 42 ngàn. Do đó, chúng ta nắm bắt được pháp uẩn th́ chúng ta không có ǵ phải băn khoăn.

Pháp uẩn là một nhóm pháp, cụm pháp. Khi ḿnh ước vọng ḿnh làm việc phước chẳng hạn rồi ḿnh ao ước có đạo quả, đó là Tham, rồi có vị biện luận, đó là tham mà là tham thiện. Nghe hợp lư nhưng thật sự ngẫm lại th́ nó xa vời vợi. Bởi tham là bất thiện, c̣n thiện là thiện. Không có lúc nào mà bất thiện (tham) và thiện đi chung với nhau được hết. Chính Đức Phật dạy, có hai pháp xa thật là xa, mặt trời mọc và mặt trời lặn là hai pháp xa. Bờ biển bên này và bờ  biển bên kia là hai pháp xa. Mặt trời và trái đất là hai pháp xa. Mà xa hơn tất cả là thiện và bất thiện. Không có vấn đề tham thiện trong này, tham là tham, thiện là thiện, rơ ràng! Không thể ghép từ kiểu này.

Pháp dục không phải là tham thiện. Dục là ước muốn. Chữ Dục gồm có hai từ được ra chữ dục,

-Kāma: sắc thanh hương vị xúc, dịch là dục, hay là trần, ngũ trần

-Canda: ước muốn. Có ba loại ước muốn:

+ Kāmacanda: ‘dục dục’ (ước muốn được sắc thinh hương vị xúc) cái này mới là tham. Tức là ao ước những trần cảnh sắc đẹp, tiếng hay, mùi thơm, vị ngon, đụng chạm xúc lạc… đó chính là tham.

+ Caṇḍa (tàn bạo), Canda (mặt trăng).

+ Dhammacanda: pháp dục. Ước muốn tốt đẹp. Sự thành tựu đạo quả hay thiền định đều từ chữ này. Bồ tát chúng ta từ khi nguyện dưới chân Đức Phật Nhiên Đăng trở thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác trong tương lai, đó là ước nguyện chánh đáng nên sau đó ngài thành bậc Chánh Đẳng Chánh Giác mà bây giờ chúng ta mới học được. Pháp dục này, những người tại gia cư sĩ trong kinh Tạng chúng ta thấy rất là nhiều. Trong tiền kiếp, vào thời Đức Phật Liên Hoa (Padumuttara) có vị thiện gia nam tử đă cúng dường đến Đức Phật Liên Hoa nguyện rằng con sẽ thành tựu A-la-hán với đệ nhất ǵ đó ǵ đó trong thời Đức Phật Padumuttara, và được Đức Phật Padumuttara thọ kư. Ước vọng thành bậc A-la-hán đó là ước vọng đúng đắn gọi là pháp dục, đó là thiện, chứ không có tham trong đó.

+ Tác ư dục. Chỉ muốn làm mà thôi

Khi nào chúng ta đi vô đó sẽ thấy chúng tôi phân tích từng chút một, từng chặng một, và chúng ta sẽ sử dụng từ không bao giờ nhầm lẫn. Đặc ân của người học được Vi Diệu Pháp là:

- Pháp được thông, lư được thông, từ được chuẩn, được thông; không bao giờ sử dụng từ một cách sai lệch. Biện luận được chính xác. Đây là nói về phàm nhân.

-C̣n nói về bậc thánh A-la-hán th́ chính tạng Luận này dẫn tới đạo quả A-la-hán tuệ phân tích, tức là:

+ Pháp vô ngại giải: không ngần ngại giải bất kỳ một pháp nào hết.

+ Lư vô ngại giải: không ngần ngại giải bất kỳ một nghĩa lư nào, không bao giờ ngần ngại. Tuệ phân tích mà!

+ Từ vô ngại giải: một từ này có ư nghĩa thế này, từ này có ư nghĩa thế kia, không bao giờ phải ngần ngại.

+ Biện vô ngại giải tức biện tài.

Đây là ân đức của người học Vi Diệu Pháp và thành tựu được tạng Vi Diệu Pháp tức là từ quán xét được tạng Diệu Pháp và dẫn tới đạo quả A-la-hán. Các ngài giải thích rằng, với những vị tŕ Luật, thực hành Luật, và khi thành đạt được Luật, vị ấy có khả năng chứng được A-la-hán Tam minh (có được Thiên nhăn minh, Túc Mạng minh và Lậu tận minh tức là diệt trừ hết mọi ô nhiễm). Với những vị tŕ về tạng Kinh và thực hành theo tạng Kinh thành đạt được thánh quả A-la-hán th́ vị đó có khả năng chứng đắc được Lục thông (thiên nhăn thông, thiên nhĩ thông, thần túc thông, tha tâm thông, túc mạng thông, lậu tận thông). Vị tŕ tụng tạng Diệu Pháp, quán xét và thực hành thành tựu được th́ có khả năng chứng quả A-la-hán tuệ phân tích. Nói như vậy th́ rơ ràng trong ba tạng Luật, Kinh, Luận đều dẫn đến thánh quả A-la-hán, nghĩa là cả ba tạng này đều dẫn tới giải thoát. Ai học tạng Luận bài bác tạng Kinh, tạng Luật th́ là một sai lầm, sai lầm nặng. Người học Diệu Pháp th́ phải trân trọng tạng Luật, trân trọng tạng Kinh, bởi v́ tạng Luật, tạng Kinh là nền tảng để giúp tạng cho Diệu Pháp rực sáng. V́ sao vậy? Xin thưa, sở dĩ các ngài phân ra Luật Kinh Luận chính là các ngài lấy nền tảng của khung trời PG này là Giới, Định, Tuệ. Tạng Luật hàm chứa về giới giải thoát, tạng Kinh hàm chứa về định giải thoát, và tạng Luận hàm chứa ư nghĩa tuệ giải thoát. Không nên bác bất kỳ tạng nào. Có duyên lành với tạng nào th́ ḿnh học tạng đó và cố gắng nỗ lực.

Bài đầu tiên chúng tôi giải thích cho quí vị là đại cương về tạng Thắng Pháp. Thời gian đến đây cũng vừa phải lẽ, phước báu sanh lên xin cúng dường đến chư tôn đức tăng, xin chia đều phước báu này đến quí sư cô và chư Phật tử, mong quí vị hoan hỷ thọ nhận… để nhanh chóng được chứng đắc đạo quả niết-bàn. Nửa tiếng c̣n lại để giải đáp thắc mắc của Phật tử.

B. PHÁP ĐÀM

1. Tại sao bộ Thanh Tịnh Đạo và Vô Ngại Giải Đạo không thuộc Vi Diệu Pháp?

Sở dĩ bộ Vô Ngại Giải không gọi là tạng Thắng Pháp v́ bộ này do đức Xá Lợi Phất giải ra. Nói cách khác nương theo tạng Thắng Pháp mà đức Xá Lợi Phất gom những tinh hoa trong Thắng Pháp để giải thích về con đường dẫn tới niết-bàn từ trí, từ ly tham, từ quyền, từ lực, từ niệm xứ v.v... Nghĩa là đó là phiên bản của tạng Thắng Pháp. Tất nhiên là trích từ tạng Thắng Pháp để lấy những phần tinh hoa trong tạng Thắng Pháp để thành lập tạng riêng, trong đó có lồng những giải thích từ những bản kinh, đem tinh hoa của tạng Diệu Pháp ra giải thích, cho nên bộ Vô Ngại Giải đạo không liệt kê vào tạng Thắng Pháp v́ trích dẫn từ tạng Thắng Pháp ra và trong đó có lồng tạng Kinh. Ví dụ bài kinh nào đó Đức Phật thuyết giảng về quyền, về lực, về ư nghĩa chữ ly tham (ly tham ngữ) chẳng hạn, th́ đức Xá Lợi Phất giảng rộng ra và lồng trong đó những chi pháp của tạng Vi Diệu Pháp, thế thôi.

Bộ Thanh Tịnh Đạo cũng vậy, đây là tác phẩm của ngài Buddhaghosa, tác phẩm này là do chư tăng muốn thử tŕnh độ của ngài Buddhaghosa cho nên lấy một câu kệ trong Tương Ưng Kinh để thử coi ngài Buddhaghosa giải thích như thế nào. Tức là lấy câu kệ đầu tiên, một câu kệ trong Tương Ưng Kinh là: “Người trú giới có trí. Tu tập tâm và tuệ. Nhiệt tâm và thận trọng. Tỷ kheo ấy thoát triền.” làm tiêu đề để cho đức Buddhaghosa giải thích câu kệ ngôn này. Nhưng từ câu kệ ngôn này, th́ ngài Buddhaghosa đưa vào con đường Giới Định Tuệ, ngài giải thích theo giới, định, tuệ và triển khai rất rộng. trong đó có tạng Kinh cũng có, tạng Luật cũng có và tạng Diệu Pháp cũng có, do đó bộ sách Thanh Tịnh Đạo không được liệt kê vào tạng Thắng Pháp.

 

2. Tại sao Đức Thế Tôn phải thuyết bộ Vi Diệu Pháp ṛng ră ba tháng mà không thuyết từ từ?

Thứ nhất, đó là vào mùa An cư mùa mưa, tức vào hạ thứ 7. Vào ngày rằm tháng 6, Ngài dùng song thông lực để nhiếp phục ngoại đạo xong Ngài suy quán rằng: Sau khi dùng song thông lực để nhiếp phục ngoại đạo xong th́ chư Phật quá khứ ngự về đâu, Ngài quán xét và thấy rằng chư Phật quá khứ sẽ ngự lên cung trời Đạo Lợi để thuyết tạng Thắng Pháp, hay nói cách khác là sẽ ngự trên cung trời Đạo Lợi để tế độ thân mẫu của ḿnh trước khi Ngài thành Phật, tức người mẹ sanh ra Bồ tát kiếp chót. Đó cũng là vào lúc an cư mùa mưa. Thứ hai, khi chư thiên tề tựu lại mục đích nghe pháp mà thời gian trên đó, ba tháng ṛng ră cơi nhân loại, nhưng Đức Thế Tôn thuyết giảng trong Tăng Chi Kinh, Pháp 3 Chi, ngày  trai giới giảng cho bà Visākhā về ân đức niệm Thiên, Đức Thế Tôn dạy: Này Visākhā một ngày một đêm ở cơi Đao Lợi tương đương bằng một trăm năm ở cơi nhân loại[1]. Chúng ta thấy rằng như vậy ba tháng cơi Nhân loại tương đương trên đó độ khoảng vài phút. Giống như một trăm đồng (đô) của người Mỹ tương đương với một triệu tám trăm ngàn của VN chẳng hạn. Giá trị cũng tương đương vậy thôi nhưng đơn vị th́ khác nhau. Mỗi lần chư thiên tụ họp trên đó, quí vị cứ nghĩ rằng, khi tới khoảng chừng năm ba phút mà mới vừa hai phút th́ nghỉ, thời giảng này nửa tiếng đồng hồ mà mới có năm phút th́ nghỉ, rồi ba phút sau thuyết tiếp như vậy theo dơi sẽ ngắt đoạn ngắt đoạn. Nếu như nửa tiếng đồng hồ mà cứ liên tục liên tục theo dơi từ đoạn đầu đến đoạn cuối không hề bỏ được th́ trí tuệ phát triển nhanh và tốt đẹp hơn. V́ vậy tạng Thắng Pháp này Đức Phật không thuyết từ từ được, bởi chư thiên trên đó th́ khoảng vài phút thôi. Đức Thế Tôn thuyết giảng kiểu này từ từ không ṛng ră ba tháng th́ chư thiên bỏ đi hết, cũng không theo dơi cho hết bài pháp để chứng đắc được đạo quả, do đó Đức Thế Tôn thuyết ṛng ră, và dứt thời pháp đó th́ thiên tử Māyā chứng quả Dự lưu.

 

3. Tại sao kỳ kết tập lần thứ nhất và thứ hai không có tạng Thắng Pháp, và tại sao không có câu ‘như vầy tôi nghe’ trong tạng Thắng Pháp?

Chúng ta nhớ là trong kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhất với mục đích của các ngài là loại trừ những lời nói phi pháp của vị tỳ kheo già có tên là Subhadda. Khi Đức Thế Tôn mới vừa viên tịch ở thành Kusinārā, một số vị tỳ kheo c̣n phàm buồn tủi khóc lóc, lúc bấy giờ có vị tỳ kheo già mới xuất gia tên là Subhadda (đừng nhầm lẫn với vị đệ tử cuối cùng của Đức Thế Tôn cũng tên là Subhadda) nói rằng: Này chư hiền, đừng khóc làm chi, hồi c̣n Đức Thế Tôn, ḿnh làm cái ǵ th́ ổng nói này tỳ kheo việc này nên làm việc này không nên làm, giờ ổng niết-bàn rồi, ḿnh muốn làm ǵ ḿnh làm. Đức Kassapa nghe như vậy mới nói Đức Thế Tôn mới niết-bàn mà có tư tưởng như vậy th́ không được. Nhưng bây giờ th́ đang trong thời điểm quan trọng phải lo đại sự cho sự viên tịch của Đức Thế Tôn, nên sau đó th́ với sự hỗ trợ (bảo trợ) của vua A-Xà-Thế ngài kết tập Tam Tạng lần thứ nhất, tức là kết tập toàn bộ Phật ngôn, với mục đích là như vậy. Và như chúng tôi tŕnh bày khi năy, trong thời Đức Thế Tôn th́ không có tạng Luận – không có tách riêng mà chỉ có Pháp và Luật, những quy định, những thể thức, cách thức, cách hành xử trong chư tăng cũng như chư tăng đối với Phật tử, điều nên làm, điều không nên làm, những nghi thức. Ví dụ như người xuất gia không nên đi tới những  những thanh lâu, nhà của các sương phụ, gái lỡ thời v.v... Những ǵ c̣n lại ngoài những nghi thức, ngoài những hành xử những điều được làm và không được làm, toàn bộ những cái c̣n lại được gọi là pháp. Như vậy trong kỳ kết tập lần thứ nhất th́ không có phân chia ra. Sau kỳ kết tập lần thứ ba th́ các ngài mới phân ra thành ba giỏ Kinh, Luật và Luận. Tại sao trong tạng kinh có “như vầy tôi nghe” mà trong tạng Diệu Pháp không có, và ai là người trùng tuyên? Xin thưa cũng chính là đức Ānanda trùng tuyên tạng Diệu Pháp. C̣n câu “Như vầy tôi nghe” ở trong tạng Kinh, thứ nhất, là do đức Ānanda xác nhận “bài kinh này tôi nghe.” Trong thời Đức Phật, những vị muốn học tạng Diệu Pháp th́ không có sách vở như chúng ta, ngoại trừ 500 v́ mà chúng tôi giới thiệu quí vị khi năy, thông tạng Thắng Pháp đầu tiên và đức Xá Lợi Phất. Tạng Diệu Pháp này thực t́nh mà nói, như nhiều người nói th́ khô khan, nhưng thật ra  không có khô khan đâu, mà đ̣i hỏi chúng ta phải nghiền ngẫm rất là nhiều. Cho nên những tạng Kinh th́ được sâu rộng, và những bài kinh có thể là bị sai lệch nên đức Ānanda trùng tuyên lại “như vầy tôi nghe, một thời”. Đức Ānanda  xác nhận “tôi nghe từ Đức Thế Tôn, không nghe từ vị nào khác nữa hết”, v́ Đức Thế Tôn thuyết ở đâu đó, về thuyết lại cho đức Ānanda nghe. Cho nên nói “như vầy tôi nghe” tức là có những bài kinh bị cải biên hoặc những bài kinh thiếu từ, mất từ hoặc đoạn trước nói sau, đoạn sau nói trước v.v..., nên đức Ānanda trùng tuyên trở lại từ đâu đến cuối, bởi v́ đức Ānanda có một trí nhớ tuyệt vời, và xác nhận “tôi nghe từ Đức Phật”. Chữ ‘một thời’ này có giá trị không xác định. Ví dụ một thời Đức Thế Tôn ngự ở tại Kỳ Viên Tịnh xá, vào cái thời Đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá th́ nhiều lắm, khoảng 19 hạ. Hoặc một thời Đức Thế Tôn ngự tại Đông Phương tự, thời gian này cũng nhiều lắm, khoảng 6 hạ. Chữ ‘một thời’ này không có tính chất xác định ở hạ nào, mà chỉ nói chung chung, đại khái là có lần Đức Thế Tôn ở tại Kỳ Viên tịnh xá, có lần Đức Thế Tôn ở tại thành Vương Xá. Một thời tức là “bài kinh này tôi nghe từ Đức Thế Tôn, có lần Đức Thế Tôn ngự tại đó đó.” C̣n trong tạng Diệu Pháp thường thường được gọi là “tasmiṃ samaye” (trong khi ấy), và lúc này th́ không có “một thời” nữa, v́ rơ ràng là hạ thứ bảy và Ngài ở trên cung trời Đao Lợi. Bài pháp này Đức Thế Tôn cũng có thể thuyết lại đức cho Ānanda mà đức Xá Lợi Phất cũng có thể thuyết lại cho ngài. Đức Ānanda là vị thủ khố Tam Tạng, đức Ānanda rất là thương kính Đức Thế Tôn và rất là cung kính đức Xá Lợi Phất luôn cả đức Kassapa. Cho nên có những lúc đức Ānanda ngại Đức Thế Tôn mệt nhọc, Đức Phật thuyết giảng trên đó ba tháng trời, mà giờ thuyết Đức Thế Tôn giảng lại cho đức Ānanda cũng phải ba tháng trời, liên tục như vậy, th́ quí vị sẽ thấy như thế nào? Cho nên đức Ānanda có thể nghe từ Đức Thế Tôn và có thể học tập từ nơi đức Xá Lợi Phất bởi đức Xá Lợi Phất không bao giờ giảng sai. Tướng quân chánh pháp mà, cũng có trí nhớ tuyệt vời. Vậy cho nên, trong đó là “như vầy tôi nghe” mà rơ ràng là đức Ānanda cũng trùng tuyên tạng Thắng Pháp nhưng không cần nói, người ta cũng hiểu. Bởi v́ rơ ràng tạng này chính thức là Đức Thế Tôn thuyết giảng không c̣n bàn căi nữa. Không có một thánh đệ tử nào có trí tuệ mà có thể phân tích được 24 duyên, trùng trùng duyên sinh điệp điệp duyên khởi đó. Cũng không có một vị thánh thượng thủ Thanh văn nào mà có thể lư thập nhị duyên khởi sâu rộng tận cùng như trong tạng Thắng Pháp. Điều này chắc chắn của Đức Phật rồi, nhất là phần Duyên hệ, bộ Paṭṭhāna - bộ thứ 7. Chắc chắn phần này là của Đức Phật rồi, c̣n có ai khác nữa, không cần phải nói “như vầy tôi nghe, một thời” nữa, mà là “trong khi đó” (tasmiṃ samaye) bởi v́ tạng Thắng Pháp chỉ thuyết trong hạ thứ 7 mà thôi, ngoài ra không thuyết chỗ nào nữa, không cần phải nhắc tới là như vậy.

4. Kính thưa sư tại sao Đức Phật lại giảng bộ Vi Diệu Pháp để báo hiếu mẹ ở cung trời Đao Lợi trong khi hoàng hậu Māyā không ở cung trời Đao Lợi, Đức Phật đi bằng thân nào để lên cung trời thuyết pháp ạ.  

Mặc dầu vị thiên tử Māyā ở cung trời Đâu Suất nhưng tại sao Đức Thế Tôn lại thuyết giảng trên cung trời Đao Lợi, đây cũng câu hỏi hay, và câu hỏi tiếp theo, bằng cách nào Đức Thế Tôn ngự lên cung trời Đao Lợi. Xin thưa, bản sớ giải sau khi dùng song thông lực để nhiếp phục ngoại đạo trên cội cây xoài có tên Ganda. Cây xoài này có tên Ganda bởi do chàng thanh niên Ganda này trồng. Chuyện trước đó cũng khá dài nên chúng tôi không thuật lại chỉ nói ngắn gọn. Sau khi Ngài thi triển song thông lực rồi Ngài quán xét rằng sau khi chư Phật quá khứ dùng thần thông lực nhiếp phục ngoại đạo rồi đi đâu, Ngài thấy rằng chư Phật quá khứ lên cung trời Đao Lợi để tế độ hoàng hậu thân mẫu của Ngài.

Năng lực thần thông của Đức Thế Tôn và uy đức của Đức Thế Tôn từ cội xoài đó lên cung trời Đao Lợi chỉ ba bước: Bước thứ nhất, Ngài  bước chân lên th́ cái núi Yugaṃdhara (Tŕ Song Sơn) dường như cúi xuống để Đức Thế Tôn bước lên. Hội chúng mà thấy giống như Ngài bước một bước lên đỉnh núi Yugaṃdhara. Bước thứ hai, từ đỉnh núi Yugaṃdhara Ngài bước lên đỉnh núi Sineru (Tu Di Sơn) là cung trời  Đao Lợi. Với năng lực thần thông của Đức Phật là Ngài có thể thâu lại đoạn đường đó. Chính trong Kinh Tạng Đức Phật nói, người có thánh trí, có thể vuốt rờ mặt trời mặt trăng, tức là thâu mặt trời mặt trăng tới gần rồi xoa giống như ḿnh vuốt gương vậy, nói chi Đức Thế Tôn có thần lực siêu đẳng để rút đường lại. Đỉnh núi Sineru có vương quốc Đao Lợi. Mặt bằng Vương quốc Đao Lợi này (theo bản Chú giải Người và Cơi, do đại đức Thiên Phúc dịch) này rộng 84 ngàn do-tuần và kinh thành Đao Lợi trước tiên rộng 10 ngàn do-tuần thôi, nhưng từ khi thanh niên Makkhava sanh lên cùng với 32 người bạn của ḿnh sanh lên th́ từ lúc đó kinh thành này có tên là Tāvatiṃsa (Cơi 33). Đứng đầu là vua trời Đế Thích. Nói cách khác, vương quốc Đao Lợi gồm có 33 vị chúa trời mà vị trưởng đoàn của 33 vị chúa trời đó là vua Trời Đế Thích, nên cung trời đó có tên là Tāvatiṃsa. Từ khi thanh niên Makkhava sanh lên, do phước của thanh  niên Makkhava cùng và 22 người bạn của ḿnh th́ vương quốc đó nới rộng thêm 10 ngàn do-tuần nữa. Chúng ta cứ tưởng tượng h́nh vuông rộng 84 ngàn do-tuần th́ vương quốc nằm ở giữa chỉ có 20 ngàn do-tuần thôi. Cho nên bước chân thứ ba của Đức Phật từ đỉnh núi Sineru (Tu Di Sơn) Ngài bước tới ngai vàng của vua trời Đế Thích, tức là một tảng đá gọi là ‘paṇḍukambala’ màu vàng. Ngài ngồi lên đó. Đó là cách thức mà Ngài ngự lên cung trời Đao Lợi bằng năng lực thần thông.

Có một số sách nói rằng bà Māyā tái sanh về cơi Đao Lợi, xin thưa không phải, theo Nam truyền, do phước ba-la-mật của bà, mà có cơi Đâu Suất (Tusita) là nơi hưởng quả của phước ba-la-mật. Những quả phước thường th́ sanh về cơi Dạ Ma, người làm việc với tâm hoan hỉ th́ có thể tái sanh về cơi Dạ Ma v́ chỗ đó không có buồn phiền, tâm lúc nào cũng vui, cũng hân hoan. Cơi thấp hơn là cơi Đao Lợi, làm việc phước một cách tốt đẹp nhưng c̣n ước nguyện hưởng phước nhân thiên th́ tái sanh về cơi đó. C̣n người nào làm việc phước chỉ ước mong đạt tới đạo quả niết-bàn th́ khi đủ phước ba-la-mật sẽ tái sanh về cơi Đâu Suất. Tiền thân hoàng hậu làm phước ba-la-mật nên tái sanh về cơi Đâu Suất, theo Nam Truyền. Vậy tại sao Đức Thế Tôn không ngự vào cơi Đâu Suất để tế độ? Xin thưa, nói là tế độ bà Māyā nhưng thật sự Ngài tế độ những người hữu duyên chứ không phải chỉ riêng hoàng hậu Māyā. Chúng ta biết rằng, vị Bồ tát Chánh Đẳng Giác thực hành Bồ tát hạnh với ba mục tiêu:

-Thực hành pháp ba-la-mật để đắc được vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác

-Thực hành pháp ba-la-mật để tế  độ quyến thuộc

-Thực hành pháp để chứng được Vô thượng Chánh Đẳng Chánh Giác để tế độ chúng sanh, và Ngài thấy  duyên lành của chư thiên Đao Lợi nhiều, phước nhiều, c̣n Ngài ngự lên cung trời Tusita chỉ tế độ được thiên tử Māyā mà thôi. Nhưng tại cung trời Đao Lợi th́ chư thiên được tế độ rất nhiều, trong đó có vị thiên tử Māyā. Biết được ư nghĩ của Đức Thế Tôn như vậy nên vua trời Đế Thích đă tự thân tới cung trời Tusita để cung thỉnh vị thiên tử Māyā: Thưa ngài, con của ngài ở trong kiếp trước nay đă thành bậc Chánh Đẳng Giác đang ngự tại kinh thành Đao Lợi, có ư định sẽ giảng pháp đến cho ngài, xin ngài hăy ngự xuống dưới cung trời. Vị thiên tử hoan hỷ nói: Ồ vậy con của ta kiếp trước đă thành Phật rồi a, hoan hỷ. Chính với ư nghĩ này mà vị thiên tử đó đă chứng đắc được quả Dự Lưu, sau khi vị này nghĩ là không c̣n phải là con của ta nữa.

Bởi vậy Thắng Pháp này đem tới đạo quả cho tới 800 triệu vị chư thiên, trong đó có thiên tử Māyā nữa. Thời pháp này đem tới lợi ích cho nhiều thính chúng. Tuy là mục đích tế độ vị thiên tử mà tiền kiếp là thân mẫu của ḿnh nhưng Thế Tôn đâu có làm chuyện không mang tới lợi ích cho nhiều người đâu. Ngài thấy duyên lành của nhiều người cho nên Ngài ngự về đó và tế độ những người hữu duyên tức những vị thiên tử. Những vị thiên tử đó phần lớn cũng chính là những nam nữ cư sĩ khi c̣n thân nhân loại đă đặt niềm tin nơi Ngài rất nhiều, nhưng chưa đủ cận y duyên nên sau mệnh chung tái sanh về cơi đó. Điển h́nh chúng ta thấy rằng, trước khi vị thiên tử Māyā đi tới để nghe pháp th́ có hai vị thiên tử là Indaka và Anruka, khi chư thiên đến ngự đông th́ vị thiên tử Anruka này phải lui xa lui xa tới 12 do-tuần, trong khi thiên tử Indaka chỉ ngồi tại chỗ. Đức Thế Tôn hỏi v́ sao, thiên tử Indaka nói: “Bạch Thế Tôn, trong tiền kiếp con chỉ cúng dường đức Anuruddha (A-na-luật/A-Nậu-Đà-La), nhờ phước đó con sanh lên đây có uy lực như vậy.” Ngài Anuruddha là đệ tử của Đức Thế Tôn, cúng dường cho đức Anuruddha sau khi mệnh chung tái sanh lên, nhóm chư thiên c̣n lại đa phần là những thiện nam tín nữ thời Đức Phật khi c̣n tại tiền cúng dường cho Đức Phật, hoan hỉ với phạm hạnh của Đức Phật Gotama, do đó thân hoại mệnh chung tái sanh về cơi đó. Thành ra bây giờ họ đang tụ họp ở đó. Những người này có niềm tin nơi Đức Thế Tôn. Ngài tế độ, luôn tiện nhân đó Ngài tế độ luôn. Đó là việc làm có ích cho nhiều người. Có thế thôi.     


 

[1] Bài kinh 70.- Các Lễ Uposatha

 

 

 

 

CÁC BÀI PHÁP SƯ CHÁNH MINH THUYẾT GIẢNG

========

(Nguồn: Youtube) / Các Bài Pháp Do Sư Chánh Minh thuyết giảng (FB)

Cập nhật 5-2021

 

NGHIÊN CỨU PHẬT PHÁP

 

Home