ĐỨC
PHẬT KHÔNG ĐỔ LỖI
How the Buddha died
by Venerable Dr Mettanando Bhikkhu
Rằm
tháng Hai, là ngày Đức Phật nhập Niết Bàn. Nhân kỷ niệm ngày Đức Phật ra
đi, thử nh́n lại cái chết của ngài bằng góc độ khoa học, và ứng xử của
ngài trước giờ phút lâm chung.
Nhiều
tài liệu mô tả cái chết của Đức Phật theo hai hướng tiêu cực, là ngài bị
đầu độc hoặc thức ăn được cúng dường không được làm sạch sẽ, khiến ngài
ngộ độc. Tuy nhiên, vẫn có các nhà khoa học theo Phật giáo và các vị
tăng sĩ đưa ra một luận thuyết khác cho rằng mọi thứ là đến từ căn bệnh
tự nhiên.
Nói
về điều này Ḥa thượng Mettanando, là một vị bác sĩ trước khi chọn đi tu
ở Wat Raja Orasaram, Thái Lan, có viết trên Bangkok Post, lư giải về sự
kiện này vào năm 2001, với tựa đề How the Buddha died với các luận
thuyết khoa học hết sức thuyết phục.
Kinh
Mahaparinibbana Sutta, trích từ Trường Kinh Tam Tạng Pali (Long
Discourse of Pali Tipitaka), là nguồn đáng tin cậy nhất cung cấp chi
tiết về cái chết của Siddhattha Gotama (563-483 TCN), tức Đức Phật. Kinh
được viết theo phong cách tường thuật cho phép độc giả theo dơi câu
chuyện về những ngày cuối cùng của Đức Phật, bắt đầu vài tháng trước khi
Ngài nhập diệt.
Tuy
nhiên, bài kinh, hay bài giảng, vẫn luôn tạo ra các suy luận khác nhau
của công chúng về hai tính cách trái ngược nhau của Đức Phật: Một người
làm nên các phép lạ, tạo ra cuộc cách mạng tư tưởng cùng tầm nh́n thần
thánh và một là con người trần tục, chấp nhận những thay đổi thể chất
phải đến của tuổi già sức yếu, trải qua những cơn đau trần thế lẽ thường.
Điểm
kết của câu chuyện về Đức Phật nhập diệt, là khi ngài được mời món ăn
cúng dường có cái tên Sukaramaddava - một món ăn mà bây giờ người ta
không thể biết rơ rằng nó cấu tạo và những thành phần ǵ, nhưng đại khái
nó được gọi đó là món thịt lợn mềm.
Loại
bỏ các giá trị truyền thuyết, hoặc là kết quả của một cuộc đấu tranh
chính trị trong cộng đồng Phật giáo trong giai đoạn chuyển tiếp, việc mô
tả t́nh huống thực tế xảy ra trong những ngày cuối cùng của Đức Phật,
cũng có một cách tiếp cận khác dựa trên sự mô tả các triệu chứng và dấu
hiệu được đưa ra trong kinh, mà kiến thức y học hiện đại có thể làm sáng
tỏ.
Trong
một bức bích họa khác ở Wat Ratchasittharam, cho thấy Đức Phật vào lúc
đang cận kề cái chết - có lẽ rất đau và mệt - nhưng Ngài vẫn dành thời
gian để trả lời các câu hỏi của nhà tu khổ hạnh Subhadda, người môn đồ
cuối cùng của Ngài, người sau khi được nhận vào Tăng đoàn Phật giáo, đă
trở thành một vị A-la-hán, một người giác ngộ.
Trong
Kinh Đại Bát Niết Bàn viết rằng Đức Phật đột nhiên bị ốm sau khi Ngài ăn
một món ngon đặc biệt, Sukaramaddava, được chuẩn bị bởi người phát tâm
cúng dường là ông Cunda Kammaraputta. Tên của món ăn đă thu hút sự chú ư
của nhiều học giả, và nó đă trở thành tâm điểm của các nghiên cứu học
thuật về bản chất của bữa ăn hoặc các thành phần được sử dụng để nấu món
ăn đặc biệt này.
Nhưng bản thân bài kinh cũng đă cung cấp những chi tiết liên quan đến
các dấu hiệu và triệu chứng bệnh tật của Đức Phật, cùng với một số thông
tin đáng tin cậy về hoàn cảnh của ngài trong bốn tháng trước đó, và
những chi tiết này cũng đầy ư nghĩa y học.
Bài kinh bắt
đầu với việc Đức Phật đă du hành đến Vajji để nhập thất an cư cuối cùng
của ngài.
Chính trong
khóa nhập thất này, Đức Phật bị ốm. Triệu chứng của bệnh là những cơn
đau dữ dội, đột ngột. Kinh không mô tả rơ cơn đau của Đức Phật, mà chỉ
nói ngắn gọn là cơn đau rất dữ dội, suưt giết chết Ngài.
Các nhà khoa
học lưu tâm về điều này và đặt ra một nghi vấn về cái chết của Đức Phật,
không phải v́ thức ăn mà Ngài đă ăn, mà bởi v́ Ngài đă mắc một căn bệnh
tiềm ẩn nghiêm trọng và cấp tính - và có cùng các triệu chứng của căn
bệnh mà cuối cùng đă chấm dứt cuộc sống trần gian của ngài.
Mô tả về
phép lạ về sự nở trái mùa của lá và hoa trên cây sala, khi Đức Phật nằm
giữa chúng, các nhà khoa học cũng chỉ ra khung thời gian được đưa ra
trong kinh. Truyền thống Phật giáo Nguyên thủy truyền miệng tôn trọng
giả định rằng Đức Phật lịch sử đă qua đời trong đêm trăng tṛn của tháng
Visakha âm lịch (rơi vào khoảng tháng 5 đến tháng 6). Nhưng thời điểm có
mâu thuẫn với thông tin được đưa ra trong kinh, trong đó, nói rằng Đức
Phật nhập diệt ngay sau mùa an cư kiết hạ, rất có thể là vào mùa thu
hoặc giữa mùa đông, tức là từ tháng 11 đến tháng 1.
Từ đó, các
nhà phân tích cũng có giả thuyết cho rằng mùa thu và mùa đông là những
mùa không thuận lợi cho sự phát triển của nấm, và v́ vậy một số học giả
tin rằng đó là nguồn gốc của chất độc mà Đức Phật đă ăn trong bữa ăn
cuối cùng của ḿnh.
Nhưng điều
quan trọng, là hầu như Phật tử ai cũng được dạy rằng Đức Phật cảm thấy
bị bệnh ngay sau khi ăn bữa cuối Sukaramaddava. Nhưng đời nay, mọi người
hoàn toàn mơ hồ về bản chất của món ăn này, nên khó có thể gọi nó là
nguyên nhân trực tiếp gây ra bệnh của Đức Phật. Nhưng từ những mô tả
được đưa ra, cho thấy bệnh có thể ở giai đoạn cuối, và khởi phát nhanh
chóng.
Kinh ghi lại,
trong khi ăn, Đức Phật cảm thấy có ǵ đó không ổn với thức ăn và ngài đề
nghị chủ nhà nên chôn thức ăn. Ngay sau đó, ngài bị đau bụng dữ dội và
đi ngoài có lẫn máu từ trực tràng.
Chúng ta có thể giả định một cách hợp lư rằng căn bệnh xuất hiện ở cấp
độ nặng hơn khi Đức Phật đang dùng bữa, khiến ngài nghĩ rằng có điều ǵ
đó không ổn với món ngon lạ miệng. V́ ḷng trắc ẩn đối với người khác,
ngài đă đề nghị nên chôn, bỏ nó đi.
Ngộ độc thực
phẩm có phải là nguyên nhân gây bệnh? Có vẻ như không thể. Các triệu
chứng được mô tả không chỉ ra ngộ độc thực phẩm, có thể rất cấp tính,
nhưng hầu như không gây tiêu chảy ra máu. Thông thường, ngộ độc thực
phẩm do vi khuẩn gây ra không biểu hiện tức th́ mà phải ủ bệnh từ 2 đến
12 giờ mới biểu hiện, thường là tiêu chảy cấp và nôn mửa, nhưng không đi
ngoài ra máu.
Một khả năng
khác là ngộ độc hóa chất, cũng có tác dụng tức thời, nhưng hiếm khi ngộ
độc hóa chất gây chảy máu đường ruột nghiêm trọng. Ngộ độc thực phẩm
chảy máu ruột tức thời chỉ có thể là do hóa chất ăn ṃn như axit mạnh,
dễ dẫn đến quỵ tức th́. Nhưng hóa chất ăn ṃn mạnh như vậy, nếu có, th́
đă gây xuất huyết ở đường ruột trên, và dẫn đến nôn ra máu. Trong các
văn bản ghi lại, không có dấu hiệu nghiêm trọng nào được đề cập như vậy.
Các bệnh
loét dạ dày cũng có thể được loại trừ khỏi danh sách các bệnh có thể mắc
phải. Mặc dù khởi phát ngay lập tức nhưng chúng hiếm khi đi kèm với phân
có máu. Loét dạ dày nếu kèm chảy máu đường ruột, chỉ tạo ra phân đen khi
vết loét xuyên qua mạch máu. Một vết loét cao hơn trong đường tiêu hóa
sẽ có nhiều khả năng biểu hiện dưới dạng nôn ra máu, chứ không thể là
máu chảy qua trực tràng.
Bằng chứng
khác chống lại khả năng này là một bệnh nhân bị loét dạ dày lớn thường
không thèm ăn. Bằng cách nhận lời mời ăn trưa với chủ nhà, chúng ta có
thể cho rằng Đức Phật cảm thấy khỏe mạnh như bất kỳ người đàn ông nào ở
độ tuổi 80 sẽ cảm thấy. Với tuổi tác của Ngài, chúng ta không thể loại
trừ rằng Đức Phật không mắc bệnh măn tính, chẳng hạn như ung thư hoặc
bệnh lao hoặc nhiễm trùng nhiệt đới như kiết lỵ hoặc thương hàn, những
bệnh khá phổ biến vào thời Đức Phật.
Những bệnh
này có thể gây chảy máu ruột non, tùy thuộc vào vị trí của chúng. Các
nhà khoa học cũng đồng ư các triệu chứng ngộ độc hay các chẩn đoán ở
trên có thể được loại trừ. V́ nếu có, chắc chắn Kinh sẽ ghi lại các
trạng thái thường xuyên của Đức Phật như mệt mỏi, chán ăn, sụt cân, tăng
trưởng hoặc khối u ở bụng. Không có triệu chứng nào trong số này được đề
cập trong bài kinh.
Trĩ lớn cũng có thể gây chảy máu trực tràng nghiêm trọng, nhưng không
chắc là trĩ có thể gây đau bụng dữ dội trừ khi nó bị thắt. Nhưng nếu thế
th́ việc đi lại của Đức Phật lâu nay sẽ bị cản trở rất nhiều, và hiếm
khi bệnh trĩ chảy máu từ một bữa ăn.
Cuối cùng,
các suy đoán hướng về một căn bệnh phù hợp với các triệu chứng đă mô tả
- kèm theo đau bụng cấp tính và đi ngoài ra máu, thường gặp ở người cao
tuổi và gây ra bởi bữa ăn - là nhồi máu mạc treo, do tắc nghẽn mạch máu
của mạc treo (From the diagnosis given above, we can be rather certain
that the Buddha suffered from mesenteric infarction caused by an
occlusion of the superior mesenteric artery). Nó gây chết người. Thiếu
máu mạc treo cấp tính (giảm cung cấp máu cho mạc treo) là một t́nh trạng
nghiêm trọng với tỷ lệ tử vong cao. Đây là nguyên nhân được coi là chính
yếu gây ra cơn đau gần như đă suưt làm Đức Phật suưt chết vài tháng
trước đó, trong mùa an cư mà kinh ghi lại.
Mạc treo là
một phần của thành ruột liên kết toàn bộ đường ruột với khoang bụng.
Nhồi máu mạch mạc treo thường gây chết mô trong một phần lớn của đường
ruột, dẫn đến rách thành ruột. Xơ cứng động mạch, sự xơ cứng của thành
mạch do lăo hóa, là nguyên nhân của tắc động mạch, tắc nghẽn nhỏ không
dẫn đến tiêu chảy ra máu, nhưng là một triệu chứng, c̣n được gọi là đau
thắt bụng (Arteriosclerosis, the hardening of the vessel wall caused by
ageing, was the cause of the arterial occlusion, a small blockage that
did not result in bloody diarrhoea, but is a symptom, also known to us
as abdominal angina).
Điều này
thường tạo ra cơn đau dữ dội ở bụng và chảy máu. Bệnh nhân thường chết
v́ mất máu cấp tính. Điều kiện này phù hợp với thông tin được đưa ra
trong bài kinh. Sau đó, chẩn đoán này cũng được xác nhận bằng chi tiết
khi Đức Phật yêu cầu Ananda lấy một ít nước cho ngài uống, cho thấy xuất
hiện cơn khát dữ dội.
Chuyện kể
rằng, Ananda đă từ chối lấy ngay v́ không t́m được nguồn nước sạch.
Annada nói với Đức Phật rằng ḍng suối gần đó đă bị đục ngầu bởi một
đoàn xe lớn. Nhưng Đức Phật khăng khăng rằng ông vẫn đi lấy nước ngay.
Đến đây, một
câu hỏi được đặt ra: Tại sao Đức Phật không đích thân đi lấy nước mà lại
sai thị giả bất đắc dĩ của ḿnh làm như vậy? Đáp án đơn giản: Đức Phật
bị sốc do mất máu trầm trọng. Ngài không thể đi lại được nữa, và từ đó
đến khi nhập diệt, rất có thể ngài đă được cáng khiêng.
Bài kinh
không nói ǵ về việc Đức Phật du hành bằng cách nào đến nơi lâm chung,
có thể bởi v́ người ghi lại cảm thấy rằng điều đó sẽ gây một h́nh tượng
không đẹp cho Đức Phật. Về mặt địa lư, chúng ta biết rằng khoảng cách
giữa nơi được cho là nhà của Cunda và nơi Đức Phật nhập diệt là khoảng
15 đến 20 km. Một bệnh nhân mắc bệnh hiểm nghèo không thể đi bộ một
quăng đường xa như vậy.
Nhiều
khả năng, điều đă xảy ra là Đức Phật được một nhóm tu sĩ khiêng trên
cáng đến Câu Thi Na (Kushinagara).
Vẫn c̣n là
một điểm tranh luận liệu Đức Phật có thực sự quyết định nhập diệt tại
thành phố này không? Theo hướng hành tŕnh của Đức Phật, được nêu trong
kinh, có vẻ như Ngài đang di chuyển về phía bắc từ Rajagaha. Có thể ngài
muốn đi về thị trấn nơi ngài sinh ra, vốn phải mất ba tháng để đến được.
Từ
bài kinh, rơ ràng là Đức Phật không lường trước được cơn bệnh đột ngột
của ḿnh, nếu không th́ Ngài đă không nhận lời mời của chủ nhà. Kusinara
có lẽ là thị trấn gần nhất mà các đệ tử có thể t́m được một lang y để
chăm sóc cho ngài.
Thông
thường, một bệnh nhân bị nhồi máu mạc treo có thể sống được từ 10 đến 20
giờ. Từ bài kinh, chúng ta biết rằng Đức Phật qua đời khoảng 15 đến 18
giờ sau cơn đau. Trong sự bế tắc của y học thời kỳ đó, những thị giả của
ngài chỉ c̣n biết cố gắng an ủi, làm ấm căn pḥng nơi ngài nằm, hoặc nhỏ
một ít nước vào miệng của Đức Phật để làm dịu cơn khát kéo dài của ngài,
hoặc bằng cách cho ngài thử uống một ít thảo mộc. Nhưng rất khó có khả
năng một bệnh nhân đang run rẩy, như kinh mô tả, lại cần người quạt cho
ḿnh.
Ở thế kỷ 21,
đạo Phật được nh́n thấy là khoa học, và luôn được giải thích bằng khoa
học. Mọi lư lẽ về siêu nhiên là quyền, nhưng nhận định và hiểu biết bằng
xác thực khoa học, không thể không cần thiết.
***
Điều quan
trọng là trong những cơn đau trước khi nhập diệt, Đức Phật vẫn cố nói
với Ananda rằng Cunda không đáng trách và cái chết không phải do ăn
Sukaramaddava. Tuyên bố này hết sức quan trọng. Đức Phật biết rằng bữa
ăn cuối đó không phải là nguyên nhân trực tiếp, mà triệu chứng này là sự
lặp lại của trải nghiệm mà ngài đă trải qua vài tháng trước đó, trong đó
có trải nghiệm đă suưt giết chết ngài.
Món
Sukaramaddava, bất kể nguyên liệu hay cách nấu, không phải là nguyên
nhân trực tiếp khiến Đức Phật bị bệnh đột ngột, và chính ngài cũng nói
rơ để minh oan cho người phát tâm. Điều này cũng tránh được cho một
tiếng oan có tầm lịch sử đến muôn đời đối với của những người có tấm
ḷng với Đức Phật.
Phụ chú:
Nhồi máu mạc treo là bệnh thường gặp ở người cao tuổi, nguyên nhân là do
tắc nghẽn động mạch chính cung cấp máu cho đoạn giữa của ruột - ruột non
-. Nguyên nhân gây tắc thường gặp nhất là sự thoái hóa của thành mạch
máu, động mạch mạc treo tràng trên, gây ra những cơn đau bụng dữ dội hay
c̣n gọi là cơn đau thắt bụng.
Thông thường,
cơn đau được kích hoạt bởi một bữa ăn lớn, đ̣i hỏi lưu lượng máu đến
đường tiêu hóa cao hơn. Khi tắc nghẽn kéo dài, ruột bị thiếu nguồn cung
cấp máu, sau đó dẫn đến nhồi máu hoặc hoại tử một phần của đường ruột.
Điều này lần lượt dẫn đến vết rách thành ruột, chảy máu ồ ạt vào đường
ruột và sau đó là tiêu chảy ra máu.
Bệnh trở nên
tồi tệ hơn khi chất lỏng và nội dung của ruột tràn ra khoang phúc mạc,
gây viêm phúc mạc hoặc viêm thành bụng. Đây đă là một t́nh trạng nguy
hiểm cho bệnh nhân, những người thường chết do mất máu và các chất lỏng
khác. Nếu không được điều trị bằng phẫu thuật, bệnh thường tiến triển
thành sốc nhiễm trùng do độc tố vi khuẩn xâm nhập vào máu. Từ chẩn đoán
đưa ra ở trên, các nhà khoa học có thể khá chắc chắn rằng Đức Phật bị
nhồi máu mạc treo do tắc động mạch mạc treo tràng trên.
Theo kinh
ghi lại, thỉnh thoảng, khi tạm qua trạng thái kiệt sức, ngài lại tiếp
tục đối thoại với một số người. Hầu hết những lời cuối cùng của Đức Phật
đều là sự thật, và không hề có bất kỳ một sự đổ lỗi hay gieo tội cho ai
đă cúng dường cho ngài dẫn đến t́nh trạng đau yếu. Những di ngôn cuối
cùng của Đức Phật đă được các thế hệ nhà sư ghi nhớ rơ cho đến khi chúng
được chép lại.
Cuối cùng, vào đêm khuya, Đức Phật qua đời trong đợt sốc nhiễm trùng thứ
hai. Căn bệnh của ngài ấy bắt nguồn từ những nguyên nhân tự nhiên cùng
với tuổi tác, giống như bất kỳ ai khác trong chúng ta trong xác thân cát
bụi của trần gian.
—--
V́ phần chuyển ngữ về y khoa có thể không làm người đọc hài ḷng, nên
nếu cần, xin mời đọc tham khảo thêm ở
https://www.budsas.org/ebud/ebdha192.htm
Nguồn: FB Khanh Nguyen