T́m hiểu ư nghĩa câu
kệ "Namo Tassa bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa"
Tỳ khưu Thiện Minh
Khi tụng đọc,
tâm chúng ta hoan hỷ, tỏ tấm ḷng tôn kính vô biên với Đức Thế Tôn, Bậc
A La Hán, Chánh Đẳng Chánh Giác. Pháp cung kính là tâm đại thiện, tạo ra
rất nhiều quả báu.
Trong truyền
thống Phật giáo Nguyên Thủy - Nam Tông, câu kệ lễ Phật "Namo Tassa
bhagavato Arahato Sammāsambuddhassa" (phiên âm theo tiếng Việt: Ná-mô
tá-sá phá-gá-vá-tô á-rá-há-tô sâm-ma sâm-bút-thá-sá) được dịch nghĩa
theo kinh tụng Phật giáo Nam tông Việt Nam là "Con đem hết ḷng thành
kính làm lễ đức Bhagava đó, Ngài là bậc Araham cao thượng, được chứng
quả chánh biến tri do ngài tự ngộ không thầy chỉ dạy"; dịch nghĩa theo
kinh tụng Phật giáo Nguyên thủy hải ngoại là "Cúi đầu đảnh lễ đấng Từ
Tôn, Bậc Chánh Biến Tri đáng cúng dường, Con nguyện thân tâm thường
thanh tịnh, Làm lành lánh dữ lợi quần sanh"; dịch nghĩa Anh ngữ theo
kinh tụng của Giáo Hội Tăng Già Anh Quốc (The Enghlish Sangha Trust):
"Homage to the Blessed, Noble and Perpectly Enlightened One".
Trong bất cứ
nghi lễ lớn hoặc nhỏ, câu kệ lễ Phật trên đều được xướng tụng để mở đầu
cho khóa lễ, thường là hai thời khóa công phu chiều và sáng, và trong
các nghi thức dâng y Kathina, khóa kinh phúc chúc đến Phật tử, nghi thức
thuyết pháp, khi Phật tử cúng dường đến Tam Bảo, v.v. Các nước trong
truyền thống Phật giáo Nguyên thủy trên thế giới đều cử hành nghi thức
xướng câu kệ Namo...lễ Phật giống nhau. Thông thường, mọi người đều tụng
câu kệ này đúng ba lần. Chư Tăng Ni và Phật tử Phật giáo Nguyên thủy đều
biết đọc và tụng bài này. Thậm chí nếu ta muốn biết người nào đó có phải
là Phật tử Nam tông (Theravada) hay không, ta chỉ cần hỏi xem người ấy
có biết tụng bài kệ Namo...lễ Phật. Bài kệ này rất quan trọng, có nhiều
ư nghĩa và giá trị. Tuy nhiên, có lẽ có nhiều Phật tử vẫn chưa hiễu
tường tận về xuất xứ, lợi ích và ư nghĩa của bài kệ. Do đó bài viết này
nhằm trích dẫn và làm sáng tỏ một số vấn đề có liên quan đến bài kệ.
I. XUẤT XỨ
Có lẽ chúng
ta thường thắc mắc, không biết bài kệ Namo...lễ Phật là do Đức Phật dạy
hay do chư vị đệ tử của Ngài giảng dạy cho chúng ta tụng đọc để biết Ân
Đức của Đức Phật Tổ. Nếu suy luận rằng bài kệ do chư vị đệ tử của Ngài
dạy th́ có lư hơn là do chính đức Phật. Nhưng thật ra, bài kệ là do chư
Thiên thốt ra, không phải do đức Phật hay chư vị đệ tử của Ngài dạy.
Trong quyển
"Kho Tàng Pháp Học" (của Thái Lan, do Đại Đức Ngộ Giới phiên dịch),
chúng ta thấy ghi xuất xứ của nó từ bốn quyển Kinh: 1- Chú giải Trường
Bộ Kinh Sumangalavilasinī, 2- Tiểu Tụng (Khuddakapadha), 3-
Paramatthajotika và 4- Nidāsamyutta. Nguyên văn Pāli (Nam Phạn) là:
"NAMO
sātāgirī yakkho
TASSA ca
asurindako
BHAGHAVATO
mahārājā
Sakko
ARAHATO tathā
SAMMĀSAMBUDDHASSA mahā-brahmā
Ete pañca
namassare".
Nghĩa:
Chúa loài Dạ
Xoa, kính lễ Phật bằng tiếng Namo
Chúa A Tu
La, kính lễ Phật bằng tiếng Tassa
Tứ Đại Thiên
Vương, kính lễ Phật bằng tiếng Bhagavato
Vua Trời Đế
Thích, kính lễ Phật bằng tiếng Arahato
Đại Phạm
Thiên, kính lễ Phật bằng tiếng Sammāsammabuddhassa
Giải nghĩa
theo từng từ ngữ:
- Namo
= Thành kính
- Tassa =
vị ấy
-
Bhagavato = Thế Tôn. Nên chúng ta thường tụng: Đức Thế Tôn hiệu
Bhaghavato bởi Ngài đă siêu xuất Tam giới tức là Ngài không c̣n luân hồi
lại nữa.
- Arahato=
Ứng Cúng. Nên chúng ta thường tụng: Đức Thế tôn hiệu Araham bởi Ngài đă
xa ĺa các tội lỗi nên tiền khiên tật thân và khẩu của Ngài đều được
trọn lành.
-
Sammāsammabuddhassa = Chánh Biến Tri. Nên chúng ta thường tụng: Đức
Thế tôn hiệu Sammāsammabuddhassa bởi Ngài đă thành bậc Chánh Đẳng Chánh
Giác, tự Ngài ngộ lấy, không thầy chỉ dạy.
Bài kệ tán
dương Đức Phật này được nói lên lúc nào? Đó là sau khi Đức Phật thành
đạo dưới cội cây Bồ Đề vào tuần lễ thứ nhất. Vừa lúc Ngài cảm thắng Ma
Vương, vẹt màn lưới vô minh và ái dục, tâm Ngài bừng giác ngộ. Ánh sáng
giác ngộ đó được lan tỏa khắp cả Tam thiên đại thiên thế giới. Đầu tiên
lan tỏa lên cơi Tứ Đại Thiên Vương, Đạo Lợi, Dạ Ma v.v. và lan lên cơi
Sắc Giới và Vô Sắc Giới. Nghe tin Đức Thế Tôn thành đạo, Dạ Xoa đại diện
cho cơi trời Tứ Đại Thiên Vương, A Tu La đại diện cho phái Bất thiện,
Vua trời Đế Thích đại diện cho cơi Đạo Lợi, Phạm Thiên đại diện cho 16
cơi trời Sắc giới và 4 cơi Vô Sắc, tất cả đều chúc tụng Ngài vừa thành
đạt ngôi vị Thầy của Chư Thiên và Nhân loại (Satthādevamanussānam), bằng
các lời chúc tụng nêu trên.
II. LỢI ÍCH KHI TỤNG ĐỌC
Thành đạt
trong mọi lănh vực, bắt đầu từ sự nỗ lực, kiên tŕ và cầu tiến không
ngừng. Đánh mất những yếu tố đó sẽ dễ đưa đến thất bại. Trên phương diện
huyền học, ngay cả những đạo sĩ chuyên luyện bùa phép, chú thuật, thần
chú v.v... để thành đạt những phép lạ cũng phải kiên tŕ liên tục, không
bị gián đoạn, nếu bị gián đoạn th́ phép lạ bị giảm thiều và năng lực,
hiệu nghiệm không c̣n tác dụng nữa. Trên phương diện tu tập và hành tŕ
pháp môn giải thoát, chúng ta cũng phải nỗ lực không ngừng, ngăn ngừa
pháp ác, thực hiện các hạnh lành, giữ tâm trong sạch. Nếu công phu tu
luyện thực hành đúng, đều đặn, nhiều kiếp th́ chắc chắn chúng ta sẽ được
giác ngộ giải thoát. Về xuất xứ, bài kệ Namo...lễ Phật là do năm vị có
quyền lực đại diện cho 31 cơi Ta-bà đến lễ lạy Phật khi Ngài mới vừa
thành đạo. Do đó, chúng ta đọc tụng thường xuyên th́ sẽ có những phép lạ
xảy ra trong tâm thức của ḿnh. Quyển Kho Tàng Pháp Học và những bộ Chú
Giải có đề cập đến bốn lợi ích của những ai tụng đọc và hành tŕ:
1. Noi
gương theo bậc thánh
Tụng đọc và
hành tŕ bài kệ này có nghĩa là chúng ta huân tập pháp học và pháp hành
theo gương của bậc thánh (chư Phật). Khi tụng đọc, tâm chúng ta hoan hỷ,
tỏ tấm ḷng tôn kính vô biên với Đức Thế Tôn, Bậc A La Hán, Chánh Đẳng
Chánh Giác. Pháp cung kính là tâm đại thiện, tạo ra rất nhiều quả báu.
Cụ thể là 7 cơi trời Dục Giới, xa hơn nữa là thành Chánh giác. Người
tụng đọc bài kệ này chắc chắn là có duyên lành với Chánh pháp. Người có
ḷng tin th́ mới đọc tụng bài kệ này. Mỗi ngày, khi tán dương và kính lễ
Thế Tôn, A La Hán, Chánh Đẳng Chánh Giác, th́ mỗi ngày chúng ta đều thực
hành theo gương và hạnh của đức Phật.
2. Ngăn ngừa sự tai hại
Người tụng
đọc thường xuyên bằng tâm trong sạch và tôn kính th́ sẽ có quả đại thiện.
Chính quả này có khả năng ngăn ngừa tại hại. Tuy nhiên, nếu đă lỡ tạo
những ác nghiệp th́ chúng ta phải gánh chịu. "Ta đi theo với nghiệp của
ta; Dù cho tốt xấu tạo ra tự ḿnh", hai câu kệ đó giới thiệu chúng ta
một khung trời Thiện và Ác do ta chọn lựa. Một khi lựa chọn th́ chúng ta
phải gánh hậu quả. Thiện và ác theo ta như bóng với h́nh.
Nếu thiện và
ác là do ta tạo, như vậy cần ǵ phải đọc và tụng bài kệ Namo...lễ Phật
để ngăn ngừa tai hại? Xin trả lời rằng trong nghiệp thiện và ác, nghiệp
nào nhiều th́ trổ quả lớn. Cho dù khi nghiệp ác đang trổ quả, nếu chúng
ta thực hiện một trong 10 việc làm thiện sự như: Bố thí, tŕ giới, tu
tiến, cung kính, phục vụ, tuỳ hỷ, nghe pháp, thính pháp v.v.. th́ sẽ cho
tâm đại quả. Tâm đại quả này có khả năng ngăn ngừa những tai hại. Ngăn
ngừa ở đây không có nghĩa là xóa hết những hành động bất thiện chúng ta
đă tạo trong quá khứ, nhưng có thể hoá giải phần nào các hậu quả tai hại
do các nghiệp ác đó. V́ thế, khi chúng ta đọc tụng bài kệ Namo...lễ Phật
đề đặn, thường xuyên và lâu dài, chắc chắn chúng ta sẽ có phước báu vô
lượng vô biên. Đức Phật dạy rằng phước báu là nơi nương nhờ của chúng
sanh trong ngày vị lai, phước báu là nơi ẩn náo an toàn, che chở chúng
sanh, ngăn ngừa tai hại.
3. Tẩy tâm trong sạch
Tâm chúng ta
ô nhiễm do bởi những phiền năo cấu uế như tham, sân, si v.v...V́ tâm
chúng ta không thanh tịnh và trong sạch nên bị ô nhiễm bởi những thứ
phiền năo trên. Trong thiền tập, cụ thể là Thiền Định (samatha bhavana),
đức Phật dạy có 40 đề mục thiền định như: Niệm Phật, niệm Pháp, niệm
Tăng v.v. Hành giả chọn một trong 40 đề mục thích hợp rồi chuyên tâm
Niệm; nhờ phương pháp niệm này mà tâm hành giả được tập trung, đưa đến
cận định, định, đạt sơ thiền, nhị thiền, tam thiền và tứ thiền v.v.,
phiền năo sẽ được vắng lặng trong thời gian khi hành giả đạt được những
giai đoạn thiền đó.
Như vậy,
chúng ta tụng đọc kệ Namo...lễ Phật cũng là một đề mục thiền định nhằm
để giữ tâm trong sạch và thanh tịnh, không bị chao động bởi những ngọn
gió thế gian như: được lợi, mất lợi, được danh, mất danh, hạnh phúc, đau
khổ v.v.
4. Tạo đời sống cốt lơi
Cốt lơi của
đời sống là thiện pháp. Người hành tŕ và đọc tụng kệ Namo...lễ Phật là
người đang thực hành thiện pháp. Thiện pháp chính là bản chất đạo đức
của Thiên nhân. Thiện pháp là nhịp cầu để chuyển mê khai ngộ, ly khổ,
đắc lạc. Đức Phật khuyên chúng ta: "Hăy tự ḿnh thắp đuốc lên mà đi".
Ngài cũng dạy: "Attāhi attano nātho ko hi nātho paro siyā - Mỗi người là
nơi nương tựa của chính ḿnh, không ai có thể là đấng cứu rỗi của ai
được". Qua lời dạy trên, chúng ta thấy đạo Phật là đạo của con người,
lấy con người làm trung tâm. Hạnh phúc hay đau khổ là do chính chúng ta.
Vậy th́ chúng ta hăy nổ lực và chuyên tâm thực hành chánh pháp.
III. TẠI SAO PHẢI ĐỌC VÀ TỤNG BÀI KỆ
NAMO... LỄ PHẬT BA LẦN?
Có người cho
rằng tụng ba lần là tượng trưng cho quá khứ, hiện tại và vị lai; hay
tượng trưng cho ba quả vị Phật: Thinh Văn Giác, Duyên Giác và Chánh Đẳng
Chánh Giác, v.v. Tuy nhiên, không phải như thế. Theo những bộ kinh Phật
như Sumangalavilasinī, Khuddakapadha, Paramatthajotika và Nidāsamyutta,
chúng ta phải tụng đọc ba lần không dư và không thừa. Đọc tụng bài kệ
Namo...lễ Phật ba lần có ư nghĩa và ám chỉ cho ba hạng Bồ Tát thực hành
3 hạnh Pháp Độ (pāramī, ba-la-mật). Đó là: Bồ tát thực hành hạnh Trí Tuệ
(paññā), Bồ tát thực hành hạnh Đức Tin (saddhā), và Bồ tát thực hành
hạnh Tinh Tấn (viriya)
Mặc dù ba vị
Bồ Tát này tu những hạnh nguyện khác nhau, nhưng đều hướng đến quả vị
Chánh Đẳng Chánh Giác (sammāsambuddhassa) giống nhau. Chư vị Chánh Đẳng
Chánh Giác đều có Nhất Thiết Chủng Trí, Thần Thông, và 30 tục lệ của Chư
Phật th́ đều tương đồng. Tuy nhiên thời gian thực hành Pháp Độ th́ khác
biệt. Vị Bồ tát thực hành Pháp Độ hạnh Trí Tuệ th́ phải mất thời gian 20
A Tăng Kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Vị Bồ tát thực hành Pháp Độ hạnh Đức Tin
th́ phải mất thời gian 40 A Tăng Kỳ và 100 ngàn đại kiếp. Vị Bồ tát thực
hành Pháp Độ hạnh Tinh Tấn th́ phải mất thời gian 80 A Tăng Kỳ và 100
ngàn đại kiếp. Theo bộ Chánh Giác Tông (Buddhavamsa), do Hoà Thượng Bửu
Chơn phiên dịch, th́ Phật Thích Ca tu hạnh Trí Tuệ, và Phật Di Lặc tu
hạnh Tinh Tấn.