“Tính trong Pāḷi, sīmā trong
Luật tạng” những vị thầy đã nói như vậy. Điều này cho thấy: sīmā là một điểm
khó nhằn và phức tạp trong Luật tạng. Bài viết chỉ đưa ra một vài khái niệm
cơ bản về chủ đề này.
1. Ý nghĩa của sīmā
Sīmā là một khu vực được kiết
giới riêng biệt để chư Tăng hội hợp tiến hành các Tăng sự cùng với nhau như
lễ thọ đại giới, lễ Bố-tát, lễ Tự tứ, lễ Dâng y Kathina, …
Từ Pāḷi, sīmā có nghĩa là một
nơi được ấn định cụ thể. Một quốc gia có những đơn vị hành chính như tỉnh,
thành, quận, huyện, xã, ấp … được ấn định riêng biệt. Trên thế giới, những
đường biên giới được thoả thuận với nhau về phạm vi, quyền hạn, quyền lợi
của một quốc gia, nhờ đó quốc gia này không can thiệp đến lợi ích của một
quốc gia khác. Nếu các quốc gia tôn trọng lẫn nhau về phạm vi của mỗi nước
thì thế giới sẽ hoà bình.
Cũng vậy trong Giáo Pháp một
khu vực được ấn định là sīmā là điều không thể thiếu vì các Tăng sự đều diễn
ra ở bên trong khu vực sīmā đặc biệt là lễ thọ đại giới cuộc lễ mà sinh ra
những người truyền thừa để mạng mạch Phật Giáo không bị đứt đoạn. Giả sử
ngày nay chúng ta không có một khu vực sīmā nào cả thì không thể tạo ra một
thế hệ truyền thừa tiếp theo trong tương lai và do đó mạng mạch Giáo Pháp
chấm dứt. Từ đó chúng ta thấy sīmā có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc
còn mất của Giáo Pháp.
Những khu vực hành chính như
tỉnh, thành, quận, huyện, xã, ấp, … đã được nhà nước ấn định phạm vi được
gọi là abaddha sīmā, những khu vực này được gọi là những sīmā đã tự thành và
chư Tăng không cần phải kiết giới.
Baddha sīmā được chư Tăng kiết
giới bên trong khu vực abaddha sīmā để thuận tiện tập trung Tăng chúng khi
có Tăng sự cần được tiến hành.
Nói chung sīmā là một khu vực
được ấn định để chư Tăng tiến hành các Tăng sự.
2. Phân loại sīmā
Sīmā là một khu vực giới hạn
được lập nên bởi sự hoà hợp của Tăng khi thực hiện Tăng sự. Trong Luật tạng
đề cập nhiều loại sīmā, nhưng tóm tắt thì có hai loại chính:
1. Baddha sīmā (sīmā được lập
nên bởi Tăng bằng nhị tác bạch tuyên ngôn trong một khu vực giới hạn)
2. Abaddha sīmā (sīmā được hình
thành một cách tự nhiên mà không thông qua tăng sự nào của Tăng)
Baddha sīmā có thể được chia
thành ba loại:
(a) Khandha sīmā (khu vực được
giới hạn trong Mahāsīmā)
(b) Samānasaṃvāra sīmā (khu vực
được giới hạn cho việc thực hiện các tăng sự)
(c) Avippavāsa sīmā (khu vực
được xác định trong Baddha sīmā để chư tăng có thể cư ngụ mà không cần đủ
Tam y dành cho vị nguyện chỉ mặc Tam y.
Abaddha sīmā cũng có thể được
phân làm ba loại:
(a) Gāma sīmā (khu vực làng
được nhà nước xác định ranh giới)
(b) Udakukkhepa sīmā (sīmā được
xác định ranh giới bằng việc toé nước)
(c) Sattabbhantara sīmā (khu
vực sīmā rộng 7 abbhantara)
3. Tại sao phải cần xả bỏ sīmā
cũ (sīmāsamūhana)
Khi một Sīmā được kiết giới
việc làm cho trong sạch khu vực sẽ là sīmā là một yếu tố rất quan trọng tạo
nên một Sīmā hợp lệ. Nếu vì một lý do nào đó mà sīmā được kết giới không
được hợp lệ nó sẽ dẫn đến những hậu quả rất tai hại; chẳng hạn, một sīmā
không hợp lệ và chư Tăng nghĩ rằng sīmā này là hợp lệ và tổ chức lễ thọ đại
giới ở trong đó, Tăng sự xuất gia này sẽ không có giá trị và vị tỷ-kheo ấy
không thành tựu giới phẩm. Điều này cũng ảnh hưởng đến mạng mạch của Giáo
Pháp. Do đó, Sīmā hợp lệ được xem như là cái nôi của Giáo Pháp, là mạng mạch
của Tăng đoàn.
Bộ chú giải Kankhavitarani đề
cập ba đặc tính của một Sīmā hợp lệ:
(1) … không nằm trong số 11
loại Sīmā không hợp lệ
(2) … trọn vẹn ba điều thành
tựu
(3) … những dấu mốc được liên
kết khi sự kiết giới hoàn tất
Khi chư Tăng kiết giới một sīmā
mới mà không xả bỏ sīmā cũ thì sīmā đó rất có thể sẽ (10) liên kết với một
Sīmā khác và (11) trùm lên một Sīmā khác. Đây là 2 loại trong số 11 loại
Sīmā không hợp lệ. Do đó, để ngăn ngừa những điều này xảy ra, theo truyền
thống, việc xả bỏ sīmā cũ là một nhiệm vụ phải làm trước khi chư Tăng tiến
hành tạo nên một sīmā mới (sīmāsammuti).