|
Ðại Niệm Xứ
Thiền sư U Silananda
Tỳ kheo Khánh Hỷ dịch Việt
[01-D]
Quán sát Thân trong Thân
(Niệm Thân)
(tiếp theo)
II. Mười Thiện Xảo Trong Sự Chú
Tâm:
Sau khi học bảy thiện xảo trong việc học tập, thiền sinh
học "mười thiện xảo trong sự chú tâm"
1. Thiền sinh phải tụng đọc và quán sát "theo thứ
tự", nghĩa là thiền sinh phải tụng đọc và quán sát tuần tự
trước sau không bỏ băng.
2. Thiền sinh không được tụng đọc và quán sát quá nhanh.
Nếu tụng đọc và quán sát quá nhanh sẽ bị lẫn lộn, rối rắm.
3. Thiền sinh không được tụng đọc và quán sát quá chậm.
Nếu tụng đọc và quán sát quá chậm sẽ bị quên nhiều phần.
4. Thiền sinh phải học cách "thiện xảo, nhạy bén trong
việc kiểm soát sự phóng tâm". Thiền sinh không nên để bị
"cuốn hút" vào nội dung hay diễn biến của sự phóng tâm. Nếu
bị "cuốn hút" vào nội dung hay diễn biến của sự phóng tâm thì
việc hành thiền bị mất liên tục và tâm bị cuốn theo những đối
tượng bên ngoài. Thiền sinh phải cố gắng giữ tâm trên các bộ phận của
cơ thể; đừng để những đối tượng khác làm phóng tâm.
5. Thiền sinh phải "vượt qua khái niệm chế định".
Khi thiền sinh tụng đọc: "tóc, lông, móng... " là thiền
sinh lập đi lập lại những danh từ chế định, những tên gọi của các
bộ phận trong cơ thể. Phải vượt qua những danh từ chế định này.
Không được chú tâm vào phần chế định của các bộ phận đang tụng
đọc. Phải cố gắng chú tâm đến khía cạnh ô trược của những bộ
phận bạn đang tụng đọc. Ðây là điều cần thiết, bởi vì mục
đích của việc hành thiền này là tạo nên hay thiết lập trong tâm
bạn sự ô trược của những bộ phận trong cơ thể để bạn khỏi dính
mắc vào.
Sự ô trược phải được nhìn dưới năm cách hay năm khía cạnh: màu sắc,
hình dáng, mùi, xuất xứ, và vị trí.
Chẳng hạn, "màu sắc" hay sự biểu hiện của tóc thì rất ô
trược. Khi nhìn qua sự chế định thì tóc là một chuyện, nhưng khi
loại bỏ khái niệm thì tóc là một chuyện khác. Khi bạn thấy tóc hay
một cái gì giống tóc trong thức ăn, bạn sẽ cảm thấy ghê tởm. Ðang ăn mà
bạn cảm thấy dường như trong miệng mình đang có sợi tóc, bạn cũng sẽ
cảm thấy ghê tởm. "Hình dáng" của sợi tóc cũng thật ghê tởm.
"Mùi" tự nhiên của tóc chẳng thơm tho chút nào. Khi tóc không được
gội chải, xức dầu hoặc gắn hoa thì sẽ có mùi khó ngửi. "Xuất xứ"
là nguồn gốc của tóc. Tóc sinh ra ở đâu? Tóc mọc từ cơ thể của bạn
và cơ thể chính nó là tập hợp của những thể trược khác: máu, mủ,
đờm, nước tiểu vv... Tóc mọc lên từ những vật đáng ghê gớm ấy.
Như vậy tóc có xuất xứ đáng ghê tởm. "Vị trí", có nghĩa là nằm
ở chỗ nào. Ðối với tóc thì tóc nằm ở đâu? Tóc nằm trên cơ thể
tập hợp bởi những chất dơ dáy.
Ðối với các thể trược khác, thiền sinh cũng nhìn tính cách ô
trược của chúng qua màu sắc, hình dáng, mùi, xuất xứ và vị trí.
6. "Tuần tự loại bỏ". Khi thiền sinh tụng đọc các
thể trược thì một số thể trược sẽ hiện rõ trong tâm thiền
sinh, một số khác thì không. Khi điều này xảy ra thì thiền sinh hãy
loại bỏ những thể trược hiện ra không rõ; chỉ tụng đọc những
thể trược hiện ra rõ ràng mà thôi. Thiền sinh loại bỏ dần dần cho
đến khi chỉ còn một thể trược hiện ra rõ nhất. Thiền sinh hãy
lấy đề mục này làm đề mục chính để hành thiền và phải
quán sát đề mục này nhiều lần cho đến khi thiền sinh nhập
định (jhaana).
7. "Chú tâm vào việc nhập định". Thiền sinh phải
hiểu rằng sự nhập định (uppanaa) có thể đến trong khi
thiền sinh quán sát bất kỳ thể trược nào.
8., 9., 10. Ba thiện xảo còn lại được đề cập đến trong
ba bài kinh sau đây:
* Tăng Chi Bộ Kinh (A"nguttara) i. 256-8: dạy phải chú tâm vào ba
yếu tố: định tâm, tinh tấn và xả thọ khi quán sát hay hành thiền.
Nếu chỉ chú tâm vào định tâm sẽ sinh ra biếng nhác. Nếu chỉ chú
tâm vào tinh tấn thì sẽ giao động. Nếu chỉ chú tâm vào xả thọ thì
sẽ không có được sự định tâm thích hợp. Bởi vậy cả ba, định tâm, tinh
tấn và xả thọ phải được quân bình.
* Tăng Chi Bộ Kinh (A"nguttara) iii. 435: dạy phải hoàn thành sáu
điều sau đây để đạt được sự an tịnh tối thượng:
- Thu thúc tâm khi cần thu thúc.
- Tinh tấn khi cần tinh tấn.
- Khích lệ tâm khi cần khích lệ.
- Nhìn mọi vật với tâm xả.
- Quyết tâm đạt đến trạng thái tối thượng.
- Vui thích Niết Bàn.
* Tương Ưng Bộ Kinh (Sa"myutta) v.113: dạy lúc nào cần phải phát
triển các chi của Thất Giác Chi. Thất Giác Chi gồm bảy yếu tố và
mỗi yếu tố cần được phát triển vào lúc thích hợp. (Thất Giác
Chi sẽ được nói kỹ hơn ở chương Niệm Pháp.)
III. Thực Hành Ở Mức Cao Hơn
Sau khi thiền sinh đã học mười thiện xảo về sự chú tâm,
thiền sinh đến nơi thích hợp tụng đọc các thể trược ra
miệng, tụng đọc thầm trong tâm, rồi thực hành theo các bước kế
tiếp. Thiền sinh quán sát ba mươi hai thể trược nhiều lần cho
đến khi chỉ còn một thể trược rõ ràng nhất và chọn thể
trược này làm đề mục chính. Thiền sinh tiếp tục quán sát thể
trược này cho đến khi nhập định (jhaana).
Ðức Phật dạy cách hành thiền này để giúp cho thiền sinh bớt
tham đắm, dính mắc vào cơ thể của mình và cơ thể người khác.
Ðề mục niệm thân ô trược này có thể dùng để hành Thiền
Vắng Lặng dẫn đến tầng thiền thứ nhất hoặc có thể dùng để
thực hành Thiền Minh Sát. Thiền sinh hành Thiền Vắng Lặng đạt
được tầng thiền thứ nhất có thể chuyển sang Thiền Minh Sát
bằng cách chú tâm vào chính tầng Thiền Vắng Lặng này hay quán sát đối
tượng của tầng Thiền Vắng Lặng này, ở đây, là một trong ba mươi hai
thể trược. Bạn cố gắng quán sát sự sinh diệt của chính tầng
thiền hay sự sinh diệt của đề mục (đối tượng) Thiền Vắng
Lặng cho đến khi đạt đến những tiến bộ cao hơn trong Thiền
Minh Sát. Hoặc không phát triển các tầng Thiền Vắng Lặng mà quán sát
thể trược để phát triển Thiền Minh Sát trên các thể
trược này. Bằng cách nào, cuối cùng bạn cũng trực nhận Niết Bàn. Hãy
đọc lại đoạn kinh sau đây để thấy rõ mục đích của đoạn kinh này
là nhấn mạnh đến Thiền Minh Sát chớ không phải là Thiền Vắng
Lặng:
Như thế, tỳ khưu quán sát thân trên nội thân hay tỳ khưu quán
sát thân trên ngoại thân hay tỳ khưu quán sát cả hai thân trên nội thân và
ngoại thân.
Tỳ khưu quán sát yếu tố sinh khởi (đặc tính sinh khởi) trong thân hay
Tỳ khưu quán sát yếu tố diệt tận (đặc tính diệt tận) trong thân
hay tỳ khưu quán sát cả hai yếu tố sinh khởi (đặc tính sinh khởi) và
yếu tố diệt tận (đặc tính diệt tận) trong thân.
Hoặc tỳ khưu chánh niệm rằng 'chỉ có thân mà thôi'. Và sự chánh
niệm này được thiết lập để giúp cho sự phát triển chánh
niệm về sau.
Tỳ khưu không tham ái và tà kiến mà lệ thuộc hay dính mắc vào bất
cứ vật gì.
Tỳ khưu không dính mắc vào bất cứ vật gì trên thế gian do ngũ uẩn
hợp thành này.
Này các thầy tỳ khưu, như vậy là tỳ khưu quán sát thân trên thân.
Chỉ có Thiền Minh Sát mới giúp thiền sinh thấy được sự sinh
diệt. Khi quán sát sự sinh khởi và sự diệt tận bạn sẽ thấy rõ ý
nghĩa và mục đích của Thiền Minh Sát. Thiền Vắng Lặng không giúp
thấy được sự sinh diệt. Nhưng Thiền Vắng Lặng hỗ trợ cho
Thiền Minh Sát.
Khi thiền sinh quán sát "thể trược" và thật sự thấy được
sự ô trược của các bộ phận này thì thiền sinh sẽ không còn có tham ái
hay tà kiến để bám víu vào một bộ phận nào của cơ thể. Bởi
thế thiền sinh không còn dính mắc vào bất kỳ vật gì thuộc về ngũ
uẩn.
Hành thiền quán sát thân ô trược đem lại nhiều lợi ích. Thiền
sinh hành thiền quán sát thân ô trược sẽ thích thú những nơi cô tịch.
Thông thường người ta không thích ở một nơi vắng vẻ, nhưng người hành
thiền quán sát thân ô trược có thể "chinh phục được sự chán
ghét nơi cô tịch" nhờ việc hành thiền của mình. Họ cũng có
thể "chinh phục được tâm thích thú dục lạc". Con người thường
ham thích dục lạc ngũ trần nhưng khi hành thiền quán sát thân ô trược
họ sẽ có thể chế ngự được sự ham thích này. Họ sẽ không
còn thấy các bộ phận của cơ thể đáng yêu và hấp dẫn nữa mà có một
cái nhìn thản nhiên về chúng.
Một lợi ích khác là chinh phục được "nỗi lo ngại sợ hãi".
Thiền sinh hành loại thiền này sẽ không có ý niệm chế
định về sự hấp dẫn về các bộ phận trong cơ thể. Khi có điều
nguy hiểm xảy ra, thiền sinh sẽ không cảm thấy lo ngại hay sợ hãi.
Thiền sinh sẽ dễ dàng chịu đựng lạnh nóng, đói khát, vv... Thời tiết
có xấu đến đâu cũng không làm thiền sinh khó chịu, thực phẩm có dở
đến đâu cũng không làm thiền sinh bực mình, gặp hoàn cảnh nào
thiền sinh cũng có thể kiên nhẫn chịu đựng.
Thiền sinh có thể đạt được tầng thiền thứ tư nếu chú tâm
vào khía cạnh màu sắc của tóc hoặc màu sắc của cơ phận khác. Nhưng nếu
chỉ quán sát sự ô trược thì thiền sinh chỉ đạt được tầng thiền
thứ nhất, không thể đạt tầng thiền thứ hai, thứ ba và thứ tư bởi vì
khi hành thiền quán sát thân ô trược đòi hỏi phải có thiền chi
"Tầm" (vitakka) để giúp cho tâm nằm trên đối tượng thô
tháo, đối tượng tầng thiền này là sự ô trược của cơ thể. Chỉ có
tầng thiền thứ nhất mới có thiền chi "Tầm" (vitakka)
này.
Cần nhắc lại ở đây là:
- Tầng thiền thứ nhất có năm thiền chi: tầm (hướng tâm đến
đề mục), tứ (chà xát trên đề mục), hỉ, lạc, nhất tâm.
- Tầng thiền thứ hai có ba thiền chi: hỉ, lạc, nhất tâm.
- Tầng thiền thứ ba có hai thiền chi: lạc, nhất tâm.
- Tầng thiền thứ tư chỉ còn có nhất tâm và xả.
Khi chú tâm quán sát vào màu sắc của các bộ phận khác nhau của cơ
thể thì màu sắc trở thành đề mục hành thiền của bạn (có các kasina
màu sắc: xanh, vàng, trắng và đỏ). Khi nó biến thành đề mục màu
sắc để hành thiền thì bạn có thể phát triển các tầng
thiền trên đề mục này và bạn có thể đạt được các tầng
thiền hai, ba, bốn. Tóm lại bạn có thể đạt được tất cả bốn tầng
thiền nếu bạn dùng màu sắc của tóc hay của các cơ phận khác làm
đề mục hành thiền.
Sau khi đạt được tầng thiền thứ tư, thiền sinh có thể phát
triển xa hơn để có thể đạt được các khả năng phi thường khác
như thấy xa ngàn dặm, nghe xa ngàn dặm, hiểu tâm người khác v v... còn
gọi là đắc "lục thông".
Khi hành thiền quán sát thân ô trược, thiền sinh không cần quan tâm
đến sự chính xác của ba mươi hai thể trược theo y học phân tích,
bởi vì có nhiều thể trược chẳng phải là những bộ phận của cơ
thể như: thực phẩm chưa tiêu, phẩn, nước tiểu. Chúng được nói
đến chỉ với mục đích làm đề mục cho việc hành thiền. Dĩ
nhiên có hơn ba mươi hai bộ phận nhưng chỉ cần ba mươi hai là đủ. Như bạn
thấy, chỉ cần hành thiền bằng cách quán sát bộ phận đầu tiên là tóc
cũng có thể đạt đến các tầng thiền, rồi sau đó chuyển sang
Thiền Minh Sát và giác ngộ chân lý.
Vài bộ phận trong cơ thể được dịch khác nhau như người dịch là
"nước mỡ", người dịch là "huyết tương". Tuy nhiên,
không cần quan tâm đến các vấn đề này. Bạn không thể thấy từng
bộ phận mặc dầu bạn có vào bệnh viện hay đến chỗ khám
nghiệm tử thi. Có những cuốn sách trong đó có hình ảnh của các bộ phận
trong cơ thể, bạn có thể xem những hình ảnh này và chọn ra một bộ
phận làm đề mục hành thiền của bạn. Nếu bạn có cơ hội thấy một
hay nhiều bộ phận này trong thực tế thì bạn sẽ đạt được nhiều
lợi ích trong việc hành thiền. Bạn có thể lấy bộ phận mà bạn đã
thấy tận mắt làm đề mục hành thiền.
Cần ghi nhận ở đây là trong nhiều bản kinh khi nói đến các bộ
phận của cơ thể không đề cập đến "óc" hay
"não" nhưng chú giải cho rằng óc hay não được nói đến trong Patisa"mbhidamagga.
Như vậy kinh nào không đề cập đến não thì ta nên hiểu là não
đã được bao gồm trong "tủy".
Ðến đây chấm dứt mục hành thiền quán sát ba mươi hai thể
trược.
E.- Quán Sát Tứ Ðại
"Lại nữa, nầy các thầy tỳ khưu,
tỳ khưu quán sát chính thân thể này về phần tứ đại: Trong thân này
có địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong đại.
Như một người đồ tể thiện nghệ hay học trò của
người này giết một con bò và ngồi xẻ ra nhiều phần ở ngã tư
đường. Cũng vậy, nầy các thầy tỳ khưu, tỳ khưu quán sát chính thân
thể này về phần tứ đại: Trong thân này có địa đại, thủy đại, hỏa
đại và phong đại."
Mục này của kinh Tứ Niệm Xứ nói đến tứ đại và cách thiền
sinh quán sát tứ đại trong lúc đi, đứng, nằm, ngồi. Thiền sinh phải quán
sát cơ thể mình dưới khía cạnh tứ đại.
Theo truyền thống, có bốn đại: địa đại, thủy đại, hỏa đại và phong
đại. Hành thiền bằng cách quán sát tứ đại chỉ được đề cập vắn
tắt trong kinh Ðại Niệm Xứ này và được trình bày ngắn gọn vì phần
này chỉ dành cho thiền sinh có sự hiểu biết mau lẹ, có trí tuệ
nhạy bén. Trong các kinh Maahaaha.t.thipadopama Sutta, Raahulovaada Sutta và
Dhaatuvibhanga Sutta trình bày cách hành thiền quán sát tứ đại với
đầy đủ chi tiết. Những kinh này dành cho những người có trí tuệ ít
nhạy bén hơn. Mỗi khi Ðức Phật thuyết pháp Ngài thường xét xem
người nghe có thích hay không, và tâm họ thuần thục chưa. Sau khi đã xem
xét như vậy, Ðức Phật thuyết pháp theo trình độ của người nghe. Bởi
vậy có những bài kinh Ngài đề cập đến nhiều chi tiết và
giảng giải rộng, có những bài kinh ngài chỉ nói ngắn gọn.
Trong kinh Ðại Niệm Xứ này, Ngài chỉ trình bày vắn tắt đề mục
quán sát tứ đại. Mục đích của thiền quán sát tứ đại là để loại
bỏ khái niệm về một chúng sanh, cho rằng ta và người là chúng sanh.
Tứ đại được tìm thấy trong tất cả sinh vật, cây cối và vật vô tri vô
giác. Muốn loại bỏ khái niệm có một chúng sanh, thiền sinh cần phải
hành thiền quán sát tứ đại bằng cách chia chẻ thân thể này ra làm
bốn thành phần và quán sát riêng biệt từng thành phần một. Mỗi thành
phần như vậy gọi là "một đại".
1. Ðịa đại: Ðịa đại không có nghĩa là đất như ta thường
biết mà là những gì có bên trong đất cũng như trong các vật khác.
"Tính chất cứng mềm" đó là đặc tính của địa đại. Ðun tay
vào nước bạn cảm thấy mềm, sự mềm này là địa đại. Sờ tay vào
tường bạn cảm thấy cứng, sự cứng này là địa đại. Bạn tìm thấy địa đại
khắp mọi nơi. Công năng của địa đại là làm nền tảng để những
vật khác có thể đặt lên đấy. Ðối với thiền sinh hành Thiền Minh
Sát về đề mục địa đại thì sự biểu hiện của địa đại là
sự thâu nhận hay chấp nhận. Bởi vậy các bạn phải hiểu địa đại theo
đặc tính, công năng hay sự thể hiện của nó. Tóm lại, đặc tính của
địa đại là cứng mềm, công năng của địa đại là làm nền tảng và
sự biểu hiện của địa đại là sự thâu nhận hay chấp nhận vật gì.
2. Thủy đại: Thủy đại ở đây không có nghĩa là nước như ta
thường biết. Thủy đại có đặc tính "chảy giọt xuống",
"dính hút, kết hợp" hay "lỏng". Thủy đại có mặt trong
mọi vật. Có sự kết hợp hay dính hút trong đất, trong gỗ hay trong
gạch đá v v... Sự kết hợp hay sự dính hút làm cho vật liên kết lại
với nhau là đặc tính của thủy đại. Công năng của thủy đại là "làm
cho mạnh lên". Thủy đại làm cho mạnh lên những gì tiếp xúc với nó.
Sự biểu hiện thủy đại trong thiên nhiên là "kết hợp vật chất
lại với nhau". Khi chế nước vào bột, chẳng hạn, thì ta sẽ có một
cục bột dẻo. Nước đã kết dính bột lại với nhau. Sự kết dính lại
với nhau là sự biểu hiện của thủy đại. Khi hành thiền thỉnh
thoảng sự biểu hiện này sẽ đến với bạn. Bạn sẽ thấy hay hiểu
thủy đại đôi khi qua đặc tính, đôi khi qua công năng và đôi khi qua sự
biểu hiện.
3. Hỏa đại: Ðây không phải là lửa hiểu theo nghĩa thông
thường, nhưng là trạng thái của lửa, tính chất của lửa như sức nóng chẳng
hạn. Sức nóng hay lửa làm cho vật "chín mùi, trưởng thành hay già
nua". Nói nóng ta cũng bao gồm cả lạnh. Nóng, lạnh hay "nhiệt
độ" là đặc tính của hỏa đại. Khi bạn cảm thấy nóng hay lạnh là bạn
cảm giác được hỏa đại. Và khi cơ thể trưởng thành hay già đó là tác
dụng của hỏa đại. Công năng của hỏa đại là làm cho vật "trưởng
thành", làm cho vật "nóng" hay "lạnh". Sự biểu
hiện của hỏa đại là "tiếp tục cung cấp sự mềm dẻo".
Chẳng hạn khi bạn nấu vật gì thì vật được nấu sẽ mềm. Cũng vậy sức
nóng trong cơ thể làm cho cơ thể bạn mềm do đó cơ thể bạn
già dần.
Có bốn loại lửa:
- Nhiệt của cơ thể làm cho cơ thể nóng, hay khi bạn đau thì
thân nhiệt gia tăng.
- Lửa làm cho cơ thể bạn trưởng thành và già.
- Lửa làm cho người hay vật nóng lên, đó là sức nóng quá độ. Khi bị
cảm cúm, cơ thể bạn rất nóng, đó là sức nóng quá độ.
- Lửa tiêu hóa thức ăn, nhờ lửa này mà bốn loại thực phẩm: ăn, uống,
nhai, mút được tiêu hóa. Khi bạn có lửa tiêu hóa tốt hay lửa dạ dày tốt
(như người Miến Ðiện thường nói) thì cơ thể bạn có thể
tiêu hóa tất cả những gì bạn ăn. Khi bạn không có lửa tiêu hóa tốt, thì
bao tử bạn sẽ gặp rắc rối.
4. Phong đại: Ðặc tính của phong đại là "bành trướng, dãn nở
hay làm phồng lên". Khi thổi hơi vào một quả bóng, quả bóng phồng lên.
Phong đại cũng làm cho bạn đứng hay ngồi thẳng không bị cong xuống. Ðó là
sự "nâng đỡ của gió đến từ mọi phía". Công năng của gió
là "tạo ra sự di động". Khi bạn di chuyển thì sự di chuyển
của bạn là do phong đại gây ra. Biểu hiện của phong đại là "sự
vận chuyển".
Có sáu loại gió:
- Gió hướng lên làm bạn nấc cụt hay nôn mửa.
- Gió hướng xuống, tống phân hay nước tiểu ra ngoài.
- Gió trong bụng, ngoài ruột.
- Gió trong ruột.
- Gió chạy trong khắp tứ chi.
- Hơi thở ra vào.
Khi bạn đi hoặc co duỗi thì phong đại làm việc. Phong đại được
gây ra bởi tâm hay ý muốn của bạn.
Thiền sinh quán sát tứ đại trong khi đi, đứng, nằm ngồi.
Bây giờ hãy tìm hiểu cách quán sát tứ đại trong khi đi. Khi đi,
trước tiên bạn dở chân lên. Lúc dở chân lên bạn thấy nhẹ. Sự nhẹ này
được gây ra bởi hỏa đại. Khi dở chân lên có sự chuyển động. Sự
chuyển động do phong đại gây ra. Khi đưa chân bước về phía trước,
sự chuyển động cũng do phong đại gây ra. Khi hạ chân xuống, bạn thấy
chân nặng, sự nặng này do sự có mặt của thủy đại. Khi chân chạm đất hay
chạm nền nhà bạn cảm thấy sự cứng hay mềm của cả nền nhà lẫn
chân bạn. Sự cứng mềm này là đặc tính của địa đại. Chỉ trong một
bước đi bạn có thể phân biệt biết được bốn đại. Khi dở chân
lên thì hỏa đại và phong đại trội hơn cả. Khi đưa chân bước về phía
trước bạn nhận ra phong đại, khi đặt chân xuống bạn thấy được thủy đại,
khi chân đạp lên đất bạn cảm thấy được địa đại. Như vậy là thiền
sinh đã quán sát được cả bốn đại trong một bước đi, mặc dầu thoạt đầu
thiền sinh không ghi nhận được sự hiện diện của tất cả bốn đại.
Khi thiền sinh thấy các đại một cách rõ ràng thì ý niệm về
một chúng sanh biến mất. Lúc này thiền sinh thấy rằng chỉ có bốn đại
mà thôi. Bốn đại đang đi, bốn đại đang đứng v v... Khi chỉ thấy tứ đại
đi, đứng, nằm, ngồi thì bạn sẽ không thấy có một con người đang làm tác
động này; như vậy ý niệm về một chúng sanh biến mất.
Sự quán sát tứ đại được giảng giải trong kinh này bằng một ví dụ và
chú giải đã giải thích như sau: Khi người đồ tể nuôi một con bò, đem
nó đến chỗ giết thịt, cột bò vào một cột cây rồi giết bò
thì người đồ tể vẫn còn ý niệm về một con bò, một chúng
sanh. Nếu có ai hỏi ông ta đang làm gì, người đồ tể sẽ nói:
"Tôi cho bò ăn" hay "tôi đang giết bò". Ngay cả sau khi
giết con bò, trước khi xẻ thịt và cắt ra từng miếng, ông ta vẫn còn
duy trì ý niệm rằng đó là một con bò. Nhưng sau khi đã xẻ bò ra,
cắt thành từng miếng nhỏ và đặt lên bàn để bán ở ngã tư đường
thì người đồ tể mất hẳn ý niệm về một con bò. Nếu có ai
hỏi ông ta bán gì ông không thể nào trả lời rằng "Tôi bán bò".
Ông ta sẽ trả lời là: "Tôi bán thịt bò". Như vậy sau khi cắt bò ra
từng miếng, người đồ tể đã mất ý niệm về một con bò.
Tương tự như vậy, khi thiền sinh tự cắt mình ra thành bốn đại - tất
cả những gì trên cơ thể thiền sinh cũng chỉ là bốn đại - như vậy
là thiền sinh sẽ mất ý niệm về một thiền sinh, một con
người. Ðức Phật dạy cách hành thiền này để loại bỏ ý niệm
"có một chúng sinh". Ví dụ trên đây không thể đưa đến
kết luận rằng thiền sinh phải ý niệm hóa tứ đại. Tứ đại
được Ðức Phật dạy không phải là ý niệm chế định mà là một
phần của chân lý tuyệt đối hay "chân đế" gồm tâm, tâm
sở, sắc pháp và Niết Bàn. Ðây là "chân đế", khác với
"tục đế". Thiền sinh phải "thấy" tứ đại qua việc
hành thiền của mình.
Thiền sinh sẽ gặt hái được nhiều lợi ích qua cách hành thiền
này. Trong sách Thanh Tịnh Ðạo, ngài Buddhaghosa nói:
"Nhà sư tích cực chú tâm quán sát tứ đại, tự đắm mình vào trong
chỗ trống không và loại bỏ mọi ý niệm về một chúng sanh.
Bởi vì thầy không chấp giữ ý niệm sai lầm về dã thú, ma quỷ,
chằng tinh; bởi đã loại bỏ mọi ý niệm về một chúng sanh, nên
thầy chế ngự được nỗi lo lắng, sự sợ hãi và chinh phục được tham
ái và sân hận. Thầy không phấn khích hay nản lòng trước vật vừa ý hay
không vừa ý, và là một người có sự hiểu biết sâu xa nên thầy
sẽ đi vào chốn bất tử hay đến nơi hạnh phúc an vui." [10]
Hành Thiền Minh Sát không dẫn đến sự chứng đắc các tầng thiền
trong Thiền Vắng Lặng mà chỉ đưa đến cận định. Người hành
Thiền Minh Sát đúng phương cách, cố gắng quán sát tứ đại trong mọi
lúc và mọi nơi sẽ thấy rõ tứ đại cũng như tâm mình sinh rồi diệt.
Khi thiền sinh thấy được sự sinh diệt của sự vật thì thiền sinh
đã đạt được một sự hiểu biết căn bản của Thiền Minh Sát. Từ
đấy, thiền sinh đạt đến những tầng mức cao hơn cho đến khi đạt
đến chỗ cuối của Thiền Minh Sát và giác ngộ Niết Bàn.
Như thế, tỳ khưu quán sát thân trên nội thân hay tỳ khưu quán
sát thân trên ngoại thân hay tỳ khưu quán sát cả hai thân trên nội thân và
ngoại thân.
Khi bạn quán sát tứ đại trên thân thể của chính bạn thì bạn đã
quán sát thân trên nội thân; khi bạn bỗng nhiên suy nghĩ đến tứ đại
trên thân thể người khác thì bạn đã quán sát thân trên ngoại thân. Khi
bạn quán sát tứ đại trên chính thân bạn rồi quán sát tứ đại trên thân
người khác thì bạn đã quán sát cả hai thân trên nội thân và thân trên
ngoại thân.
Khi bạn thấy rằng chỉ có tứ đại mà chẳng có người hay chúng sanh gì cả
thì bạn không dính mắc, luyến ái vào bất cứ thứ gì, như vậy là bạn
đã:
Không chấp trước vào bất cứ một vật gì trên đời do ngũ uẩn tạo
thành này
Khi không có luyến ái, dính mắc thì không còn tạo ra nghiệp. Khi
không có nghiệp thì sẽ không có bám víu vào đời sống sau (hữu) và
không có tái sanh. Lúc ấy bạn sẽ đạt đến chỗ chấm dứt vòng tái
sanh.
F.- Chín Ðề Mục Quán Sát Tử Thi
Ðức Phật dạy mười bốn cách quán sát thân. Chúng ta đã xét đến năm
cách là: quán sát hơi thở, quán sát tư thế, chánh niệm và tỉnh
giác, quán sát thân ô trược, quán sát tứ đại. Nay chúng ta tìm hiểu
đến chín đề mục quán sát tử thi.
Các đề mục quán sát tử thi nhằm mục đích giúp chúng ta phát
triển ý niệm về sự ô trược của cơ thể để chúng ta
có tâm xả bỏ, không chấp trước vào cơ thể chúng ta cũng như cơ thể
người khác. Bao lâu còn chấp trước, dính mắc là còn đau khổ. Muốn hết
đau khổ bạn phải loại trừ sự luyến ái dính mắc vào cơ thể mình và
cơ thể người khác. Các đề mục quán sát tử thi sẽ giúp bạn loại
trừ các luyến ái, dính mắc này.
Chín đề mục quán sát tử thi căn cứ vào các giai đoạn hủy hoại của
tử thi.
Trước tiên là quán sát "tử thi rã mục". Ðức Phật dạy:
Lại nữa, này các thầy tỳ khưu, khi thầy tỳ khưu thấy tử thi,
chết một ngày, hai ngày hay ba ngày, trương phình, màu xanh, rã mục, vất
trong nghĩa địa; thầy tỳ khưu áp dụng những tưởng (tri giác) này vào chính
cơ thể mình: "Thật vậy, cơ thể này (của ta) cũng có cùng bản
chất như thế, nó sẽ trở nên như vậy, không thể nào thoát khỏi đặc
tính này".
Ðó là đề mục đầu tiên để hành thiền: "Khi thầy tỳ
khưu thấy tử thi". Thiền sinh hành Thiền Minh Sát không
nhất thiết phải luôn luôn vào nghĩa trang để hành thiền. Thiền
sinh có thể giữ được hình ảnh tử thi trong tâm trong suốt thời gian hành
Thiền Minh Sát. Ðó cũng có thể kết quả của sự suy nghĩ nhiều
đến xác chết, hay tri giác về xác chết luôn luôn hiện
diện trong họ. Dầu những hình ảnh hay "tướng" của tử thi tự
động đến với thiền sinh không có nguyên cớ rõ ràng hay do kết
quả của sự chuyên tâm hành thiền về tử thi thì thiền sinh cũng
phải quán sát những tướng này và ghi nhận: "ô trược, ô trược, ô
trược", hay "thấy, thấy, thấy", cho đến
khi chúng biến mất. Khi hành Thiền Minh Sát thì điều quan trọng
là thiền sinh phải ý thức những gì đang đi vào sự chú tâm của mình,
tức là vào tâm hay ngũ quan mình. Khi thiền sinh thấy hình ảnh hay
"tướng" thì chỉ cần ý thức chúng, chánh niệm chúng và
niệm thầm: "thấy, thấy, thấy" cho đến khi hình
ảnh hay "tướng" mất đi. Những đề mục thiền tử thi ghi trong
kinh này nhằm mục đích giúp thiền sinh phát triển ý thức về
sự ô trược, đáng nhờm gớm hay đáng ghê tởm của cơ thể.
Kinh Tứ Niệm Xứ trực tiếp nói đến Thiền Minh Sát, nghĩa là
quán sát sự sinh diệt của các hiện tượng. Nhưng bạn có thể dùng
kinh này để hành Thiền Vắng Lặng (samatha) để đạt đến
các tầng thiền. Thiền sinh muốn hành thiền quán sát tử thi trước
tiên phải đến gặp thiền sư để được hướng dẫn. Thiền sư
phải dạy cho thiền sinh biết làm thế nào để đạt được ý
niệm hay tri giác về sự "ô trược" và học cách để
quán sát những sự vật chung quanh, có nghĩa là làm thế nào để ghi
nhận những sự vật chung quanh xác chết.
Tiếp theo đó, thiền sư phải dạy cho thiền sinh làm thế nào
để am tường về sự ô trược qua sáu cách. Nếu đã học sáu
cách đó mà thiền sinh vẫn chưa hiểu rõ cách hành thiền thì
thiền sư phải dạy thêm năm cách bổ túc khác. Thêm vào đó, thiền sư
phải dạy cho thiền sinh cách quán sát ghi nhận đường đi từ chùa cho
đến nơi có xác chết. Chỉ sau khi đã học hỏi đầy đủ các kỹ
thuật liên quan đến việc hành thiền này thì thiền sinh mới đi
vào nơi có xác chết vất bỏ để hành thiền.
Sau khi đã học tất cả những điều cần thiết từ thiền sư,
thiền sinh cũng không nên "vội vã đi ngay" đến nơi có xác
chết lúc vừa nghe được rằng có xác chết ở một nơi nào đó, bởi vì
có thể có thú dữ hay phi nhân đang ở gần xác chết.
Một cách tổng quát thì đàn ông không được quán sát xác chết đàn
bà và đàn bà cũng không được quán sát xác chết đàn ông; bởi vì
quán sát xác chết của người khác phái thì cảm giác kích thích có
thể sẽ nổi lên. Tuy thế, ngay cả khi quán sát xác chết của người
cùng phái mà tham ái khởi dậy thì thiền sinh cũng không nên quán sát.
Tóm lại, thiền sinh không được quán sát những xác chết nào mà
khiến tham ái của mình nổi dậy.
Con đường dẫn đến nơi có xác chết có thể xuyên qua làng, có
thể chạy dọc theo bờ sông hay có thể vượt qua cánh đồng; ở những
nơi này thiền sinh có thể gặp những người khiến tham ái nơi
thiền sinh nổi dậy. Thiền sinh phải thận trọng coi chừng tất cả
những điều này.
Trước khi đến nơi có xác chết để tham thiền thầy tỳ khưu
phải nói cho vị sư lớn tuổi hay vị sư mà nhiều người biết đến
trong chùa mình đang trú ngụ biết rằng mình đi vào nghĩa địa để
hành thiền. Nếu thiền sinh là cư sĩ thì phải báo cho thiền sư
biết. Ðiều này rất cần thiết bởi vì nếu thiền sinh gặp
rắc rối ở nghĩa địa thì vị tỳ khưu khác hay thiền sinh khác có thể
giúp đỡ họ, coi sóc các vật dụng của họ hay đến nghĩa địa
để giúp họ. Nghĩa địa là nơi vắng vẻ và hay có trộm cướp trú ngụ
vì chúng cảm thấy đó là nơi an toàn cho chúng. Trộm có thể chạy vào
nơi thiền sinh đang hành thiền khi bị chủ nhân đuổi theo để lấy
lại đồ vật mất cắp. Trộm có thể đánh rơi hay vất bỏ của cắp gần nơi
thiền sinh đang hành thiền. Khi chủ nhân tìm được vật mất cắp gần
nơi thiền sinh có thể nghĩ rằng thiền sinh là tên trộm. Nếu
trước khi đi thiền sinh đã báo cáo cho người khác biết thì vị tỳ
khưu lớn tuổi hay những vị tỳ khưu khác hoặc các thiền sinh khác có
thể giúp đỡ hay làm chứng cho thiền sinh. Ðó là lợi ích của việc
thông báo trước khi vào nghĩa địa để hành thiền.
Thiền sinh phải đi một mình vào nghĩa địa, không được đi cùng
người khác. Thiền sinh phải đi trong chánh niệm. Thiền sinh phải đi
với ngũ quan hướng vào bên trong mà không hướng ra bên ngoài. Thiền sinh
phải chăm chú đi, không được nhìn qua nhìn lại. Thiền sinh phải đi
đến nơi có xác chết với tâm tinh tấn chánh niệm như vậy.
Trong khi đi, thiền sinh phải "ôn lại những đặc điểm của con
đường". Ðiều này có nghĩa là khi đi trên đường thiền sinh
phải ghi nhận, ghi nhớ kỹ những gì đặc biệt trên đường đi. Chẳng hạn
như: "Ta đi về hướng này, qua cái cổng này. Con đường này hướng
về hướng Ðông (hướng tây, hướng nam, hướng bắc hay trung ương)".
Thiền sinh cũng phải ghi nhận những gì ở hai bên con đường dẫn đến
nghĩa địa. Thiền sinh phải ghi nhận ở đó có tổ kiến, có cội cây hay
dây leo không. Tóm lại, thiền sinh phải ghi nhận tất cả những điểm chi
tiết dọc trên đường đến nghĩa địa.
Sau khi đã làm những điều này, thiền sinh sẽ "đến gần nơi
xác chết nằm". Khi đi đến gần xác chết, thiền sinh nên đi
trên hướng gió, bởi vì mùi hôi xác chết có thể làm cho thiền
sinh nhức đầu hay khiến thiền sinh có ý muốn quay trở về.
Thiền sinh không được ngồi quá gần hay quá xa xác chết mà phải ngồi
một bên xác chết, nơi thích hợp cho việc quán sát xác chết.
Nếu ngồi quá gần xác chết thiền sinh có thể kinh sợ. Nếu ở
quá xa xác chết thì thiền sinh sẽ không nhận thấy rõ sự ô trược của
xác chết. Thiền sinh không được ngồi ngay trên đầu hay ngay dưới
chân xác chết, vì ngồi như thế sẽ không thấy rõ sự ô trược của
xác chết.
Thiền sinh cũng phải ghi nhận những gì chung quanh xác chết như: quanh
đấy có tảng đá, tổ kiến, cội cây, dây leo hay có những dấu hiệu gì
đặc biệt liên quan đến xác chết không? Chẳng hạn như có một
tảng đá gần xác chết và tảng đá này cao hay thấp, lớn hay nhỏ, màu đen
trắng hay nâu, dài hay tròn. Thiền sinh phải ghi nhận tất cả những chi
tiết này. Về phần liên quan đến xác chết, thiền sinh phải
ghi nhận: "ở chỗ này có một tảng đá và tảng đá này là dấu
hiệu của sự ô trược". Dấu hiệu của sự ô trược có nghĩa là
xác chết. Thiền sinh phải suy tưởng như sau: "Ðây là dấu hiệu
của sự ô trược, đây là tảng đá". Cần phải suy tưởng như vậy để
khỏi có sự lầm lẫn hay hỗn loạn trong tâm.
Ðôi khi, trong lúc đang quán sát xác chết, thiền sinh thấy xác
chết dường như đang di động, dường như đang đứng dậy và tấn công hay
đe dọa thiền sinh. Nếu không có sự ghi nhận trước những dấu
hiệu quanh xác chết, tâm thiền sinh sẽ bị hỗn loạn. Nhờ đã
quán sát ghi nhận kỹ trước đây nên khi thấy xác chết di động thiền
sinh liền nghĩ đến những điều mình đã ghi nhận trước: "Ðây
là cục đá gần xác chết, và cục đá không thể di chuyển đến
gần ta, nó không thể tiến đến gần ta được. Khi cục đá không
thể di chuyển đến gần ta thì xác chết cũng không thể
tiến đến gần ta. Xác chết không còn sự sống và không thể di
chuyển. Ðây chỉ là ảo tưởng hay tri giác lầm lẫn của ta". Sau khi
đã chọn lựa đề mục để hành thiền, bây giờ thiền sinh có
thể hành thiền. Khi thiền sinh đã nỗ lực hành thiền và sự
vật xuất hiện hay "tướng" khởi sinh thì tâm thiền sinh sẽ
không bị hỗn loạn. Bởi vậy thiền sinh phải ghi nhận tất cả mọi
vật gì mà thiền sinh có thể thấy được quanh xác chết.
Sau khi đứng hay ngồi gần xác chết thiền sinh phải nhìn xác chết
và cố gắng nhận biết sự ô trược trong sáu cách:
1. Thiền sinh biết được sự ô trược bằng các phân biệt
"màu sắc" của xác chết: "Xác chết này có da màu đen hay
vàng"
2. Thiền sinh cũng phải phân biệt xác chết qua "dấu
hiệu" của xác chết. Phân biệt qua dấu hiệu là phân
biệt theo tuổi tác chứ không phải là phân biệt xem đó là đàn ông
hay đàn bà. Tuổi tác ở đây có nghĩa là xác chết ở giai đoạn đầu,
giai đoạn giữa hay giai đoạn cuối của cuộc đời. Một cách tổng quát đời
sống của một người được chia ra làm ba giai đoạn, mỗi giai đoạn kéo
dài khoảng ba mươi năm. Những sự quán sát này giúp thiền sinh hiểu
được sự ô trược của xác chết.
3. Thiền sinh cũng nhìn vào "hình dáng của xác chết"
để ghi nhận: "Ðây là hình dáng của cái đầu. Ðây là hình dáng
của cái cổ. Ðây là hình dáng của tay, ngực, hông, đùi, bắp vế, bàn
chân, của toàn cơ thể xác chết". Thiền sinh phải nhìn toàn
thể xác chết để hiểu rõ hay có ý niệm về sự ô
trược.
4. Thiền sinh cũng phải nhìn "bốn hướng". Hướng ở đây có
nghĩa là phần trên, phần dưới của cơ thể. Từ rốn trở lên là phần
trên, từ rốn trở xuống là phần dưới. Như vậy thiền sinh biết:
"Ðây là phần trên của xác chết, và đây là phần dưới của xác
chết". Thiền sinh cũng phải quán sát: "Ta đang đứng ở hướng
này, hình ảnh của sự ô trược (xác chết) ở hướng kia. Ta đang ở đây,
hướng Nam, và xác chết đang nằm ở kia, hướng Bắc..."
5. Thiền sinh cũng phải ghi nhận "vị trí" hay chỗ của xác
chết. Vị trí ở đây có nghĩa là: "Tay ở chỗ này, chân ở chỗ
kia, phần giữa của cơ thể ở chỗ này v.v..." hay "Ta đang ở
chỗ này, hình ảnh ô trược đang ở chỗ kia".
6. Thiền sinh cũng phải ghi nhận "giới vực". Xác chết này
có giới vực bên dưới là gót chân, có giới vực phía trên là đỉnh tóc và
giới vực chung quanh là da. Không gian cũng được qui định giới vực. Chẳng
hạn như khoảng không gian đã được chứa đầy bởi ba mươi hai thể
trược. Bằng cách này, thiền sinh nhận ra giới vực của xác chết:
"Ðây là giới vực của tay, của chân, của đầu, của mình hay phần cơ
thể này phình trướng v.v..." Phải là xác chết mà khi thiền
sinh quán sát tâm tham ái không phát sinh. Bởi vì dầu nhìn một xác chết
đi nữa thì tư tưởng tham ái cũng có thể phát sinh nơi thiền sinh.
Chỉ khi nào chắc chắn rằng xác chết này không làm phát sinh tham ái thì
thiền sinh mới có thể đến gần mà quán sát.
Thiền sinh phải nỗ lực phát triển tri giác hay ý niệm
về sự ô trược theo sáu cách trên.
Khi thiền sinh nhắm mắt mà có thể thấy được hình ảnh của xác
chết thì thiền sinh đã "học được" cách quán sát.
Thiền sinh phát triển cho đến khi đạt được "sơ tướng".
Nếu thiền sinh không thể đạt được tướng bằng sáu cách quán
sát trên thì thiền sinh phải tiếp tục nhận biết sự ô trược bằng
năm cách bổ túc:
1. Sự ô trược có thể nhận biết qua "chỗ tiếp giáp"
của xác chết. Tiếp giáp ở đây là mười bốn chỗ tiếp giáp
chính: ba chỗ tiếp giáp ở tay phải, ba chỗ tiếp giáp ở tay
trái, ba chỗ tiếp giáp ở chân phải, ba chỗ tiếp giáp ở chân
trái, một chỗ tiếp giáp ở đầu, một chỗ tiếp giáp ở lưng.
2. Tiếp theo, thiền sinh hãy quán sát "chỗ mở". Chỗ
mở ở đây là những cái lỗ ở giữa những cánh tay và một bên mình,
lỗ ở giữa những chân, lỗ của bao tử, lỗ của lỗ tai hay tình
trạng đóng mở của mắt và miệng.
3. Thiền sinh cũng phải quán sát xác chết qua "chỗ lõm"
như là: hốc mắt, ở phần trong của miệng hay ổ nách. Thiền sinh cũng
phải quán sát: "Ta đang đứng trong một chỗ lõm và xác chết đang
nằm trong chỗ lõm".
4. Kế tiếp thiền sinh phải quán sát "chỗ lồi". Có
nghĩa là bất kỳ chỗ lồi nào như đầu gối, ngực, hay trán. Thiền sinh
cũng phải quán sát như sau: "Ta đang đứng trong chỗ lồi, xác chết
đang nằm trong chỗ lồi" [11]
5. Cuối cùng thiền sinh phải quán sát "những vật chung quanh",
như toàn thể xác chết và khu vực quanh xác chết.
Sau khi đã chú tâm đến những điều trên, thiền sinh niệm
thầm trong tâm: "phình trương, phình trương, phình trương" giống
như đó là một cơ thể phình trương vậy.
Nếu chăm chú quán sát cơ thể bằng sáu cách chính và năm cách bổ
túc, thiền sinh chắc chắn sẽ đạt được hình ảnh hay "tướng"
của sự ô trược.
Thiền sinh quán sát và nghĩ đến sự ô trược nhiều lần, mười
lần, trăm lần, ngàn lần hay mười ngàn lần cho đến khi thiền sinh đạt
được hình ảnh hay "Tướng". Thiền sinh đạt được tướng có
nghĩa là thiền sinh có thể thấy được xác chết phình trương khi
nhắm mắt lại.
Nếu tỳ khưu đạt được "tướng" nhưng không đạt được đích
cuối cùng của việc hành thiền ở nghĩa địa thì thầy tỳ khưu phải
trở về chùa vì thầy không thể ở mãi trong nghĩa địa. Khi thầy trở
về chùa, thầy phải ghi nhớ tất cả những gì trên đường trở về chùa.
Thầy ghi nhớ hướng, hướng Ðông hay hướng Tây, hướng Nam hay hướng Bắc.
Thầy cũng ghi nhận những gì thầy thấy như: tảng đá, cội cây, bụi cây v.v...
Ghi nhận những gì trên đường đi và về có nghĩa là thiền sinh luôn
luôn giữ tâm chánh niệm hành thiền. Khi trở về chùa, nếu có ai
đặt câu hỏi nhất là những câu hỏi liên quan đến giáo pháp thầy phải
trả lời. Thầy không được tránh trả lời. Khi về đến chùa, có
thể thầy có vài bổn phận phải làm đối với các thầy tỳ khưu khác. Khi
trả lời câu hỏi hay khi làm bổn phận với các thầy tỳ khưu khác thì
"tướng " mà thầy đã đạt được có thể bị mất và không
thể nhắc lại được bởi vì thầy đã bị phóng tâm. Khi thiền sinh cư
sĩ trở về từ nghĩa địa, họ cũng phải trả lời các câu hỏi và làm
các bổn phận tương tự.
Khi thiền sinh đã bị mất "tướng" và không thể trở lại
nghĩa địa để hành thiền thì thiền sinh phải dùng "tâm"
đi ra nghĩa địa, nơi xác chết đang vất bỏ rồi đi ngay trở về. Bằng
cách này thiền sinh có thể tạo lại tướng. Phương pháp ghi nhận sự
vật dọc theo đường đi và về nơi quán sát xác chết là một sự
hỗ trợ tốt đẹp cho việc hành thiền. Thiền sinh sẽ nhớ lại
tảng đá nhỏ, tảng đá lớn, vật chỗ này, vật chỗ kia cho đến khi
thiền sinh ôn lại hết mọi vật trên đường. Thiền sinh nhớ trong
tâm tất cả các chi tiết trên đường đi và những tướng ô trược.
Khi thiền sinh đạt được tướng gọi là "học tướng"
trở lại thì tướng này sẽ hiện ra đối với thiền sinh thật là đáng
sợ và ghê tởm. Thiền sinh an trú vào đó nhiều lần và ghi nhận: "ô
trược, ô trược, ô trược" hay "phình trương, phình trương,
phình trương" cho đến khi hình ảnh trong tâm thật rõ ràng.
Tướng hay hình ảnh trong tâm có thể xuất hiện nhưng không có vẻ gớm
ghiếc và thân hình rất mập mạp và đã ăn no.
Tướng đó gọi là "sơ tướng". Sau đó, những chướng ngại sẽ
không còn trong tâm thiền sinh và thiền sinh sẽ "nhập định" (jhaana)
. Ðó là cách mà tỳ khưu hay cư sĩ muốn hành thiền đề mục quán sát
tử thi phải thực hành.
Thanh Tịnh Ðạo kể ra "mười đề mục quán sát tử thi" nhưng
Kinh Ðại Niệm Xứ này chỉ kể ra chín giai đoạn tan rã của tử thi. Sau
khi quán sát thấu đáo các đề mục tử thi, thiền sinh sẽ đắc
"thiền" (jhaana). Sau khi đắc "thiền", thiền
sinh có thể lấy tầng thiền này làm đề mục cho Thiền Minh Sát.
Thiền sinh có thể ôn lại những yếu tố của tầng thiền mà mình
đã đắc, theo dõi yếu tố của các tầng thiền đến và đi, sinh và
diệt. Thiền sinh nhìn thấy các yếu tố của các tầng thiền sinh
khởi rồi diệt tận. Từ giai đoạn này thiền sinh có thể đạt
đến các tuệ minh sát tiếp theo cho đến khi đạt đến
tuệ minh sát cuối cùng và giác ngộ Niết Bàn. Bởi vậy, có thể
dùng đề mục tử thi để hành Thiền Vắng Lặng trước rồi chuyển
sang Thiền Minh Sát. Có thể thực hành phương pháp được mô tả trong
kinh này để tạo nên ý niệm hay tri kiến về sự ô trược và
ý thức được sự nguy hiểm và sự bất toàn của cơ thể con người.
Khi ý niệm hay tri kiến về sự nguy hiểm và bất ổn khởi sinh
trong tâm thiền sinh, thiền sinh thấy tri kiến này sinh lên rồi
diệt mất. Thiền sinh cũng nhận thấy là tâm nhận biết được sự
sinh diệt này cũng sinh rồi diệt. Thiền sinh thấy sự sinh diệt
của tâm và sự sinh diệt của đối tượng của tâm [đó là xác chết].
Thiền sinh tiếp tục thực hành như vậy cho đến khi đạt thánh quả.
Khi thiền sinh lấy đề mục tử thi để hành Thiền Minh Sát thì
thiền sinh không cần phải đến nghĩa địa bởi vì điều quan
trọng trong Thiền Minh Sát là áp dụng sự ô trược của tử thi vào
chính cơ thể mình: "Xác chết thật là ô trược và ghê tởm, cơ
thể này cũng vậy. Cơ thể của ta cũng không thể ra ngoài đặc tính
này."
Ở các xứ Tây phương, việc hành thiền quán sát tử thi thật khó
khăn bởi vì bạn không thể thấy tử thi ở nghĩa địa được. Ở Hoa Kỳ,
xác chết được trang điểm như một người đang nằm ngủ, mặt mày thật
đẹp, khi nhìn xác chết bạn không thể nào khởi được ý niệm
ô trược. Bạn có thể tìm một vài tấm hình về xác chết, nhưng
hình ảnh về xác chết cũng không đầy đủ chi tiết bởi vì bạn
không thể nào tìm thấy xác chết phình trương, bị tan rã hay bị cắt
thành nhiều mảnh v.v... Ngày nay, ngay tại các quốc gia Ðông phương, bạn
cũng khó tìm thấy một xác chết đang ở trong tiến trình hủy hoại.
Từ tiến trình thứ hai đến tiến trình thứ tám của xác chết
bị hủy hoại được ghi trong kinh Ðại Niệm Xứ là:
- bị quạ, diều hâu, kên kên... chó, báo, cọp, chồn ăn và bị
đục khoét bởi dòi,
- chỉ còn lại xương nối nhau bởi gân với chút ít thịt dính vào đó,
- chỉ còn lại xương nối liền bởi gân, bê bết máu, không thịt,
- chỉ còn lại xương nối liền bởi gân, không thịt, không máu,
- chỉ còn lại xương rời rã, rải rác khắp nơi: đây là xương tay, đây là
xương chân, xương cằm, xương vế, xương đùi, xương sống và sọ,
- chỉ còn lại xương trơ bạc màu như vỏ sò ốc,
- chỉ còn những xương cũ trên một năm, nằm thành đống.
Tiến trình hủy hoại thứ chín như sau:
- Khi thầy tỳ khưu thấy cơ thể vất bỏ trong nghĩa địa, chỉ còn
lại những xương vụn nát như bụi, thầy tỳ khưu bèn áp dụng tri giác này
vào chính cơ thể mình: "Thật vậy, cơ thể này (của ta) cũng có
cùng đặc tính như vậy, nó cũng sẽ trở nên như cơ thể kia và không
vượt ra ngoài đặc tính này được."
Như vậy, chúng ta đã nói đến chín tiến trình của xác chết,
từ xác phình trương cho đến xương rã mục và vụn nát.
Còn có một loại thiền khác về sự ô trược gọi là
"thiền về xương". Nhiều người lấy xương làm đề mục
hành thiền. Khi thiền sinh thực tập loại thiền này lâu ngày,
thiền sinh sẽ thấy chỉ có xương mà thôi. Dầu một vài người đang còn
sống nhưng dưới mắt thiền sinh thì đó chỉ là những bộ xương.
Sau đây là câu chuyện về Trưởng lão Mahaa Tissa. Trên đường
vào làng khất thực, trưởng lão Tissa gặp một cô gái. Cô gái này đã
gây gổ với chồng và đang trên đường trở về nhà cha mẹ mình. Khi cô
gái gặp Trưởng lão Mahaa Tissa thì cô gái cười. Trưởng lão Mahaa
Tissa chỉ thấy hàm răng của cô gái và thấy toàn thân cô chỉ là một bộ
xương. Trưởng lão đã hành thiền về đề mục xương và đã đạt
được tri giác về sự ô trược của cơ thể nên thấy mọi cơ
thể chỉ là những bộ xương. Khi thấy bộ xương đi qua Trưởng lão phát
triển Thiền Minh Sát và đắc quả Alahán. Người chồng đuổi theo vợ,
gặp trưởng lão Mahaa Tissa bèn hỏi xem Trưởng lão có thấy người đàn
bà nào đi trên đường này không. Trưởng lão Mahaa Tissa trả lời:
"Tôi chẳng thấy người đàn ông hay người đàn bà nào đi trên đường
này cả. Tôi chỉ thấy một bộ xương đi trên đường này thôi". Ðó là
kết quả của việc hành thiền trên đề mục tử thi.
Ðến đây chúng ta chấm dứt phần quán sát thân. Có mười bốn đề
mục hành thiền hay quán sát thân đó là: quán sát hơi thở, quán sát tư
thế, chánh niệm và tỉnh giác, quán sát thân ô trược, quán sát tứ
đại và quán sát chín loại tử thi.
-oOo-
Phần trước | Mục Lục | Chương kế
Source: Như Lai Thiền Viện -
Tathagata Meditation Center, San Jose, California, U.S.A. |