Sắp xuất bản

 

 

TỰA

Lâu nay chữ Thiền là một trong vài thuật ngữ Phật học được sử dụng rộng rãi và cũng có phần bừa bãi nhất ở cả những người trong và ngoài Phật Giáo. Trong sách này, có lẽ ta nên tìm lại định nghĩa nguyên thủy nhất của từ nầy. Một cách chính xác, ngắn gọn và cần thiết nhất, chữ Thiền trong kinh điển Pali chỉ gồm trong hai trường hợp sau:

-Theo tinh thần giáo lý Tam Học của Phật giáo nguyên thủy, bên cạnh một đời sống thanh tịnh trên ngôn từ và sinh hoạt tức Giới Học, người hành đạo giải thoát dứt khoát phải có được khả năng tập trung tư tưởng tức Định học, gọi tắt là Samatha (Chỉ), gọi đủ là Àrammanùpanijjhàna hay Thiền Tập Chú Cảnh Đề Mục, tức khả năng tập trung tư tưởng vào một đề mục nào đó.

-Từ nền tảng Định học, với Àrammanùpanijjhàna trên đây, hành giả dùng sức định tâm của mình để quan sát thân tâm xem chúng là gì và đang ra sao. Phải thấy thân tâm, thiện ác, buồn vui thật ra là gì thì hành giả mới có thể chán sợ và lìa bỏ sinh tử được. Công phu này được gọi là Lakkhanùpanijjhàna hay Thiền Quán Chiếu Bản Tướng Vạn Hữu. Công phu này chính là Tuệ Học trong Tam Học, cũng được gọi là pháp môn Vipassanà. 

Hơn hai ngàn năm lưu truyền ở đời, giáo pháp của của đức Thích Tôn qua những bước đường du nhập và kế thừa ở các miền đất thỉnh thoảng có thêm những kiểu diễn dịch trình bày mà ít nhiều phảng phất dấu ấn cá nhân của những người hoằng đạo. Ta người đời sau học để biết thêm những cái riêng tư ấy, thấy tâm đắc thì theo và dĩ nhiên thấy bất phục thì tránh.

Nội dung sách này là một tập đại thành những kinh nghiệm riêng tư của các thiền sư Myanmar dựa trên cái chung là kinh điển Pali mà chúng tôi đúc kết lại từ các nguồn tài liệu tiếng Anh trên cả Internet và sách in (vào Google thì biết ngay). Đó là những kinh nghiệm có được từ công phu hành trì của các hành giả thực thụ chứ không phải những lý luận suy diễn của các học giả mọt sách. Hai thứ này khác nhau nhiều lắm, vì một bên là ngắm nhìn ảnh chụp và một bên là sờ chạm trực tiếp. 

Chúng tôi đọc nguyên tác và viết lại nội dung, không phải phiên dịch, chỉ vì lâu nay vẫn thấy thoải mái với lối chuyển ngữ này hơn. Ai muốn kê cứu gì ấy thì chỉ cần một Smartphone cũng đủ.

Các truyền thống Vipassanà được nhắc đến trong sách không hẳn là những dòng thiền lừng lẫy nhưng ít nhất cũng là những địa chỉ được nhiều người tu học trong và ngoài Myanmar biết đến hoặc quan tâm. Người Việt có lòng cầu thị Phật pháp ở Miến Điện có lẽ ít nhiều cũng nên có chút khái niệm về bối cảnh kiến giải của xứ sở nầy trước khi bỏ công qua đó xếp bằng nhắm mắt. 

Nói đến kinh nghiệm Tuệ Quán Myanmar là xem như đang chạm vào khu rừng thiêng mấy nghìn năm phong kín của một xứ sở Phật giáo mà cả chiều dài lịch sử lẫn chiều dày truyền thừa đều đáng nể, đôi ba trăm trang kể chuyện về nhau thì có bỏ bèn thấm tháp vào đâu. Đó chính là lý do tập sách này có ít nhất hai quyển, tổng chi non nghìn trang. Sự nhiệt tình đón đọc của quý độc giả dành cho tập 1 sẽ giúp tập 2 sớm được chào đời.

Niềm mong mỏi lớn nhất của chúng tôi chỉ đơn giản là bà con Phật tử người Việt có cái giắt lưng khi vừa đặt chân lần đầu trên đất Myanmar. Khi đã biết mình sẽ về đâu, làm gì, với ai thì tập sách này khi ấy chỉ là của thừa. Mong lắm vậy thay!

Toại Khanh, tháng 4 năm 2017

Sách sẽ in 5/ 2017

TỰA

Nguyên lai, Phật giáo truyền thống có dựa trên vài tiêu chí nội dung (nói cái gì, dài hay ngắn, có kệ ngôn hay không) mà phân loại lời Phật vào phần nào trong ba Tạng. Từ ngày đầu tiên hoằng đạo độ sinh, Thế Tôn chỉ trong một buổi đã có thể phải tiếp xúc với biết bao người có trình độ chênh lệch nhau như trời biển, những gì Ngài nói ra trong mỗi trường hợp cũng phải theo đó mà khác nhau. Khác nhau ở mỗi đối tượng chứ không phải thời đoạn trong đời Ngài. Nên khái niệm Ngũ Thời Thuyết Giáo của Phật giáo Tàu (với các vị Lưu Cầu đời Nam Tề, Huệ Quán đời Lưu Tống hay Trí Khải đời nhà Đường) chỉ là một đề nghị không cần thiết, thậm chí nông nổi.

Trường Bộ Kinh là một trong năm Nikaya của Kinh Tạng nguyên thủy. Theo tập Saddhammasangaha của ngài Dhammakitti (in trong chuyên san Pali Text Society số ra năm 1890) thì ngay sau khi kiết tập xong mỗi phần Kinh Tạng, năm trăm vị La Hán trong kỳ kiết tập I đã giao trách nhiệm truyền thừa cho từng nhóm tăng chúng: Trường Bộ Kinh (Dīgha Nikāya) cho nhóm đệ tử ngài Ānanda, Trung Bộ Kinh (Majjhima Nikāya) cho nhóm đệ tử ngài Xá Lợi Phất, Tương Ưng Bộ Kinh (Samyutta Nikāya) được giao cho thầy trò ngài Ca Diếp Đầu Đà (Mahākassapa), Tăng Chi Bộ Kinh (Anguttara Nikāya) cho thầy trò ngài Anuruddha. Phần còn lại không thấy nhắc đến.

Va vấp phải bao thứ trở lực từ nhiều phía, sau hơn hai năm trời, chúng tôi đã có dịp giảng xong Tương Ưng Bộ Kinh và 33 bài Trường Bộ (trên tổng số 34 bài). Theo lý thì phải đợi hoàn tất mới đem in sách, nhưng trước mắt với nhiều lý do, có người đề nghị có bao nhiêu in bấy nhiêu, phần còn lại tính sau.

Nội dung Trường Bộ Kinh, có đọc sẽ thấy ngay, chỉ gồm hơn 30 bài nhìn vào tưởng đọc thẳng một hơi dài sẽ xong. Nhưng nội dung thật sự của Kinh thì không biết phải cần đến bao nhiêu thời gian để hiểu hết nói chi là hành trì: Kinh Phạm Võng nói hết cái gì có trong đầu vạn loại chúng sinh trong muôn cõi, Kinh Sa Môn Quả nói không sót tơ tóc nào về cái gọi là hành trình giải thoát của một người chán sợ luân hồi, Kinh Đại Duyên nói hết duyên do trầm luân của chúng sinh trong ba cõi sáu đường, kinh Đại Niệm Xứ chứa đựng tinh hoa hành trì của Phật Đạo, hai Kinh Thập Thượng và Phúng Tụng có nội dung tóm tắt của toàn bộ giáo nghĩa Phật Pháp hay Kinh Đại Bát Niết Bàn ghi lại trọn vẹn bản hoài và hành trạng của Phật, thậm chí thu tóm toàn bộ lời Phật trong suốt một đời khuyến hóa độ sinh, chỉ qua mấy ngày cuối đời của Ngài. Đáng đọc lắm thay!

Waldshut ngày 1 tháng 4 năm 2017

Toại Khanh cẩn bút

 

Sách sẽ in 2017

TỰA

Chuyện bắt đầu từ một mùa nắng hạn, hoàng tộc hai bên nội ngoại của Thế Tôn giành nhau nguồn nước ít ỏi trên con sông biên giới Rohini nhỏ xíu để dân chúng xứ mình canh tác. Từ cuộc tranh cãi nội bộ giữa đôi ba người lúc đầu, sau đó hai bên đem quân đội ra nói chuyện với nhau. Giữa lúc sắp xảy ra chuyện lớn, đức Phật xuất hiện và hòa giải đôi bên, ngăn được cuộc chiến tương tàn giữa hai phía nội ngoại. 

Nhằm tạ lỗi do đã để Thế  Tôn nhọc công vì mình, mỗi bên nội ngoại của Ngài đã cử 250 thanh niên đi xuất gia đôi hôm như một lời sám hối thành khẩn. Túc duyên giải thoát chín muồi, cả 500 vị tân thọ tỷ kheo đã chứng ngộ quả vị La Hán ngay sau khi nhận Đại giới. Phật đã đem tất cả các vị lên núi Tuyết Sơn, một ngọn trong dãy Himalaya ngày nay, để thầy trò cùng có một đêm lánh mặt nhân gian trong khung cảnh chỉ có tuyết trắng mông lung, trăng vàng vằng vặc.

Ngay đêm đó, kinh Đại Hội (Trường Bộ) ghi rằng thiên chúng trong vô lượng vũ trụ đã rủ nhau về hầu Phật và chiêm ngưỡng thánh chúng La Hán. Đây cũng là một cuộc đại hội thiên chúng mười phương mà đời Phật nào cũng có tối thiểu một lần. Ác ma thiên tử từ cung Tự Tại Thiên tức khắc nhận biết đêm nay sẽ có vô số thiên chúng chứng đạo giải thoát nên đã lập tức dẫn hết ma quân kéo xuống Tuyết Sơn quấy rối đạo tràng.

Phật vì đại bi đã dùng thần lực chú nguyện không một ai trong pháp hội nghe thấy gì sự có mặt của Ác Ma thiên tử và sau khi quán xét căn duyên của thiên chúng trước mặt, Thế Tôn biết rằng tất cả chỉ thích hợp với hình thức thuyết pháp vấn đáp và Ngài đã dùng thần lực tạo ra một vị Hóa Phật (nimmitabuddha) mà về hình thức cũng giống hệt như Ngài với tất cả hảo tướng và uy nghi của một vị Chánh  Đẳng Giác để cùng Ngài thực hiện một buổi vấn đáp về nội dung 6 pháp thoại thích hợp cho 6 căn tánh, tức khuynh hướng tâm lý của tất cả thiên chúng hiện diện. Hai vị cùng ngồi một tòa và thiên  chúng không ai có thể phân biệt được vị nào  là Hóa Phật.

Ta học Phật đều biết rằng chúng sinh trong đời có đông đảo bao nhiêu thì trước sau chỉ nằm gọn trong 6 khuynh hướng tâm lý Dục tánh (tham nhiều), Nộ tánh (sân nhiều), Độn tánh (chậm chạp u tối), Đãng tánh (buông bắt lăng xăng), Mộ tánh (thích tin tưởng nương đổ thần tượng) và Ngộ tánh (thông tuệ, sâu sắc).

Thiên chúng đêm đó trong pháp hội Tuyết Sơn hay tất cả chúng ta bây giờ đều không ai nằm ngoài 6 khuynh hướng tâm lý vừa kể và 6 pháp thoại trong đêm đó dĩ nhiên chỉ là 6 trong hàng ngàn pháp thoại được Thế Tôn nhằm vào căn tánh người nghe mà nói, nhưng riêng 6 kinh này được nhắc đến ở đây chỉ vì hai  lý do là được thuyết giảng trong cùng một dịp và đối tượng của mỗi kinh cũng được xác định.

Độc giả có thể không đồng ý hoặc không hiểu tại sao nhưng đó mới chính là lý do chúng tôi đã giảng và in tập kinh này, ở đây chúng tôi mượn câu nói của Thống Chế nước Pháp Ferdinand Foch (1851-1929): Không vấn đề nào là dễ dàng cả, vì nếu dễ dàng thì nó đã không là vấn đề!

Toại Khanh, mùa Phật Đản năm 2017

 

Sách sẽ in 5/ 2017

 

 

 

 (Cập nhật 6-4-2017)

 

 

Home