|
Các Kỳ Kết
Tập Kinh Điển Tam Tạng Pali
Để giữ gìn duy trì pháp học Phật
giáo cho được đầy đủ, không để rời rạc, không
cho thất lạc; cho nên, chư Đại Trưởng Lão kết
tập Tam Tạng và Chú giải bằng tiếng Pāḷi.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NHẤT
Ngài Đại Trưởng Lão Mahākassapa
tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải Pāḷi lần
thứ nhất, sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn
được 3 tháng 4 ngày (nhằm vào ngày mùng 4 tháng
7 âm lịch, trong mùa an cư nhập hạ) tại động
Sattapaṇṇi gần thành Rājagaha xứ Māgaddha.
Kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải
này gồm có 500 vị Thánh Arahán có đầy đủ trí tuệ
phân tích, lục thông… đặc biệt thông thuộc Tam
Tạng và Chú giải Pāḷi, Ngài Đại Trưởng Lão
Mahākassapa chủ trì Đại hội, chất vấn Ngài Đại
đức Upāli về Tạng Luật và chất vấn Ngài Đại đức
Ānanda về Tạng Kinh và Tạng Vi Diệu Pháp. Kỳ kết
tập Tam Tạng và Chú giải được thực hiện suốt 7
tháng mới hoàn thành xong trọn bộ Tam Tạng và
Chú giải.
Kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải
Pāḷi lần này bằng cách truyền khẩu (mukhapāṭha)
chưa ghi chép bằng chữ viết.
Đức vua Ajātasattu xứ Māgaddha là
người hộ độ chư Thánh Arahán trong kỳ kết tập
Tam Tạng và Chú giải Pāḷi này.
* Phân chia phận sự duy trì Tam
Tạng, Ngũ Bộ:
Sau khi kết tập Tam Tạng và Chú
giải xong, chư Thánh Arahán phân công mỗi vị có
bổn phận giữ gìn duy trì Tam Tạng và Chú giải
như sau:
– Về Tạng Luật (Vinayapiṭakapāḷi)
thuộc về phận sự của Ngài Đại đức Upāli. Ngài có
trách nhiệm dạy Tạng Luật và Chú giải đến nhóm
đệ tử, giữ gìn duy trì Tạng Luật này.
Khi Đức Phật còn tại thế, Đức
Phật đã từng tuyên dương Ngài Đại đức Upāli là
bậc Thánh Thanh Văn xuất sắc nhất về trì luật
trong các hàng Thanh Văn đệ tử.
– Về Trường Bộ Kinh (Dīghanikāyapāḷi)
thuộc về phận sự của Ngài Đại đức Ānanda. Ngài
có trách nhiệm dạy Trường Bộ Kinh đến nhóm đệ tử,
giữ gìn duy trì Trường Bộ Kinh này.
– Về Trung Bộ Kinh (Majjhimanikāyapāḷi)
thuộc về phận sự của nhóm đệ tử của Ngài Đại đức
Sāriputta, các vị này có trách nhiệm dạy Trung
Bộ Kinh đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Trung Bộ
Kinh này.
– Về Đồng Loại Bộ Kinh (Samyuttanikāyapāḷi)
thuộc về phận sự của Ngài Đại Trưởng Lão
Mahākassapa. Ngài có trách nhiệm dạy Đồng Loại
Bộ Kinh đến nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Đồng
Loại Bộ Kinh này.
– Về Tiểu Bộ Kinh (Khuddakanikāyapāḷi),
thuộc về phận sự chung của 500 chư Thánh Arahán.
Quý Ngài có trách nhiệm dạy Tiểu Bộ Kinh đến các
nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì Tiểu Bộ Kinh này.
– Về Tạng Vi Diệu Pháp (Abhidhammapiṭakapāḷi),
gồm có 7 bộ lớn thuộc phận sự chung của 500 chư
Thánh Arahán. Quý Ngài có trách nhiệm dạy Tạng
Vi Diệu Pháp đến các nhóm đệ tử, giữ gìn duy trì
Tạng Vi Diệu Pháp này.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NHÌ
Giáo pháp của Đức Phật được giữ
gìn duy trì đúng theo Chánh Pháp trải qua được
100 năm, thì có nhóm Tỳ khưu Vajjīputta xứ
Vesāli đặt ra 10 điều không hợp với pháp luật
của Đức Phật là:
1 – Kappati siṅgiloṇakappo: Tỳ
khưu cất giữ muối trong ống bằng sừng với tác ý
rằng: để làm đồ gia vị thức ăn ngày hôm sau,
cũng được.
2 – Kappati dvaṅgulakappo: Tỳ
khưu thọ thực quá ngọ, mặt trời ngả qua hai lóng
tay, cũng được.
3 – Kappati gāmantarakappo: Tỳ
khưu đã ngăn cản vật thực rồi tự nghĩ rằng: bây
giờ ta đi vào xóm để dùng vật thực nữa, mà không
cần làm đúng theo Luật, cũng được.
4 – Kappati āvasakappa: Trong
cùng Mahāsīmā, có nhiều nhóm riêng rẽ hành
uposathakamma, cũng được.
5 – Kappati anumatikappa: Chư
Tăng trong nhóm hành tăng sự nghĩ rằng: Sẽ cho
phép Tỳ khưu đến sau, cũng được.
6 – Kappati ācinnakappa: Tỳ khưu
hành theo pháp mà Thầy Tổ của mình thường thực
hành, cũng được.
7 – Kappati amathitakappa: Tỳ
khưu đã ngăn cản vật thực rồi, dùng sữa tươi đã
biến chất, chưa biến thành sữa chua, cũng được.
8 – Kappati jaḷogiṃ pātuṃ: Tỳ
khưu uống rượu nhẹ chưa thành chất say, cũng
được.
9 – Kappati adasakaṃ nisīdanaṃ:
Tỳ khưu dùng tọa cụ không có đường lai, cũng
được.
10 – Kappati jātarūparajataṃ: Tỳ
khưu thọ nhận vàng bạc, cũng được.
Đó là 10 điều do nhóm Tỳ khưu
Vajjīputta đề xướng không đúng theo Chánh Pháp
của Đức Phật.
Đại Trưởng Lão Yassa
Kākaṇḍakaputta (Mahā Yassa), nghe tin nhóm Tỳ
khưu Vajji xứ Vesāli đặt ra 10 điều như vậy,
Ngài liền đến tận nơi hội họp chư Tỳ khưu Tăng
giải thích để cho họ hiểu rõ, đó là 10 điều sai
trái, không hợp với luật pháp của Đức Phật.
Đây cũng là nguyên nhân khiến Đại
Trưởng Lão Yassa Kākaṇḍakaputta triệu tập kỳ kết
tập Tam Tạng lần thứ nhì tại ngôi chùa
Vālikārama, gần thành Vesāli khoảng 100 năm sau
khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhì
này gồm có 700 bậc Thánh Arahán có đầy đủ Tứ Tuệ
Phân Tích, Lục thông, thông thuộc Tam Tạng, Chú
giải… do Ngài Đại Trưởng Lão Yassa
Kākaṇḍakaputta làm chủ trì, Ngài Đại Trưởng Lão
Revata vấn, Ngài Đại Trưởng Lão Sabbakāmi giải
đáp… Công cuộc kết tập được thực hiện trong suốt
thời gian 8 tháng mới hoàn thành xong trọn bộ
Tam Tạng và Chú giải, hoàn toàn y theo bổn chánh
của kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ nhất.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần này cũng
bằng khẩu truyền (mukhapātha) chưa ghi chép bằng
chữ viết.
Đức vua Kālāsoka xứ Vesāli hộ độ
kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải lần này.
Giáo pháp của Đức Phật một lần
nữa được giữ gìn duy trì đúng theo chánh pháp.
Tất cả chư Tỳ khưu thực hành nghiêm chỉnh giới
luật, làm cho những người chưa có đức tin nơi
Tam Bảo, lại phát sinh đức tin, những người nào
đã có đức tin trong sạch nơi
Tam Bảo rồi, đức tin càng tăng
trưởng.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ BA
Sau kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ
nhì, Phật giáo càng ngày càng phát triển, chư Tỳ
khưu, Tỳ khưu ni càng đông, cận sự nam, cận sự
nữ có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo càng nhiều,
họ làm phước hộ độ cúng dường 4 thứ vật dụng đến
chư Tỳ khưu rất đầy đủ, nhất là vào thời kỳ Đức
vua Dhammāsoka (Asoka). Đức vua là Bậc Minh Quân,
trị vì toàn cõi Nam Thiện Bộ Châu, có đức tin
trong sạch trong Phật giáo, hộ độ cúng dường 4
thứ vật dụng đến chư Tỳ khưu rất đầy đủ, sung
túc. Ngược lại, các nhóm tu sĩ ngoại đạo thì đời
sống thiếu thốn khổ cực. Do đó, một số tu sĩ
ngoại đạo xâm nhập vào sống chung với chư Tỳ
khưu, về mặt hình thức thì giống Tỳ khưu, nhưng
về mặt nội tâm vẫn giữ nguyên tà kiến cố hữu của
mình không hề thay đổi.
Vì vậy, Tỳ khưu thật chánh kiến
và Tỳ khưu giả tà kiến sống chung không thể hành
tăng sự được, tình trạng này kéo dài suốt 7 năm.
Chư Tỳ khưu trình sự việc này lên Đức vua
Dhammāsoka (Asoka) và nhờ uy quyền của Đức vua
để thanh lọc Tỳ khưu giả ngoại đạo tà kiến.
Đức vua Asoka là Đấng Minh Quân
và cũng là một cận sự nam có đức tin trong sạch
hộ trì Tam Bảo, Đức vua học giáo pháp của Đức
Phật với Ngài Đại Trưởng Lão Moggaliputtatissa,
nên hiểu rõ chánh kiến trong Phật giáo và các tà
kiến của ngoại đạo. Đức vua thỉnh chư Tỳ khưu
xét hỏi từng vị một, qua cuộc xét hỏi này đã
loại bỏ ra được 60.000 Tỳ khưu giả có tà kiến
ngoại đạo, Đức vua ban cho mỗi người một bộ đồ
trắng, bắt buộc hoàn tục, trở thành người cư sĩ;
còn lại tất cả Tỳ khưu thật có chánh kiến trong
Phật giáo đoàn kết cùng nhau hành tăng sự trở
lại.
Nhân dịp này, Ngài Đại Trưởng Lão
Moggaliputtatissa đã đứng ra triệu tập kỳ kết
tập Tam Tạng Pāḷi lần thứ ba.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ ba
này được tổ chức tại chùa Asokārāma xứ
Pāṭaliputta, khoảng thời gian 235 năm, sau khi
Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Kỳ tập Tam Tạng lần thứ ba này,
gồm có 1.000 bậc Thánh Arahán đắc Tứ Tuệ Phân
Tích, Lục thông, thông thuộc Tam Tạng, Chú giải…
do Ngài Đại Trưởng Lão Moggaliputtatissa làm chủ
trì, công cuộc kết tập được thực hiện trong suốt
thời gian 9 tháng mới hoàn thành trọn bộ Tam
Tạng và Chú giải hoàn toàn giống như bổn chánh
của hai kỳ kết tập trước.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần này cũng
bằng khẩu truyền (Mukhapātha, chưa ghi chép bằng
chữ viết).
Đức vua Asoka xứ Pāṭaliputta hộ
độ kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải lần này.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ TƯ
Đức vua Asoka không những hộ trì
Phật giáo được phát triển trong nước, mà còn gửi
các phái đoàn chư Tăng sang các nước láng giềng
khác, để truyền bá Phật giáo, như phái đoàn chư
Tăng do Đại đức Mahinda dẫn đầu sang truyền bá
Phật giáo ở đảo quốc Srilankā.
Trên đất nước Sri Lankā Phật giáo
được thịnh hành và phát triển tốt, từ Đức vua
cho đến quan quân và dân chúng đều có đức tin
trong sạch nơi Tam Bảo, đã xuất gia trở thành Tỳ
khưu và Tỳ khưu ni rất đông.
Một thời đất nước Sri Lankā gặp
phải cuộc phiến loạn, dân chúng gặp cảnh thiếu
thốn, nên đời sống của chư Tỳ khưu cũng chịu ảnh
hưởng. Có số Tỳ khưu sức khỏe yếu kém, nên phận
sự ôn lại Tam Tạng và Chú giải thuộc lòng rất
vất vả. Khi cuộc phiến loạn đã dẹp xong, chư Đại
đức suy xét về sau này, trí nhớ và trí tuệ con
người càng ngày càng kém dần. Cho nên, chư Tỳ
khưu học thuộc lòng Tam Tạng và Chú giải, để giữ
gìn duy trì cho được đầy đủ không phải là việc
dễ dàng.
Một hôm, Đức vua Vaṭṭagāmanī ngự
đến chùa Mahāvihāra; nhân dịp ấy, chư Đại Trưởng
Lão thưa với Đức vua rằng:
– Thưa Đại vương, từ xưa đến nay,
chư Đại đức Tăng có phận sự học thuộc lòng Tam
Tạng và Chú giải, để giữ gìn duy trì giáo pháp
của Đức Phật. Trong tương lai, đàn hậu sinh là
những Đại đức khó mà học thuộc lòng Tam Tạng và
Chú giải một cách đầy đủ được. Như vậy, giáo
pháp của Đức Thế Tôn sẽ bị mai một mau chóng
theo thời gian.
– Thưa Đại vương, muốn giữ gìn
duy trì Tam Tạng, Chú giải được đầy đủ, vậy nên
tổ chức kỳ kết tập Tam Tạng, Chú giải ghi chép
bằng chữ viết trên lá buông, để lưu lại cho đời
sau.
Đức vua Vaṭṭagāmanī hoan hỷ với
lời của chư Đại Trưởng Lão.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ tư
này được tổ chức tại động Ālokalena vùng
Matulajanapada xứ Sri Lankā, khoảng thời gian
450 năm sau khi Đức Phật tịch diệt Niết Bàn.
Kỳ kết tâp Tam Tạng lần này gồm
1.000 bậc Thánh Arahán đắc Tứ Tuệ Phân Tích, do
Ngài Đại Trưởng Lão Mahādhammarakkhita làm chủ
trì, công cuộc kết tập được thực hiện suốt một
năm mới hoàn tất việc ghi chép trọn bộ Tam Tạng,
Chú giải bằng chữ viết trên lá buông. Sau đó,
chư bậc Thánh Arahán kết tập Tam Tạng bằng cách
khẩu truyền một lần nữa, hoàn toàn y theo bản
chánh của ba kỳ kết tập Tam Tạng lần trước.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần này là
lần đầu tiên ghi chép bằng chữ viết trên lá
buông đầy đủ bộ Tam Tạng và Chú giải, gọi là: “Potthakaropanasaṅgiti”.
Đức vua Vaṭṭagāmanī Abhaya xứ
Srilankā hộ độ kỳ kết tập Tam Tạng và Chú giải
lần này.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ NĂM
Dưới thời vua Asoka có gửi phái
đoàn chư Tăng do Ngài Đại Trưởng Lão Soṇa và
Ngài Đại Trưởng Uttara sang vùng Suvaṇṇa bhūmi
gồm các nước: Indonesia, Myanmar, Thái Lan,
Campuchia, Lào… để truyền bá Phật giáo. Phật
giáo ở các nước trong vùng này trải qua bao cuộc
thăng trầm, tùy theo vận mệnh của mỗi nước.
Đất nước Myanmar vào thời đại Vua
Mindon đóng đô tại kinh thành Mandalay, Đức vua
là người có đức tin trong sạch nơi Tam Bảo,
nhiệt tâm hộ trì Tam Bảo, nghĩ rằng: “Phât giáo
thường liên quan đến sự tồn vong của quốc gia,
mỗi khi đất nước bị xâm lăng, kẻ thù thường đốt
kinh sách Phật giáo”.
Đức vua muốn bảo tồn giáo pháp
của Đức Phật, nên Người thỉnh chư Đại Trưởng Lão
tổ chức cuộc kết tập Tam Tạng, khắc chữ trên
những tấm bia đá, để giữ gìn duy trì Tam Tạng
Pháp Bảo được lâu dài.
Chư Đại Trưởng Lão vô cùng hoan
hỷ chấp thuận theo lời thỉnh cầu của Đức vua, tổ
chức kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ năm tại kinh
thành Mandalay xứ Myanmar Phật lịch 2.404.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần này gồm
2.400 vị Đại đức là những bậc uyên bác Tam Tạng
và Chú giải, do Ngài Đại Trưởng Lão Bhaddanta
Jāgara làm chủ trì; ngoài ra còn có những vị Đại
đức rất xuất sắc như Ngài Bhaddanta
Narindabhidhaja,… bắt đầu khởi công khắc Tam
Tạng trên bia đá vào Phật lịch năm 2.404 cho đến
Phật lịch 2.415, trải qua suốt 11 năm ròng rã,
mới hoàn thành xong bộ Tam Tạng trên 729 tấm bia
đá:
– Tạng Luật gồm có 111 tấm.
– Tạng Kinh gồm có 410 tấm.
– Tạng Vi Diệu Pháp gồm có 208
tấm.
Sau khi khắc bộ Tam Tạng bằng chữ
trên những tấm bia đá xong, chư Đại Trưởng Lão
tổ chức cuộc kết tập Tam Tạng bằng khẩu truyền
suốt 6 tháng mới hoàn thành xong bộ Tam Tạng y
theo bổn chánh của bốn kỳ kết tập Tam Tạng trước.
Gọi là: “Selakkharāropanasaṅgīti”.
Kỳ kết tập Tam Tạng này do Đức
vua Mindon xứ Myanmar hộ độ.
Lần đầu tiên toàn bộ Tam Tạng
được ghi khắc trên bia đá, những tấm bia đá này
hiên nay vẫn còn nguyên vẹn ở kinh thành cổ
Mandalay xứ Myanmar . Các nhà in kinh sách Phật
giáo đều y cứ vào những tấm bia đá này làm nền
tảng căn bản.
Về sau có Đạo sĩ Khanti đứng ra
tổ chức khắc toàn bộ Chú giải trên những tấm bia
đá, hiện nay vẫn còn nguyên vẹn tại Mandalay.
KẾT TẬP TAM TẠNG PĀḶI LẦN THỨ SÁU
Phật giáo đã trải qua thời gian
khá lâu, Tam Tạng, Chú giải, Ṭīkā… đã in ra
thành sách, việc sao đi chép lại, in đi in lại
nhiều lần, khó mà tránh khỏi sự sai sót. Do đó,
các bộ Tam Tạng, Chú giải… của mỗi nước có chỗ
sai chữ dẫn đến sai nghĩa, làm cho pháp học Phật
giáo không hoàn toàn giống y nguyên bản chính.
Chính phủ Myanmar thành lập hội
Phật giáo có tên “Buddhasāsanasamiti” vào năm
Phật lịch 2.497 để lo tổ chức kỳ kết tập Tam
Tạng lần thứ sáu, tại động nhân tạo Lokasāma (Kaba
Aye) thủ đô Yangon , Myanmar. Chính phủ thỉnh
tất cả mọi bộ Tam Tạng, Chú giải hiện có trên
các nước Phật giáo, để làm tài liệu đối chiếu
từng chữ, từng câu của mỗi bổn.
Kỳ kết tập Tam Tạng lần thứ sáu
này gồm 2.500 vị Đại đức thông hiểu Tam Tạng,
Chú giải… rành rẽ về ngữ pháp Pāḷi, chia thành
nhiều ban đối chiếu sửa chữa lại cho đúng. Công
việc được thực hiện bắt đầu từ ngày rằm tháng tư
Phật lịch năm 2.498 cho đến ngày rằm tháng tư
Phật lịch năm 2.500, ròng rã suốt 2 năm mới hoàn
thành xong bộ Tam Tạng, Chú giải, Ṭīkā….
Sau đó, chính phủ Myanmar thỉnh
chư Đại đức kết tập Tam Tạng bằng khẩu, do Đại
Trưởng Lão Revata chủ trì, Đại Trưởng Lão
Sobhana vấn, Đại Trưởng Lão Vicittasā-rābhivaṃsa
thông thuộc Tam Tạng trả lời theo Tam Tạng, Chú
giải.
Trong buổi lễ này Chính phủ
Myanmar, đứng đầu là Thủ tướng U Nu, tổ chức
khánh thành kết tập Tam Tạng rất long trọng, có
mời nguyên thủ Quốc gia của các nước Phật giáo
cùng phái đoàn chư Tăng, cân sự nam, cận sự nữ
gồm có 25 nước trên thế giới đến tham dự, để
đánh dấu lịch sử Phật giáo đã trải qua một nửa
tuổi thọ 2.500 năm, dưới sự bảo trợ hộ độ của
Chính phủ Myanmar cùng Phật tử trong nước và các
nước khác trên thế giới.
Bộ Tam Tạng, Chú giải được kết
tập lần thứ sáu này được xem là mẫu mực cho các
nước Phật giáo hệ phái Theravāda.
Để Phật giáo được trường tồn lâu
dài trên thế gian này chừng nào, thì chúng sinh
được hưởng sự lợi ích, sự tiến hóa, sự an lạc
chừng ấy. Cho nên, chư Đại Trưởng Lão tiền bối
đã dày công gìn giữ và duy trì pháp học Phật
giáo từ thời kỳ Đức Phật còn tại thế, và sau khi
Đức Phật đã tịch diệt Niết Bàn. Tất cả quý Ngài
có phận sự bảo tồn trọn vẹn pháp học Phật giáo,
nên đã tổ chức qua 6 kỳ kết tập Tam Tạng và Chú
giải Pāḷi, không để cho rời rạc, thất lạc. Chư
Đại Trưởng Lão đã cố gắng giữ gìn duy trì từ
trước cho đến nay.
Công việc học Tam Tạng và Chú
giải Pāḷi để bảo tồn trọn vẹn pháp học Phật giáo
là bổn phận của mọi người Phật tử, là bậc xuất
gia cũng như các hàng tại gia cư sĩ. Chữ Pāḷi là
ngôn ngữ của Chư Phật, đối với chúng ta học Tam
Tạng và Chú giải Pāḷi cần phải hiểu rõ ý nghĩa
trực tiếp hoặc gián tiếp qua ngôn ngữ riêng của
mình.
Tại nước Myanmar , công việc học
Tam Tạng và Chú giải Pāḷi được phổ cập đến chư
Sadi, chư Tỳ-khưu. Hằng năm, bộ Tôn giáo Myanmar
có tổ chức kỳ thi đọc thuộc lòng Tam Tạng bằng
tiếng Pāḷi, và thi viết trả lời những câu hỏi về
Tam Tạng và Chú giải Pāḷi.
Video Kết Tập Tam Tạng Pali Lần Thứ 6 Tại Yagon
Myanmar:
https://youtu.be/wkzEgyFp4yY
Source: TK Hộ Pháp
|