TÔ MẠN THÙ
(1884-1918)
Toại Khanh biên dịch
苏曼殊(1884~1918) Su
Manshu
Nghiện
xì-gà Manila, thích ăn ngọt (đặc biệt mê món hạt dẻ rang tẩm đường, kem,
kẹo và món thạch Yokan của Nhật, từng tự cạy răng vàng đem đổi kẹo ăn và
sau cùng, ở tuổi 34 đã bị bội thực vì trong một lúc vui đã đánh cuộc với
bạn bè là có thể ăn hết 60 miếng há-cảo. Con người có nhiều nét riêng kỳ
cục đó chính là học giả Tô Mạn Thù (thế danh Tô Huyền Anh, ngoại hiệu Tô
Tử Cốc) sinh năm 1884 tại Hoành Tân (
横浜 Yokohama)- Nhật
Bản, tốt nghiệp đại học Tokyo (du học từ năm 1903), thông thạo nhiều
ngoại ngữ, cùng lúc là một hoạ sĩ, thi sĩ, ký giả, văn sĩ, tu sĩ và một
học giả Phật giáo uyên thâm. Đời sau vẫn xem ông là một chuyên gia về
Trung Luận. Ở Việt Nam, nhà thơ Bùi Giáng là người có cảm tình đặc biệt
với thầy Tô Mạn Thù qua bản dịch cuốn tự truyện Đoạn Hồng Linh Nhạn Ký
mà ông sửa lại thành Nhà Sư Vướng Lụy in thành sách trước 1975. Năm 2002
Saigon cũng vừa tái bản lại.
Thân phụ thầy Tô Mạn Thù là người Quảng Đông tên Tô Kiệt
Sanh (Su Jiesheng) (1846-1904), ông nội là Tô Thụy Văn (1817-1897), cả
hai đều là thương gia làm ăn bên Nhật Bản. Hai năm trước khi thầy Tô
chào đời, cha thầy có một tiệm trà lớn ở Hoành Tân. Ông Jiesheng vốn đã
có vợ họ Hoàng bên Quảng Đông, nhưng khi ở Nhật ông cưới thêm một người
thiếp Nhật Bản tên Kaisen. Em gái của cô Kaisen là Kai Yoko là một thiếu
nữ đẹp, đã từ làng quê lên Yokohama phụ giúp công việc với chị. Ông Kiệt
Sanh mềm lòng trước sắc đẹp của Yoko và tìm cách gần gũi. Kết quả là
Yoko có mang với ông, năm ấy nàng vừa 17 tuổi và sau đó sinh ra Tô Mạn
Thù vào ngày 9 tháng 10 năm 1884. Sinh con được ba tháng thì Yoko bị cha
bắt về quê, bỏ đứa bé Tô Huyền Anh (tức thầy Tô) lại cho người chị chăm
sóc. Thế là từ bé thầy Tô đã có một hoàn cảnh tình cảm không bình
thường, cộng thêm công việc buôn bán cứ buộc ông Kiệt Sanh phải thường
xuyên xa con, tuổi thơ của thầy Tô từ đó có những vết hằn mà về sau thầy
đã đem chúng phổ vào từng câu chữ thơ văn như một nỗi oan khiên khó
giải. Ai từng thấy qua những bức tranh của thầy, chẳng hạn bức Thu Tứ Đồ
(T.K có thấy qua bức tranh này) cũng phải nhận ra một sắc màu hiu hắt cô
quạnh khó tả.
Năm thầy Tô được 6 tuổi (năm 1890) thì được người vợ
chánh thất của cha mang về Quảng Đông. Hai năm sau thầy được giao cho
ông đồ Su Rouquan ở một ngôi trường tư nội trú để vừa học vừa được chăm
sóc thuốc thang đặc biệt vì thể chất thầy Tô từ bé đã còm cõi yếu đuối
cần có một chế độ sinh hoạt riêng. Năm thầy Tô 12 tuổi thì ngày kia lâm
trọng bệnh, gia đình tưởng không còn cứu được, lại thêm nỗi mê tín nên
đem thầy bỏ vào nhà củi chờ tắt thở sẽ đem chôn. Cũng may một người chị
dâu của thầy có lòng trắc ẩn đã tận tình chạy chữa đứa em chồng đã bắt
đầu thoi thóp tím ngắt. Nhờ đó thầy Tô khỏi bệnh và ngay sau đó quyết
định xin vào tu ở chùa Lục Dung(Liurong –六榕寺)
ở Quảng Châu. Nhưng thầy Tô chỉ ở đây được ít lâu thì bị chùa đuổi vì đã
lén bắt chim bồ câu nướng ăn. Thầy năn nỉ bà Hoàng (vợ lớn của cha) cho
lên Thượng Hải đi học. Tại đây do hoàn cảnh đẩy đưa thầy đã theo học
tiếng Tây Ban Nha với một người thầy cũng người Y-Pha-Nho trong suốt hai
năm liền. Năm 15 tuổi thầy Tô qua Nhật sống với người cậu và đi học tại
Hoành Tân. Thầy có về làng của mẹ ruột là Yoko sống một thời gian. Trong
thời gian này thầy đã yêu một cô hàng xóm người Nhật và vì gia đình bên
gái cực lực phản đối, nàng thiếu nữ kia đã chết vì thất tình. Thầy Tô
quá đau lòng bèn bỏ Nhật về Tàu xin tu lại ở chùa Pujian ở Quảng Châu.
Có chút lãng mạn hoang đàng nhưng thầy Tô vẫn là một người trượng nghĩa
và hào khí. Do bất mãn với triều Thanh trước đó, cộng thêm tình bạn đối
với những người duy tân, thầy đã trở thành đối tượng truy sát của phe
bảo hoàng. Đại nạn này của thầy phần lớn vẫn là vì người hơn là vì mình.
Những người quen biết vẫn nhận xét thầy là một nghịch hạnh Bồ tát, đại
lượng vị tha, có lòng tu nhưng cho đến lúc dứt hơi vẫn chưa một ngày làm
được ông thầy tu thanh tịnh. Các tài liệu tiếng Anh viết về thầy vẫn
dùng chữ Half-monk để gọi con người lãng tử ấy.
Từ chỗ trốn tránh kẻ thù, thầy Tô đã ngẫu nhiên đưa chân
vào một cuộc đời chìm nổi luân lạc. Nhờ chút kiến thức cầm tay, thầy
viết báo để sống và lưu lạc khắp cõi Á Châu, không dưới mười nước: Nhật,
Ấn, Thái, Tích Lan, và cả Việt Nam. Tiện thì ở lại ít lâu, nếu không
cũng đôi hôm quét lá lễ Phật rồi cơm hàng cháo chợ, trôi giạt vô chừng…
Bên trong thầy Tô luôn là những mâu thuẫn thường trực,
tâm huyết một thanh niên trí thức khiến thầy muốn duy tân Trung Hoa
nhưng mắt tuệ của một thầy tu cứ buộc thầy nhìn đâu cũng là mù sương.
Mọi tranh đấu chỉ là giải pháp tạm thời để hướng tới những mục đích ngắn
hạn. Đó là chưa kể trò đời ngang trái thường xui nên những trái khoáy:
Đại sự phải do người tài làm nên, việc xong lại thấy kẻ dốt ngồi sẵn
trên ngai cửu trùng. Dẫu chẳng có dạ tranh giành nhưng ngẩm đến cảnh
thiên hạ tiếp tục lầm than từ hôn quân này đến bạo chúa khác thì lòng
nào không nản. Nếu thiên hạ may mắn có được minh quân thì giai đoạn vàng
son này cũng là một thoáng phù vân để tiếp nối sau đó vẫn là những canh
bạc, ván cờ đầy bất trắc.
Bên cạnh nỗi niềm ưu thời mẫn thế và một lý tưởng Bồ tát
đạo ngất trời, thầy Tô chẳng may lại có một trái tim đa cảm. Đến chết
vẫn độc thân nhưng đời ông luôn lẫn khuất những bóng hồng trêu ngươi.
Tương truyền thầy Tô có nhiều giai nhân thân quen trên mức bình thường,
đủ cả sắc tộc: Nhật Bản, Tây Ban Nha và Anh quốc. Ông là khách viếng
thường xuyên của nhiều trà đình tửu quán nổi tiếng ở Thượng Hải và Nam
Kinh, trong đó có kỹ phường Tái Kim Hoa nổi tiếng với các cô Geisha
người Nhật. Thầy Tô từng làm rất nhiều thơ tình để tặng cho họ. Trong đó
phải kể đến các cô Kim Phụng từ bến Tần Hoài ở Nam Kinh, Thoại Tiết Nam
và Tố Trinh từ Thượng Hải, Sen Yuko từ Nhật đến. Cô gái Nhật này là một
nhạc sĩ chơi đàn có tiếng. Chẳng hiểu những chuyện cơ mật này thiên hạ
đã từ đâu biết được, ngẩm mà ngán !
Trước sau thầy Tô đi về Nhật Bản mười một lần, tính ra
hai phần năm cuộc đời của thầy là sống tại Nhật. Thầy từng là giáo sư
giỏi của hơn mười ngôi trường trung học tại Tô Châu, An Huy ở Trung
Quốc, trường Long Hoa ở Bangkok và trường Nouban ở Java. Ở Nhật, thầy Tô
đứng lớp dạy nhiều môn Toán, Hội Hoạ, Anh văn, Hán ngữ và là một chuyên
gia Sanskrit tại Tokyo. Thường xuyên xê dịch nhưng thầy vẫn dành nhiều
thời gian để biên soạn, viết văn, in sách và dịch sách (thầy đặc biệt
chọn dịch các tác phẩm của Goethe, Byron, Shelley và nhất là Victor
Hugo). Thầy Tô xài tiền không đếm và chuyện nợ nần không phải hiếm hoi,
có lúc ở Nhật thầy phải sống bằng cách ôm bát khất thực (nhà sư khất
thực ở Nhật được quyền đội nón rộng vành và mang guốc hay giày nhưng ít
khi đi một mình).
Từ năm 1903, lúc đang du học ở Nhật, thầy Tô là một đảng
viên trung kiên của Quốc Dân Đảng. Ông thường sắp xếp những cuộc gặp gỡ
giữa các sinh viên Trung Quốc với ông Liệu Trọng Khải, nhân vật thứ hai
sau Tôn Văn và còn dành thời gian đi Oumoli để tập bắn súng. Trong các
năm 1903, 1907 và 1912 thầy Tô đã lần lượt thành lập các tờ Dân Báo,
Quốc Dân Nhật Nguyệt, Thái Bình Dương để kêu gọi lòng ái quốc và xác lập
quan điểm chính trị. Bác sĩ Tôn Văn dùng lễ bè bạn đối xử với thầy Tô và
đổi lại, thầy là một chiến hữu trung liệt. Trước lúc nhắm mắt xuôi tay ở
Thượng Hải, thầy còn thều thào hai câu, một câu nhắc đến mẹ già ở Nhật
và một câu nhắc đến trọng trách của mình tại Quảng Đông. Trong số những
người bạn quý của thầy Tô phải kể đến Tôn Văn, Lý Thúc Đồng, Phùng Tự
Do, Tưởng Giới Thạch, Thái Triết Phu, Lưu Sư Bồi, Trần Ứng Thời,… nhưng
thân thiết nhất lại là Trần Độc Tú, người lập nền tảng cho Đảng Cộng Sản
Trung Quốc sau đó !
Ngày 02 tháng 05 năm 1918 thầy Tô bị bệnh rồi mất ở
Thượng Hải. Thi hài thầy Tô đã được bạn bè đưa về an táng trên núi Cô
Sơn cạnh Tây Hồ, Hàng Châu, và bác sĩ Tôn Trung Sơn là người đứng ra
gánh vác mọi phí tổn cho tang lễ tương đối tốn kém này. Nghĩ lại mà
thương cho cụ Thiều Chửu, sư Thiện Chiếu của Việt Nam. Xứ mình gì cũng
có, chỉ thiếu một Tôn Trung Sơn.
Chuyện thầy Tô bị bội thực do đánh cuộc với bạn bè đến
nay vẫn chỉ là chuyện vui chưa thể kiểm chứng, kể cả những giai thoại
truyền kỳ về đời tư có phần quá quắt của thầy cũng thế. Xưa nay người
Tàu vẫn hiếu sự và với một người phóng khoáng như thầy Tô làm sao tránh
nổi những thị phi thêm thắt đôi khi có nội dung chết người kiểu ấy !
Sau khi thầy Tô Mạn Thù từ trần được hai năm thì hai
người bạn của thầy là Lý Căn Nguyên và Thái Triết Phu đã gom góp 22 bức
tranh của thầy vẽ bằng mực tàu rồi in thành một sưu tập tên là Mạn Thù
Di Mặc để tặng cho thân hữu. Bốn chữ này trên cuốn sưu tập là thủ bút
của Tôn Trung Sơn. Sau này ông Liu Zazi và con trai là Liu Wuji đã bỏ
công tìm thêm tất cả tác phẩm thư pháp và những thủ bút của thầy Tô Mạn
Thù rồi in chung với bộ tranh Mạn Thù Di Mặc và giao cho nhà xuất bản
Tân Bắc ấn hành.
Từ lâu, bạn bè và người ái mộ đã sưu tầm tất cả những bản
dịch, bài viết, thư từ, những bài thơ rơi rớt đâu đó, trong các hình
thức viết tay, đánh máy của thầy Tô Mạn Thù. Tất cả đều được in thành
sách, tính đến nay tổng số đếm được là 92 cuốn, trong đó có những cuốn
tái bản 6 lần. Sau đây là bảng phân loại:
-100 bài thơ, 100 bức tranh,
-Sáu cuốn tiểu thuyết cùng truyện ngắn,
-Hơn 100 lá thư với thủ bút của thầy Tô.
-Bản dịch hai cuốn tiểu thuyết ngoại quốc (Trà Hoa Nữ của
Alexandre Dumas de Fils và Những Kẻ Khốn Cùng của Victor Hugo)
-10 bài thơ dịch, vô số ghi chú và bản nháp.
-Đặc biệt 8 cuốn bản thảo thầy viết bằng chữ Sanskrit,
bốn cuốn văn pháp chữ Phạn.
-Hai công trình biên khảo về nguyên tác Trung Luận
(Madhyamika-kàrika) và tập truyện thần thoại Cổ Ấn Sakuntala.
-Một cuốn biên khảo địa danh Phật Giáo.
-Một biên khảo về hành trình thám hiểm Tây Dương của
Trịnh Hoà đời Minh cùng các bản đồ hải hành của nhân vật này.
-Một sưu tập danh nhân Nhật Bản.
-Công trình nghiên cứu về tôn giáo cổ đại Ai Cập.
-Tự điển Hán- Anh
-Tự điển Quảng Đông- Anh ngữ.
-Tự điển Anh-Hán.
-Ba trăm bài thơ không đề.
-Bản dịch cổ thi Trung Quốc sang tiếng Anh.
Tô Mạn Thù là một học giả mà cũng là một nghệ sĩ đa tài.
Thơ ông hay, tranh ông đẹp và các công trình biên khảo đều thâm hậu, đắc
dụng. Đời ông ngắn ngủi, nhưng ông sống nhiều và sẽ bất tử trong nền văn
học Trung Quốc. Trong vòng hai mươi năm sau ngày thầy Tô ra đi, ở Trung
Quốc bỗng dấy lên làn sóng Niềm Đam Mê Mạn Thù, chữ dùng của nhà văn Lỗ
Tấn. Người ta đã đổ xô tìm đọc tất cả những gì được cho là của thầy Tô
hay nói về thầy Tô. Trong hai mươi năm, cuốn hồi ký Đoạn Hồng Linh Nhạn
Ký của ông được tái bản ít nhất mười tám lần, người ta đã viết hàng chục
cuốn biên khảo kể cả tiểu thuyết về nhân vật Tô Mạn Thù, soạn hẳn một
biên niên sử về cuộc đời ngắn ngủi của ông để ghi dấu từng bước chân
trầm luân của con người thiên tài đó. Ở đây ta có thể kể vài cuốn tiểu
thuyết mô phỏng chuyện đời Tô Mạn Thù như Nhân Gian Địa Ngục, Hận Hải Cô
Chu Ký, đều bán đắt như tôm tươi. Thầy Tô đã trở thành con người của
truyền kỳ huyền thoại chỉ vì sự nghiệp của ông để lại quá lớn và đó lại
là dấu chân để đời của một cánh chim hồng nhạn đã đi qua cuộc đời này
trong một thời gian quá ngắn ngủi.
Nhiều nhà nghiên cứu hôm nay đã nhận rằng qua những di
cảo để lại, thầy Tô rõ ràng là một học giả uyên bác nhất thời Thanh mạt.
Ông là một trong ba dịch giả hàng đầu của Trung Quốc trong giai đoạn đầu
thế kỷ 20 đã giới thiệu văn học tư tưởng ngoại quốc cho người Trung Hoa.
Thầy Tô đã may mắn thông thạo những ngoại ngữ đắc dụng cho sự nghiệp của
mình. Thầy thông thạo ít nhất năm thứ tiếng Phạn, Nhật, Anh, Pháp, Tây
Ban Nha. Các sử gia cho rằng Phật giáo Trung Quốc từ đại lục đến hải
ngoại từ sau đời Đường chưa hề có một học giả Phạn ngữ nào uyên bác như
thầy Tô. Ông là người đầu tiên dịch tác phẩm Duyên Hải Độc Cư của Sahlo
từ tiếng Sanskrit sang Anh ngữ, dịch ra chữ Hán những bi ký A- Dục tại
các Phật tích Ấn Độ và giới thiệu cho giới học Phật Trung Quốc phương
cách tiếp cận nguyên tác kinh điển từ bản gốc thay vì lệ thuộc các bản
dịch.
Văn học Trung Quốc chắc chắn sẽ khá hơn hiện tại rất
nhiều nếu từ đầu thế kỷ 20 có được nhiều người như thầy Tô. Ông đã có
công phiên dịch các tác giả Tây phương thời thượng với hi vọng giúp
người Tàu hiểu được tư tưởng xứ ngoài. Chỉ tiếc về lý tưởng này, người
Nhật đã đi trước và đi xa hơn người Trung Quốc với một khoảng cách khó
lường.
Tính đến nay, các tác phẩm của thầy Tô đã được dịch sang
các thứ tiếng Anh, Nhật, Nga, Pháp, Đức, Tây Ban Nha, Bồ Đào Nha, Á
Rập,… Tên tuổi của ông đã được nhắc đến trong vô số sách báo và công
trình quan trọng
The Biographies of Famous Chinese People in the Time of
PC, The Twentieth Century’s World Literature Encyclopedia, Dictionary of
Oriental Literature, Dictionary of Chinese Names,…
Các sử gia, học giả Đông Tây như giáo sư Gulik của Hàn
Lâm Viện Tiệp Khắc, nhà sử học Triều Tiên Hung-Yok-Ip đều công nhận ông
là một thiên tài của Trung Quốc về cả tục học lẫn đạo học. Riêng Phật
giáo Nhật Bản đã xây dựng một ngôi đền lưu niệm Tô Mạn Thù ngay tại sinh
quán Yokohama của ông và vào năm 1934 học giả Sato đã viết một chuyên
luận về thầy Tô và đăng trên chuyên san The Times of Literarure and
Arts. Cũng trong năm này, tiến sĩ Izzuka của Nhật đã bảo vệ thành công
luận án của ông về đề tài Tô Mạn Thù dày trên hai trăm trang.