CHIẾC ÁO CŨ
Minh Đức Triều Tâm Ảnh
– Câu chuyện được kể lại từ thời Phật giáo Thiền tông hưng thịnh, tức là
thời đại Kiếm Thương (Kamukara), trong khoảng thế kỷ XII và XIII ở Nhật
Bản.
Khi
Ô-chu từ giã tông phái Nhật Liên của Nhật Liên thượng nhân (Nichiren
Shonin), thì mái tóc đã điểm hoa râm, chàng quay lưng ngọn núi Phú Sĩ
bạc đầu, xuyên qua mấy rừng hoa anh đào để đi vào miền xuôi.
Vai
với bọc hành lý đơn giản, đầu chiếc nón rộng vành che kín khuôn mặt,
từng bước một chậm rãi như chúa lạc đà, chàng đi mấy ngày đêm ròng rã,
chỉ dành đôi chút nghỉ ngơi.
– Kia rồi!
Chàng
ngước mặt lên khẽ thốt. Chiếc cổng trúc vàng và hai bụi thục quỳ nổi hoa
tím đã hiện ra. Đằng sau lối sỏi trắng điểm hoa cỏ li ti có bóng người
gầy cao chống trượng đứng.
Chàng
quỳ gộp hai đầu gối xuống trong tư thế của một môn sinh thiền gia:
– Bạch Thầy,
giọng chàng xoắn xít, nôn nao biểu lộ một cảm xúc tuôn trào – thầy vẫn
còn mạnh.
Người
gầy cao chống trượng đứng, không quay lại. Một đám mây bạc ửng màu lưu
hoàng trôi qua đầu cây tuyết tùng. Buổi sáng có những tia nắng ấm và có
mưa nhẹ lay bay…
– Anh lại bỏ
áo? Anh đến chào tôi rồi hẳn làm một cuộc ra đi mới hả Ô-chu?
Giọng
người gầy cao chống trượng đứng, nói trầm ấm và không biểu lộ một tình
cảm nào.
– Đã bỏ áo?
Dạ bạch thầy, không, con không bỏ áo. Không bao giờ.
Người
gầy cao chống trượng đứng, đột ngột quay lại, cúi xuống hom hem nhìn
chàng. Ký ức của lão thiền sư trở về…
Người
gầy cao chính là thiền sư Đạo Nguyên (Dogen) năm đó đã 83 tuổi. Và kia
là vị đệ tử trưởng của lão thiền sư, pháp danh Ô-chu (Oju Shonin) cách
ba mươi năm về trước. Ngài còn nhớ rõ như in, người thanh niên với chiếc
cằm vuông vức, trán phẳng và cao, đôi mắt xanh to nhưng sâu thẳm ẩn dưới
hàng chân mày sắc mạnh như một vệt dao. Người học trò này thông minh,
tuyệt vời thông minh, nhưng nóng nảy. Trong các buổi giảng tập kinh điển,
luận bàn giáo lý, đôi mắt y sáng rực rực, giọng hăm hở, dồn dập, náo nức;
ngôn ngữ, chữ nghĩa trôi chảy cuồn cuộn như sông dài; lý lẽ minh chứng
xác thực, sắc bén như lưỡi kiếm xuyên nước. Ba trăm môn sinh không ai
tranh luận nổi với chàng dẫu là một điểm nhỏ về giáo lý. Nơi thiền phòng
bao giờ chàng cũng là người đến trước mà ra sau. Học Pháp không biết mỏi
mệt. Hành thiền không biết mỏi mệt. Tuy thế, lão thiền sư Đạo Nguyên bao
giờ cũng lắc đầu: “ba mươi năm nữa, ba mươi năm nữa”. Vì sao vậy? Lão
thiền sư Đạo Nguyên lại nghĩ tiếp, y khó mà thấy được cái bình thường
tâm. Y không bao giờ an tâm mà làm các công việc nhỏ nhặt như bổ củi,
gánh nước, tưới rau, quét sân, nhổ cỏ… Y là con người của đại sự kia, kẻ
gánh vác những công việc lớn lao trong trời đất; sứ mệnh của y phải là
cái gì tương tự như tát cạn bể đông, quảy càn khôn trong cái đãy ta bà.
Mỗi lần thượng tọa quản chúng hay Thượng tọa tri sự giao cho y những
công việc chân tay thì khuôn mặt của y mới thiểu não làm sao. Y thường
nói: ”gánh một núi sách lên Hy-mã-lạp-sơn còn dễ chịu hơn cái việc lượm
lá, quét sân”. Sự khát khao về chân lý đạo bừng bừng bốc lửa trong ý chí
của y. Thế nên, y không chịu được đời sống một môn sinh tầm thường. Vì
vậy y khoác áo du tăng hành cước đi từ núi cao đến rừng thấp. Cuộc từ
giã hôm ấy là một buổi sáng mờ sương, lão thiền sư đã ân cần trao cho
chàng một chiếc áo cũ: “Thầy không có gì để kỷ niệm trước lúc con ra đi.
Đây là chiếc áo cũ năm xưa thầy cho, con bỏ đi, nay thầy đã khâu vá lại.
Con đừng quên nó nhé”. Đã lâu lắm rồi, lão thiền sư nghe y bỏ áo rồi xin
nhập một tu viện. Lại bỏ áo. Lại lên đường đến một thung lũng của các
đạo sĩ Yogi nghe đâu ở tận miền Bắc hải đạo. Một ngày mùa đông, tuyết
ngập khe suối, các hoang đạo những vũng nước đóng băng, chàng dẫm qua
mười hai ngọn núi, mười bảy làng sơn cước, đêm khuya trở về gõ cửa. Lão
thiền sư tiếp chàng ngay nơi tẩm phòng, đốt lên một lò sưởi, hâm lại ấm
trà, lấy ra một gói kẹo thảo mộc. Câu chuyện âm thầm giữa thầy cũ và trò
xưa chẳng ai biết, chẳng ai hay. Mờ sáng hôm sau, người lữ khách không
biết mỏi mệt ấy lại ra đi, lại lên đường, con đường nhiêu khê vô định,
vai vẫn với bọc hành lý đơn giản dạo nào: “Bạch thầy ạ, con chưa thể
dừng chân được. Sinh tử là định mệnh hối thúc không rời. Tri thức con
phóng vọt tới đằng trước như một con ngựa bất kham. Nó không cần biết
vực thẳm hay thảo nguyên, quê xưa hay đất trích. Bạch thầy ạ, tuy thế
con còn có chiếc áo cũ của thầy, giáo huấn, nhắc nhở con mỗi khi lầm lỡ.
Nó vẫn còn đây. Nó vẫn còn đây”. Chàng mỉm cười xa xôi, diệu vợi, vỗ vào
bọc hành lý bạc màu rồi cúi đầu bước qua khung cửa thấp, đội tuyết lâm
hành.
Mùa hoa anh
đào cách đây đâu đã hai mươi năm, lão thiền sư nghe tin chàng đang thọ
giáo với một pháp sư người Trung Hoa tại miền cực nam đảo Trường Kỳ.
Không lâu sau lại tham học với một thiền sư người Đại Hàn tại Ko-chi. Và
cứ thế, nào là giảng sư Tích Lan, hòa thượng tiến sĩ người Miến Điện… Sở
học sau đó, không biết chàng đã tiến bước đến chân trời nào – hay là
không còn chân trời thì cũng vậy – mà chàng lại phất áo ra đi, từ bỏ con
đường vi vút chông chênh của duy lý để đắm mình trong khí hậu của chơn
ngôn Mật giáo tại Đông Tự (Toji) phía nam Kyoto. Lửa ngàn đời lại âm ỉ
thiêu đốt, đẩy chàng từ kinh đô lên núi non vùng tây bắc Akita, ăn rễ
trái cây, sống đời khổ hạnh.Từ giả núi khổ hạnh, chàng về Đông Kinh đăng
đàn thuyết pháp. Chàng rống tiếng sư tử trước mười ngàn thính chúng cử
tọa gồm tăng lữ và môn sinh các tu viện, thiền viện, Phật học viện…
Người ta bàng hoàng, bủn rủn, tê dại trước ngôn ngữ sấm chẻ và đôi mắt
thu hút ma quái của chàng. Buổi giảng pháp đầu tiên đã vang đến cung
đình. Thủ lãnh các tông phái, các pháp sư, luận sư tìm đến, dưới sự chủ
tọa của thái tử Khải Nguyên (Koen), chàng lần lượt đánh bại Tịnh Độ tông
mà đại biểu là Thân Loan thượng nhân (Shiren Shonin) sau đó là Nhất Biến
thượng nhân (Ippen Shonin), một nhà sư lang thang tiếng tăm lừng lẫy
không hẳn Chân tông không hẳn Tịnh Độ. Rồi lần lượt những cao sĩ của
Phật giáo quý tộc, Thiên Thai, Pháp Tướng, Luật, Tam Luận, Hoa Nghiêm,
Thành Thật… đều bị rớt đài. Chàng giương cao ngọn cờ hưng khởi của Thiền
tông, mà chàng gọi là Thiền tông tịch mặc. Trong lúc thái tử Khải Nguyên
muốn dành mọi vinh quang cho vị pháp sư siêu việt thì chàng đã mất tích.
Nghe nói Nhật Liên thượng nhân đã mất (1282), và mong chàng là người kế
vị giáo chủ. Và bây giờ…
– Anh hãy
nói đi! Vị lão sư quay lưng ngồi lên chiếc giả đôn bằng đá trắng, nói
dịu dàng – không phải là nói cái kinh qua mà nói cái còn lại, cái đọng
lại!
Ô-chu ngước
đầu lên, tròng mắt phản chiếu nước mặt hồ xanh trong lặng lẽ. Y cởi bọc
hành lý đặt dưới chân đức thầy già nua rồi lấy ra chiếc áo cũ, chiếc áo
chàm nâu đã bạc mầu còn nguyên nếp gấp, những tấm vá vụng về đã long
những sợi chỉ vàng. Y nhìn thật lâu vào đấy đầy xúc động.
– Bạch thầy
ạ, đây là chiếc áo cũ năm xưa, bây giờ còn muốn mặc lại, xin thầy cho
phép.
Giọng chàng
như lạc hẳn đi.
Đôi mắt lão
thiền sư rớm lệ. Có lẽ là những hạt nước mắt đầu tiên và cũng là những
hạt nước mắt cuối cùng.
– Con có nói
gì nữa không, Ô-chu? Tóc con đã bắt đầu điểm muối sương rồi.
– Dạ!
Im lặng.
– Con không
nói gì ư?
– Dạ!
Lại im lặng.
Một con chim
vành khuyên mỏ đỏ hót một tiếng hót lảnh lót xao động không gian. Một
cơn gió nhẹ nhặt mấy cành hoa anh đào ném tung thành vài con bướm lượn.
Một cánh rơi nằm trên manh áo cũ. Lão thiền sư mỉm cười cúi xuống bắt bỏ
lên lòng bàn tay:
– Ba mươi
mùa hoa anh đào đã qua đi rồi, thuở còn từ giã nơi này. Thời gian qua đi
nhưng hoa nở hoa tàn thì vẫn vậy.
Lão thiền sư
ngước nhìn trời. Đám mây bay qua đầu cây tuyết tùng giờ lại long lanh
màu hổ phách. Ngài chống gậy chậm rãi bước đi. Nhìn theo dáng hạc gầy
guộc của thầy, Ô-chu liên tưởng đến một đỉnh núi đá cô liêu. Và chàng là
con sông dài cuồn cuộn chảy về khơi. Ai ngờ con sông trở lại.
Trai đường
rộng mênh mông, mấy trăm môn sinh ngồi tỉnh tọa giây lát trước khi vào
bữa ăn sáng bằng cháo ngũ cốc. Họ đã tụng Phật hiệu xong – Namo
Sak-ya-mu-ni Bud-dha – tiếp theo là lời quán tưởng. Giọng tụng thoát
khung cửa lớn ùn ùn tỏa ra chao động cả khoảng không gian còn đọng hơi
sương. Lão thiền sư lọc cọc đầu gậy trúc đột ngột đi vào với một trung
niên tóc đã điểm hoa râm.
– Các con
thân mến! Rồi lão thiền sư vỗ nhẹ lên vai Ô-chu – Hôm nay thầy giới
thiệu với các con một môn sinh mới xin nhập viện. Thầy đã cho y thọ trì
Tam quy và Bát quan trai giới. Pháp danh là Ô-chu. Các con hãy sống
thuận thảo tương ái tương kính lẫn nhau, lấy Lục hòa, Tứ nhiếp làm
trọng.
Mấy trăm đôi
mắt tò mò, thú vị hoặc lãnh đạm nhìn người đàn ông lớn tuổi, lớn tuổi
hơn cả những vị thượng tọa cao hạ ở đây. Nhưng người y sao rừng rú thế?
Ở nơi cái thân thể lực điền, mày thô mắt cứng không tìm thấy một nét văn
nhược thì học hành cái gì! Cuốc đất thôi! Y lại khoác lên người chiếc áo
thô cũ, quá cũ, vá đùm, vá chụp trông chẳng được mắt chút nào.
– Thượng tọa
Quản chúng, Thượng tọa Tri luật, Thượng tọa tri sự, Thượng tọa Giáo thọ
đâu? Tiếng lão thiền sư yếu, thanh nhưng sắc mạnh.
Cuối trai
phòng, bốn vị Thượng tọa đồng đứng dậy, chấp tay ngang ngực.
– Các thầy
đã biết bổn phận nhất định của mình là phải làm gì đối với một tân môn
sinh.
– Dạ.
Lão thiền sư
lẳng lặng nhìn quanh một vòng rồi từ từ bước ra cửa. Chiếc bóng cao lênh
khênh, màu áo khói hương như tan lẫn trong sương, chỉ còn vọng lại đều
đặn tiêng gậy trên lối sỏi.
– Lại đây,
lại đây, người bạn đạo.
– Lối này,
lối này.
– Chiếu này,
chỗ này!
– Chỗ anh là
chỗ cuối cùng kia, người em út!
– Mới vào
chùa mà ra vẻ sư cụ nhỉ?
– Một trăm
gánh nước, ha ha, bài học nhập môn hạng bét cơ đấy!
– Quét một
ngàn giỏ lá hoa anh đào, ông bạn già. Mòn vô lượng vô biên a-tăng-kỳ
kiếp cái chổi, phải biết!
– “Cù” thế!
Tiếng tiếp
tiếng, câu tiếp câu chen lẫn xen lộn ồn ào. Một tiếng bảng mộc vang lên.
– Chư đệ,
chư đệ, hãy im lặng.
– Chư đệ,
chư đệ, chớ quên mình, chớ phóng dật!
Trai đường
im lặng trở lại.
Người ta rất
ngạc nhiên về vị môn sinh mới. Suốt ngày y rất ít nói, lặng lẽ như chiếc
bóng của mình. Y không tỏ vẻ cố gắng lắm nhưng hoàn tất dễ dàng các công
việc được giao phó. Y làm không chậm, không nhanh, đôi khi rất chậm, đôi
khi rất nhanh, bao giờ cũng toát ra cái vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng, êm ả,
dẫu cho cái thân thể to lớn nặng nề. Người ta không thấy y trầm tư,
thiền định, không mơ mộng và buồn phiền. Đôi khi y ngâm khe khẽ một vài
câu thơ cổ, một vài câu kệ với âm thanh phát ra ư ử trong cổ họng, không
ai nghe được. Đặc biệt, cái trầm tĩnh của y đến độ làm cho người ta lạnh
mình. Chuyện kể rằng, lão thiền sư cho phép y làm cái cốc rạ phía sau
hốc núi, cách chỗ của thiền sư một con suối nhân tạo và một hòn giả sơn.
Hôm kia, cốc phát hỏa do một môn sinh nướng khoai sơ ý gây nên. Về đến
nơi thì chỉ còn một đống tro. Vị môn sinh kia áy náy bối rối đến tội
nghiệp. Ô-chu mỉm cười mà rằng: “Vậy chớ sau đó thầy có ăn khoai được
không, hay là nó đen thui?” Người ta chơi nghịch đốt giải áo của chàng
trong lúc chàng nghỉ trưa. Chàng ngồi dậy thì đám lưng đã cháy một mảng.
Chàng bị bỏng nặng mà không hề than một tiếng. Chàng đã không biết giận
ai mà lại hay cười. Chàng mỉm cười với mọi sự. Mỉm cười với tất cả “lính
cũ bắt nạt lính mới”. Mỉm cười với mọi công việc nặng nề, hôi hám mà
người ta đùn cho chàng. Ở đâu mà không thế. Chàng rất ít nghỉ ngơi, ai
hỏi lý do, chàng nói: “Ngay chính nơi công việc, ta luôn luôn tìm được
sự nghỉ ngơi”. Những công việc tay chân và thiên nhiên là sự nghỉ ngơi
của chàng, sự nghỉ ngơi thiêng liêng nhất mà không phải tuổi nào cũng
thấy được, người nào cũng hiểu được. Do vậy, trong công việc, chàng làm
với tất cả lòng đam mê và sự sáng tạo. Trong thiên nhiên, sự hiện hữu
của muôn loài, muôn vật, chàng nhìn ngắm với sự mới lạ trong từng giây
từng khắc, với trọn tâm hồn của mình.
Sáu tháng
sau, Thượng tọa Giáo thọ kêu chàng lên:
– Chú chấp
tác mọi công việc đều tốt, rất tốt. Thượng tọa tri sự yêu cầu tôi bắt
đầu dạy giáo lý cơ bản cho chú. Nhưng trước khi vào chương trình, tôi
phải biết sơ về trình độ, hầu dọn cho chú một chương trình giáo lý riêng
biệt thích hợp. Muốn vậy, chú phải trả lời những câu hỏi của tôi. Chú đi
tu đã lớn tuổi, chú đến với Phật giáo quá muộn màng. Chú biết đấy. Vậy
thì chú biết gì về Phật không? Nghĩa là tôi muốn hỏi, chú đã biết Phật
là gì chưa?
“Lão tân môn
sinh” lúng túng ra mặt, khẽ nhìn vị “Thượng tọa bác học” rồi lại cúi đầu
xuống.
Đọc được tia
mắt ấy, Thượng tọa Giáo thọ cố gắng diễn giải:
– Chú chỉ
cần nói ra cái ý niệm. Không, chả cần, chữ “ý niệm” rắc rối khó hiểu –
Thượng tọa nhăn mày – Hay là thế này vậy, chữ “Phật” gợi cho chú hình
ảnh nào; phải, hình ảnh, cái hình ảnh thiêng liêng hoặc gần gũi mà chú
đã bắt gặp được trong đời sống của mình. Phải rồi, chú nói đi, Phật là
gì nào?
Quả thật,
chàng lạ lùng, ngạc nhiên trước câu hỏi này. Phật là gì nhỉ? Ở nơi cái
ngôn ngữ tối tăm và u ám của con người, có chỗ nào diễn tả chân xác nhất?
Đầu óc Ô-chu làm việc thật nhanh, như chiếc đèn cực sáng quét qua một
lượt mấy cánh rừng ngôn ngữ. Qua gần năm cổ ngữ và mười ngoại ngữ khác
nhau, chàng không tìm ra từ thích hợp. Những chữ, những chữ hiện tuần tự
thứ lớp như cuốn phim tốc quay và chàng chụp bắt với đôi mắt của loài cú.
Thế nhưng, Phật là gì? Ồ! Phật là gì nhỉ?
Và thế là
Ô-chu thiểu não lắc đầu.
– Chú không
biết! Thượng tọa Giáo thọ thở dài. Phật mà chú không biết là gì, thì xin
lỗi… đi tu vậy là cuồng tín mất thôi. Ôi, tín mà không có trí là hỏng
rồi!
Ô-chu cũng
thở dài. Biết sao được.Thầy Giáo thọ quở phiền chàng là phải lắm. Ôi, rõ
ràng là không thể nói Phật là gì. Nói ra là hỏng mất thôi.
– Pháp là
gì? Thượng tọa Giáo thọ đưa mắt thương hại hỏi tiếp – dẫu chú không biết
Phật là gì, nhưng tôi vẫn hy vọng là chú biết Pháp, biết được cái chân
lý mà từ đó, chú đoạn bỏ đời sống cư sĩ áo trắng tục lụy và tối tăm để
về với ánh sáng đạo. Pháp là gì? Tôi đã cố gắng tìm kiếm nơi chú một
hiểu biết tối thiểu, như gạn cát tìm vàng. Pháp là gì? Bạn thân mến,
Pháp là gì nào?
Pháp là gì?
Ô-chu chợt mỉm cười. Chàng biết rõ cái đó trong tâm. Chàng đã cùng hít
thở, đi đứng với nó. Nhưng biết nói làm sao nhỉ? Ôi, sao ngôn ngữ loài
người nó nghèo nàn đến thế?
Trong lúc cố
gắng tìm kiếm, cân nhắc, bất chợt chàng thấy một cánh thảo lan thò nụ
hoa vàng từ sau gộp đá nâu.
– Kìa,
Thượng tọa – Chàng rối rít đưa tay chỉ – Một nụ thảo lan, có phải không?
Là một nụ thảo lan! Ôi! Đẹp làm sao!
– Cái gì? Vị
Giáo thọ sư quắt mắt – Chú nói cái gì? Chú nói kìa một nụ hoa vàng, một
nụ thảo lan, là quái gì? Thượng tọa giáo thọ bốc giận – Đấy là ngôn ngữ
thiền sư “rởm” chú ạ! Ai cũng có thể nói được một nụ hoa vàng, đẹp lắm,
xưa quá rồi. Thôi đi, “nởm” ạ!
Thượng tọa
Giáo thọ đứng bật dậy, thu vội sách vở trên bàn.
– Chú hãy
trở về trình diện lại với Thượng tọa tri sự, kiếp này chú không tu huệ
được đâu, chỉ tu phước thôi. Hãy cố gắng tích lũy công đức trong lao tác,
trong đời sống phục vụ Tam Bảo. Công đức kia sẽ hộ trì, dắt díu chú. Con
đường này tuy chậm, nhưng chắc chắn và vững vàng, hợp với khả năng của
chú. Tôi cầu nguyện Phật lực gia hộ cho chú…
Ra đến cửa
rồi, Thượng tọa Giáo thọ quay lại nhìn chàng một hồi lâu:
– Chiếc áo
vải thô của chú đã cũ quá rồi. Chú không có cha mẹ, bà con, họ hàng thân
thích gì cả sao?
– Dạ không
ạ!
– Vậy thì để
tôi đề nghị lên Thượng tọa Quản chúng, Đại đức Thủ quỷ may cho chú một
vài bộ áo quần cho tiện việc chấp tác. Chiếc áo kia cũ quá rồi đấy!
Ô-chu mỉm
cười:
– Thôi
Thượng tọa ạ! Chiếc áo này cũ nhưng còn chắc chắn hơn cả bao gai. Nếu
biết vá víu cho khéo thì cũng có thể dùng được lâu. Chỉ có cái là bàn
tay của đệ tử thô tháo, vụng về thôi.
Thượng
tọa Giáo thọ nhìn hai bàn tay chai sạn, u nần, kệch cỡm của Ô-chu, cười
thành tiếng:
– Phải rồi,
chú sinh ra không phải là để học, để ngồi trên những chiếc ghế vàng son
lộng lẫy của pháp sư, giảng sư…
Ba
hồi chuông trống bát-nhã rộn ràng vang lên đánh thức sự tịch mịch của
đêm sương. Đèn đuốc bất chợt được đốt sáng khắp đó đây.
– Thầy đã
tịch rồi!
Tin truyền
rất nhanh. Tất cả môn sinh đã tụ về lố nhố đứng cung kính, ủ rủ trước
cốc của lão thiền sư Đạo Nguyên. Không một tiếng động. Lát sau tiếng
niệm Phật hiệu thầm thì rồi lan ra, lan ra mãi. Các vị Thượng tọa cao hạ
và chức sắc quỳ thành vòng tròn xung quanh thiền sàng, chấp tay lên ngực,
có đôi vị rưng rưng như cố kìm giữ tiếng nấc.
Lão
thiền sư Đạo Nguyên không bệnh, không báo trước mà lặng lẽ ra đi. Ngài
ngồi kia, trong thế kiết già phu tọa, khuôn mặt tỏa sáng niềm an lạc,
nhưng thần thức giờ đã tiêu diêu ở cõi đầy hào quang và ánh sáng nào.
Phần
ngài thế là xong. Nhưng còn người nối hậu? Y pháp chưởng giáo ngài đã
truyền lại cho ai chưa? Đấy là câu hỏi lởn vởn trong đầu óc của mọi
người.
Không ai tìm
ra di chúc, một lời giáo huấn tối hậu nào. Thật là khó xử đây. Thượng
tọa Quản chúng một đời hỷ xả, niên trưởng và đạo hạnh. Thượng tọa Tri sự
một đời phục vụ, hạ lạp cao và vô vàn công đức. Thượng tọa Tri luật,
niên cao lạp lớn, gương mẫu cho chúng, nghiêm minh và thanh tịnh. Thượng
tọa Giáo thọ dẫu hạ lạp ít hơn chút đỉnh, trẻ tuổi nhưng một đời ít ngủ,
ít ăn, chăm lo hàng trăm lớp giảng huấn, hàng chục trình độ khác nhau;
lại nữa, là người suốt thông Tam Tạng, là linh hồn tri thức, kiến thức
cho viện.
Sau
lễ nhập tháp ba ngày, một buổi họp giới hạn được tổ chức, nơi đây chỉ
gồm các Tỷ-kheo chức sắc hoặc từ năm hạ trở lên. Bốn nhóm thân hữu, đệ
tử hoặc cảm tình với bốn vị thượng tọa tranh luận cho phe phái của mình.
Ai cũng có thể đưa ra những dẫn chứng chính đáng và cụ thể nhất.
Ban đầu thì
ngôn ngữ khiêm cung, nhã nhặn, đến lúc chẳng ai chịu thua ai, tranh luận
biến thành tranh cãi rồi trở nên sôi nổi, gay cấn, ồn ào. Một vài cánh
tay giận dữ đưa lên cao. Một vài đôi mắt đã gườm gườm bốc khói. Những
tiếng bảng mộc không ngớt vang lên.
– Chư đệ,
chư đệ, im lặng nào!
– Chư đệ,
chư đệ, chớ phóng dật, chớ quên mình!
Nhưng
vô ích. Ở đây đã có rất nhiều loại ngựa non háu đá, gà tơ mới mọc cựa…
Trong
lúc ở thiền đường xảy ra cuộc tranh luận thì ở sau hốc núi có một bóng
đen lặng lẽ luồn qua các vòm cây đến ngôi tháp mới. Bóng đen quỳ trước
cửa tháp từ canh gà đầu tiên đến lúc sao Mai vừa mọc. Y đứng dậy giũ
sương trên áo rồi lảo đảo thắp ba nén nhang. Sương mù đầy đục cả trời,
gió hiu hiu buốt lạnh. Quày qua lối cũ, đến cổng trúc vàng, bụi thục quỳ,
y dừng lại. Ánh trăng hạ tuần nhợt nhạt trong màn sương trắng. Tiếng một
con cú rúc lẻ loi. Y đưa mắt một vòng. Lát sau y quảy đãy ta bà lần theo
lối sỏi khuất dưới chân đồi.
Đấy
là Ô-chu, chàng lặng lẽ từ giã thiền viện, nhẹ nhàng, âm thầm và cô liêu
hơn cả kẻ từ giã cuộc đời. Chàng đến một động đá, trịnh trọng khoác
chiếc áo cũ lên người rồi an nhiên kiết già tịch diệt, trên môi còn nở
nụ cười bất diệt. Qua ánh sáng mờ từ cửa động hắt vào, người ta đọc được
từ lưng chiếc áo cũ mấy dòng chữ chân phương, đôn hậu, bút tích không
thể lầm lẫn của lão thiền sư quá cố:
“Y Pháp Bất Y Nhân
Y Nhân Bất Y Pháp
Nhân Pháp Liễu Mật Thâm
Mạc Cầu, Phi Thủ Trước”
Tạm
dịch nghĩa:
Nương theo pháp, chẳng nương theo
người
Nương theo người, chẳng nương theo
Pháp
Người, pháp rõ nguồn căn
Chẳng cầu chẳng ôm giữ.
(Thiền tông
đời thứ hai, Kiếm Thương hưng khởi, Đạo Nguyên Tỷ-kheo; phụng truyền đệ
tử trưởng đắc pháp đời thứ ba là Ô-chu).
Thế
là Pháp, Nhân đã cùng tịch diệt với nhau trong động đá. Cho nên hiện
nay, phái này đã không còn truyền thừa. Chuyện kể rằng một trăm tám mươi
năm sau, di tích này vẫn còn. Một thiền sư nghệ sĩ vô danh trong khi sơn
thủy hành cước ghé qua đây, biết chuyện của người xưa, xúc cảm làm một
bài thơ nét chữ long phượng, dường như còn mãi đời đời nơi vách đá:
“Thầy là đỉnh núi cô liêu ngàn đời tịch mặc,
Trò là con sông dài cuồn cuộn bỏ núi ra khơi
Còn đây áo cũ ngậm ngùi
Còn đây biển núi nụ cười an nhiên.”
Minh Đức Triều Tâm Ảnh