NGUYỆN

Sư Giác Nguyên (giảng ngày 12/10/2020)

 

Từ hôm trước tới nay chúng tôi nhận được cũng bốn hoặc năm đề nghị về các đề tài khác nhau. Có người đề nghị tôi giảng về chữ Pháp giống như bữa hổm tôi giảng chữ Duyên vậy đó. Có người đề nghị giảng chữ Tu, có người đề nghị giảng chữ Thiền, rồi có người đề nghị tôi giảng về chữ Nhẫn. Bữa nay th́ các vị đề nghị chữ Nguyện, tôi thấy cũng hay.

Thôi th́ thế này. Phật giáo Nam Tông Việt Nam đang có Đại tang là sự ra đi của Ngài Ḥa thượng Tịnh Giác. Tôi nhớ hôm qua, nh́n h́nh ảnh chư tăng trong nước ghi sổ tang, tự nhiên tôi nghĩ ra mấy câu thơ. Nếu mà là tôi th́ tôi sẽ ghi mấy câu tức cảnh này:

Rừng c̣n, cây bỏ đi đâu

Cây to trốc gốc cho rầu thiền lâm,

Cây non chửa kịp nẩy mầm

Biết chờ cho đến bao năm hở trời

“Rừng c̣n, cây bỏ đi đâu” nghĩa là PGVN vẫn c̣n đó, ngài là cây cổ thụ mà bỏ đi rồi. “Cây to trốc gốc cho rầu thiền lâm”, trong rừng cây ǵ không trốc gốc mà lại trốc gốc cây to nhất trong đó. “Cây non chửa kịp nẩy mầm”, người kế thừa như ngài cho đến bây giờ chưa có thấy. “Biết chờ cho đến bao năm hở trời”, chờ cho đến bao năm nữa mới có được một người như ngài.

Ngài có 3 điểm đặc biệt mà khi nhắc đến ngài là phải nói đến. Đó là:

- Minh bạch: cuộc đời của ngài gói tṛn trong chữ minh bạch (giới luật trong sạch, tinh nghiêm, không t́ vết).

- Khiêm nhu: ngài là người khiêm nhu. Ai đă từng tiếp xúc với ngài Tịnh Giác ở ngoài đời th́ đều biết. Chúng tôi cũng có dịp gặp ngài vài lần, đặc biệt có lần đến đảnh lễ ngài ở Bangkok, tại cái thất riêng của ngài ở trong chùa Samphraya, cũng như chúng tôi có dịp đảnh lễ nhiều bậc tôn túc, vị nào cũng đáng kính hết, có vị th́ ḿnh nh́n thấy sợ khó gần, nhưng có vị th́ ḿnh thấy gần gũi thương kính như ông nội của ḿnh, có lỗi lầm ǵ ḿnh chạy đến nói thiệt th́ ngài có cách để giúp cho ḿnh qua cơn khó đó. Có ngài th́ ḿnh sợ lắm, nhưng với ngài Tịnh Giác th́ có ǵ khó khăn tôi chạy đến gơ cửa kéo cái y của ngài.

-Ngài là ông vua Pāḷi của VN. Ngày xưa th́ có ngài Hộ Giác, nhưng ngài Hộ Giác tịch rồi. Giờ th́ c̣n có ngài Hộ Pháp. Giữa hai vị th́ chúng tôi không có dám đánh giá ai, nhưng mà thành tựu về ngôn ngữ Pāḷi th́ ngài Tịnh Giác có bằng cấp, từng là thầy dạy, từng là giám khảo các kỳ thi ở Thái. Tạm gọi, về mặt hành chánh, ngài là vị vua Pāḷi của Việt Nam.

Ngài khiêm tốn mà dễ gần lắm. Sự ra đi của một nhân cách lớn như vậy đúng là sự mất mát lớn cho chúng ta. Có nhiều dịp chúng tôi nói, có những người có mặt trên đời này chỉ là góp mặt chứ không phải là đóng góp, cho nên cái chết của họ chỉ là sự vắng mặt chứ không phải là sự mất mát. Nhưng có những người sự có mặt của họ là sự đóng góp, cho nên cái chết của họ là sự mất mát. Và tôi vẫn thường nói một câu: giá trị của một người chính là khoảng trống của người ấy để lại bao lớn, và có dễ dàng được lấp đầy hay không. Một khoảng trống nhỏ quá th́ cũng không đáng kể và một khoảng trống dễ bị lấp đầy th́ cũng không có ǵ đáng nói. Khoảng trống mà ngài Tịnh Giác để lại lớn quá, phải nói là vô bờ, và muốn chỗ trống đó không phải là dễ. Muốn lấp đầy chỗ trống, có lúc chúng ta phải xài đất, có lúc phải xài rác, và có lúc phải xài tới đá. Đá có nhiều loại: đá cuội, đá ong, đá hoa cương, đá cẩm thạch... khó lắm quí vị. Chẳng hạn như hôm nay người ta trùng tu các lâu đài, những công tŕnh kiến trúc lớn đẳng cấp thế giới như ở Ư, Tây Ban Nha, Pháp; hoặc như nhà thờ Đức Bà ở Paris chẳng hạn, khi bị hư hao th́ người ta phải đi t́m những vật liệu tương ứng để lấp vào. Khó lắm. Ví dụ như ngày xưa ở đó người ta đổ ch́, th́ bây giờ phải kiếm hàng tấn ch́ để đổ vào chỗ đó; hoặc phải đổ đồng vào đó, hoặc đá hoa cương-- loại đá nhập từ Ư về. Chúng tôi cũng có dịp đến Vatican, Vương cung thánh đường ở Mallorca Tây Ban Nha, nh́n cái nền đá của họ thấy khiếp lắm. Từng cái hoa văn sử dụng các loại đá khác nhau. Nếu bị mẻ bị vỡ th́ phải kiếm cho được loại đó, màu đó, đo cắt và lấp vào. Làm sao mà nh́n vào không thấy được sự khác biệt giữa cũ và mới. Cho nên có những khoảng trống muốn lấp đầy không phải là dễ. Sự ra đi của ngài Tịnh Giác để lại cho chúng ta khoảng trống không sao lấp đầy, ít nhất là cũng vài mươi năm sau.

Để đáp lại đề nghị của quí vị, tôi sẽ nói về chữ Nguyện trong bài giảng trưa nay mà chúng tôi đă bắt đầu khi nói về công hạnh, hành trạng của HT Tịnh Giác.

Trong Kinh Thánh Cầu, Trung Bộ Kinh, Đức Phật dạy rằng, tất cả chúng sanh ở đời này có điểm bắt đầu giống nhau. Sự xuất hiện đầu đời, th́ ai cũng vậy, dầu đó là vị Chánh Đẳng Chánh Giác hay là chúng sanh bé mọn nhất trong vũ trụ, đều có điểm giống nhau là có mặt trong cuộc đời này giây phút đầu tiên. Nhưng sau giây phút xuất hiện đầu tiên đó th́ tùy theo bản hoài, bổn nguyện của mỗi người mà chúng ta có phần hành tŕnh c̣n lại giống hay khác nhau, cao hay thấp, thiện hay ác. Điều đó nằm trong chữ Nguyện.

Cách đây bốn A-tăng-kỳ và một trăm ngh́n đại kiếp, có một vị đạo sĩ nh́n thấy Đức Thế Tôn Nhiên Đăng 32 hảo tướng, và một lượng thánh chúng đông đảo vây quanh, ngài phát bồ đề tâm, nguyện trở thành vị Chánh Đẳng Chánh Giác. Và kể từ giây phút được Đức Thế Tôn Nhiên Đăng xác nhận rằng, “con sẽ trở thành vị Chánh Đẳng Giác giống hệt như ta trong tương lai”, từ giây phút đó, ngài làm việc ǵ công đức nào cũng dồn hết cho bổn nguyện trở thành một Phật tổ tương lai.  Cho nên trong Chú giải có câu nguyện mà bổn sư chúng tôi là ngài Tịnh Sự dịch ra văn vần như sau:

Phước lành con đă tạo ra,

Các đời quá khứ hay là đời nay.

Nghiệp chưa cho quả phước nào,

Nguyện thành Pháp độ để vào thiện căn.

Sau này dù tạo mấy lần,

Từ đây cho đến vô sanh Niết bàn.

Hễ làm chuyện tốt sẵn sàng,

Những điều lợi ích thành đoàn nhân duyên.

Giúp cho phiền năo sớm yên,

Trợ mau giải thoát kế liền kiếp sau.

Nghĩa là kể từ lúc ḿnh có trí tuệ thấy được sự hiện hữu của tấm thân này trong trời đất này là một gánh nặng, là cái khổ, kể từ lúc nhận ra điều đó th́ ḿnh nguyện rằng, tất cả những công đức lớn bé nào mà con làm được, xin chuyển hết vào công đức vô lậu, phước báu ba-la-mật.

Thay v́ ngày xưa giờ con làm được việc lành ǵ để cầu danh cầu lợi, cầu quả nhân thiên, làm trời làm người, làm vua chúa công hầu khanh tướng, mỹ nhân hoàng hậu v.v..., nhưng kể từ hôm nay các công đức lớn bé từ chuyện xây chùa, in kinh, dựng tháp, nuôi dưỡng tăng chúng, giúp đỡ từ kẻ cơ nhỡ nghèo khó cho đến con chó con mèo con heo con vịt…. tất cả đều dồn hết cho bổn nguyện giải thoát. Th́ kể từ đó, tất cả công đức của chúng ta được xem là công đức ba-la-mật. Ba-la-mật từ chữ Parami. Parami = param (bờ kia/ bờ giải thoát) + i (đi đến/to go), nghĩa là Parami cũng là như mọi công đức nhưng được gọi là Parami v́ nó là nguồn động lực đưa chúng ta sang bờ giải thoát.

Nói tới chữ Nguyện, chúng ta phải nhắc đến nhiều khía cạnh để có thể hiểu sâu sắc cái chữ này. Ở chỗ này, ḿnh không kể người tật nguyền, chỉ nói người lành lặn. Lành lặn nghĩa là sinh ra có đủ mắt tai... tức là thính giác, khứu giác, thị giác, xúc giác v.v... đầy đủ. Cái điểm giống nhau giữa chúng ta là chúng ta có đủ sáu căn, nhưng có điểm khác nhau là chỗ này: tùy thuộc rất nhiều yếu tố, rất nhiều điều kiện, hoàn cảnh của mỗi người mà cặp mắt của chúng ta, lỗ tai của chúng ta thấy nghe được cái ǵ. Tôi e rằng không giống nhau.

Tùy thuộc chuyện chúng ta sinh ra trong quốc gia nào, trong cơ chế chính trị văn hóa xă hội như thế nào, chúng ta sinh trưởng trong một gia đ́nh như thế nào mà con mắt chúng ta có ǵ để thấy. Có những cái thằng Tí thấy mà thằng Tèo không thấy. Thằng Tí cả đời bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, chỉ biết śnh lầy nước đọng ruộng lúa cá tôm…; cũng sanh ra 6 căn nhưng do điều kiện hoàn cảnh mà thằng Tí chỉ biết có thế. C̣n thằng Tèo trên phố th́ được thấy “ngựa xe như nước áo quần như nêm”. Con Lan, con Cúc, con Đào, con Yến cũng vậy, có đứa chỉ là nội trợ ở nông thôn nghèo, nhưng có đứa th́ có điều kiện được biết nào Paris, Rome, London, Zurich.. để nó thấy được nghe được những thứ mà những đứa kia không có điều kiện. Điều đó ở ở đâu ra? Do bổn nguyện nhiều đời.

Tiếp theo, cùng thấy cùng nghe những thứ giống nhau, nhưng do tŕnh độ văn hóa, sở thích, khuynh hướng tâm lư, môi trường giáo dưỡng của mỗi người không giống nhau, cho nên dẫn đến cái chuyện có kẻ thích đi bảo tàng để xài con mắt, có kẻ thích đi vào nhạc viện để xài lỗ tai, kẻ thích đi vào nhà hàng ăn uống, có kẻ thích mát xa, thích chăn êm nệm ấm, có người thích dầu thơm, có người thích ṿng vàng nữ trang, có người thích nhà cao cửa rộng, người thích du lịch, người thích sưu tập bảo vật, đồ cổ. Nghĩa là cũng có 6 căn giống nhau mà tùy vào sở thích, cộng với điều kiện, cộng với tiền nghiệp của mỗi người, mà trước 6 trần cứ cho là giống nhau (cùng thấy cùng nghe một âm thnh h́nh ảnh) mà có người thích tranh lập thể, có người thích trừu tượng, có người thích tranh tả thực, có người chỉ mơ có bộ tranh đông hồ, hoặc có bộ h́nh người mẫu để treo trong nhà. Có người thích bức tranh thủy mặc, tranh sơn thủy… Cùng là thích nh́n ngắm nhưng tùy tŕnh độ. Có người chỉ thích màu trắng đen, thích thư pháp, thích tranh thủy mặc thôi. Có người th́ phải sặc sỡ ḷe loẹt màu mè mới thích. Đó là nói về chuyện thế gian.

Bây giờ nói qua đạo, trong số những người có cơ duyên gặp được Phật Pháp, do bổn nguyện nhiều đời, bản hoài sinh tử mà cách người ta đến với đạo cũng không giống nhau. Ví dụ có người đến với đạo chỉ làm một việc khấn khứa cầu nguyện, có người đến với đạo chỉ làm con mọt sách nghiên cứu giáo lư kinh điển, có người chỉ thích bố thí mà thôi.  Thấy người ta hành thiền, quăng tiền ra; thấy người học đạo, quăng tiền ra; thấy tăng ni đói rách, cũng quăng tiền ra, đại khái vậy, đời họ chỉ có bố thí mà thôi. Có người thích ngồi thiền, ngay cả khi bố thí cũng chỉ thích bố thí cho thiền sinh, hành giả, thiền sư, trường thiền thôi. Ngay cả xây dựng chùa miểu loanh quanh trong thập thiện mà có người thích phục vụ, có người thích bố thí, có người thích nghe pháp, có người thích thuyết pháp, có người thích học đạo, người th́ thích điều chỉnh tri kiến v.v...

Đó là thiện dục giới, bây giờ qua tới đáo đại -- thiền định.  

Do bổn nguyện của ḿnh mà có người đụng đâu chết đó. Đụng đâu chết đó là sao? Ngồi thiền, hồi đó đến giờ tâm lăng xăng phiền năo, bây giờ tâm nó lắng yên. Thở ra biết thở ra, thở vào biết thở vào, thở ra biết thở ra... Khi mà nó lắng đọng như vậy th́ hiển nhiên đương nhiên là an lạc. Có kẻ đụng đâu dính đó đứng đâu chết đó, nghĩa là sao? Cho đến bao giờ chưa là Thánh th́ bất cứ một giai đoạn nào th́ nó cũng chỉ là trạm dừng qua đêm thôi. Chưa là thánh nhân, chưa là Tu-đà-hoàn th́ bất cứ một thành tựu một sở đắc một sở chứng nào của chúng ta cũng chỉ là trạm dừng qua đêm. Ḿnh có là đại thí chủ bỏ bạc tỷ cúng dường th́ cũng chỉ là một trạm dừng trên con đường đưa đến giải thoát. Nhưng khổ thay, có không ít người khi thấy ḿnh đă là thí chủ đại gia th́ ch́m sâu trong đó, cái mặt hất hất kên kên. Cứ tưởng ḿnh đă đạt đến đỉnh cao của công đức. Đó là cái sai. Có người thích học giáo lư, học được ba mớ cứ tưởng đó là top, là đỉnh sau cùng của đạo nghiệp. Có người ngồi thiền nghe nhẹ nhẹ mát mát tưởng là ‘tới’ rồi, tự nhiên trở nên dễ ghét.

Cho nên, cái thiện dục giới (thiện loanh quanh liên hệ đến 6 trần, thiện liên hệ vật chất), hay thiện thuần túy tâm linh -- thiện đáo đại (thiện liên quan đến các tầng thiền định đem lại, từ Sơ thiền đến Phi-tưởng-phi-phi-tưởng) th́ cũng do bổn nguyện, bản hoài mỗi người.

Đó là nói về định. Bây giờ qua tới tuệ.

Họ thấy, họ biết, tất cả công đức, sơ ư một chút thành ra phước hữu lậu, tiếp tục quẩn quanh trong ba cơi nhân thiên, họ mới đi đến giai đoạn hai tu tập thiền Định. Cuối cùng đến giai đoạn ba là tu tập thiền Tuệ, họ “biết hết á, buông hết á, biết cái ǵ cũng đồ giả hết, nhưng riêng chánh niệm của ḿnh là đồ thiệt”. Có động trời không, cái ǵ cũng giả hết, nhưng chánh niệm của ḿnh là thiệt? ‘Thiệt’ nghĩa là đó là cái ǵ đó mà ḿnh có quyền tự đắc tự hào tự kiêu tự tôn tự đại…

Dầu có đắc A-la-hán đi nữa cũng không phải là cái ǵ để ḿnh tự đắc tự kiêu hết. Bởi v́ vị A-la-hán là người trị liệu xong xuôi một căn bệnh trầm kha nan y tuyệt chứng từ vô lượng kiếp, bây giờ các ngài uống đúng thuốc mà hết bệnh. Thử hỏi người hết bịnh th́ có cái ǵ hay để mà tự hào tự đắc. Quả vị thánh nhân mà c̣n không phải là cái để tự hào tự đắc th́ nói ǵ ba cái kết quả cỏn con, bé xíu, tí tẹo.

Tóm lại, tùy thuộc bổn nguyện bản hoài mỗi người mà chúng ta đi được bao xa. Người thích cầm nắm th́ đụng cái ǵ cũng cầm nắm. Người thích nấn ná th́ không đi xa được, chân đi mà ḷng c̣n ở lại. Bổn nguyện cao nhất của người tu Phật là hướng đến sự buông bỏ tất cả. Buông bỏ tất cả nghĩa là bỏ hết nhân xấu quả xấu. Bỏ hết nhân xấu th́ đúng rồi, nhưng nhân lành dứt khoát phải trau dồi. Trau dồi để làm ǵ? Không phải để hưởng quả lành trong các cơi nhân thiên, mà họ làm nhân lành để không c̣n sanh tử trong ba cơi sáu đường nữa. Đừng hiểu lầm: ủa nếu nói vậy th́ người hiểu đạo không hành thiện sao? Vẫn làm chứ, nhưng hành thiện không phải để cầu quả báo nhân thiên, mà là để hướng đến chấm dứt triệt để rốt ráo sự có mặt trên đời này trong bất cứ h́nh thức nào.

Chúng ta không thể nào sống thất niệm sống thiếu niệm mà hiểu được rốt ráo lời Phật. Bởi sự thật đầu tiên, quan trọng đầu tiên mà được Đức Phật đặc biệt nhấn mạnh nêu bật đó là Ngài xác định: mọi thứ ở đời là khổ. Một người chỉ học giáo lư, thuộc ḷng Tam tạng mà sống thất niệm th́ họ không có cơ hội thấy được sự thật đầu tiên mà Đức Phật đă dạy – mọi thứ là khổ. Chỉ có người sống chánh niệm, (năy thở ra bây giờ thở vô, năy đang vui bây giờ buồn, năy thiện bây giờ ác, năy dễ chịu bây giờ khó chịu…) mới có cơ hội để thành tựu trí tuệ minh sát. Trí tuệ minh sát là thấy được những ǵ Đức Phật đă dạy trong giáo lư Bốn Đế.

Ngài dạy rất rơ, mọi thứ ở đời là khổ. Bắt đầu Ngài kể chi tiết, xong Ngài tóm gọn lại. Sanh già đau chết là khổ, muốn không được là khổ, thương phải xa ghét phải gần là khổ. Nhưng Ngài chốt câu cuối mới quan trọng “saṅkhittena pañcupādānakkhandhā dukkhā.” -- sự có mặt của năm uẩn là khổ. Chỗ này quan trọng nhất, nhưng đa phần người ta nói đến khổ người ta chỉ nói đến già đau chết thương phải xa ghét phải gần… là khổ, nhưng câu chót của Ngài mới quan trọng: Sự có mặt của năm uẩn là khổ. Để thấy được cái này, phải sống chánh niệm. Phải sống chánh niệm mới thấy rằng thực ra cái ḿnh gọi là hạnh phúc sung sướng nó chỉ tồn tại đúng một sát-na rồi nó tiếp nối bằng một sát-na khác. Nếu niềm vui đó, sự sung sướng đó kéo dài th́ cũng chỉ là sự lắp ráp ghép nối của vô số sát-na tâm lư. C̣n nếu đó là nỗi khổ niềm đau, là sự lo buồn sợ hăi, đau khổ, ghen tuông, đố kỵ khó chịu v.v... th́ cũng là sự tiếp nối của vô số sát-na đau khổ. Và những ǵ mà chúng ta thấy là ḿnh hay ḿnh giỏi, cái ǵ ḿnh dựa vào đó để tự hào, tự măn, tự đắc, tự kiêu, tự tôn, tự đại… tất cả chỉ tồn tại đúng một sát-na, rồi nó được tiếp nối bởi một thứ khác. Cái ǵ ḿnh ghét sợ nhất cũng chỉ tồn tại đúng một sát-na, mà cái ǵ ḿnh thương thích nhất cũng chỉ tồn tại đúng một sát-na mà thôi. Và để thấy được cái này, anh phải sống chánh niệm. Sống chánh niệm quan trọng lắm. Làm sao có thể sống đúng như vậy? Quay trở lại, (chủ đề bài học hôm nay) phải là Bổn Nguyện.

NGUYỆN là ǵ? Nguyện là sự xác định một ước muốn trong tâm lư để tạo thành một ấn tượng tinh thần, ấn tượng tâm lư trong tương lai.  

Nguyện quan trọng lắm. Ngay bây giờ ḿnh không có khả năng đắc thiền, không có khả năng ly dục nhưng cứ nguyện. Có bốn điều nguyện quan trọng, hăy xăm lên chỗ trang trọng nhất:

1/ Đời đời kiếp kiếp, hễ c̣n sanh tử, xin cho con gặp minh sư thiện hữu.

2/ Đời đời kiếp kiếp xin cho con có điều kiện làm các công đức.

Dầu con giàu hay nghèo sang hay hèn. Hễ có cơ hội làm công đức là tự nhiên con phải có cơ hội. Đang đói như quỷ nhưng hễ gặp hiền thánh là lập tức con có được  trái chuối củ khoai trong tay để làm phước; có miếng vải nhỏ để cúng cho ngài làm tọa cụ.

3/ Nguyện cho con đời đời gặp được đối tượng đáng cúng dường, lễ bái.

4/ Nguyện cho con đời đời có được khả năng ly dục, chứng thiền dễ dàng.

Đồng ư rằng tu thiền là phải do ḿnh nỗ lực ngay bây giờ. Nhưng lời nguyện rất quan trọng. Bằng chứng là cũng chính v́ lời nguyện trở thành Phật tổ mà một vị Bồ Tát đă có được hướng đi vạch sẵn trong vô số kiếp luân hồi và cuối cùng với lời nguyện ấy, cộng với công đức dọc đường đă tạo mà vị ấy trở thành vị Phật tổ.

Trong khi đó một người thiếu bổn nguyện th́ tất cả công đức bị rời rạc rơi rớt đổ tháo hết. Quả trổ th́ hưởng quả trổ th́ hưởng, nếu có điều kiện th́ làm thêm công đức mới, bằng không th́ cứ cắm đầu làm xấu làm bất thiện. Riêng người có bổn nguyện th́ cứ đời đời sanh ra họ bắt được tần số, làn sóng của hiền thánh, của minh sư thiện hữu.

Làm cách nào ḿnh có thể xài iPhone, iPad của người ta? Phải có password. Dù gần gũi cách mấy mà không có password passcode th́ chịu thua, không có vào được máy của họ. Ở đây cũng vậy, tất cả hiền thánh ra đời là ḿnh phải có password của họ, để chi, để nghe họ nói ḿnh hiểu. Trong những năm tháng tôi đi dạy học, tôi thấy có biết bao nhiêu người ḿnh giảng rách cổ họng mà họ không có cách nào hiểu được. Trong khi có thằng Tèo thằng Tư ḿnh chỉ nói qua một lượt là hiểu, giống như ḿnh nói chuyện với họ tám kiếp rồi, nói qua một lần là hiểu. Khi người không hiểu hỏi lại, tôi chỉ thằng Tư thằng Tèo nói giải thích cho họ đi, tôi không có siêng nữa. Nhiều khi học thầy không tày học bạn là vậy đó, cái duyên nó không có cho phép.

Rất nhiều người không chịu nổi sự thật này: có mặt trên đời này là khổ. Họ nói nếu có mặt mà giàu, giỏi, đẹp th́ đâu có khổ. Nói cạn lời với họ mà họ không có hiểu. Tôi cho ông đẻ bọc điều, gia đ́nh tỷ phú, có ăn học, thu nhập cả trăm triệu, sống 98 tuổi. Nhưng ông tưởng tượng trong 98 năm đó giây phút ông vui được bao nhiêu. Năm ông 98 tuổi ông có c̣n biết là ông mấy tuổi, ông tên ǵ không? Có ông đó 98 tuổi, trong nhà hay ra đường ổng cũng đều kêu vợ là Honey, Sweet Heart. Bạn bè con cháu hâm mộ lắm. Cụ ông 98 cụ bà 95 mà mấy năm naylúc nào cũng gọi nhau là Honey, Honey (cưng). Một ông bạn nói, tuổi này mà ông c̣n kêu bả là Honey sao. Ông 98 nh́n quanh quất rồi nói nhỏ: tui quên tên bả rồi, kêu Honey cho chắc ăn.

Quí vị thấy chưa, đời sống như ư rồi đó, nhưng đến 95 tuổi rồi th́ ra làm sao. Đó là giải thích cho cái đầu toàn đất sét, chứ thật ra trong kinh nói, chỉ cần anh sống chánh niệm, tại đây ngay bây giờ (right here right now) sẽ thấy.

Nói về cái thân, cái thân này là gánh nặng. V́ có thân này mà nó có chuyện ngồi lâu nó mỏi, nó tê, nó nhức; v́ có thân này mà nó ngứa, nó nóng, nó nực; v́ có thân này mà nó có đói khát, có tiêu tiểu. V́ có thân này mà nó có chuyện đi lâu mỏi chân, nằm hoài quẩn chân. V́ có thân này mà nó mới kéo theo bao nhiêu hệ lụy khác trong cuộc đời trần ai khoai củ này. Khi anh thất niệm th́ anh sống như là một đứa bé, anh không biết cái ǵ hết. Anh cứ chăm bẵm, nghĩ cái ǵ đến cái anh thích, anh quên cái chung quanh, anh thấy đời là hạnh phúc. Nhưng nếu sống chánh niệm, anh không đi t́m cái thích, không trốn chạy cái ghét, anh sống chánh niệm với bản thân anh tại đây bây giờ, anh coi cái ǵ đang diễn ra trong thân này.

Nói về cái tâm. Trong một ngày anh ngủ 8 tiếng th́ c̣n lại 16 tiếng. Trong 16 tiếng anh thức, có bao nhiêu giây phút anh vui? Toàn là stress. Cái này làm cho anh vui, cái kia làm cho anh buồn, cái nọ làm cho anh giận, anh căng thẳng. Đó là chưa nói tới cái thiện, chỉ nói tới cái vui thôi. Chưa nói tới nhân lành, chỉ nói tới cái quả lành thôi, trong 16 tiếng anh thức anh vui được bao nhiêu phần trăm thời gian trong tổng thời gian?  Trong 16 tiếng anh vừa đau khổ, vừa bất thiện. Đó là nói một ngày. Một tháng cũng cứ vậy mà tính. Một năm, một thập niên cứ như vậy mà tính. Cuối cùng là một đời, anh sống 80 tuổi, anh trừ ra giây phút mà anh đau khổ, anh sợ hăi, anh căng thẳng, anh nhức đầu, anh toan tính, anh lên máu đau tim cho ba cái chuyện t́nh cảm, tiền bạc, xă hội, quyền lực… anh vui được bao nhiêu? V́ ḿnh u mê quá, ḿnh rất là gần với con thú, cho nên ḿnh cả ngày chỉ nhắm đến chăm bẵm cái ḿnh thích. Cà ngày cứ trốn khổ t́m vui, trốn chạy cái ḿnh ghét, đi t́m cái ḿnh thích. Tại sao ḿnh làm được chuyện này? Tùy căn cơ, bản hoài, bổn nguyện của ḿnh.

Có ba cái quyết định cuộc sống của quí vị: tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lư, môi trường sống.

Tiền nghiệp tức nghiệp thiện ác tạo ra trong nhiều đời.

Khuynh hướng tâm lư quan trọng lắm. Có người thích buông cái này bắt cái kia, thích cầm nắm sở hữu. Nhưng có người bẩm sinh sợ cầm nắm. Tôi không nói thánh nhân ở đây, nói thánh nhân th́ cao siêu quá, tôi nói đến phàm phu. Ḿnh thấy có nhiều người hạnh phúc v́ có nhiều cái trong tay. Đi shopping mà tay cầm càng nhiều th́ càng sướng. Nhưng có người đi phố mà cái tay rảnh họ mới sướng. Có người có dịp xài tiền thấy sướng, có người th́ tiết kiệm được là thấy sướng.  Có người thấy cái nhà đầy ắp những thứ ḿnh thích th́ mới sướng, nhưng có người mà cái nhà trống lổng mới là sướng. Có người chỉ khoác cái jacket là đă thấy dư rồi. Trời lạnh phải khoác thôi chứ họ chỉ muốn mặc tà lỏn áo ba lỗ thôi. Có người th́ phải khoe mũ, hoa tai, nhẫn, dây chuyền,  kính, đồng hồ, khăn choàng giày dép dây nịt… hàng hiệu, phụ kiện càng nhiều th́ càng sướng

Trong đạo cũng vậy, có người chỉ mong một ngày đừng có đói, chỉ cần cái b́nh bát thôi, tối ngủ đừng có lạnh là thấy hạnh phúc. Nhưng có người th́ mong phải có đạo nghiệp xênh xang. Phải có chùa miểu, có đồ chúng, phải có những cái thành tựu mà mắt có thể nh́n thấy được th́ họ mới cam tâm. Mà đó là các vị cao tăng đó nghen. Có người chỉ mong sau khi chết không có bỏ lại cái ǵ sau lưng hết, không có ǵ để tiếc nuối, không có ǵ để sợ mất, đối với họ đó là hạnh phúc.

Như vậy đó, có người  mong sở hữu nhiều, có người mong trụi lủi, không nói là ai khùng đâu nghen. Đó là khuynh hướng tâm lư. Có hai kẻ đi phố, có kẻ đi với cái tay rảnh th́ càng thấy sướng, có kẻ ra phố về mà hai tay xách càng nhiều th́ càng sướng. Trong đạo nghiệp tu hành trong đời sống tâm linh tinh thần cũng y hệt như vậy. Có kẻ thích cầm nắm, có kẻ thích buông bỏ, với hai khuynh hướng tâm lư này, trên đường luân hồi đương nhiên dẫn đến hai hướng hành động khác nhau. Một kẻ suốt đời luôn tập chú vào cầm nắm sở hữu, kẻ th́ buông, buông được bao nhiêu tốt bấy nhiêu.

Trong kinh có nhiều chuyện thú vị lắm. Có vị tỳ kheo đệ tử Đức Phật sống chỉ có tam y quả bát, khi bị bệnh người ta cúng dường thuốc men, chỉ dùng cho hết để mà buông. Lần đó, chỉ v́ đang bị bệnh mà phải cầm một túi thuốc đi trên quăng đường một do tuần, vị đó nói với sư bạn: Tại cái thân này mà tui phải cầm cái cục nợ này. Trong khi có những vị th́ y áo thực phẩm phải giữ đến mức luật phải cấm. Không phải khơi khơi Đức Phật cấm, mà v́ người ta giữ dư quá nhiều nên phải cấm. Trong khi vị này chỉ cầm có một túi thuốc, cho maximum là khoảng một hai kư thuốc, đi có quăng đường thôi mà chịu không nổi, bận tay quá. Thuốc chữa bịnh cho ḿnh, bản thân ḿnh cũng đang bị bệnh, mà chịu không nổi.

Có một kiếp quá khứ, Bồ Tát Thích Ca Mâu Ni là vị vua ở vương quốc rộng lớn lắm, giống như VN vậy đó. Ngài chán đời ngài đi tu. Có một ông vua láng giềng của một nước nhỏ hơn, như Laos hay Cambodia so với VN vậy đó, thấy vậy cũng bỏ ngôi đi theo Bồ Tát tu chung luôn. Đất nước của ngài mà ngài bỏ, sá ǵ vương quốc của tôi. Ngài là sư huynh là tiền bối, là đại ca luôn. Hai người tu trên núi, tứ bề thiếu thốn toàn tập. Trên đó làm ǵ có đồ ngọt, chỉ phá tổ ong thôi. Làm ǵ có muối, làm ǵ có giấm, làm ǵ có kim chỉ… Chỉ có hoa trái củ rể thôi. Hai huynh đệ tu ít lâu trên núi, lâu lâu Bồ Tát đưa sư đệ đi xuống phố đi bát. Thiếu chất, nên xuống phố đi bát, để cơ thể quân b́nh trở lại. Xuống phố ít lâu rồi hai anh em dắt nhau về núi. Trên núi làm ǵ có muối. Trong lúc đi bát dưới phố được người ta cho túi muối. Ông sư đệ, vốn là vua nước nhỏ, nhớ những ngày tháng không có muối, nên cất túi muối lại, coi nó như báu vật. Bữa đó, hai anh em đi hái trái rừng về ăn, đang ăn th́ sư đệ nói: huynh chờ chút lấy muối ra. Cái này phải có muối mới dễ ăn. Thấy vị sư đệ đem muối ra, túm muối có chút xíu, nhưng sư huynh nghiêm mặt: Ở đâu mà sư đệ có muối này? Sư đệ mới nói, bữa hổm xuống núi có người cho túm muối nên đệ cất lại một miếng đem lên đây. Bồ Tát mới nói một câu thế này: Cả vương quốc đệ bỏ được vậy mà có túm muối này đệ bỏ không được.

Đang giảng pháp, tôi đem kinh ra nói, chớ tôi không hề kêu gọi quí vị bắt chước Bồ Tát triệt để rốt ráo như vậy. Nhưng tinh thần câu chuyện rất là sâu. Nghĩa là, người có khuynh hướng buông th́ cái ǵ họ cũng buông hết. Đối với họ th́ chuyện sở hữu một cái ǵ đó là gồng gánh mang vác khiêng khuân. Trong khi đó, những người có khuynh hướng thích cầm nắm th́ khi tay không có ǵ là họ thiếu. Nhưng người có khuynh hướng buông bỏ th́ khi tay không cầm ǵ th́ họ rảnh. Đó là do bản hoài, bổn nguyện nhiều kiếp của họ.

Trong đạo cũng  vậy, người thích cầm nắm th́ đụng đâu dính đó. Làm được tí công đức là dính trong đó, nghe được tí pháp là dính trong đó, thiền được tí là dính trong đó, chánh niệm một tí là dính trong đó, định tâm một chút là dính trong đó. Lẽ ra họ phải nhớ một chuyện thế này: đi toilet là phải xài giấy, c̣n không nữa th́ phải xài nước. Xong việc rồi, ra khỏi toilet th́ nước ấy và giấy ấy ḿnh phải quên mất nó đi. Không có ai rửa xong, xài xong th́ đem ra ngoài cất. Xài xong th́ liệng bỏ. Tất cả chỉ là ‘phương tiện giả nhất thời chi dụng’. Đă là phương tiện th́ chỉ xài nhất thời lúc cần thiết mà thôi. Tất cả những ǵ chúng ta kiếm t́m sở hữu và sử dụng trong đời sống dầu là vật chất hay tinh thần chỉ là phương tiện nhất thời, chỉ là chiếc bè để qua sông. Qua sông rồi th́ phải bỏ. Ai từng mua vé xe bus, xe điện, xe farm, máy bay, tàu thủy th́ biết, cái vé chỉ có giá trị khi chúng ta c̣n trong hành tŕnh đó. Khi đă rời khỏi phương tiện đó rồi th́ tấm vé đó không có giá trị nữa. Đời sống này là vậy đó, chỉ là một tấm vé mà thôi. Nhiều người không hiểu ra cái này. Tôi ở Thụy Sĩ bị cái này hoài, coi đồng hồ c̣n có bốn phút là chuyến tàu ḿnh cần sẽ tới, vậy mà nguyên đám đông xếp hàng, vô office th́ một đống người ở trỏng, chạy ra máy th́ đông quá mà có người đang cà rờ cà rờ. Giờ đó mà ngồi t́m từng đồng xu để nhét vô máy. Chết rồi, trời đất ơi, hết giờ rồi. Nhiều lần v́ mấy người cà rờ cà ṃ đó mà tôi phải trễ chuyến tàu. Có nhiều khi mua được cái vé vừa cầm th́ tàu đă tới rồi. Muốn đứng tim, lên máu vậy đó. Dù trễ một chút đâu có chết đâu, nhưng cái tâm lư người đi tàu ở Thụy Sĩ kỳ lắm. Cái chuyến này đi hụt th́ đi chuyến sau, vậy  mà cứ phải đi càng nhanh càng tốt. Mà đi đường về núi th́ cũng chỉ ngồi nh́n trời nh́n đất thôi nhưng mà phải đi chuyến sớm. Mua cái vé mệt muốn chết luôn, mà lúc lên tàu chỉ có một việc thôi, chờ người soát vé tới và họ bấm. Trước khi họ bấm th́ không dám liệng. Họ bấm xong rồi th́ ḿnh thấy, trời đất ơi, chỉ v́ giá trị chỉ ba phút đến 5 phút mà hồi năy ḿnh muốn đứng tim giờ th́ cái ông soát vé bấm một cái là xong. Tất thảy những cái ǵ gian lao khó nhọc mà ngài Tịnh Giác, ngài Hộ Pháp đă trải qua, quí vị nghe được là điếng hồn thôi. Xứ lạ quê người, ngôn ngữ bất đồng, đụng chuyện không biết nhờ ai. Học hành khó nhọc gian lao. Xứ người mà! Đến khi trở thành một bậc ‘chuyên gia’, thạc học bác lăm th́ tuổi già ập tới. Lúc đó nh́n lại, tất cả chỉ là tấm vé thôi. Ngài Tịnh Giác vừa rồi là ngài mới xé vé liệng rồi đó. Giờ th́ ngài qua kiếp khác là mua cái vé khác cho chuyến tàu mới. Dĩ nhiên ở đây tôi đâu có nói hết từng sự việc, học mấy chục năm ở nước người mà. Chỉ riêng cái khoản đi t́m đất Kalama, mấy lần qua kư tên, qua coi thầy thợ, mỗi lần như vậy biết bao nhiêu là gian truân. Khi nào có khóa tu th́ mới có người đi chợ nấu ăn, c̣n bây giờ th́ nhờ những người đi chung trong đoàn, được mấy mống thay phiên nhau. Đi bộ trong kalama ra ngoài cái thác, coi thử người ta bán cái ǵ, nếu không có th́ phải đi xe ôm ra ngoài chợ. Không xa nhưng cũng phiền lắm. Tôi cho ḿnh cực cái Kalama ba năm là maximum, nhưng ḿnh đă qua được một năm rồi, c̣n hai năm nữa. Vậy mà c̣n ngán, huống chi là các ngài, hai mươi năm như vậy, cực biết chừng nào. Lúc ngài Tịnh Giác lấy được cái bằng chứng chỉ Pāḷi tạm gọi là top, dù là lớp 8/9 nhưng tŕnh độ của ngài là ngài c̣n làm giám khảo chấm cho mấy vị lớp 9 được. Bởi v́ ngài là lớp 8 thâm niên công vụ, thượng sĩ già. Nhưng mà v́ học tài thi phận, cuối cùng người ta nản quá, người ta thỉnh ngài đi làm giám khảm cho lớp 9 luôn. Giỏi Pāḷi đến mức như vậy. Ngài viết lách, đọc hiểu như một vị tỳ kheo đương thời Đức Phật, không có trở ngại trong tiếng Pāḷi. Khổ một chỗ, ngài mê học, học tới lúc ngài muốn ngừng lại để tu thiền để dịch kinh th́ tuổi già ập tới. Ngài về nước ngài tiếc công nên ráng dịch lại một số. Có in ra rồi, chẳng hạn như ngài muốn dịch lại Trường Bộ Kinh, ngài đang làm lại một số bài th́ ngài bịnh rồi mất luôn. Tất cả những cái đó đều là tấm vé thôi quí vị.

Nhưng mà không sao, ngày nào chưa chứng được Tu-đà-hoàn ( tôi không nói A-la-hán mà nói Tu-đà-hoàn, quả vị dự lưu, đă đặt chân lên đó th́ không chóng th́ chầy cũng chấm dứt sanh tử thôi), th́ ngài lại tiếp tục cầm cái bổn nguyện của ḿnh để đi. Cứ mỗi kiếp sanh ra lại mua một cái vé. Cái vé đó bao nhiêu tiền th́ khó nói.  Sanh ra trong gia đ́nh Thái Lan, gia tư sản nghiệp ngon lành, có cha mẹ lo lắng, bịnh đau có người chăm sóc, muốn học trường nào thầy nào, gơ cửa nơi nào gia đ́nh lo hết, th́ tấm vé đó rẻ. Ngài Tịnh Sự ngày xưa qua bên đó gian khổ trăm bề, may nhờ có bà Phật tử mà chắc cũng túc duyên tiền kiếp, bà đứng ra lo cho mọi chuyện ốm đau bịnh họan. Khi ngài đậu thủ khoa A-Tỳ-Đàm rồi th́ bà nói thẳng, ngài không tu nữa th́ con gái của bà là của ngài. Ngài lạnh gáy ngài vọt về nước luôn. Ngài Hộ Nhẫn cũng vậy, cô công chúa Miến Điện cũng thương ngài lắm, nhưng thấy không xong là ngài bỏ về nước. Mỗi vị phải có một bổn nguyện để theo đuổi.

Tu là buông. Nhiều người nghe thấy chữ ‘nguyện’ nghĩ là nặng lắm, nguyện là phải cưu mang. Không phải. Nguyện là sự chọn lựa. Không đi đường này mà là đi đường này. Khi khuynh hướng tâm lư của ḿnh là buông bỏ không phải cầm nắm th́ ngay trong đời sống vật chất, ngay trong quả lành hay quả xấu ǵ ḷng ḿnh cũng buông rồi. Hăy nhớ rằng khổ đến mấy cũng vô thường vô ngă, sướng đến mấy cũng vô ngă vô thường. Đây là nói về quả (quả thiện quả ác).

C̣n nói về nhân, làm được bao nhiêu cũng hăy nhớ đây là cái vé để đi đ̣ thôi. Dầu là tu tập thiền định hay tu tập tuệ quán cứ luôn luôn nhớ rằng chưa chứng thánh th́ mọi nỗ lực lánh ác hành thiện chỉ là nỗ lực mua vé thôi. Năy có nói rồi, mua dễ cách  mấy hay mua khó cách mấy cũng chỉ là cái vé, bước xuống tàu rồi là xong.

Tùy thuộc bản nguyện của ḿnh mà ḿnh có thiết tha làm thiện lánh ác hay không.

 Tùy thuộc bản nguyện của ḿnh mà kiểu tu tập không giống nhau.

Chính v́ kiểu tu tập không giống nhau cho nên ngày chứng thánh chúng ta cũng chứng thánh trong một điều kiện hoàn cảnh môi trường không giống nhau. Chứng thánh được là tốt rồi, nhưng có điều, có điều kiện vẫn tốt hơn thưa quí vị. Có người sanh ra thông minh bằng trời nhưng ốm đau dặt dẹo. Có người thông minh bằng trời nhưng cực nghèo. Có người giàu nứt đố đổ vách nhưng cái đầu chậm quá. Cứ như vậy được này thiếu kia làm sao tu. Cái đầu chậm quá làm sao tu, đói rách tả tơi cũng khó tu. Đồng ư người xuất gia không sở hữu tài sản, nhưng giữa hai vị tỳ kheo, người có phước vật chất là thấy khác. Tự nhiên nó khiến, vị này không có t́m kiếm, nhưng tự nhiên nghiệp đẩy đi đến chỗ nào đó được sinh hoạt thoải mái vật chất, hoặc cứ ở yên một chỗ nhưng tự nhiên có kẻ t́m tới để hộ tŕ hỗ trợ. C̣n người thiếu phước vật chất rồi th́ tự nhiên nó khiến cho ở cái chỗ thiếu thốn tùm lum, hoặc là ở chỗ ngon lành mà không được sự ḍm ngó chăm sóc của người khác. Tôi thiếu cái phước đó, thiếu một cách đặc biệt. Tôi xuất gia từ ngày mười chín tháng hai năm tám mươi tới giờ mà tôi bị cái nghiệp ǵ ngộ lắm. Bên VN, khi Phật tử cúng dường cái ǵ đó mà không đủ chia cho mấy ông sư th́ có hai cách giải quyết: xài chung, ví dụ như gói trà, hộp sữa, xà bông. Có cái phải chia như dao cạo râu, khăn mặt khăn tắm. Lúc đó phải bốc thăm. Tôi thường xuyên liên tục mười lần tôi trật hết chín. Có người nói cái trán tôi đen, hăm tài, xui lắm, c̣n có nốt ruồi sát phụ sát cha nữa. Tôi nghèo từ hồi nhỏ, bây giờ yuổi này đối với tôi khái niệm giàu nghèo không c̣n nữa, nhưng có cái xui, người mà ghét tôi th́ chửi tôi không c̣n nước non nào, c̣n người thương tôi th́ đi đồn, giờ ổng có tiếng rồi chắc ổng giàu. Cuối cùng rồi tôi tiếp tục tôi nghèo nữa. Tôi nói ra không phải để bà con thương bà con cho. Bao nhiêu thí chủ hứa cho tiền in sách, thế rồi rút. Hứa cho tiền Kalama, rồi cũng rút. Cái nghiệp tôi xui đến mức mà lây qua Kalama luôn. Nếu đổi ông khác th́ Kalama cất lên thành chùa tháp vàng rồi. Mà tôi có lợi lộc ǵ đó đâu, tôi chỉ là founder thôi. Đâu có làm trụ tŕ ở đó đâu. Người khác về làm giám quản ở đó chớ tôi ở châu Âu mà. Đó là nói về phước vật chất. C̣n nói về sức khỏe, tiên thiên (sức khỏe bẩm sinh từ trong bụng mẹ) của tôi tệ lắm. Tử vi nói tôi tướng tinh con thỏ xương con gà. Nhút nhát, xương xẩu nhỏ xíu gầy yếu lắm. Ở tuổi này năm tấc tôi không dám nhảy, sợ găy xương. Nhưng có cái may năm nay 50 tuổi tôi chỉ bị trục trặc một lần là đi mổ sạn thận thôi chứ không bị như mấy bạn bè tôi. Nhiều ông mập ú mà bị mấy bịnh kỳ lắm: chảy máu cam, cao máu, bị viêm xoang, bị bao tử triền miên. Một sư bạn lớn hơn tôi hai tuổi bị táo bón từ 15, 17 cho tới bây giờ. Phải dùng tay móc là chuyện b́nh thường. Biết nhau từ năm 80 tới giờ. Vị đó bây giờ hoàn tục rồi, một lần đi vệ sinh là khổ. Sau này tôi về Mỹ có biết, có một gia tộc đó hồi đó bị nghiệp bỏn xẻn hay sao mà táo bón nguyên cả ḍng luôn. Đối với họ chuyện đi vệ sinh khó dữ lắm. Tôi may mắn không bị bệnh ǵ hết, chỉ một lần đi mổ kidney stones sạn thận thôi. Tôi cầu từ đây tới ngày tôi đi th́ đừng có bị nữa. Nó không chọt lỗ th́ nó cũng rạch đường. Có ba cách: chọt lỗ, rạch đường, luồn ống. Lúc gây mê th́ không sao, tới lúc lấy ra th́ thấy mười hai cái mặt trời nằm ngang.

 Cho nên, tùy thuộc kiểu tu của ḿnh, tùy thuộc khuynh hướng tâm lư, tiền nghiệp của ḿnh, ḿnh vận dụng linh động ra sao để có cái nền tảng tâm thức như thế nào đó, rồi từ cái nền tảng tâm thức đó ta tu tập theo đường hướng không giống ai, nặng cái này, coi nhẹ cái kia. Chính v́ không giống nhau nên hành tŕnh tu chứng không giống nhau. Hành tŕnh tu chứng không giống nhau th́ giây phút thành tựu quả chứng cũng không giống nhau.

Có người sanh ra giỏi cực kỳ nhưng mà bịnh, có người giỏi khỏe mà nghèo, có người giỏi giàu mà cái đầu chậm quá v.v... . Cứ như thế thiếu một trong đó làm sao mà tu. Trong đời tôi, từ năm 80 đến giờ tôi gặp được đủ hết. Có người thiếu cả ba, có người được hai trong ba, có người được một trong ba, có người ngon lành cả ba. Được cả ba th́ sướng rồi. Nhưng những vị một trong ba hai trong ba th́ ngao ngán lắm. Có vị bị suyễn, sau hoàn tục và qua đời rồi. Trời đất ơi, ở miền Đông chùa nghèo, nhờ ổng mà tôi biết cái thuốc Cortidasmyl. Trên rừng làm ǵ có thuốc, cho nên có bao nhiêu tiền bạc khi về gia đ́nh ổng mua một túi. Khi lên cơn ổng ngồi chống cái tay thở nh́n như tượng nhân sư ở Ai Cập vậy. Môi tím, mặt tái mét, con mắt thất thần c̣n tṛng trắng thôi mà thở không được. Quơ tay kiếm thuốc nuốc cái ực lát sau mới thở lại b́nh thường. Ông th́ táo bón, ông th́ viêm xoang ngồi gần nghe mùi. Có vị th́ sức khỏe tốt nhưng điều kiện vật chất th́ túng … huyền thoại luôn. Có vị th́ cái đầu chậm. Nghe chỉ là ngồi nghe, vô lớp là ngủ. Vậy mà khi nghe nói đi đào đất làm cỏ th́ tỉnh như sáo. C̣n vô lớp nh́n thầy nh́n bạn nh́n bảng là con mắt sụp liền. Nói cách ǵ cũng không nhớ, đến nỗi coi việc học là cực h́nh tra tấn. Trong khi đó có những người hiếu học, họ coi việc học là diễm phúc là đặc quyền đặc lợi sung sướng. Có người nghe nói tới học là mặt tái mét luôn, thà đi chăn trâu móc củ co củ súng chớ nghe học là sợ lắm. V́ sao vậy? V́ tiền nghiệp, khuynh hướng tâm lư nó dẫn đến sự sai biệt đó trong cuộc đời của mỗi người. Rồi đến lúc gặp Phật pháp, tu học cũng vậy. Tất cả do bổn nguyện mà ra. Kinh nói. Kinh Appadana Tam Tạng cuốn 32, nói rằng tùy sở thích của mỗi người. Sở thích từ đâu nó ra? Xin thưa, từ nhiều nguồn: Do ḿnh cảm nhận cuộc đời này ra sao mà nó h́nh thành chỗ ghét và chỗ thích không giống ai. Từ đó cái nhu cầu của ḿnh không giống ai. Tới lúc gặp Phật th́ cái nguyện vọng không giống nhau. Có người gặp Phật th́ họ chỉ mong giải thoát sanh tử. Có người mong muốn trở thành nhân vật đệ nhất biệt hạnh nào đó (thần thông, thiên nhăn, tŕ luật, thần thông, đầu đà…). Trong các biệt hạnh, nếu phải lựa th́ tôi thích cái biệt hạnh nào nó mềm mềm chút. Như là đệ nhất trí tuệ, đệ nhất thần thông, đệ nhất tài lộc, đệ nhất thiên nhăn chớ c̣n có nhiều đệ nhất kỳ lắm, như đầu đà, phấn tảo… khổ lắm, nghe không khoái. Nói vậy thôi, riêng tôi không xin đệ nhất ǵ hết, , chỉ xin gặp Phật ḿnh đắc Tu-đà-hoàn là được rồi, đắc xong chết luôn cũng được. Oải quá rồi. Không biết sắp chết hay sắp đắc mà càng lúc tôi càng thấm khổ sanh tử, khổ già, khổ bệnh, muốn không được, thương phải xa, ghét phải gần. Chưa kể khổ sa đọa. Như mấy con giun con trùn trong đất trong cống rănh biết chừng nào mới lên hả trời. Rồi th́ mấy con vi sinh, yếm khí sống chỗ thiếu oxy, hay như mấy con hàu bám trong đá, tôi nh́n mà ngán quá. Chui vào trong đó biết chừng nào mới trở lên làm người. Một ngàn Phật ra đời cũng chịu thua. Đâu khác ǵ gỗ đá. Chưa kể trong kinh kể có những loài như loài yểu mệnh. Sáng sinh chiều chết. Có những loài vi sinh mắt thường không thấy cứ sanh ra rồi chết, sanh rồi chết, không biết bao nhiêu ngàn tỷ kiếp sống mù mịt tăm tối. Khi được làm người th́ phải bao nhiêu lần sinh ly tử biệt, chốn giang đầu nhỏ lệ khóc đưa nhau. Thương người ta mà phải nh́n người ta ôm cầm sang thuyền khác. Thương người ta mà phải nh́n người ta đau bệnh tai nạn trước mặt ḿnh mà ḿnh cứu không được. Thương người ta mà ḿnh phải gạt lệ đi để họ ở lại… đủ thứ khổ trong cuộc trầm luân khổ ải này.

Cho nên, tùy bổn nguyện của ḿnh, nếu c̣n muốn nấn ná nắm níu th́ ok cứ quẩn quanh ít lâu, c̣n sợ quá t́m cách đi cho mau lẹ. Chỉ có pháp môn Tứ Niệm Xứ, phải chánh niệm. Nhưng phải học giáo lư. Sống chết ǵ cũng phải học giáo lư rồi sống chánh niệm. Từ từ một ngày hai ngày, một tuần hai tuần, một tháng hai tháng… sẽ có một ngày chánh niệm mạnh th́ trí tuệ phân tích nó sẽ trào ra. “Trí phân tích” ấy nói đơn giản là “hiểu ra”. Chỉ sống chánh niệm cộng với kiến thức giáo lư. Đừng quán chiếu danh sắc ǵ mệt lắm. Đang đi biết đi, đang rửa chén biết rơ đang rửa chén. Lúc đó có một tâm trạng nào lướt qua th́ biết đây là tâm tham, đây là tâm sân… Khi không có ǵ nữa quay trở lại với sinh hoạt chính của ḿnh: đang đi, đang mở cửa, đang găi, đang đánh răng… Lúc nào ngồi được th́ ngồi. Xếp cái chân vô biết rơ ḿnh đang ngồi. Rồi theo dơi hơi thở. Thở ra biết là thở ra, thở vào biết là thở vào. Chỉ quan sát chứ không điều khiển, không can thiệp. Để cho hơi thở tự nhiên đi ra hết mức, đi ra hết mức th́ nó đi vào, đi vào hết mức th́ đi ra. Chỉ thuần túy quan sát một cách khách quan, trung thực. Có như vậy th́ mới có cơ hội thấy ra sự có mặt của ḿnh khổ trong từng phút. Vấn đề là hên xui. Nếu bổn nguyện của anh tệ quá th́ anh nghe cái pháp môn này anh nản, chẳng thấy có ǵ thú vị. Nhưng nếu anh có duyên lành ba-la-mật th́ anh thấy rằng không có một đời sống nào hay hơn đời sống của một hành giả Tứ Niệm Xứ: làm ǵ biết nấy. Trong kinh ghi rất rơ vị A-la-hán giống hệt thiền sinh ở điểm là chánh niệm liên tục, làm ǵ biết nấy. Khi các ngài nhập thiền quả Phala samāpatti an trú trong niềm an hưởng quả vị niết-bàn th́ không nói, b́nh thường th́ các ngài chỉ sống chánh niệm làm ǵ biết nấy luôn luôn và luôn luôn. Ngài đâu c̣n phiền năo nào để trừ. Ngài không phải cố gắng chánh niệm, mà lúc đó chánh niệm là đời sống duy nhất ngài không thể sống khác.

Chánh niệm có những điều đặc biệt: Buổi đầu th́ nó là cái ǵ đó ḿnh phải nỗ lực cố gắng mới có. Bước hai, lâu dần nó trở thành vốn sống tự nhiên, ḿnh chánh niệm một cách tự nhiên và an lạc với nó. Bước ba, bước quan trọng, nó trở thành nền tảng để trí tuệ làm việc. Ngày xưa đi biết là đi, bây giờ đang đi ḿnh biết tâm sân đang có mặt, ḷng ganh tị đang có mặt, ḷng sợ hăi đang có mặt, ḷng bủn xỉn đang có mặt… chính xác đến như vậy. Khi anh biết như vậy th́ tự nhiên anh hiểu thêm được những chuyện khác: Tất cả những cái này đều là khổ. Bất cứ niềm đam mê nào dầu là thích giữ lại hay muốn thoát ra khỏi cảm giác này đều là tham, là tập đế. Muốn hết khổ th́ đừng thích trong khổ đế nữa. Ba nhận thức này cộng lại chính là con đường thoát khổ. Lúc đó, cái hiểu này không phải là do ông thầy nói hay do ḿnh đọc trong sách, mà nó chính là do tự thân ḿnh bật ra hiểu. Cái hiểu đó không bằng trí tuệ phàm phu mà là bằng trí tuệ thánh nhân. Nếu đó là trí tuệ Tu-đà-hoàn th́ lúc đó ḿnh đă là vị Sơ quả. Vượt qua khỏi giai đoạn Sơ quả, chứng Tam, Tứ quả là chuyện của ngày sau.

Ở đây không có cái ǵ gọi là sát trừ phiền năo mà là sự thay thế. Hồi đó giờ nh́n cái đó ḿnh thấy nó hay, ngon, dở, đẹp, xấu… Ḿnh nh́n nó để ḿnh thấy thích hay là ghét. Nhưng bây giờ ḿnh thấy nó là cái ǵ đó đang sanh diệt. Hồi đó giờ qua cách nh́n của ḿnh ḿnh thấy đây là người thân, đây là kẻ thù, đây là thơm, đây là thối, đây là cái ḿnh thích đây là cái ḿnh ghét… Nhưng lúc chứng quả Tu-đà-hoàn th́ vị ấy thấy rơ ràng đây là năm uẩn, không phải là cái ǵ đó gọi là tôi hay của tôi, mà đơn giản chỉ là pháp thôi. Pháp hiện hữu, Pháp vận hành, không hề có nam nữ già trẻ đẹp xấu. Vị ấy thấy rằng mọi thứ chỉ là những hiện tượng tâm sinh lư tùy thuộc vào các điều kiện mà chớp tắt sinh diệt chớp tắt sinh diệt. Chỉ với cái thấy đó vị ấy mới buông được cái thương thích, cái ghét sợ. Không sống chánh niệm th́ làm ǵ có cơ hội để thấy rằng ḿnh chỉ là chớp tắt. Chưa biết đạo ḿnh thấy ḿnh là một đường thẳng, đường thẳng ấy có chiều dài 50 năm, 70 năm thời gian. Biết đạo rồi ḿnh thấy đời sống của ḿnh là sự ráp nối của những giây phút thiện và bất thiện, buồn và vui, nhân lành quả lành nhân ác quả ác. Nhưng rốt ráo th́ ḿnh sẽ thấy ḿnh không c̣n là những cái đốm nữa mà là những cái chấm. Muốn chứng thánh là phải tới mức độ thấy đó chỉ là những dấu chấm cộng lại làm nên bức tranh có cái tên gọi là nam, nữ, đẹp xấu, già trẻ, khỏe bịnh, sang hèn, giàu nghèo, giỏi dốt.

Để thực hiện được cái này th́ chúng ta phải quay lại bổn nguyện trên.

1) Đời đời gặp minh sư thiện hữu.

Minh sư có ba trường hợp:

- người dạy ḿnh điều lành nhưng dù bản thân họ không lành.

- họ là người lành nhưng chỉ có thể dạy bằng thân giáo

- họ làm được điều họ nói

Thiện hữu là người trang lứa có thể chia sẻ với ḿnh cái họ hiểu, cái họ có, cái họ đă làm được, đă chứng được.

2) Đời đời sinh ra có điều kiện để làm công đức

Khi cần tu thiền là có điều kiện; cần bố thí là có điều kiện. Dù điều kiện của ḿnh không bằng người ta, nhưng mà ḿnh đủ điều kiện để làm điều đó là được rồi. Nhiều người giàu nứt vách nhưng kêu họ đi qua Miến tu hai tuần họ không có điều kiện. Trong số những Phật tử tôi quen có không ít người như vậy. Họ có thể tài trợ cho chục hành giả, nhưng bản thân họ không đi được. Do đó phải nguyện.  Cần học đạo là bèn có thầy bạn ngon lành trường lớp hẳn hoi. Cần giữ giới là bèn có người hộ tŕ, hỗ trợ. Đừng có nói giữ giới không cần người hộ tŕ, hỗ trợ. Có hai ông sư, một ông phát nguyện không giữ tiền, không giữ y dư, thuốc men không cần giữ, ông thứ hai cũng vậy. Nhưng ông A có phước là lúc nào cũng có người dơi theo từng bước chân, cần là có người hộ tŕ hỗ trợ, nên chuyện giữ giới suôn sẻ lắm.  Vị kia th́ thiếu triền miên, cuối cùng khi thiếu quá th́ cái giới trở thành gánh nặng. Giữ giới mà có điều kiện vật chất th́ giữ giới dễ hơn. Nghèo quá cũng khó giữ giới lắm. Ở nhà quê cũng phải bắt cá bắt tép, sống với ruồi muỗi kiến gián chuột bọ. Nếu có tiền th́ đâu có cọ chạm ma sát với những chuyện đó. Cái ǵ cũng cần có điều kiện hết. Điều kiện làm thiện là nhiều thứ lắm: sức khỏe, vật chất, trí óc phải ok.

Phải nguyện xin cho con khi cần bố thí, giữ giới, nghe pháp là có ngay điều kiện. Dầu đang khổ nghèo nhưng cần phải có liền.

3) Đời đời kiếp kiếp xin cho con gặp được đối tượng để kính bái, tôn thờ. Một cư sĩ có thể là minh sư cho ḿnh được, nhưng một đối tượng để ḿnh cúng bái phải là chư tăng. Gặp các ngài thạc đức thạc học như ngài Hộ Pháp đâu phải dễ. Không phải có tiền là gặp ai cũng được, muốn gơ cửa ai cũng được. Sai bét. Thiếu phước gặp cao nhân tự nhiên ḿnh thiếu thông tin. Tới lúc ḿnh biết th́ họ tịch rồi. Biết bao nhiêu người đến lúc biết được Đức Thế Tôn như thế nào th́ Ngài đă về Kusinara rồi. Không đủ duyên th́ không gặp được đâu. Và c̣n cái năo trạng của ḿnh nữa, năo trạng đất sét th́ khi gặp chỉ biết cúng dường bữa ăn, chai dầu gió. Trong khi gặp cao nhân hiền thánh th́ lẽ ra ḿnh phải biết lắng nghe, biết hành tŕ, biết quan sát, biết học hỏi, biết noi gương, đằng này không. Ngài Hộ Pháp giỏi, ngài tu hay nhưng nếu ḿnh không có cái đầu th́ gặp cũng như không. Nếu như có phước, gặp ngài Hộ Pháp. ngài Tịnh Giác, Ngài Pa-Auk, ngài Ajahn Chah, ngài Ledi, bà Achan Neb  th́ ḿnh hỏi và học đă luôn, hỏi đă luôn. C̣n nếu như không có tần số, pw của các ngài th́ gặp Phật cũng bằng không. Phật trí vô biên, Phật lực vô cùng, Phật tâm vô lượng nhưng không thể độ người vô duyên. V́ sao lại vô duyên? Từ bổn nguyện mà ra!

Bây giờ bà con muốn cầu giải thoát th́ chuyện đầu tiên là học giáo lư căn bản và sống chánh niệm. Chỉ hai cái này th́ lư tưởng giải thoát mới mạnh. Mạnh là v́ khi học giáo lư th́ mới thấy được hiện hữu là khổ và không muốn luân hồi nữa. Không học giáo lư, không sống chánh niệm th́ có nguyện cũng như vẹt sáo nhồng cưỡng, yếu lắm, v́ chưa thực sự ngán sợ luân hồi.

Chúng sanh có 3 hạng cầu giải thoát:

-Hạng hạ căn thấy khổ quá ngán quá nên mới cầu giải thoát (Hạng này chán khổ-khổ)

-Hạng trung căn thấy cái vui mong manh, cái đẹp cái ḿnh thích quá mong manh bèn cầu giải thoát.  Không muốn chơi tṛ chơi trẻ con đó nữa (Hạng này sợ hoại-khổ)

-Bậc thượng căn là thấy được sự vô nghĩa vô ích vô vị vô duyên của hiện hữu nên họ cầu giải thoát.

(C̣n hạng không thuộc vào ba hạng trên “tôi là ai mà yêu quá đời này” th́ tào lao không tính. Họ lọt xuống địa ngục ba ngàn lần vẫn muốn luân hồi.) 

Bậc thượng căn chán cái hành-khổ. Không liên hệ ǵ cảm xúc, mà v́ họ thấy bản chất bất toàn bất trắc vô duyên tẻ nhạt nên chán cái hành-khổ. Họ thấy mọi thứ ở đời do duyên mà có, có rồi lại mất. Có để làm ǵ? Có để mà mất chứ không có cái ư nghĩa ǵ hết. Các nhà hoạt động chính trị họ hứa họ sẽ đưa ra một cơ chế, đường lối biến đất nước thành phú cường, thế giới này thành một thiên đường tại thế… họ hứa  tùm lum nhưng đó là cách nghĩ thế gian chứ trong kinh Đức Phật dạy rất rơ: Có ở đâu trong cơi Dục mà sướng bằng các cảnh trời; có ở đâu trong Tam giới mà ngon lành bằng các cơi Tịnh Cư của thánh A-na-hàm; có tầng thiền nào hơn được tầng Phi-tưởng-phi-phi-tưởng. Vậy mà chính Ngài xác nhận, các hành là vô thường, có rồi phải mất. Một bài kinh chư tăng hay thường đọc trong đám tang hay lắm:

 Aniccā vata saṅkhārā (All things are impermanent)

uppāda-vaya-dhammino, (They arise and pass away)

uppajjitvā nirujjhanti  (Having arisen they come to an end)

tesam vūpasamo sukho (Their coming to peace is bliss) 

Các hành là vô thường. Mọi hiện hữu ở đời này tất thảy đều vô thường. Uppāda-vaya-dhammino, bởi v́ bản chất các hành sanh diệt, có rồi mất. Uppajjitvā nirujjhanti, sau khi xuất hiện th́ bèn biến mất. Tesam vūpasamo sukho, câu này mới cực hay. Tesam tiếng Mỹ là ‘their’ (số nhiều), nghĩa là ngày nào cái sanh cái diệt đó mà mất đi th́ cái đó mới thật sự là ‘vūpasamo sukho’, sự biến mất của cái sanh và diệt đó mới chính là sự an lạc thật sự. Sự an lạc này không nói về cảm giác cảm xúc, mà nói về bản chất -- không c̣n thích ghét sướng khổ nữa. Đó mới là an lạc. 

Mọi hiện hữu ở đời đều là vô thường.

Bởi v́ bản chất của nó chỉ là sanh diệt mà thôi.

Có rồi để mất.

Không c̣n sanh diệt nữa th́ mới thật sự là an lạc. 

Người thiếu duyên vô phước th́ sanh ra vào cái thời không được nghe pháp, không chịu nghe, không nghe được đúng cái chỉnh sửa được cái đầu của ḿnh, hoặc nghe giáo pháp cao siêu thâm hậu mà không tự ḿnh chỉnh sửa được. Tôi giảng cho bà con cũng như bắn đạn chài, trúng ai th́ trúng. Không phải tôi huệ căn, mà tôi làm thầy chùa quá lâu rồi. Đời tôi khổ quá nên tôi thấm. Quí vị có thể không khổ bằng tôi, hoặc là có khổ nhưng lo nghĩ chuyện khác. Tôi nhắc lại, phải học giáo lư, sống chánh niệm, để làm một việc thôi: thấy cái thân này là khổ, là gánh nặng, có để mà mất. Tất cả những ǵ quí vị yêu nhất thích nhất trên đời này có rồi cũng có để mà mất. Mất theo hai cách: ḿnh bỏ nó, nó bỏ ḿnh. Nó không c̣n nữa hoặc là nó biến dạng thành ra thứ khác không c̣n như ḿnh mong đợi đến nỗi ḿnh chán nó không c̣n muốn sở hữu luôn. Áo quần, giày dép … lúc hàng hiệu lúc mới mua th́ nâng niu, sau một tuần là thấy gớm rồi, đế giày th́ dơ, vớ th́ bốc mùi trong đó. Phải liên tục sống trong nền tảng nhận thức rằng tất cả những ǵ ḿnh yêu thích đều sẽ có rồi mất. Với nền tảng nhận thức ấy th́ buổi đầu thấy rất là bi quan tiêu cực. Mới biết đạo mà nghĩ đến cái chết, nghĩ đến cái vô ngă vô thường, sớm muộn ǵ ḿnh cũng bỏ nó mà đi, nghĩ đến bất tịnh hư hao bất mát th́ nản lắm; nhưng nếu liên tục sống trong nhận thức như vậy của hành giả tuệ quán th́ sẽ có một ngày vẫn tiếp tục thấy như vậy nhưng không phải là bi quan nữa mà sự an lạc. Cái an lạc ở đây nghĩa là không c̣n nặng ḷng về nó nữa. An lạc của người tu không phải mát lạnh nổi da gà, muốn bay bổng… Mà an lạc là có một ngày anh thấy rằng tất cả cái đắng chỉ tồn tại không quá một sát-na, tất cả cái ngọt không tồn tại quá một sát-na. Chẳng qua là nhiều cái đắng nó tiếp nối nhau kéo dài một ngày hai ngày mà ḿnh gọi tên  nó là nỗi khổ là niềm đau là cơn trầm uất là nỗi ám ảnh. Thật ra tất cả những cái đó chỉ là chuỗi tiếp nối của vô số sát-na tâm lư. Một ngày nào đó quí vị thấy ḿnh chỉ là một nắm cát, chỉ là một túi hạt é hạt chia mà thôi. Ḿnh thấy rằng ḿnh chỉ là chùm ánh sáng chớp tắt chớp tắt xanh vàng đỏ tím nhưng hiện hữu trong từng giây đồng hồ. Phải thấy như vậy. Thấy không phải do được tuyên truyền nhồi sọ rỉ tai tẩy năo mà chính ḿnh thấy như vậy. Chính cái thân này lúc nóng lúc lạnh lúc khó chịu lúc dễ chịu, lúc tê mỏi lúc thoải mái. C̣n cái tâm này lúc buồn lúc vui lúc bực ḿnh lúc thanh thản. Phải liên tục thấy rằng nó là đồ giả. Trừ bất đắc kỳ tử, trừ chết hôn mê, c̣n nếu tỉnh táo ḿnh thấy cái chết nó chỉ là cái sự rời ră của nắm cát, của một đống bọt nước mà thôi. Lúc đó không tiếc nuối, không sợ hăi. Phải đến cảnh giới đó!

Có chuyện đặc biệt thế này, anh càng có nhiều cái anh thích càng nhiều người để anh thương th́ anh càng nhiều cơ hội để khổ v́ tiếc nuối sợ hăi. Sợ nó ra đi bỏ lại ḿnh, sợ ḿnh ra đi bỏ lại nó. Có một câu thần chú mời quí vị xăm: Chỉ có buông bỏ mới sống an lạc. Chỉ có buông bỏ mới chết thanh thản. Nếu tự xét thấy ḿnh không có khả năng buông bỏ th́ ngay bây giờ phải hạn chế sở hữu những thứ khó buông bỏ.

Trong đây chắc tầm U60, dù quí vị là học tṛ của cao tăng nào th́ cũng gần chết hết rồi. Nhà, xe của quí vị sắp sang tên cho người khác rồi. Quí vị bắt buộc phải thuộc ḷng câu thần chú này. Phải niệm và canh cánh bên ḷng câu thần chú ấy.

Hôm nay quí vị không thấy thấm, nhưng một ngày nào đó sẽ thấy câu này giúp ích cho ḿnh nhiều lắm. Tôi thiết tha đề nghị quí vị nên ghi nhớ, bỏ qua uổng lắm. Bởi v́ cả đời học giáo lư nhiều khi chỉ chốt lại trong vài câu ‘tâm ấn’ mà thôi. Nhà xe sang tên được th́ sang tên. Bớt mua sắm sở hữu. Bớt đem vào, nên đem ra.

Cái rốt ráo nhất trong đạo Phật dành cho phàm phu đó chính là đời sống của một hành giả Tứ Niệm Xứ. Đó là giai đoạn sau cùng: giai đoạn Tuệ học trong Tam học. Trong chặng cuối này, tám phần mười đụng đâu dính đó. Tu là tu tâm chứ không phải tu tướng, tuy nhiên phải để ư thân xác của ḿnh. Đừng ham ngồi lâu, không tốt cho sức khỏe. Cái quan trọng không phải là ngồi bao lâu mà là khả năng chánh niệm có bền bỉ hay không. Một ngày mà quí vị chánh niệm được 16 tiếng tư thế sinh hoạt lúc đi lúc đứng lúc nằm lúc chia đều một cách hợp lư và khoa học th́ quư hơn là ngồi một lèo 10 tiếng mà chánh niệm chưa đủ 10 tiếng. Hơn nữa lúc ra khỏi 10 tiếng đó th́ lăng xăng. Đừng so b́ với thánh nhân. Thánh nhân nhập định 7 ngày là chuyện của thánh, người ta là thánh nếu có v́ vậy mà bịnh th́ cũng là thánh, có chết cũng ngon hơn ḿnh cả tỷ lần. Đừng ham ngồi lâu. Quan trọng là pháp môn nào phù hợp với ḿnh, cũng đừng thần tượng “thầy tôi” nổi tiếng. Trước hết phải mở chánh kinh ra coi, ḿnh tu theo chánh kinh được hay không. Nếu thấy ḿnh tu theo được chánh kinh th́ không cần phải thầy. V́ tất cả các thầy đều trao truyền cho ḿnh kinh nghiệm cá nhân của họ, mà kinh nghiệm cá nhân th́ luôn luôn có mang những dấu vết đặc thù, kèm theo những sở trường sở đoản của họ lồng ghép trong đó. Ḿnh mê thầy đó quá, mê đường lối tiếng tăm của thầy đó quá, bèn cơng nguyên cục riêng tư đặc thù ấy của ổng về làm kỹ thuật tu chứng, trong khi nó không thích hợp mới đau chứ. Hăy nhớ ḿnh không phải là con chuột bạch. Hăy mở Kinh Tứ Niệm Xứ của Trường Bộ Trung Bộ xem có hiểu hay không, nếu không có hiểu th́ kiếm người ḿnh tin cậy mà hỏi. Nhưng theo tôi là nên hạn chế đọc sách thiền. Tôi dịch bộ Kinh Nghiệm Tuệ Quán để cho cho bà con tham khảo, chớ tôi tuyệt đối không mong bà con lấy bộ sách đó làm sách gối đầu giường. Bởi v́, với khoảng 20 tác giả th́ ḿnh thấy đă khang khác nhau rồi, nếu tôi dịch 1000 tác giả thiền sư th́ quí vị có nước điên luôn. Lắm thầy th́ nhiều ma. Quí vị đọc tham khảo thôi. Để bổ sung vào cái tủ sách thiền học của VN vốn dĩ chưa được phong phú cho lắm, cho nên tôi phải làm cái chuyện đó chứ thực bụng không muốn, đó là giới thiệu cho bà con một số “kinh nghiệm vui vui” của các vị thiền sư. Chớ đừng xem những kinh nghiệm trong đó là toàn bộ là tất cả của các vị thiền sư đó. Tôi có dịp tiếp xúc với một vài người, ví dụ tôi từng hầu chuyện ḥa thượng Viên Minh, tôi từng gặp cụ Bùi Giáng lúc đó tôi ở kê bên chùa Dược Sư. Trước 10 giờ cụ tỉnh táo lắm, khi nói chuyện ḿnh thấy cụ không giống như những ǵ cụ viết. Bùi Giáng lúc say không giống Bùi Giáng lúc tỉnh. Bùi Giáng lúc nói chuyện không giống Bùi Giáng lúc Bùi Giáng viết. Tôi cũng có gặp cụ Sơn Nam ngoài đời, phải nói là cụ nói chuyện super chơn chất luôn, có xen lẫn một hai tiếng chửi thề nhẹ nữa. Không có ai biết rằng cụ là người đă viết Hương Rừng Cà Mau. Hơn thế nữa, phải nói cụ Sơn Nam là một thi sĩ thuộc hàng độc đáo của VN, khi mà ngôn từ đời thường của cụ không hề giống ngôn phong của cụ khi cụ làm thơ. Cụ là một thi sĩ có thể là gần như duy nhất của VN khi người ta chỉ căn cứ vào một bài thơ của cụ. Một bài thơ mà cụ không muốn gọi đó là thơ mới ghê chớ. Chối từ phủ nhận đứa con của ḿnh không muốn người ta gọi tên. Đó là lời tựa cho quyển Hương Rừng Cà Mau.  

“Phong sương mấy độ qua đường phố,

Hạt bụi nghiêng ḿnh nhớ đất quê...” ([1])

Tôi mê bài đó như thánh kinh. Tại sao tôi đem cụ Bùi Giáng cụ Sơn Nam ra tôi nói? Bởi v́ bản thân họ lúc này lúc khác, đừng coi sách của Bùi Giáng là toàn bộ con người của Bùi Giáng. Đừng nghe ông Sơn Nam nói chuyện mà phán rằng đó là toàn bộ con người của cụ Sơn Nam. Sai! Phải đọc cụ Sơn Nam, phải gặp cụ Sơn Nam, nếu cần phải sống gần cụ Sơn Nam. Sống gần cũng phải c̣n tùy thuộc ổng có coi ḿnh là người thân, là học tṛ, là bạn vong niên hay chỉ coi ḿnh là kẻ qua đường là hàng xóm, khi đó lại là khác nữa. Các vị thiền sư cũng y chang như vậy. Những ǵ các ngài giảng ra được người ta ghi âm chép xuống, có người dịch Việt ra. Quí vị đọc vô lại coi đó là cẩm nang tu chứng là khuôn vàng thước ngọc, là kỹ thuật hành tŕ là chết. Ḿnh không phủ nhận giá trị của những cuốn sách đó. Dừng lại mức tham khảo th́ tốt, xa hơn th́ nguy. Cách nấu một nồi canh chua, ḿnh cũng nên dừng lại ở mức tham khảo thôi, v́ dân miền tây nấu khác dân Sài G̣n. V́ Sài G̣n là chỗ họp mặt, chỗ giao lưu của các ḍng văn hóa ẩm thực từ muôn phương đổ về. Canh chua của Sài G̣n ngọt ngay, me th́ ít nhưng họ bỏ cà chua, khóm, nấm, đường. Không chua xé mây th́ không phải canh chua miền tây. Canh chua Đà Nẵng th́ hầu hết nấu bằng cà, có nơi không xài rau om th́ xài rau cần. Nếu ḿnh coi canh chua Đà Nẵng là khuôn vàng thước ngọc th́ mai này vô trong nam ăn canh chua chịu nổi không. Ăn ở SG rồi về miền Tây thấy họ nấu ḿnh nói họ nấu trật hay sao.

Chỉ nhớ rằng, Đức Phật dạy canh chua chỉ một vài nguyên liệu đơn giản thôi: thứ làm chua, rau mùi, phụ liệu. Thứ làm chua th́ có me, mẻ, giấm, chanh, lá giang… Rau mùi th́ có ng̣ gai, tần dày lá, ng̣ om.  Phụ liệu th́ gồm những thứ bà con thích ăn chay th́ nấm, ăn mặn th́ thịt cá. Phụ liệu là tùy chọn thôi. Trong Tứ Niệm Xứ của Trường Bộ và Trung Bộ, Ngài chỉ nói vắn tắt ba thứ rau mùi, gia vị làm chua và phụ liệu căn bản thôi. Nhưng qua đến các ngài thiền sư th́ thêm vô đậu bắp, c̣n giải thích thêm đậu bắp như thế nào, giá ốm hay giá mập, nấm nở hay nấp búp, tàu hủ sống hay tàu hủ chiên… Nói chung qua đến thiền sư th́ kinh nghiệm nấu chanh chua nó lên đến 100 trang giấy cahier luôn.  Đức Phật th́ chỉ nói đơn giản thôi: gia vị làm chua, rau mùi và nguyên liệu tùy chọn, hết. Người mê canh chua Đà Nẵng th́ cắm đầu vô canh chua Đà Nẵng họ coi đó là vũ trụ là nguyên lư, là con đường duy nhất giác ngộ giải thoát. Ra Huế th́ c̣n chết nữa, không cay không phải là Huế. Bịnh trĩ mà ăn đồ Huế là chết luôn. Cho nên ḿnh phải nhớ cái căn cơ thể trạng của ḿnh coi hợp với cái ǵ. Đừng cắm đầu thờ phụng một thứ. Quan trọng là phải quay về nguồn gốc nơi Đức Phật cái đă.

Giảng xong chữ Nguyện rồi. Kỳ sau tùy duyên tôi thích cái ǵ th́ tôi giảng cái đó.


 

[1]  

Trong khói sóng mênh mông

Có bóng người vô danh

Từ bên này sông Tiền

Qua bên kia sông Hậu

Mang theo chiếc độc huyền

Điệu thơ Lục Vân Tiên

Với câu chữ:

Kiến nghĩa bất vi vô dơng giả

Tới Cà Mau - Rạch Giá

Cất cḥi đốt lửa giữa rừng thiêng

Muỗi vắt nhiều hơn cỏ

Chướng khí mù như sương

Thân không là lính thú

Sao chưa về cố hương?

Chiều chiều nghe vượn hú

Hoa lá rụng buồn buồn

Tiễn đưa về cửa biển

Những giọt nước ĺa nguồn

Đôi tâm hồn cô tịch

Nghe lắng sầu cô thôn

Dưới trời mây heo hút

Hơi vọng cổ nương bờ tre bay vút

Điệu ḥ… ơ theo nước chảy chan hoà

Năm tháng đă trôi qua

Ray rứt măi đời ta

Nắng mưa miền cố thổ

Phong sương mấy độ qua đường phố

Hạt bụi nghiêng ḿnh nhớ đất quê…

Sơn Nam

 

 

 

BACK

 

Home