CHUYỆN TÌNH CHIM
BÓI CÁ
Tôi đã gặp Thụy trong một hoàn cảnh hết sức bình thường.
Một ông sư với một người Phật tử trong một lớp học giáo lý. Hồi đó, thuở
tôi vẫn còn đi học trên Tổng Hợp, ngoài cái nghề dịch sách, đứng lớp
giáo lý là một khả năng tay trái của tôi. Gần mười năm trời từ trước
tuổi hai mươi tôi đã đi khá nhiều. Đi xa như là một cách sống của một
người phóng túng kiểu tôi. Dừng chân lại bất cứ ở nơi nào, tôi vẫn luôn
cố tìm cho mình một cái gì đó để làm. Tôi chỉ có một mình và dĩ nhiên
rất e sợ khi phải để thời gian trôi qua trong sự vô vị. Giữa lòng phố
Sài Gòn tôi cũng không sao đổi khác cách sống đó. Và thế là tôi đã “muốn
làm chút gì đó” và gặp Thụy…
Mãi tới bây giờ tôi vẫn còn nhớ khá rõ về cô, tính cách
của cô thì đúng hơn. Tôi không muốn tả cô về đôi mắt, mái tóc, bờ vai,
hàm răng, tạng người, dáng đi…như bao người vẫn thích thế khi tả một
người con gái. Tôi chỉ biết là cô có duyên lắm, một kiểu duyên thầm gần
như hiếm thấy: Nói ít nhưng cần thiết và cười thì đúng lúc. Không thông
minh một cách đáng phục nhưng hình như cô sinh ra là để thấu suốt duy
nhất mỗi mình tôi. Phải gần ba tháng trời tôi mới nhận ra những điều đó
ở cô và với cô, tôi có một cảm giác thật lạ: vừa mến, vừa ngán. Mà mến
nhau, đặc biệt với người khác phái, thường dễ cho ta cái nhớ vớ vẩn, tạm
gọi thế, mỗi khi có chuyện buồn mà chẳng có ai bên cạnh. Dĩ nhiên cho
tới mức này tôi cũng chưa dám bảo là đã yêu hay phải lòng cô. Tôi chỉ
“có cảm giác” và luôn là một ông thầy nghiêm túc. Còn cô, trời ơi, ngoài
nét mặt luôn sẵn sàng mỉm cười, hình như cứ…khô khốc ấy!
Cái “dòng đời” cứ vậy mà trôi với những buổi học và dạy
của tôi, buồn vui lẫn lộn nhưng vẫn nhiều thú vị. Một buổi chiều cuối
năm, tôi còn nhớ, cũng trong lớp giáo lý, khi tình cờ nhắc qua một chút
triết Tây, tôi dừng lại nhìn quanh các học viên:
-Tiện miệng thì nói sơ qua cho vui, các vị có lẽ khỏi cần
bận tâm ba thứ này. Nó rắc rối, mất thời giờ thôi. Chúng ta đang học
Kinh Phật để giải thoát mà!
Tôi cười nhẹ rồi đi qua phần còn lại của bài học hôm đó.
Hai bữa sau, Thụy, tên cô bé tôi vừa kể ở trên, tìm đến chùa gặp tôi.
Hôm đó là chủ nhật, lớp học nghỉ. Tôi ra mở cổng cho cô mà cứ ngạc nhiên
bởi cô chỉ thường tới đây để học thôi.
Đứng trước phòng tôi, cô lục cặp lấy ra một cuốn sách rồi
nhìn tôi:
-Hồi đi học 12 con có đọc cuốn này rồi mà quên mất đi.
Bữa thứ sáu nghe sư giảng bài tự nhiên con nhớ mang máng…chắc sư đã xem
qua rồi phải không?
Đón lấy quyển sách từ tay Thụy, tôi đọc lướt cái nhan đề
của nó. Tác phẩm Alexis Zorba của Nikos Kazanzakis…tôi lại cười:
-Tôi có đọc nó nhưng cũng chỉ nhớ mang máng!
Thụy cười mỉm rồi nhìn sang hướng khác như để tránh nhìn
tôi:
-Con biết vậy, nhưng mà…bữa đó sư có vẻ coi thường lớp
học quá. Mấy chị hình như buồn lắm đó. Trong lớp cũng có người học xong
văn khoa hồi xưa…
Thụy ngập ngừng rồi lại nhìn lên:
-Nếu vậy con đem cuốn này về nha!
Tôi lắc đầu thật nhanh:
-Thụy cho mượn ít hôm, tôi muốn đọc lại cuốn này. Quyển
tôi đọc là bản dịch của bây giờ, quyển này được dịch trước 75 chắc là
hay hơn!
Tiễn Thụy ra về tôi thấy nao nao và hơi buồn buồn. Quay
trở vào, cất cuốn sách lên cái ngăn gỗ trên tường, tôi nằm xuống giường
nhớ lung tung…
Sau ba buổi dạy đầu tuần, tôi hẹn sẽ trả lại sách cho
Thụy cuốn sách vào ngày hôm sau. Thực ra từ buổi chiều Thụy đưa sách,
tôi có việc phải giải quyết rồi quên mất nó đi. Vả chăng đọc lại một
quyển sách dày đâu có gì thú vị nữa. Tôi chỉ cố ý mượn để...dễ coi thôi!
Đêm. Nằm một mình trong căn phòng, tôi nhớ tới Thụy rồi
cuốn sách cô cho mượn. Cười một mình vì một suy nghĩ vớ vẩn, tôi đứng
lên lấy cuốn sách rồi giở ra. Ở trang đầu tiên mà nhà in cố tình để
trắng, tôi đọc được một dòng chữ nhỏ xíu nắn nót của con gái, bên dưới
có đề ngày tháng mua nó rồi có cả một chữ ký hình như của Thụy nhưng
nhìn kĩ thì sao chẳng phải là chữ Thụy dù ký tắt hay ký đủ. Một chữ T
rất giống chữ b lại đứng trước một nùi rắc rồi hao hao chữ Th…
Tôi tự thầm cười tính tò mò của mình rồi thật tình cờ,
cuốn sách bật ra ngay trang cuối cùng. Ở đó tôi lại phải rách mắt để đọc
mấy dòng chữ Hy Lạp được viết thật đẹp mà cũng nhỏ xíu, bên dưới là lời
dịch bằng tiếng Anh (rõ ràng là nét chữ của Thụy) đại ý là “Một đời
sống thiếu tinh thần thực nghiệm thì chẳng xứng đáng nữa”
Tôi đã biết câu danh ngôn này từ một cuốn sách của
Betrand Russell, cuốn Tri Thức Tây Phương, bằng tiếng Anh và nó cũng
được in ở trang cuối cùng của cuốn sách với nguyên tự dạng Hy Lạp cùng
câu dịch.
Tôi nhớ tới khuôn mặt của Thụy rồi bật cười. Cô bé kể
cũng lạ thật, mà cũng giống tôi hồi nhỏ, thích sưu tầm những thứ trên
trời dưới đất rồi chẳng thèm nhớ tới vì chẳng biết phải đem dùng ở đâu.
Đưa trả cho Thụy cuốn sách, tôi nói đôi điều về văn phong
người dịch rồi kết thúc:
-Bản dịch đại khái rất hay, giọng văn thật lạ nhưng độc
đáo nhất có vẻ vẫn là lời đúc kết của một độc giả nào đó đã viết tay ở
trang cuối…!
Thụy đỏ bừng mặt rồi lấy lại tự nhiên rất nhanh, hình như
đó cũng là một thứ bản lãnh khác của cô:
-Sư đọc cuốn sách kỹ thiệt đó, chắc sư còn nhớ luôn cuốn
sách được in bao nhiêu quyển và vào năm nào nữa chứ!
Chúng tôi cứ vậy mà gần gũi nhau hơn. Và Thụy đã trở
thành “thư ký” cho tôi tự lúc nào tôi cũng không hay. Cô giúp tôi nhiều
việc lắm. Cái chiếc Dame của cô có lẽ đã phải mòn lốp cho những công
việc tôi nhờ cô. Từ việc gởi thư, nhắn tin đến chuyện đi lấy giùm mấy
cuốn sách ở đâu đó. Có khi, vào những ngày rảnh cô còn đem theo bánh mì
với nước uống vào tận mấy nhà sách tìm giúp tôi mấy quyển sách. Cô làm
điều đó với tất cả niềm vui thật sự, một kiểu chí thú khó tin. Hồi đầu,
đôi lúc tôi vẫn nghĩ là cô đã vì tôi, sau mới hiểu thật ra cô cũng là
một con mọt sách. Cô đọc nhiều lắm, cũng may là đề tài sở thích của hai
người không giống nhau bao nhiêu. Bởi tôi rất ngại phải cho người khác
mượn sách, còn Thụy thì cứ nhìn lối cầm sách của cô, tôi có cảm giác đọc
xong cô sẽ vất nó đi.
Hôm đó chủ nhật, chẳng biết làm gì cho bớt chán, tôi ra
nhà sách ở đường Nguyễn Huệ. Chen chúc giữa bao người để lựa sách, tôi
gặp Thụy. Cô chào tôi bằng một chút gật đầu thật nhanh và kín đáo nhưng
ánh mắt của Thụy cho tôi biết cô vui lắm. tôi bước sang dãy sách biên
khảo, ở đó tương đối thưa người hơn, mà những sách tôi cần tìm cũng
thường nằm ở đó. Thụy bước đến cạnh tôi cười nhỏ:
-Sư qua bên kia, có mấy cuốn mới ra, thấy nhan đề ngồ ngộ
chắc hay!
Tôi im lặng đi theo cô. Liếc nhanh qua một lượt, tôi rút
luôn mấy cuốn rồi đến quầy thu ngân, sau đó quay lại dãy sách khi nãy
như không có gì xảy ra.
Chẳng biết Thụy lạc đâu mất giữa rừng người, tôi rời nhà
sách lúc 6 giờ đúng, lại Thụy nữa. Cô đang loay hoay bên chiếc giỏ xe và
không thấy tôi. Tôi đến đứng trước xe và lấy ra một cuốn sách mỏng đưa
cho Thụy:
_ - Thơ mới, coi được lắm, thứ tư trả, về cẩn thận xe cộ!
Thụy cầm lấy và giơ tay ra dấu tạm biệt. Thành phố vào
đêm, gió và bóng tối vẫn tuyệt vời giữa những ồn ào và ánh sáng. Tôi về
mà cứ nhớ Thụy.
Chiều thứ hai rồi thứ ba qua đi với hai buổi dạy giáo lý,
tôi thấy mọi sự vẫn bình thường và Thụy vẫn bình thường cũng như mọi học
viên khác đều bình thường. Chiều thứ tư tan học xong, cũng như mọi hôm,
Thụy dẫn xe đi theo các học viên khác ra cổng cùng một lúc. Tôi đứng
nhìn theo mọi người và bỗng thấy Thụy nói gì đó với các cô đi chung rồi
dựng xe ở đó, cô quay vào với chiếc cặp trên tay. Cô trả tôi cuốn sách,
nó đã được cô bao bìa cẩn thận, và nhìn thẳng vào mắt tôi Thụy nói:
-Thơ hay lắm, nhưng cái nhan đề đọc thấy ghét, thơ!
Thụy biến ra cổng như một làn gió, chút mùi mỹ phẩm thật
nhẹ và dễ thương thoảng lại đằng sau. Thụy về mà chẳng chào tôi!
Vào phòng, tôi mở tập thơ ra xem và bật ngửa. Thì ra
tiếng “Thơ” mà Thụy dằn mạnh ở cuối câu nói hồi nãy là vì vậy. Trước mắt
tôi là cuốn sách mua giùm cho một ông sư bạn: Tôi Thương Em Mà Em Đâu Có
Hay, tác phẩm của Nguyễn Nhật Ánh!
Tôi đã đãng trí đến mức mua sách về nhà mà quên cả kiểm
tra…
*
Thụy không hề có vẻ tạo cơ hội cho tôi giải thích sự nhầm
lẫn đó về phía mình, tôi cũng không muốn giải thích bởi hình như kể từ
buổi chiều hôm đó, Thụy tỏ ra khó hiểu hơn nhưng thật lạ lùng là tôi
lại thích thấy cô như thế, thích thấy cô trong lớp vỏ kỳ bí của con gái.
Ba tháng sau. Lớp tan. Thụy ở lại. Tôi ngồi đó, hai người
nhìn nhau, Thụy cắn môi do dự rồi hỏi tôi:
-Đúng 90 ngày rồi, sư không muốn giải thích gì à?
Cô lại nhìn xuống đất. Tôi trả lời trong ngập ngừng:
-Chuyện tình cờ nhưng tôi thấy hình như...không nên giải
thích…
Thụy nhìn tôi, tôi biết cô muốn nghe nốt phần còn lại của
câu nói. Tôi ngó ra sân:
-Tôi biết mình đã thương Thụy! – Nhưng chẳng sao cả, tôi
cũng biết phải làm gì mà. Bốn mươi ngày nữa tôi sẽ không còn ở đây.
Thụy khóc. Thật khó mà tả được tâm trạng tôi lúc đó. Hôm
ấy cả chùa đi vắng, tôi là người thứ năm cũng là người cuối cùng có mặt
ở chùa. Ai đã từng ở vào hoàn cảnh như tôi lúc đó sẽ hiểu cho tôi. Sự an
tâm cộng với chút lãng mạn và xúc động thì xảy ra chuyện gì cũng thật
khó đoán.
Nâng chiếc cằm của Thụy lên, tôi cắn vào môi cô, nhẹ thôi,
rồi mấy giọt nước mắt mặn ấm trên má cô đã tìm được chốn về trên môi tôi.
-Đừng khóc, mất đẹp đi, cứng rắn lên một chút có được
không? Tôi cố cười.
Chúng tôi đã quen nhau và yêu nhau – có thể nói như vậy –
trong một sự trớ trêu không thể hòa giải. Mọi sự xảy đến thật đơn giản
nhưng để giàn xếp thì thật khó khăn quá. Tôi vừa là một Sa môn, một
người thầy và cũng là một người thương Thụy. Còn cô bé thì nào có khác
gì tôi, cô cũng cùng lúc ở mọi vai diễn Phật tử, học trò và người yêu
của một ông sư…
Tôi vẫn đứng dạy lớp giáo lý trong những ngày cuối cùng
và cũng trong chừng đó thời gian chúng tôi đã viết cho nhau những lá thư
thật dài dù vẫn gặp mặt nhau hằng bữa. Thụy viết thư hay lắm. Cô có
nhiều suy nghĩ thật lạ…
Ngày tôi đi, Thụy đã giúp tôi thu dọn sách vở về chỗ ở
mới. Cô không khóc nhưng tôi biết cô buồn nhiều bởi từ bây giờ chúng tôi
sẽ ít có dịp gặp nhau hơn và theo lời Thụy, cô cứ tiếc lớp học giáo lý.
Xem tôi như một người yêu nhưng Thụy vẫn dành cho tôi một sự trân trọng
thật sự về kiến giải Phật Pháp. Thụy thường bảo tôi là người có kiến
thức biến thái không chịu hiểu vấn đề theo cách nghĩ của phần đông. Thụy
có vẻ như đùa khi nói câu ấy nhưng tôi biết là Thụy đã nói thật lòng.
*
Thụy vẫn thỉnh thoảng đến thăm tôi, vẫn những trang nhật
ký được trao đổi qua lại. Chỉ có điều là Thụy mỗi lúc càng ít nói hơn và
như để bù đắp, cô thường mua quà cho tôi, những thứ quà xinh xắn nhưng
chỉ dành cho trẻ con dù Thụy có thể mua những thứ khác. Một hôm, đang
ngồi ăn chung với nhau một hộp kẹo mà viên nào cũng có hình trái tim,
tôi đùa với Thụy:
-Tìm ở đâu ra quá nhiều tim để ăn thế này?
-Nhiều mảnh nhỏ của một trái tim đó thôi – Thụy cười.
Tôi nói muốn bỏ học ở Tổng Hợp vì một vài lý do và thời
gian còn lại có thể tập trung cho một ngoại ngữ nào đó chẳng hạn tiếng
Đức. Đang nhai viên kẹo, Thụy ngừng lại nhìn tôi nhíu mày:
-Sư nghĩ kĩ chưa, coi chừng tính lộn đó. Ngoại ngữ mình
có thể học hàm thụ ở nhà lúc nào chẳng được…
Trước Thụy, đôi lúc tôi thấy mình như nhỏ lại đôi ba
tuổi. Cô luôn suy nghĩ thật nhanh và có những chín chắn thật bất ngờ.
Tôi vẫn học ở Tổng Hợp tiếp tục dù tự biết có thể sẽ nghỉ ngang bất cứ
lúc nào. Trong thời gian này Thụy thường lên trường chơi với tôi. Lại ba
tháng…
Hôm đó, đang ngồi trong lớp, tôi thấy Thụy chạy xe vào.
Đợi lúc giáo sư xoay lưng, tôi lẻn ra cửa. Gặp nhau ở căn tin, mắt Thụy
đỏ hoe. Uống chưa xong ly nước, cô đưa cho tôi một phong bì thật dày:
-Vào lớp đi, Thụy phải về liền, mai mốt gặp!
Thụy đến trả tiền hai ly nước rồi dắt xe đi. Hôm đó Thụy
không kẹp tóc. Sân trường nhiều gió. Tôi có cảm tưởng như Thụy đang bị
gió cuốn đi.
Tôi vào lớp mà vẫn không thể ngồi yên, tôi không muốn mở
chiếc phong bì ngay lúc đó. Sắp hết buổi học rồi. Mặc giáo sư giảng gì,
tôi cứ nhớ Thụy. Hồi nãy, lần đầu tiên Thụy xưng tên khi nói chuyện với
tôi.
*
Tôi bỗng nghe trời đất tối sầm, lồng ngực thắt lại tê
điếng. Thụy sắp xuất cảnh. Cô sang Canada với một người lạ theo kiểu
giấy tờ quái đản nào đó. Thụy đã viết như vậy trong lá thư. Thụy cho tôi
biết tin đó bằng mấy dòng chữ ngắn thôi, phần còn lại là những gì cô
muốn nói thêm với tôi, những điều cô chưa từng nói và tôi cũng không bao
giờ ngờ được là cô đã nghĩ như thế.
“…Thụy không hề coi đây là lá thư từ biệt để Túy Lang bảo
muốn đi xa thì nói gì chẳng được. Thụy sắp đi rồi, vài hôm nữa thôi,
thời gian đích xác…Thụy cũng thừa hiểu là Túy Lang đâu cần biết tới phải
không? Nhớ hồi còn ở bên cạnh, Túy Lang vẫn bảo là trong đời Túy Lang
không hề có một cuộc đưa tiễn bất cứ người con gái nào hết, Túy Lang chỉ
dành việc đó cho mấy ông sư bạn thôi. Thụy biết mình cũng không là
trường hợp ngoại lệ. Thụy chỉ muốn mượn cái thư này nói hết với Túy Lang
những gì mà nếu còn ở lại Việt Nam, có lẽ đến suốt đời Thụy cũng không
dám nói.
“…Thụy đã yêu Túy Lang. Yêu bằng thứ tình cảm phàm tục
nhất, nhưng Thụy nhớ mình đã chưa hề nói ra điều đó kể cả buổi chiều…của
sáu tháng trước, ngồi yên cho Túy Lang cắn lên môi. Cái cảm giác đó suốt
đời Thụy không sao quên được. Hạnh phúc và hãnh diện lắm Túy Lang biết
không? Yêu Túy Lang như một người bạn đời đúng nghĩa, nhưng Thụy tin
mình còn đủ sáng suốt để hiểu nhau nữa. Túy Lang là một tu sĩ trắng tay
nhưng bằng vào những giá trị tinh thần mà Túy Lang sở hữu được, Thụy cứ
nghĩ Túy Lang là một trích tiên, một thiền sư xuống đời du hóa rồi mắc
nạn ngay trên cuộc đi của mình. Túy Lang bơ vơ trên đường nên từng bước
chân có kín đáo lắm cũng không dấu được niềm bơ vơ đó. Túy Lang đi học
như chỉ vì không có chuyện để làm, đứng lớp dạy chỉ vì muốn thời gian
quan nhanh hơn. Túy Lang viết nhật kí, tùy bút, tạp văn rồi làm thơ,
dịch sách đều bằng một tâm trạng của người không biết về đâu. Từ những
ngày đầu mới quen. Thụy đã đọc được điều đó qua ánh mắt, ngôn từ và
phong cách của Túy Lang. Túy Lang nói đùa như đứa bé nói dối để không bị
đòn roi. Và cuối cùng, có phải Túy Lang cũng đã yêu Thụy trong niềm bơ
vơ đó? Nhớ lại mà cứ nghe thương xót xa. Túy Lang giống y như đứa con
nít ấy. Chiều 26/9 lên Tổng Hợp chơi với Túy Lang (để Túy Lang vui mà
không đòi bỏ học), lúc đó đã gần năm giờ. Thụy đòi về, Túy Lang chẳng
nói gì, cứ ngồi bẻ vụn chiếc kẹp tóc trên tay như hờn dỗi. Túy Lang đã
cần tới Thụy đến thế sao! Đêm đó Thụy về không ngủ nổi.
“Đôi lúc không hiểu được con người thật của Túy Lang nữa.
Túy Lang có cùng lúc trong chính mình quá nhiều cái mâu thuẫn. Nhớ có
lần thấy lạ, Thụy hỏi, Túy Lang đã cười như không:
- Không có vực thẳm thì làm sao có núi cao chớ!
Túy Lanh “hư” nhiều hơn “nên”, nhưng chẳng hiểu sao Thụy
vẫn cứ thương nốt những thói hư đó, phải chăng chỉ vì Túy Lang luôn bước
tới và nhìn lên trong niềm cô đơn không nói được. Túy Lang đam mê nhiều
thứ quá, nhưng tay vẫn không rời bút sách. Thụy đi rồi, có hư bao nhiêu
cũng rán giữ lại cái đẹp sau cùng đó nha Túy Lang!
“Mình biết nhau, hiểu nhau (cứ cho là vậy) rồi thương
nhau và bây giờ xa cách nhau (đâu biết được là vĩnh biệt nhau), trước
sau chỉ tròn mười một tháng. Nhanh quá phải không Túy Lang, vẫn chưa đủ
một năm mà…
“Thụy đã đọc hết và đọc thật kỹ những cuốn sách Túy Lang
bảo đọc, tác giả Tây Tàu đủ cả, và lúc đầu thật tình Thụy cũng không
hiểu tại sao Túy Lang khuyên Thụy đọc chúng. Hỏi Túy Lang, Túy Lang bảo
y như lời Kinh Thánh: Cứ đọc đôi bà lần sẽ hiểu, Túy Lang kì dị và tinh
nghịch không chịu nổi, bảo Thụy đi tìm đọc bản nguyên tác Anh văn hoặc
Đức ngữ càng tốt, của cuốn Câu Chuyện Dòng Sông (H.Hesse), bản dịch
tiếng Việt đọc xong rồi còn đọc trở lại nguyên tác làm gì, mà nếu có
muốn đọc, ngoại ngữ của Thụy cũng đâu kham nổi. Lại hỏi Túy Lang, Túy
Lang cười giải thích nghe mà lẩn thẩn:
-Có tác phẩm nên được đọc thẳng nguyên tác (điều này Thụy
cũng thấy thế), riêng cuốn Câu Chuyện Dòng Sông thì phải đọc để biết
thêm cái tên thiệt bằng tiếng Phạn mà Hesse đặt cho nhân vật nữ trong đó.
Kiều Lan chỉ là tên Việt trong bản dịch thôi. Cái tên Phạn của Kiều Lan
có ý nghĩa hay lắm!
“Sau này hiểu được Túy Lang thật ra chị đọc được lỏm bỏm
đôi ba thứ tiếng, còn tiếng Đức gần như mù tịt, thì Thụy mới thấy giận
Túy Lang. Giận mà không thể không phì cười cái tánh ăn gian đó của Túy
Lang.
“Bây giờ thì Thụy phải sắp rời xa Túy Lang rồi và cũng đã
hiểu tại sao Túy Lang thường chọn sách cho Thụy đọc. Thụy cũng hiểu cả
cái nghĩa chữ Phạn của cái tên người con gái trong tác phẩm Câu Chuyện
Dòng Sông của H.Hesse. Kiều Lan thật ra là Kamala, Kamala là nước, cái
tạo nên những dòng nước, giọt nước và bất cứ cái gì được sinh ra từ nước:
trôi đi, tuôn đổ, phiêu bồng, tí tách, cuồng nộ…
“Trong một lá thư gửi Thụy, Túy Lang đã bắt đầu vào thư
bằng mấy chữ “KL của ta” cái tên Kiều Lan (hay Kamala) được viết tắt
nhưng Thụy hiểu đó là chữ gì và phải chăng Túy Lang đã muốn xem Thụy như
một Kiều Lan, một dòng sông, một giọt nước đi qua đời mình? Túy Lang
thật ra vẫn cô đơn một cách kỳ lạ ngay cả khi đã nói lời thương Thụy.
Đôi lúc Thụy thấy mình chỉ là một giọt nước bé xíu hay khá hơn cũng chỉ
là một dòng sông bên dưới đồng bằng không thể giúp được cái tâm hồn
chênh vênh của Túy Lang một chia sẻ nào hết. Có bao giờ Túy Lang nghĩ
vậy không hở Túy Lang và nếu có, hẳn Túy Lang đã buồn lắm phải không?
“Viết tới đây, Thụy phải thay cái bút mới. Nãy giờ Thụy
vẫn dùng cây bút Túy Lang tặng hôm sinh nhật. Bây giờ nó hết mực rồi
nhưng Thụy sẽ giữ lại như một kỷ vật về Túy Lang. Cây bút có in hình con
gấu Kaola Châu Úc hay gấu trúc Trung Quốc gì đó Túy Lang còn nhớ không?
Túy Lang thường bảo mình thuộc mạng Thổ và khắc Thủy
nhưng tại sao lại thích gọi Thụy là Kamala chứ!
“Thủy Thổ tương khắc nên bây giờ mình xa nhau đó phải
không? Bỗng dưng Thụy chả muốn là Kamala nữa, mà là một bến sông. Chữ
Phạn có cho phép dịch chữ Kamala rộng rãi hơn một tí không, và nếu là
bến sông thì chữ Phạn là gì hở Túy Lang? Bến sông có thể là Thổ hoặc Mộc,
có thể chơi với Thổ mà không sợ bị khắc kỵ phải không?
“Túy Lang gần ba mươi tuổi rồi, coi như đã nửa đời mà vẫn
phiêu bồng trôi giạt. Túy Lang di chuyển như con thuyền ấy. Về lại đi
nghe Túy Lang. Dù có ở phương trời nào, Thụy cũng xin là một bến sông
cho Túy Lang mà. Nói vậy không có nghĩa là Thụy không nhớ đến khả năng
của Túy Lang. Túy Lang vẫn luôn có thể tự tìm thấy cho mình một chỗ ghé
về nhưng bao năm qua rồi. Túy Lang dù đã trưởng thành và trôi nổi từ rất
sớm, vẫn dường như còn mãi lênh đênh. Có phải Túy Lang đã không muốn
mình tiếp tục cô đơn trên một bến sông nào đó? Nếu đúng vậy và đã xem
Thụy như một dòng sông để xuôi thuyền thì tại sao Túy Lang lại không thể
coi Thụy như một bến sông. Thụy tin ở đó Túy Lang sẽ không còn cô đơn và
có thể tìm thấy từng giấc ngủ yên lành.
“Thật ra, như Túy Lang cũng thấy đó, Thụy đã không phải
là một người có thật nhiều thứ để cho Túy Lang nhưng nếu Thụy không lầm
thì Túy Lang cũng đâu cần tới quá nhiều thứ trên đời. Và thật đơn giản,
Túy Lang chỉ cần tìm được một bến sông, chỉ cần một bến sông thôi phải
không?
“Như Túy Lang đã thấy đó, trước sau gì Thụy cũng không là
một nhân vật Kamala trong đời Túy Lang nếu quả thật Túy Lang đã có lúc
nghĩ mình là một Tất Đạt như Hesse đã viết. Thụy cũng ngại khi nghĩ tới
tâm sự một ni cô Giác Chúng của Ngọc Lâm quốc sư. Thụy biết mình không
thể sống được với những nếp đời đó. Vả chăng, Túy Lang cũng biết mà,
không ai có thể sống rập khuôn theo một nhân vật tiểu thuyết nào đó mà
lại tránh được việc dối lòng. Có những quy luật cuộc đời đúng là chua
xót nhưng mình không thể phủ nhận hay trốn chạy nó. Thụy biết Túy Lang
sẽ buồn nhiều trong những ngày Thụy vừa ra đi nhưng Thụy tin cái gì cũng
phải phôi pha đi. Ai trong đời lại không có chuyện đau lòng nhưng chẳng
lẽ người ta lại cứ suốt đời ôm giữ tất cả những nhức buốt đó. Thụy nghĩ
họ sẽ chết trước khi quen được hay giàn xếp được nó…
“Có buổi chiều ở lớp giáo lý, khi giảng về mười hai duyên
khởi, Túy Lang đã nói một câu thật tuyệt vời mà sau đó Thụy đã chép vào
sổ tay rồi mai đây sẽ mang nó theo suốt đời. Túy Lang bảo rằng cũng may
là đời sống luôn vô ngã và bất toại nếu không thì giả sử ai đó cùng lúc
toại nguyện tất cả ước mơ chắc là phải khó xử lắm: chẳng hạn một thiếu
nữ muốn mình suốt đời ngọc khiết băng thanh bên cạnh người bạn đời thật
lý tưởng!
“Trường hợp của chúng ta chắc là cũng không khác với cái
ước mơ mâu thuẫn đó phải không Túy Lang? Mình không muốn xa nhau và cũng
thừa hiểu rằng được sống cạnh nhau có thể sẽ vui lắm. Nhưng cái trớ trêu
là Túy Lang chỉ yêu được Thụy khi Thụy đúng là Thụy của sáu tháng trước
và ngược lại Thụy cũng sẽ chỉ còn yêu Túy Lang đúng là Túy Lang mà Thụy
đã nhìn thấy. Càng xích lại gần nhau, chúng ta càng dễ đánh mất chính
mình và điều đó cũng có nghĩa là chúng ta đã đánh mất nhau rồi…
“Túy Lang có thấy không, càng gần Thụy, Túy Lang dường
như đổi tính, đôi lúc như trẻ con (điều này tạm chấp nhận được) nhưng
rồi Túy Lang hình như có lúc sinh thêm lắm tật kì cục khác nữa, những
tính khí hoàn toàn đi ngược lại tâm hồn thơ mộng, hồn nhiên, điềm tĩnh
của Túy Lang hồi nào. Túy Lang ghen tuông hơn, kẻ nhặt hơn và nóng tính
vô lý, bất thường. Túy Lang thấy đó, Túy Lang ẩn sĩ, Túy Lang học giả,
Túy Lang du sĩ, Túy Lang thi nhân…hình như bị tật nguyền cả rồi. Bởi vì
yêu Thụy nên Túy Lang đã đổi thay, Thụy càng thương hơn nhưng dĩ nhiên
cũng không xóa được những ám ảnh về swh thay đổi nhanh chóng của Túy
Lang.
Còn về mình, Thụy cũng tự thấy Thụy đã không còn là con
nhỏ Thụy thơ ngây, nhanh nhẹn, hiếu học nữa. Nhiều lúc cứ lo dòm ngó Túy
Lang rồi thấy mình như một bà lão lẩm cẩm. Nhật ký không có nội dung gì
ngoài những suy nghĩ về Túy Lang, lười đọc sách, cả mấy cuốn album tem
cưng nhất cũng bị bỏ xó.
“Có một thứ quy luật hết sức đơn giản mà chúng ta không
thể nào quên được là mọi vật trên đời luôn tồn tại bằng sự tương quan
với một hay nhiều thứ khác nhưng có điều là tự mỗi sự vật có một bản
chất, thuộc tính riêng và từ đó cũng có chức năng không giống nhau, dù
có quan hệ mật thiết với nhau đến mấy. Nhớ hồi xưa Túy Lang cũng đã nói
tới quy luật này trong lớp giáo lý mà. Bốn Danh uẩn hay tám sắc Bất Ly
đó, chúng không thể tồn tại mà thiếu nhau, thậm chí quy định lẫn nhau,
nhưng Tưởng là Tưởng và Hỏa chỉ là Hỏa thôi.
“Ba tháng trước, Túy Lang biết không, khi được gia đình
nói rõ về việc ra đi này, Thụy đã chết điếng người và nhớ tới Túy Lang,
đến chuyện chúng ta nhưng rồi cũng ngay tuần lễ đau xót đó, Thụy đã nhớ
lại bài học Túy Lang đã dạy và bằng một sự bình tĩnh thật kỳ lạ, Thụy đã
thấy được con đường mình phải chọn.
“Để giữ lại được chính mình và để không mất nhau (ít nhất
cũng là trong tâm tưởng) thì chúng ta không thể suốt đời sống mộng mơ
mãi được. Một sự kết hợp không hợp lý chỉ là một sự lắp ghép khiên cưỡng
thôi phải không Túy Lang? Chúng ta mỗi người một con đường, một phương
trời riêng tư. Chúng ta chỉ có thể tương quan chứ không thể tương tức.
Thụy không thể tẩy xóa chính mình để trở thành một Túy Lang thứ hai và
ngược lại Túy Lang cũng đâu thể biến mình ra một nhỏ Thụy để hai người
chúng ta được thành một khối. Mà nếu cố tình nhốt chung hai cánh chim
vào cùng một chiếc lồng chật hẹp thì Thụy e là mình không thể sống được
đâu phải không Túy Lang? Trước hết, chúng ta đã đánh mất tiếng hót rồi
sau đó là không khí để thở. Chúng ta phải bay đi mỗi đứa một phương trời
và dĩ nhiên đã là những cánh chim đồng loại thì bất cứ nơi đâu, lúc nào
mình cũng vẫn có thể tái ngộ. Đời càng mưa bão, cuộc tương phùng sẽ càng
nhiều ý nghĩa.
“Nào, bây giờ Túy Lang hãy nói đi, Túy Lang muốn Thụy sẽ
là gì trong đời nhau hở: Một dòng sông, một bến đỗ, một giọt nước hay
một cánh chim đồng loại. Chữ Phạn Kamala không đủ xài, hãy cho Thụy biết
cả tên Phạn của những thứ còn lại nha Túy Lang, nhà cổ ngữ học của Thụy…”
Thụy viết đúng bốn mươi trang sổ nhật ký, nét chữ nắn nót
lúc đầu càng cứng rắn về sau. Tôi đọc như để cố nuốt hết vào lòng mình
những dòng chữ đó. Thụy đã làm tôi bất ngờ quá. Cô vững chãi và sâu sắc
hơn tôi vẫn nghĩ. Xa mất nhau rồi mới thấy quí nhau hơn.
Có phải Thụy muốn dạy tôi phép nhìn người cho chính xác?
Hay cô muốn mình vẫn tiếp tục là một Kamala duy nhất trong tôi dù đã là
một cánh chim nghìn trùng viễn xứ…
Kỷ vật Thụy để lại cho tôi ngoài quyển nhật ký còn có một
viên đá Sapphire xinh xắn hình giọt nước. Nhìn nó trơn bóng, lấp lánh,
tôi nhớ tới giọt nước mắt của Thụy những khi cô khóc. Thụy đã gói chung
viên đá với quyển nhật ký vào một chiếc phong bì.
Hai tháng sau ngày Thụy đi, tôi có nhận được một lá thư
của cô. Thư viết thật ngắn. Thụy cho biết cô đang đi làm để có điều kiện
vào Đại học. Chẳng biết đùa hay thật, Thụy bảo sẽ chọn ngành cổ ngữ học
Đông Phương. Nghe vậy thì biết vậy, tôi chỉ hồi âm mấy dòng và khuyên
Thụy y như trong Kinh là hãy sống và thực hiện theo những gì mình thấy
đúng và cần thiết, dĩ nhiên chỉ nên quyết định sau khi suy nghĩ thật cẩn
thận. Thư đi và thời gian trôi…
Chúng tôi mất tin tức nhau đúng ba năm trời rồi bất chợt
một hôm tôi nhận được tấm card postale của Thụy gửi về từ Amsterdam, Hòa
Lan, Thụy đã bỏ Canada qua sống bên đó và đang theo học ngành cổ ngữ học
Đông Phương. Thụy bảo hai mùa nghỉ hè qua đã sang tham dự các khóa thiền
định ở Anh Quốc và Châu Úc. Mừng cho cô và bỗng nghe buồn cho mình…
Nhớ hồi nào, kẻ rong ruổi phiêu bạt chính lá Túy Lang. Có
lận đận gieo neo đến mấy, Túy Lang ngày đó cũng vẫn là một cánh chim
trời. Đời sông hồ dẫu nước mắt nhiều hơn nụ cười nhưng mình vẫn luôn
được xoải cánh thênh thang. Rồi đến ngày về lại phố, Túy Lang vẫn là một
ẩn sĩ lấy cái nhìn từ cao sơn mà ngắm thiên hạ. Gặp Thụy rồi thương nhau,
đôi lúc Túy Lang thấy hình như tình yêu đó đã chấp cánh cho mình bay đến
những bến bờ kỳ thú hơn, dù có thể đó chỉ là những bến bờ viễn mộng…
Ấy vậy mà bây giờ tất cả đã bay xa. Tôi đã thành ra người
ở lại góc trời hiu hắt này với cái bóng mồ côi của mình. Sau lần nhận
được tấm card postale từ phương trời Uất kim hương ngàn dặm đó, đã hai
năm rồi, Thụy cứ bặt tăm.
Chiều nay, trên chuyến phà Mỹ Thuận qua mặt sông phủ mưa
lạnh buốt, tôi tình cờ đứng tựa vào một chiếc xe xa lạ và chợt nhói đau
đâu đó trong lòng khi nghe mơ hồ trong gió mưa một bài hát ma mị được
phổ nhạc từ một bài thơ nào đó, hình như là của Du Tử Lê:
“…Thụy bây giờ ở đâu
Anh là chim bói cá
Em là bóng trăng ngà
Chỉ cách một mặt hồ
Mà nghìn trùng chia xa
…Thụy ơi và tình ơi!”
“Thụy bây giờ ở đâu”…Sao lại có sự trùng hợp kỳ lạ đó.
Tôi nhớ Thụy quay quắt. Thụy ơi, người ta chỉ mượn hình ảnh một mặt hồ
mà còn bảo là nghìn trùng chia xa. Còn Thụy với tôi cách nhau đến những
nửa vòng Trái Đất, biết có từ ngữ nào để tả cái khoảng cách vời vợi đó
hay không.
Chuyện đời nhiều bất trắc quá phải không Thụy, nhưng mãi
cho tới chiều nay tôi cũng không biết phải nói sao về câu chuyện của
chúng ta. Cuộc gặp gỡ giữa hai người phải chăng không nên xảy ra: Mình
đã làm xáo trộn đời nhau bằng những nhức buốt hình như không cần thiết
rồi cuối cùng cuộc chia tay chỉ làm cực lòng nhau thêm thôi. Nhưng có
nên chăng khi tôi gọi đó là câu chuyện cần có trong một đời người, đẹp
và thật nhiều ý nghĩa: Tôi đã gặp Thụy trong thời điểm cô đơn tuyệt cùng,
tôi đang trôi giạt và Thụy đã như một bến sông. Thụy đã gần như cứu
thoát tâm hồn tôi từ những giông bão của đời sống. Tôi đã trưởng thành
hơn kể từ ngày có Thụy. Thụy đã dạy tôi làm thầy, làm trò, làm bạn và
làm một người yêu. Trên tất cả, cuộc ra đi của Thụy tuy đã mang theo một
phần tuổi trẻ của tôi nhưng chiều nay, ở tuổi ba mươi này, tôi vẫn giữ
được khá trọn vẹn manh áo du sĩ mà thật ra vẫn muốn giữ lại suốt đời như
một lựa chọn sinh tử. Tôi mất Thụy cho tôi bình yên, liệu có nên nói thế
không hở Thụy?
Tôi không biết rõ về nhân vật Thụy của Du Tử Lê, nàng đã
là một người có thật trong đời ông hay chỉ là một bóng dáng đàn bà trong
thi ca. Nhưng riêng tôi, tôi có một Thụy như thế đã từng đi qua đời mình.
Nhưng…Thụy bây giờ ở đâu!
Tôi từ đó cứ thương hoài những dòng sông, những giọt nước
để nhớ về một Thụy Kamala…
Cuối hạ 96