Toại Khanh
Đành thôi, về núi chép kinh
Chép lên vách đá cho ḿnh mai sau
(TK)
Thiên hạ vẫn
gọi ông bằng cái tên ấy dù ông tự thấy không phải thế, và con dơi cuối
cùng trong sơn động của ông, có lẽ không chịu được mùi hương trầm, cũng
đă bay mất từ nhiều năm trước. Thế nhưng ông cứ tiếp tục tồn tại trong
ḷng mọi người bằng cái đạo hiệu ngộ nghĩnh đó. Ông không giải thích,
không t́m cách sửa đổi nó. Ông mặc nhiên chấp nhận nó như đă từng im
lặng đón nhận một mệnh vận của đời ḿnh từ ba mươi năm trước.
Ngày đó,
tuổi trẻ ngang tàng, nhiều mộng lớn, thích dong ruỗi đó đây, Xích Hăn
Bạt Tư theo khách thương hồ bán buôn rồi lưu lạc quê người. Ngày ḅn
được chút của nả, ông c̣n có thêm một người vợ mặn ṃi nhan sắc. Sau một
lần trúng quả, ông bàn với đám bạn chuyện hồi hương. Một người phản phúc
trong đám bạn đă vụng trộm với vợ ông rồi lừa cả bọn giao cho đám sơn
tặc. Bị tước sạch mọi thứ, bọn ông c̣n bị giam giữ như tù nhân để tiếp
tục chịu thêm những trận đ̣n khảo của. Ḷng nhớ quê, cộng thêm nỗ sợ
chết, đă giúp bọn ông có được cái gan dạ của những người tử tù bạt mạng.
Cả bọn tổ chức một cuộc trốn chạy liều lĩnh giữa một vùng núi rừng xa lạ
và hiểm trở trong một đêm giông băo tối trời. Họ gặp phải cơn lũ rừng
tàn bạo và bạn bè ông đă chết hết trong chuyến đi ấy. Chỉ c̣n lại ḿnh
ông. Xích Hăn Bạt Tư sống sót như một kỳ tích. Trong ánh chớp ḷe lúc
đó, nh́n thấy người bạn cuối cùng đă ch́m xuống con thác, ông nhắm mắt
chờ đợi đến lượt ḿnh bị cuốn phăng xuống ấy.
Vậy rồi sau
chừng một ngày đêm, ông tỉnh dậy trên băi cỏ này. Cái đầu tiên ông nh́n
thấy chính là một sơn động nhiều dơi với một khe nước len lỏi bên cạnh.
Hai tay đă trắng, mộng đời đă tan, ông chợt có ư lưu lại nơi này như một
cơi quê mà chẳng cần hồi hương về đâu nữa. Quê hương là chốn về, và bây
giờ ông đă về đây, thế không phải quê hương th́ c̣n là nơi đâu nữa. Ngó
mấy con khỉ, con chim trên rừng ông ngẫm nghĩ. Chúng sống được nơi này,
sao ông lại không. Ông nhổ cỏ xếp đá để dọn lối vào hang và chỉ biết vơ
vẽ một ít chữ nghĩa, ông tẳn mẳn chạm vào đá một chữ Tâm cao ngang đầu
người giữa dấu khuyên tṛn như một chữ triện.
Đôn Hoàng
thời ấy là chốn linh địa văn hoá của Trung Hoa trong vị trí tiếp nhận
nhiều nguồn văn hoá văng lai. Thương gia, học giả, tu sĩ các tông phái
đặt chân đến đây đều để lại ít nhiều dấu ấn. Cao nhân, kỳ thư không
thiếu, nhưng chẳng hiểu sao Xích Hăn Bạt Tư lại cứ vô tâm trước mọi mời
gọi như đang sống vẹn ḷng cho một nhân duyên tiền kiếp.
Ông độc cư
mà không là ẩn sỹ. Sống ẩn tu lánh đời mà không hề biết đến một nghi
thức thờ phụng nào. Không biết phải xếp ông vào đâu, những người hái củi
quanh vùng đă gọi ông là đạo sĩ hang dơi. Thiên hạ nh́n về ông bằng nhận
xét đó, ông không màng, v́ ông biết ông. Ông biết ḿnh cũng là một tín
đồ, nhưng của một đường lối hành đạo mà vị giáo chủ đă như vô danh, một
giáo phái không có bệ thờ thần tượng. Đèn đóm ở đây chỉ để thắp sáng.
Nhang khói ở đây chỉ để xua tan uế khí và sưởi ấm con người. Bao nhiêu
hương đăng sùng kính đă được dọn hết vào ḷng…Cho một người ẩn tu như
ông có thể để người đời muốn gọi sao th́ gọi.
Mọi chuyện
được bắt đầu từ một buổi sáng quét dọn hang động, lúc ông đă sống nơi
này được ba năm.
Không ly kỳ
như những t́nh tiết thêu dệt trong các chuyện dă sử, cái ông bắt gặp
được trong hốc đá sáng hôm đó chỉ là một cuộn giấy dó nhàu nát đặt trong
ống tre xem chừng cũng đă khô mục. Rọi bó đuốc vào hốc đá ông c̣n nh́n
thấy ba chữ lớn nguệch ngoạc trên vách động: Hang Thường Tiếu.
“Kalaguha
đă nói như thế. Ta là gă ẩn sỹ ham vui, thích rong chơi trong cơi thiền
định. Những ghi chép ở đây chỉ là những chuyện cười thời mạt pháp. Chỉ
là những nụ cười nghe qua rồi bỏ. Sơn động ta từ đó đôi khi vang dội
những tiếng cười trong đêm. Khách dạ hành nghe thấy và chẳng biết ai
trong số họ đă gọi nơi đây là hang Thường Tiếu. Ta cười mỗi đêm, cười
suốt một đời và chỉ cười một ḿnh. Nên chăng, hỡi người hữu duyên, những
nụ cười bật máu để giải thoát?”
Cuộn giấy có
vẻ là một tập cổ thư và tuyệt không một chỗ đánh dấu trước sau, nhưng đă
được bắt đầu bằng những câu nói như ẩn ngữ ấy. Kalaguha là ai? Bặt!
Mấy trang
đầu của cuộn giấy đă nhoè, Xích Hăn Bạt Tư lần giở mấy trang c̣n lại.
- “Đêm
thiền định thứ chín. Ta nh́n thấy một chuyện buồn cười đang xảy ra ở một
thành tŕ lớn cách đây vạn dặm. Đại sư kia có hơn hai ngàn môn đồ. Một
phần ba trong số đó đă là những bậc danh sư nhưng đều một ḷng kính sư
trọng đạo. Mỗi ba năm một lần, họ quay về họp mặt dưới chân sư phụ.
Hương đăng lễ phẩm chất cao như núi. Vị đại sư đương nhiên được trọng
vọng như hiền thánh. Ông xứng đáng thế. Bác lăm quần thư, lợi khẩu biện
tài và ngoại diện xuất chúng. Ngày đại sư xuôi tay, tễ tướng đích thân
khâm liệm. Hỏa đài toàn bằng trầm kỳ, mùi hương toả ngát trăm dặm. Trong
số môn đồ chịu tang, có không ít những bậc long tượng thời danh. Một
trong số đó sắp được vua tấn phong ngôi viện chủ kế tục đại sư. Bằng
thiền định, ta biết rơ người tân nhiệm này và hơn mười vị nữa đều là
giọt máu của đại sư lúc sinh thời. Dù nghe đâu đại sư xuất gia từ bé.
Kalaguha đă nh́n thấy chuyện đó với tiếng cười trong đêm.”
- “Đêm
thiền định thứ mười. Vẫn chuyện nh́n thấy trong đêm. Gia đ́nh triệu phú
Hoắc Chân nổi tiếng giàu có và quyền thế ở thành phố Năi Man. Thứ nam
của ông một ḷng thờ kính cha già, dâu ông trinh thục đảm đang và tất cả
các cháu nội ngoại đều ngoan hiền hiếu để. Quan tổng trấn địa phương vẫn
thường lui tới nhà ông như người trong thân tộc. Từ nhiều năm nay dinh
thự của ông vẫn được vua xem như một hành cung. Bằng thiền định, ta thấy
rơ ông thứ nam kia chỉ một dạ nghĩ đến gia tài thừa kế v́ người anh cả
vốn không có cơ mưu, vô tư nhẹ dạ. Măi lo toan tính lừa mị cha già, gă
thứ nam không hay biết vợ ḿnh đă đi lại với một anh nài ngựa. Đám con
của gă hiểu rơ chuyện riêng của cha mẹ nên cũng mỗi người một mộng, chỉ
nghĩ đến những thứ vật chất mà cha ḿnh tranh thủ được từ ông nội. Gái
đem tiền nuôi kép hát, trai đem của nuôi kỹ nữ. Một gia tộc tan nát đến
thế mà vẫn được người đời xem như gương sáng để noi theo. Kalaguha đă
nh́n thấy chuyện đó với tiếng cười trong đêm.”
- “Đêm
thiền định thứ mười một. Khuya nay có bà mẹ đă chấp nhận một đường dao
hiểm ác để bảo vệ đứa con trong bụng. Bản ngă trong một bản ngă và sự hi
sinh v́ tha nhân chỉ cách nhau trong gang tấc. Chỉ tiếc bà mẹ ấy không
thấy ra sự khác biệt như sơn này. Kalaguha đă nh́n thấy chuyện đó với
tiếng cười trong đêm.”
- “Đêm
thiền định thứ mười hai. Ngoại thành Uất Chi đêm nay có một vị tướng
quân trốn vợ nhà để đến với t́nh nhân là một cô gái nghèo mà không hề
biết rằng nàng chỉ ḅn rút của ông để cung đốn cho t́nh lang là một
thương khách hào hoa. Và người thương khách kia lại ngày đêm tưởng nhớ
một mệnh phụ tuyệt sắc mắc bệnh đồng tính luyến ái. Kalaguha đă nh́n
thấy chuyện đó với tiếng cười trong đêm”
Lại phải bỏ
đi vài trang không đọc được.
- “Đêm
thiền định thứ mười sáu. Ngoài khơi Bột Hải có một hoang đảo lớn rộng
vốn được đám hải tặc bao đời chọn làm chỗ chôn của. Đêm nay một nhóm hải
tặc lại mang về đảo phần châu báu vừa cướp được và tiếp tục cất giấu
trong một hang đá từng là kho tàng của một thế hệ cướp biển tiền bối. Từ
trăm năm trước, sau một cuộc tương tranh nội bộ, đám cướp đó đă bị một
đàn em đầu độc và tất cả châu báu trong hang đến nay vẫn c̣n nguyên vẹn.
Số nầy lớn gấp trăm lần số châu báu của đám hải tặc hiện tại. Đêm nay
ngoài số vàng ngọc, chiến lợi phẩm của chúng c̣n là một cô gái trẻ đẹp
bị câm từ bé mà không ai trong bọn chúng biết được rằng nàng chính là
đứa con gái mất tích của tên đầu đảng. Đến bây giờ cả bọn vẫn không biết
ǵ về kho tàng kia cũng như thân phận thật sự của cô gái nạn nhân.
Kalaguha đă nh́n thấy chuyện đó với tiếng cười trong đêm.”
- “Đêm
thiền định thứ hai mươi. Một số đông tín đồ ở tự viện kia đang x́ xụp
bái lạy thầy viện chủ như thánh sống. Trong suy nghĩ của họ, không ai có
thể hơn được một nhục thân Bồ Tát như thầy ḿnh được. Bằng thiền định,
ta ngậm ngùi thấy ra một sự thật đau ḷng phía sau sự vụ. Bằng thủ thuật
giảo hoạt của một tay gian thương bậc thầy, thầy viện chủ thường khéo
léo che dấu sở tri nghèo túng của ḿnh bằng tiếng cười x̣a rồi đưa họ
vào một mê lộ quên lối về. Thầy cũng có thể thoát hiểm bằng cách ném một
nhận xét phạm thượng lên ai đó để ngầm chứng minh là ḿnh cao hơn kẻ ấy
một bậc. Thế là hàng ngàn tín đồ của thầy cứ thầm hănh diện rằng ḿnh đă
t́m thấy minh sư trong thời mạt pháp. Suốt cuộc đời lừng lẫy, chỉ bằng
hai cách khen chê có chủ ư, thầy đă vùi xuống bùn vô số người mà thầy
xem là đối thủ. Kalaguha đă nh́n thấy chuyện đó với tiếng cười trong
đêm.”
“Tội khổ
trầm luân biết nên khóc hay cười. Bao nhiêu kho tàng trên đời đă bị lăng
quên mất dấu ngay trước mắt những người t́m kiếm ? Biết bao nhiêu bí mật
sinh tử trong những kiếp người đă không được biết đến. Nước mắt vẫn tiếp
tục chăy xuôi giữa ḷng nhân gian quá khan hiếm nụ cười. Kalaguha đă nói
như thế. ”
“Ta vẫn
từng đêm ngắm nh́n những chuyện đời nghịch lư và cũng từng đêm suy tư về
những con đường nghịch thường mà ta trộm gọi là nghịch đạo. Nếu chẳng là
nghịch đạo thế sao một bậc đại thánh ngày xưa sau đêm giác ngộ chỉ muốn
im lặng ra đi không nói một lời ?”
“Hỡi
người hữu duyên! Minh triết của thánh hiền xưa, giờ đă quá mênh mông với
những phàm tâm dễ dàng bội thực. Ta sẽ dạy cho ngươi con đường nghịch
đạo vốn hợp với tạng phủ những người không nhiều trí nhớ. Biển khổ vốn
từ những ḍng chảy mê lầm mà tích tụ. Bi kịch nào của thế nhân cũng đi
ra từ nỗi vong thân, niềm vọng ngoại. Bị h́nh thức lừa mị, người đời sẽ
quên mất nội dung. Ta sẽ dạy cho ngươi con đường nghịch đạo thứ nhất
vượt thoát mọi lừa mị…
“Có một
con đường dẫn đến sự thanh tịnh mà xưa nay vẫn hiếm người chấp nhận.
Người hữu duyên! Đó là đạt đến cơi thanh tịnh bằng con đường Bất Tịnh
Quán. Không thấy được cái dơ xấu ngay trên tấm thân này, sẽ không nh́n
ra những cái đẹp khác huyền nhiệm hơn. Nhận thức này sẽ dẫn đến một
phương trời cao rộng cho hành giả. Không hành sẽ không hiểu. Đây là
nghịch đạo thứ nhất. Kalaguha đă nói như thế.
“Ta lại
dạy ngươi con đường nghịch đạo thứ hai. Có một con đường dẫn đến sự Bất
Tử bằng tâm niệm thường trực về chính cái chết. Không thấy được cái chết
sẽ không thể biết sống. Ôm lấy trăm năm là chối bỏ vĩnh cửu. Đời sống
cần được nh́n thấy là từng giây phút ngắn ngủi đang trôi qua. Sống trong
sự tỉnh thức này, ngươi sẽ đạt đến cảnh giới bất tử. Đây là nghịch đạo
thứ hai. Kalaguha đă nói như thế.
“Ta lại
dạy ngươi con đường nghịch đạo thứ ba. Có một con đường tốt nhất để hành
giả đạt tới khả năng tự vệ như một cao thủ thật sự. Đó là hăy nghĩ nhiều
về muôn loài trước khi nghĩ về ḿnh. Ta nói với ngươi: Vong thân để sa
đà quả không nên có, vong thân để yêu người đúng là chẳng nên không.
Trong niềm yêu thương vô bờ đối với tha nhân, ngươi sẽ được bảo vệ cẩn
mật. Kalaguha đă nói như thế.”
“Ta lại
dạy ngươi con đường nghịch đạo thứ tư. Có một con đường dẫn đến quyền
năng tối thượng, có tất cả trong tay, chính là buông bỏ tất cả. Đó là
phép bán buôn của một đệ nhất hiền giả. Kalaguha đă nói như thế. “
“Ta lại
dạy ngươi con đường nghịch đạo thứ năm. Có một con đường dẫn đến sự an
lạc tuyệt đối. Đó chính là sự từ bỏ tất cả khoái lạc để được an lạc. Chỉ
có sự an lạc này mới là niềm hạnh phúc thật sự của một hiền giả.
Kalaguha đă nói như thế.”
“Ta lại
dạy ngươi con đường nghịch đạo thứ sáu. Có một con đường giúp ngươi có
thể t́m quên tất cả đau khổ là sự ghi nhớ tỉnh táo từng khoảnh khắc
sống. Hăy nh́n ngắm chính ḿnh và thế giới chung quanh như nó Đang Là.
Chính nỗi nhớ này sẽ giúp ngươi lăng quên tất cả khổ lụy. Ta gọi đó là
phép nhớ để quên. Kalaguha đă nói như thế.”
Đó là tất cả
nội dung c̣n lại của cuộn giấy trong ống tre. Kalaguha là ai, đối với
Xích Hăn Bạt Tư bây giờ chuyện đó không c̣n cần thiết nữa. V́ ông đă
nh́n thấy Kalaguha, cứ cho là chủ nhân đời trước của sơn động này, một
ẩn sỹ vẫn cười lớn mỗi đêm trên những chuyện đời c̣n nghịch lư hơn cả
những con đường nghịch đạo mà Người đă nói đến.
Xích Hăn Bạt
Tư từ đó đă là một tu sĩ mà đạo sư chỉ là một người xa lạ nào đó có cái
tên Kalaguha. Kalaguha là một giáo chủ, hay lại chỉ là một người nhắc
lại lời xưa, thuật nhi bất tác? Kalaguha c̣n nh́n thấy bao nhiêu chuyện
đời ngang trái nữa, và c̣n lại bao nhiêu con đường nghịch đạo mà Người
vẫn chưa nói hết? Câu trả lời lại cũng không cần thiết, v́ Xích Hăn Bạt
Tư đă nh́n thấy. Ông tiếp tục là lăo đạo sĩ hang dơi với nếp đời truyền
thừa thầm lặng như cái ống tre mà ông đă bắt gặp trong buổi sáng định
mệnh. Ông sống được 120 tuổi và ra đi êm đềm như một làn gió, sau khi đă
chép lại những ǵ đă đọc được của Kalaguha và tiếp tục cất lại trong một
ống tre đặt trong hốc đá ngày nào.
Bản kinh Kim
Cương xưa nhất đă được t́m thấy trong một hang động ở Đôn Hoàng. Nhưng
từ đó đến giờ vẫn chưa ai nghe tin tức ǵ về chiếc ống tre của người đạo
sĩ hang dơi. C̣n không? Hay đă mất?
Đầu hạ 2004
TOẠI KHANH