ẨN LAN
Toại Khanh
Kỳ ngộ là
những cuộc gặp gỡ khó có và cũng khó quên. Đôi khi cả cuộc bình sinh
cũng không có nỗi một lần kỳ ngộ. Chẳng biết câu chuyện của tôi có đáng
được xem là một cuộc kỳ ngộ hay không, nhưng rõ ràng nó đã làm thay đổi
một phần định phận đời tôi, nếu có thể gọi thế.
Tôi biết ông
qua một sự tình cờ. Buổi chiều hôm đó, đang lang thang giữa phố Tàu ở
San Francisco, cơn mưa bất chợt đã xui tôi ghé chân vào một hiệu sách và
tôi đã ngẩu nhiên cầm lên một cuốn sách tiếng Anh (ở đó không có sách
Việt) chỉ vì cái tên tác giả (khó phân nam nữ ) và mẩu bìa có chút gì đó
Việt Nam. Ngó sơ vài trang, thấy tí ngộ nghĩnh, giá cũng không đắt lắm,
chỉ 5 đồng bạc, tôi mua về đọc cho vui. Chẵng ngờ…
Đêm đó về
nhà tôi đọc sách đến khuya, tôi muốn nói là cuốn sách vừa mua hồi chiều.
Lâu lắm rồi tôi mới bắt gặp một cuốn sách ma mị như vậy, dù sách không
được viết bằng tiếng Việt và tiếng Anh của tôi chỉ ở mức nửa vời. Tiếng
máy lạnh sè sè trong đêm chỉ khiến tôi có cảm giác mình đang ngồi bên
chân thác Bản Giốc ở Cao Lạng một đêm khuya nào đó và tách cà phê trên
tay tôi lúc đó sao lại có cái mùi ngai ngái nồng nàn của một bát nước
nấu bằng nụ vối.
Sách kể về
một ông giáo Việt Nam thời Pháp thuộc bỏ trường lớp ở Hà Nội để tìm lên
Đồng Đăng gia nhập một nghĩa đảng chống Pháp hoạt động trong lớp vỏ một
toán buôn lậu ở biên giới Hoa Việt. Hoàn cảnh của họ thật phức tạp, vừa
thù trong vừa giặc ngoài. Phòng Nhì Pháp xem họ là chướng ngại cho chính
quyền thực dân, các chính đảng trong nước đánh giá họ là phe đối lập.
Đúng là thân trai bốn bể không nhà, lại lưỡng đầu thọ địch. Đối với cả
hai phía, họ chỉ có một cái tội duy nhất là tấm lòng yêu nước chân thành
không toan tính, không nằm dưới một sức ép ý thức hệ nào. Trong tiềm
thức, họ chỉ nghĩ đến một quê hương đơn sơ có cây đa bến nước, có giếng
đá lũy tre, có một dân tộc biết nhìn ra bốn biển trong cái ao làng và
những con thuyền dù ra biển hay về sông đều có chung bến đổ. Giấc mơ của
họ đẹp quá, chỉ tiếc là quá mong manh. Lý tưởng dân tộc tuy có thiêng
liêng cao rộng nhưng quá bao la người ta khó biết tựa vào đâu để hành
động và làm chính trị nếu không có được một chỗ dựa cụ thể thì có khác
gì tự cô lập chính mình. Từng người trong nhóm lần lượt ra đi không về.
Người Pháp thủ tiêu họ, các đảng phái khác ám sát họ. Từng người trong
số tử sĩ đó đều là phần tử tinh hoa của dân tộc: Họ là những trí thức
trẻ tuổi và đầy ắp nhiệt huyết, vừa có đảm khí vừa có khả năng, mất đi
thì dễ nhưng tìm lại thì quá khó. Sau cùng, để bảo toàn lực lượng, số
còn lại đã gạt lệ chia tay nhau giữa núi rừng Việt Bắc với một lời hẹn
ước xa xôi như nẻo về của dân Việt.
Sách chỉ dày
độ hai trăm trang, cách kể chuyện gần giống như một tiểu thuyết võ hiệp
lịch sử với bối cảnh mơ màng xa khuất của những Người Đẹp Phiên Ngung
Thành, Quán Chợ Đêm Khuya hay Người Đao Phủ Thành Đại La mà tôi từng xem
hồi chưa xa xứ. Điểm đặc biệt là sách có những phụ lục giống hệt sách
Tây. Ngoài mấy trang Index (Từ Dẫn) như thường lệ, sách còn có thêm phần
chú thích cặn kẽ các sự kiện lịch sử có thật cùng những nhân danh, địa
danh có ghi chú chữ Hán khi cần thiết, cứ như một tài liệu biên khảo.
Nhưng điều khiến tôi quan tâm nhiều nhất, theo bệnh nghề nghiệp, là
những chú thích về Phật Giáo, chứng tỏ một kiến giải thâm hậu ít ra cũng
phải của thứ mọt sách có chiều dày Phật duyên.
Tôi chợt có
ý muốn liên lạc với tác giả, nhưng dấu vết duy nhất để lần tìm chỉ là
một địa chỉ Email được in nhỏ xíu ở góc bìa trong của sách, không để ý
sẽ không nhìn thấy. Tôi đã thử dùng địa chỉ đó để viết một cái thư ngắn,
nói cho đúng chỉ là vài hàng nhắn tin với nội dung tự nhận là một độc
giả hâm mộ muốn liên lạc tác giả. Chờ mãi không thấy hồi âm, nghĩ đến
vài lý do tế nhị, tôi lại viết một Email khác và lần này tôi tự giới
thiệu là một tu sĩ Phật giáo tha hương chỉ muốn trao đổi học thuật với
những người mộ Phật, ngoài ra tuyệt không còn lý do gì khác.
Ba bốn tháng
trời trôi qua, vì những bận rộn dồn dập, tôi quên mất người tác giả kia.
Rồi có lúc nhớ ra thì tôi cho rằng có thể ông ta (hay bà ta) đã thay đổi
địa chỉ Email (chuyện này rất bình thường) hoặc chỉ muốn liên lạc với bè
bạn thân quen. Chuyện này lại cũng là điều bình thường, vì đến như tôi
chỉ là một người vô danh cũng thường không để mắt tới những Email có địa
chỉ lạ. Vài người quen vẫn nhắc nhở tôi đề phòng những Email có Virus.
Thế là tôi coi như đã thông qua một chuyện vớ vẩn.
Có lẽ tôi đã
lãng quên mọi chuyện nếu như không có cái Email hồi âm nhận được buổi
chiều hôm đó. Tác giả cuốn Let It Go Away, The Yesterday (Trôi Đi Dòng
Đời ) đã viết hồi âm với lời cảm ơn tôi đã đọc kỹ tác phẩm của ông và
ngỏ ý xin lỗi đã để tôi chờ đợi. Chúng tôi liên lạc với nhau khá thường
xuyên, qua những Email, và sau cùng tác giả đã cho tôi số điện thoại vì
như vậy những cuộc trao đổi sẽ thoải mái hơn. Nghe giọng nói, tôi nhận
ra tác giả là một đàn ông trung niên, có lẽ người gốc Bắc và nói năng ôn
tồn, lễ độ, chữ nghĩa thận trọng. Ông có ý muốn gặp tôi, dù ông đến chỗ
tôi hay tôi đến chỗ ông, ông đều sẵn sàng.
Tôi đã đến
nhà ông sau khi gọi điện thoại báo trước và nếu không được hướng dẫn
từng bước có lẽ tôi đã bị lạc đường. Nhà ông nằm trong một dãy Apartment
nằm giữa những giao lộ chằng chịt như một bàn cờ. Nhằm mùa thay lá,
những hàng cây trước khu nhà của ông xanh mướt chồi non. California mùa
này khá mát mẻ, tôi bước đi trong những cơn gió thơm mùi lá. Nhìn dáng
ông đứng bên thềm nhà, tôi chợt nghĩ đến hình ảnh Krishnamurti những năm
tháng cuối đời. Vẫn chiếc khăn quàng ở cổ, cặp kính cận thường xuyên
trên khuôn mặt xương và vóc người dong dỏng trong bộ tây phục màu xám.
Bên trong
nội thất nhà ông gì cũng đơn giản nhưng ngăn nắp và sạch sẽ. Phòng khách
có lẽ cũng là chỗ ông vẫn ngồi viết lách vì bên cạnh chiếc bàn để
Computer còn có hai tủ sách cao bằng đầu người. Bên cạnh mấy bộ Từ
Nguyên, Từ Hải tôi còn thấy cuốn Ẩm Băng Thất Văn Tập của Lương Khải
Siêu rồi Thiên Hồ Đế Hồ của cụ Phan Bội Châu. Sau này khi đã thân thiết,
ông đã giới thiệu và tặng tôi bộ Phật Học Từ Điển của Đinh Phúc Bảo. Ông
thờ Phật nhưng không thấy chỗ thắp nhang, chỉ thấy một lư trầm nhỏ và
mấy chỗ chưng hoa trong nhà đều là một thứ hoa gì đó màu trắng có củ như
Thủy Tiên và đều được ông cắm trong mấy chiếc đĩa thủy tinh trong suốt.
Về mặt thẩm mỹ, tôi có nhiều điểm rất giống ông.
Qua điện
thoại, ông đã tình cờ biết tôi uống trà nên trong lần gặp gỡ đầu tiên
ông đã pha trà mời tôi và bày ra đĩa mấy miếng mứt gừng trắng tinh nhìn
thật ngon mắt. Tuy không thích lắm với thứ trà Thái Nguyên ướp sen vẫn
khiến mình bị nhức đầu nhưng tôi cứ thấy thú vị với sự tinh tế của ông.
Ông không hút thuốc, không nghiện bất cứ thứ gì, chỉ uống cữ trà buổi
sáng sớm.
Sau mấy câu
hỏi thăm chuyện nọ chuyện kia, ông đem vài chỗ giáo lý ra hỏi tôi và sau
đó tôi mới biết ông là một thầy tu xuất. Trước năm 1975 ông từng là một
sinh viên theo học ở đại học Vạn Hạnh và sau đó bỏ đi tu ở Bà Rịa. Ông
xác nhận mình đi tu là để trốn lính, nhưng không phải do sợ chết mà vì
bị ảnh hưởng tư tưởng phản chiến của một số văn nghệ sĩ đương thời. Ông
nói nhiều khi tự tử, đi tu, làm du đãng, làm văn nghệ,... cũng là cách
lên tiếng của một số người. Câu chuyện dẫn đến nội dung cuốn sách tôi đã
đọc, ông phì cười chất phác:
- Tôi nói
thiệt thầy đừng cười, tôi viết cuốn sách này lúc còn ở trại tỵ nạn Mã
Lai. Đêm đó tự nhiên nằm mơ thấy ông nội về râu tóc bạc phơ, dúi cho một
nắm tiền Đông Dương rồi dàu dàu bỏ đi. Tôi giật mình thức dậy, thấy nhớ
ông nội quá chừng rồi khóc một mình và sau đó ngồi viết về tuổi trẻ của
ông. Ông tôi thời tuổi trẻ từng gia nhập một đảng phái chính trị ngoài
Bắc và ông chính là nhân vật thầy giáo trong cuốn sách của tôi. Ông vào
Nam từ 1954 và mất năm tôi thi Tú Tài đôi. Thuở sinh tiền, những lúc
ngồi buồn ông thường kể chuyện đời cho tôi nghe và khi tôi đã lớn, những
câu chuyện đó lại có thêm chiều sâu, chiều rộng và trở thành vốn sống
cho tôi sau này, kể cả trong chuyện viết lách. Tôi đã viết cuốn sách đó
như một cách tưởng nhớ ông tôi, viết bằng tiếng Việt, và không có ý đem
in. Qua tới Mỹ này, tôi vẫn chỉ xem bản thảo đó như một kỷ niệm riêng tư
dù đã đọc lại và có sửa chữa vài chỗ. Cách đây mấy năm, một thằng bạn
đọc xong bảo là có chỗ xài được. Nó đem về rồi cùng một đám bạn Mỹ rị mọ
dịch sang tiếng Anh. Sau khi đem in rồi gửi tôi một bản, nó nói là sẽ
dùng cuốn đó làm Recommended Book về Sử Việt Nam cho mấy sinh viên của
nó vì trong sách tôi đã trung thực viết lại một giai đoạn chính trị của
nước nhà và nó đã dùng một số tư liệu bên này hiệu chính lại để nội dung
được khá hơn. Dù sao tôi cũng biết ơn nó đã trân trọng một cách nhìn của
tôi về thời cuộc. Ở đây tôi có bản thảo cuốn sách đó bằng tiếng Việt do
chính tôi đánh máy và đã đóng bìa đàng hoàng , để tôi tặng thầy một bản
làm kỷ niệm.
Tôi chợt nhớ
đến một chuyện và đem hỏi ông:
- Xin lỗi,
tôi đọc trong sách của bác thấy hình như bác có dành nhiều thời giờ
nghiên cứu đạo Phật ?
Ông tránh
không nhìn tôi, day day ngón tay lên một vệt nước trên bàn rồi hắng
giọng:
- Cũng chút
ít thôi thưa thầy. Và cái gì cũng phải có cái duyên phải không thầy?
Chuyện kể ra thì buồn cười lắm. Hồi mới qua Mỹ, sau khi học thêm chút
đỉnh tiếng Anh, tôi có đi làm ở bưu điện mười mấy năm. Lúc ấy cứ thấy
buồn thì tôi hút thuốc, hút nhiều lắm. Lần đó nghe trong người khó chịu
quá mới đi khám bệnh ở phòng mạch một thằng bạn thân. Nó bắt thử máu và
sau đó bảo tôi ăn uống cẩn thận, nhất là đừng hút thuốc nữa. Hỏi tại
sao, nó nói có những biến chứng lạ trong các tế bào máu của tôi. Hỏi rõ
thêm nó cũng lấp lửng chừng đó. Tôi đi bác sĩ khác, vẫn kết quả đó và
cũng lời khuyên tương tự. Tôi chợt nghĩ đến một điều mà rùng mình rồi
xin thôi việc ở bưu điện, sau đó ngồi ở nhà làm giấy tờ khai thuế cho
người ta để kiếm thêm chút đỉnh và cũng có thêm thời giờ riêng tư để
nghiên cứu kinh điển. Lúc cao hứng tôi còn học thêm tiếng Hán và tự học
cả chữ Miến Điện để nghiên cứu Luận Tạng Nam Truyền. Từ đó khi viết lách
cái gì có liên quan Phật Học thì cũng thận trọng hơn. Và chỉ vậy thôi
thầy ạ.
Nghe ông kể
chuyện thiệt thà, tôi cứ cảm thấy bồi hồi thật lạ. Đón lấy chén trà ông
vừa rót thêm, tôi xúc động hỏi thăm như với một người thân :
- Nhìn bác
bây giờ vẫn khoẻ mạnh chứ có sao đâu, chuyện bác kể chắc là lâu rồi phải
không ạ?
- Vâng, đã
lâu rồi tôi gần như không còn nhớ tới chuyện đó nữa. Cũng năm sáu năm
rồi thưa thầy. Nhiều lúc tôi ngồi ngẫm nghĩ thấy biết đâu chuyện âu lo
lúc đó lại là cái thuận duyên để tôi tinh tấn hơn không chừng. Thầy biết
không, hồi còn ở Việt Nam tôi có biết một người cũng cùng quê với tôi ở
miền Bắc và nhân cuộc di cư năm 1954, ông vào Nam và làm ăn thành đạt.
Tánh tình ông ta nóng nảy nhưng nhịn nhục hay lắm, kể cả những chuyện
khó nhịn nhất. Ông ấy nhỏ hơn bố tôi vài tuổi thôi và là chỗ bạn thân.
Có lần rõ ràng bị vu khống một chuyện có thể làm ô nhục thanh danh, ông
vẫn im lặng như không có chuyện gì, bố tôi hỏi tại sao, ông chỉ mỉm cười
:
- Tôi suy
nghĩ kỹ rồi, mình có làm bậy thì bị thiên hạ chửi cũng đáng, còn nếu bị
hàm oan thì cũng tốt hơn trường hợp mình không ra gì mà thiên hạ cứ quý
trọng.
Sau đó trong
một lần uống rượu với bố tôi, ông ấy đã bình tĩnh kể lại chuyện riêng
đời mình và nói rõ lý do tại sao ông có thể nhẫn nhịn mọi chuyện. Thì ra
trước khi vào Nam ông đã sống lẫn trốn mấy năm trời như một kẻ tử tù
vượt ngục sau khi đã lỡ tay giết người trong một lần cãi vã với khách
làm ăn ở Hà Nội. Cũng may là thời cuộc hồi đó rối ren nên chuyện truy nã
một can phạm hình sự chỉ là chiếu lệ. Dù sau đó trốn được vào Nam và trở
nên giàu có, ông ấy vẫn sống ăn năn cắn rứt không nguôi và xem những
thua thiệt trong đời này chỉ là những gì mà ông đáng ra phải chịu nhiều
hơn vậy cả chục lần. Sau này ông ấy bị chết vì đạn lạc trong chiến tranh
và lúc ấy tôi cũng đã lớn. Kể lại cho tôi nghe chuyện cũ, bố tôi bảo là
ông ấy đã nhờ vào tâm trạng một kẻ tử tù mà trở thành ông thánh. Bố tôi
nói nhiều lúc trong đời người ta phải trải qua những kinh nghiệm sinh tử
để có thể vượt qua chính mình và thậm chí cả đồng loại. Nhờ vào nỗi buồn
chết chóc kia mà tôi đã có được cái can đảm để sống vong thân, mạnh dạn
tẩy xoá chính mình khi cần thiết. Nói như ông Osho gì đó của Ấn Độ thì
con người ta phải biết CHẾT nhiều lần trong đời để có thể SỐNG ra hồn
hơn. Có thể nói tôi cũng đã quay lại với Phật Giáo nhờ một kinh nghiệm
của người tử tù thầy ạ!
- Và điều
đáng quý là dù khi viết Sử hay viết về đạo Phật, bác luôn khách quan và
rất thanh thản. Tôi thấy tâm trạng tử tù gì đó hình như không khiến bác
bị ảnh hưởng trong chuyện giám thức.
Ông phác một
cử chỉ như muốn tôi nhìn tủ sách rồi chậm rãi:
- Xin cảm ơn
thầy có nhận xét như vậy về tôi. Nếu hôm nay tôi có được chút thói quen
cẩn thận nào đó thì có thể nói là nhờ cụ Nguyễn Hiến Lê nhiều lắm.Tôi
đọc sách của cụ từ những năm tôi chưa được hai mươi tuổi. Tôi có cảm
giác là hình như cụ không bao giờ nói nhiều về những cái mình chưa rõ và
cụ có biệt tài là khiến người khác có thể cảm thấy gần gũi với những thứ
khúc mắc. Tôi vốn mù mờ về Kinh Dịch, Tử Vi nhưng nhờ cụ mà tôi hiểu
được đôi chút. Bên cạnh đó, có thể nói tôi cũng đã ít nhiều chịu ảnh
hưởng tư tưởng của Lương Khải Siêu. Ông này là một trong những người có
tác động mạnh mẽ đến phong trào Duy Tân của thanh niên Trung Hoa đầu thế
kỷ này. Thầy biết về ông ấy mà, tôi chẳng dám nói thêm. Cái tôi muốn
nhắc lại là thái độ và cách thức nghiên cứu đạo Phật của ông. Về cuối
đời ông có những suy tư rất thâm thúy về Phật Giáo. Nói về học thuật,
theo riêng tôi thì hình như ông Lương Khải Siêu có chỗ hơn hẳn các ông
Hồ Thích, Lỗ Tấn nhờ vào thái độ khách quan của ông. Và cái quan trọng
nhất đã nuôi dưỡng tâm hồn tôi có lẽ là tinh thần Trung Đạo của nhà
Phật, cái gì cũng không quá trớn. Có thể chữ Trung Đạo còn có nhiều ý
nghĩa khác sâu xa hơn, nhưng tôi thường chỉ hiểu đại khái là thái độ
bình tĩnh không để mình bị vướng vít vào một cực đoan nào. Hễ có chỗ đối
đãi thì thường có phân biệt, một chiều. Và dù trong chính trị hay học
thuật, cách nghĩ một chiều luôn dễ mắc lầm lỗi. Dân mình khổ hoài cũng
vì mấy người làm chính trị và giáo dục thường bị bịnh cực đoan.
Tôi rời nhà
ông lúc đã xế trưa và ông đã đứng chờ xe tôi đi khuất mới quay vào nhà.
Trên đường về tôi cứ suy nghĩ lan man về từng câu nói của ông. Lúc thì
chuyện người đàn ông đã từ một mặc cảm tội lỗi mà trở nên nhiều nghị
lực, lúc khác lại là chuyện ông đã trở thành một cư sĩ hiếu học từ sau
một nổi ám ảnh về cái chết, …Tôi đã gặp ông như một cuộc kỳ ngộ trong
đời.
Và tôi còn
gặp lại ông nhiều lần sau đó, trước khi ông rời khỏi California để về
sống gần một cô cháu ruột là bác sĩ nhãn khoa ở Hawaii.
TOẠI KHANH