VỌNG TÂM
(Pháp
thoại tại Đà Nẵng)
Kính thưa tất cả các vị Phật tử nam nữ, cách đây khoảng
hai giờ đồng hồ có hai vị Phật tử lớn tuổi và rất tiếc là chúng tôi
không được biết tên tình cờ tìm lên phòng riêng của chúng tôi. Trước là
thăm, sau là các vị có những câu hỏi về Phật Pháp. Tình thật mà nói ngay
những giây phút đó bên cạnh sự xúc động về ân tình mà các Phật tử Đà
Nẵng vẫn dành riêng cho chúng tôi, chúng tôi vẫn có một chút gì đó… tạm
gọi là chạnh lòng nếu không muốn nói là giật mình khi tôi được biết là
hai vị Phật tử đó vốn là những tín nữ kỳ cựu, trong thực tế đã là những
bà cụ, và đã từng là những Phật tử quen biết của các ngài hòa thượng
trưởng lão đời trước như là ngài Giới Nghiêm, ngài Hộ Tông, ngài Hộ Giác
v.v... Ấy thế mà có một số vấn đề tu hành hết sức là cơ bản thì các vị
lại mất cơ bản một cách đáng lưu ý. Và thái độ tiếp nhận của hai vị tín
nữ này trong khi chúng tôi đang giải thích cho tôi nhận ra một điều, các
vị thật ra vẫn có khả năng học hỏi, tiếp thu, lưu trữ, tích lũy tương
đối tốt. Nhưng có thể là do nhân duyên không có điều kiện cho nên các vị
không có may mắn sở hữu được một cách tối thiểu những lời Phật cần thiết
cho đời tu của mình và có thể nói rằng đó chính là một điều tác động tâm
lý cho bài pháp đêm nay của chúng tôi.
Vẫn như các bài pháp trước chúng tôi chỉ quẩn quanh những
điều nhắc nhở các vị Phật tử già trẻ bé lớn nam phụ lão ấu một điều
chung quy là chúng ta đừng bao giờ để cho thời gian của cuộc đời mình
trôi qua. Trôi qua đến một lúc nào đó chúng ta phải đau lòng nhắc lại
một câu ca dao đã được nghe từ thuở bé trong lời mẹ ru. “Ba đồng một mớ
trầu cay. Sao anh không hỏi những ngày còn không.” Lúc bấy giờ chúng ta
sẽ nhớ đến câu ca dao này không phải bằng những chữ những lời những ý
nghĩa đó nữa, mà chúng ta sẽ nhớ lại những câu ca dao đó với một ý nghĩa
khác với một nỗi niềm khác. Đó là một quãng đời, một lý tưởng hay, “sao
không tinh tấn những ngày tóc xanh?”
Đó là điều tôi muốn nhắn gửi các vị Phật tử ở đây. Không
ít các vị đã từng là thiền sinh, đã từng là học trò của các ngài Giới
Nghiêm và tôi tin chắc rằng ngài đã dạy dỗ, hướng dẫn, kềm cặp một cách
kỹ lưỡng, một cách chặt chẽ, thậm chí là một cách liên tục và tận tình
cho các vị những vấn đề cơ bản như về giữ giới, rồi thiền định và từng
pháp môn thiền định, từng cách thực hiện các đề mục của thiền chỉ hoặc
thiền quán; đề mục hơi thở của thiền chỉ, đề mục hơi thở của thiền; cách
niệm Phật của thiền chỉ hay cách niệm thể trược của thiền chỉ lẫn thiền
quán v.v...
Nhưng cho đến hôm nay thì sao? Cho đến hôm nay chúng ta
cũng vẫn chưa tìm được cho mình câu đáp khả dĩ giải quyết được vấn đề
vọng tâm. Vọng tâm ở đây hiểu một cách nôm na là tâm hồn của chúng ta nó
không chịu nằm dưới một sự điều động nhất định nào đó, chẳng hạn như tôi
đang theo dõi đề mục hơi thở. Chúng tôi nói điều này bằng cả sự khách
quan bởi vì tôi nghĩ sau bài pháp này có một số vị Phật tử bằng vào trí
nhớ của mình sẽ thuật lại cho người khác nghe. Đó là chưa kể đến trường
hợp cuốn băng ghi âm của bài pháp hôm nay sẽ được giữ lại sau một thời
gian, có thể là đôi ba năm và đối tượng nghe lại đó rất có thể là các
bậc tiền bối thạc học thạc đức hoặc những người sơ cơ mới bước vào ở
ngưỡng cửa Phật học. Cho nên tôi nghĩ rằng bắt buộc ở trong hoàn cảnh
này, trong tình huống này chúng tôi phải hết sức là khách quan.
Vấn đề phồng xẹp -- có chỗ kêu là phồng xộp -- thực ra ở trong kinh điển
không có. Các vị nếu không có thể đặt ở chúng tôi niềm tin về vấn đề này,
tuyên bố này, các vị có thể kiểm tra qua một lần gặp gỡ nào đó với ngài
Hộ Pháp hoặc là ngài Kim Triệu; hoặc là một vị cao tăng Việt kiều nào đó
mà các vị cảm thấy có thể tin tưởng được. Bài pháp hôm nay tôi biết rằng
rất khô khan nhưng đối với các vị Phật tử lớn tuổi kể cả những người trẻ
tuổi nếu thật sự nhận mình là một Phật tử, chúng ta cần phải lắng nghe
và ghi nhận. #vietheravada.net
Vấn đề phồng xộp hoặc thiền chỉ vốn là một sáng kiến của
một vị thiền sư tinh thông Tam Tạng người Miến Điện, đó là ngài Mahasi
Sayadaw. Vào năm 1954 Giáo hội Phật giáo Miến Điện tổ chức một cuộc kiết
tập Tam Tạng. Theo lịch Phật giáo thì đó là cuộc kiết tập Tam Tạng lần
thứ VI. Vẫn theo thể lệ chung của các kỳ kiết tập, ngoài số tăng chúng
chứng minh, có hai vị trưởng lão bác thông Tam Tạng. Mỗi vị có vai trò
riêng, một vị hỏi một vị đáp. Thí dụ vị hỏi ra câu hỏi: Bài kinh A, bài
kinh B được Đức Phật thuyết tại đâu, cho ai nghe, nội dung như thế nào?
Điều luật cho tỳ kheo thứ mấy được Đức Phật thuyết tại đâu, do nhân
duyên nào? v.v… Đó là vị hỏi còn vị đáp sẽ tùy theo câu hỏi mà trả lời.
Ngài Mahasi Sayadaw là một vị tinh thông Tam Tạng, và
ngài đóng vai trò của vị vấn sư, tức là vị đặt ra câu hỏi cho một vị
thông suốt Tam Tạng khác đáp. Từ một chức danh chói ngời là một vị vấn
sư trong kỳ kiết tập Tam Tạng lần thứ VI của lịch sử Phật Giáo, ngài
Mahasi từ đó đương nhiên trở thành một danh tăng không riêng gì của Miến
Điện mà của toàn thể Phật giáo đồ của những xứ Phật giáo Nam Truyền còn
gọi là Phật giáo Nam Tông.
Theo tôi được biết qua các dữ liệu về đời tư của ngài thì
với một trí nhớ uyên bác sâu rộng về thế học lẫn đạo học của mình, về
cuối đời ngài Mahasi không trở thành một Pháp sư, không chọn con đường
giảng sư cũng không chọn con đường Pháp học nào hết. Ngài quyết định trở
thành một thiền sư, hướng dẫn thiền định cho tất cả tăng tín đồ cần
thiết. Ngài Giới Nghiêm chính là học trò của ngài Mahasi. Có cái gốc như
vậy, cho nên nếu gọi theo vai vế thì ta có thể gọi ngài Mahasi là sư nội,
ngài Giới Nghiêm là sư phụ. Bản thân ngài Giới Nghiêm đã có được những
gì về sự nghiệp tu hành của mình về danh vọng, về sự nghiệp vật chất
cũng như tinh thần trong giáo hội cũng như trong xã hội và Thầy của ngài
là ngài Mahasi đã được những gì như chúng tôi đã trình bày. Với những
điều đó, vô tình nếu chúng ta thiếu đi một chút kỹ lưỡng thì chúng ta sẽ
dễ dàng rơi vào cái gọi là ngộ nhận.
**Vấn đề phồng xộp:
Khi có các bậc danh tăng khác đến hỏi ngài Mahasi tại sao
ngài lại dùng phương pháp phồng xộp để hướng dẫn thiền định về hơi thở
cho các thiền sinh. Ngài Mahasi giải thích như thế này, (ở đây tôi tạm
dùng kiến thức và thuật ngữ của Vi diệu pháp một chút xíu), ngài nói:
-Tâm của mình rất vi tế, tham sân si, vô tham vô sân vô
si, từ bi trí tuệ vị tha v.v… Tất cả tâm trạng đó hết sức phức tạp, rất
khó nhận ra. Cho nên Đức Phật đã đưa ra bốn thể tài hay là bốn đề mục
chính để từ đó những người muốn giác ngộ căn cứ vào đây để phát triển
trí tuệ giải thoát. Đó là thân quán niệm xứ, thọ quán niệm xứ, tâm quán
niệm xứ, pháp quán niệm xứ.
Ở đây tôi chỉ giải thích một cách đơn giản, nếu các vị có
nhu cầu, bài pháp sau chúng tôi sẽ đặc biệt giải thích về đề tài bốn
niệm xứ này. Riêng bài pháp hôm nay chúng tôi chỉ muốn giải quyết những
trăn trở, những chạnh lòng của chúng tôi từ chiều tới giờ.
Ngài Mahasi giải thích như thế này: Tôi vẫn hiểu trong kinh điển Pāḷi từ
chánh tạng cho đến các tập phụ sớ không hề nhắc đến vấn đề phồng xộp.
Tuy nhiên, theo dõi cái tâm là khó, bởi vì trí tuệ của chúng sanh thời
này không đủ mức độ sắc bén và tinh tế nhạy cảm để ghi nhận đã đành rồi
mà cho đến hơi thở ra vào cũng vẫn tiếp tục là một đề mục
gần-như-là-trừu-tượng.
Tôi nhấn mạnh, gần-như-là-trừu-tượng. Trừu tượng đến mức
chúng ta chỉ theo dõi trong vòng nửa giờ đồng hồ là đã bắt đầu muốn vô
“nhập định dục giới” rồi, đó là buồn ngủ. Cho nên Ngài Mahasi mới dùng
phương pháp phồng xộp để cụ thể hóa hơi thở của mình. Cái hơi thở ra vào
vốn không có hình sắc. Chúng ta học về sinh vật chúng ta cũng hiểu hơi
thở chỉ là chất khí mà thôi, nạp vào là oxy, thở ra là cacbonic tức thán
khí. Chúng ta cảm nhận được bằng các thí nghiệm hóa học, không thể nhìn
thấy bằng mắt, không khác gì những vận động của các nguyên tử, điện tử,
quang tử v.v… cũng tương tự như vậy. Cho nên Ngài mới nói “Tôi dùng
phương pháp phồng xộp để ai có cơ duyên đối với tâm quán niệm xứ thì
trong khi theo dõi cái phồng xộp đó họ sẽ có điều kiện nhìn ngắm một
cách kỹ lưỡng và tận tường từng tâm trạng của mình trong mỗi mỗi phút
giây”.#vietheravada.net
Tôi ví dụ hơi phàm tục một chút xíu, ví dụ này mang tính
phản bội chúng tôi. Chúng tôi đang nói về thiền, chúng ta coi phim
video, những pha mà họ tung chưởng ra đòn ra chiêu hơi nhanh, mình thấy
hấp dẫn muốn xem lại thì mình làm như thế nào? Có hai cách: (1) Mình
quay trả lại đoạn đó. (2) Nếu máy tốt mình bấm nút pause để thấy được
đàn chỉ thần công, thấy được nhất dương chỉ, thấy được kim cang chỉ,
thấy được những tuyệt chiêu tuyệt chỉ của cửu âm chân kinh cửu dương
chân kinh v.v… kể cả càn khôn đại nã di tâm pháp của Trương Vô Kỵ.
Theo dõi hơi thở ở đây là gì ? Theo dõi hơi thở đây chính
là chúng ta bấm nút pause đối với nội tâm của chính mình. Bấm nút pause
cho nó đứng lại bởi vì nội tâm chúng ta luôn sanh diệt. Bây giờ đưa nó
vào màn ảnh của hơi thở thì ngài nói rằng: “Tôi sử dụng phương tiện
phồng xộp chẳng qua là với ý nghĩa phương tiện. Để từ đó ai có duyên với
tâm quán niệm xứ thì sẽ y cứ vào đây mà nhận ra bản tâm của mình. Đối
với ai có cơ duyên với thân quán niệm xứ thì sẽ thông qua hơi thở phồng
xộp này mà nhận diện được cái vô thường, vô ngã của thân. Còn ai có cơ
duyên với pháp quán niệm xứ thì sẽ thông qua cái phồng xộp này mà nhận
ra được năm triền cái, thất giác chi, tứ diệu đế, bát chánh đạo trong
chính bản thân mình. Đó là phương tiện của tôi.” Đó là ý nghĩa thứ nhất.
Ý nghĩa thứ hai, Ngài Mahasi giải thích phồng xộp theo Vi
diệu pháp. Xét về hiện tượng phồng xộp chính là sự vận động của vùng
bụng, vùng bụng ở ngoài là da, kế đến là lớp mỡ sa, đều là Sắc pháp. Sắc
pháp ở đây nổi bật là đất nước lửa gió. Vùng bụng của mình cơ bản trước
hết là Đất, sở dĩ nhúc nhích được, ra vào được, có sự di động là do sự
điều động của phong đại là Gió. Địa-đại, bản chất của nó là bất động,
cứng hoặc mềm, nhưng nó di động là nhờ vào sự tác động của phong đại là
Gió. Làm thế nào để có được sự kết hợp nhuần nhuyễn, có được một mối
tương hỗ hết sức chặt chẽ giữa phong đại và địa đại này? Ở đây đòi hỏi
sự huy động và sự vận dụng của ý thức. Trong kinh nói, dầu chúng ta
không hề nhớ đến, hơi thở vẫn ra và vẫn vào, đó chính là sự vô ngã của
các pháp. Tôi xin nhắc lại câu nói hôm trước là “tất cả sự nghiệp của
chúng ta, những ngôi nhà ba bốn tầng, những tài sản trị giá hàng năm bảy
trăm cây vàng, những danh vọng, những chức vị của chúng ta trong xã hội
đều được đặt cơ sở trên một khối thịt mấy chục ký lô này thôi, và mấy
chục ký lô này nó được quy định thời gian tồn tại bởi hơi thở ra vào.”
Hơi thở ra mà không có hơi thở vào thì kể như là mất hết.
Ngài Mahasi nói, tôi sử dụng, tôi tạm mượn phương tiện
phồng xộp để các thiền sinh nhờ vào đó mà phát triển nội tâm của mình.
Còn ai đó tự đưa đến sự ngộ nhận do bản thân mình hay do họ quá tin
tưởng vào cái chức danh cái danh vị của tôi trong cộng đồng Phật giáo
đoàn mà họ ngộ nhận rằng đó là chân thật thì đó chẳng khác nào trường
hợp bên kinh Bắc Tông họ nói rằng “không chịu nhìn mặt trăng mà cứ nhìn
ngón tay”.
Ở đây Ngài Mahasi muốn nói rằng phương tiện phồng xẹp mà ngài dùng để
hướng dẫn thiền sinh chính là ngón tay để chỉ mặt trăng. Chúng ta thiền
định là để thấy được bản chất cả thân tâm, tức là để nhìn thấy mặt trăng,
chứ không phải chúng ta ôm ấp ngón tay phồng xẹp đâu. Ai ôm ấp ngón tay
phồng xẹp thì người đó suốt đời không bao giờ thấy được mặt trăng. Tính
ra trong số Phật tử của mình đã có được bao nhiêu người thất được mặt
trăng? Đại đa số chỉ thấy ngón tay. Có người thấy được cả bàn tay chứ
chưa thấy được ngón tay. Ai có trình độ kha khá thì thấy được một quầng
sáng của mặt trăng sau một đám mây mù dày kịt. Đại khái là như vậy.
Như trong cuộc họp mặt ngày hôm qua giữa tôi với một ít
Phật tử trẻ, tôi có nhắc đến một vấn đề, đó là thái độ sống của Phật tử
chúng ta. Nghĩa là sao? Chúng ta đừng bao giờ bị lệ thuộc vào bất cứ vấn
đề gì thuộc tâm lý vật lý sinh lý của bản thân mình hoặc của người khác.
Bởi vì một khi như vậy chúng ta đã tự đánh mất tự do của mình. Mà một
trong những cốt lõi căn bản của lý tưởng tu hành Đức Phật đưa ra cho
chúng ta đó chính là tinh thần tự do. Chúng ta không thể nào bị lệ thuộc
vào một ít công phu tu hành của mình như là một tháng tám ngày bát quan,
một đêm vài giờ thiền định hay là một tháng hai lần nghe Pháp. Nếu chúng
ta có thể tự mình vừa lòng với chừng đó công phu để rồi dừng lại thì
chưa đủ. Như vậy chúng ta chưa thật sự được tự do bởi vì chúng ta còn bị
ràng buộc bởi cái gọi là thỏa mãn.
Tôi nhớ một vị du sĩ ngoại đạo thời Đức Phật, ông vốn là
cậu ruột của ngài Sariputta (Xá Lợi Phất), tên là Dīghanakha.Trong tiếng
Phạn Dīgha nghĩa là dài, nakha là móng tay. Dīghanakha dịch là ‘trường
trảo nhân sĩ’. Móng tay ông dài lắm, ông rất giỏi. Trong kinh nói rằng
trong ngôi làng có một bà trưởng giả rất đẹp, có biệt danh là Sari, Sari
có nghĩa là ‘người có vẻ đẹp’. Putta có nghĩa là ‘con’. Sariputta Tàu âm
là Xá Lợi Phất, Sariputta dịch ra có nghĩa là con của bà Sari. Bình
thường bà là một thục nữ yểu điệu, đảm đang trung hậu. Tuy nhiên trong
thời gian mang thai ngài Xá Lợi Phất, tự nhiên bà khôn lanh ứng đối chặt
chẽ. Hầu như đời sống tâm lý của bà có một cuộc hoán chuyển rất lớn. Em
bà -- người cậu ruột của ngài Xá Lợi Phất thấy như vậy mới nghĩ, chị của
mình bình thường tánh lờ đờ khờ khạo, người ta mang thai hay bị ói mửa
ớn cơm tanh cá, lo ngủ lo dưỡng sức rồi lo đi nghỉ mát để dưỡng thai,
còn ‘bà cố’ này trong thời gian mang thai lại lanh lẹ hơn lúc bình
thường. Với kiến thức của mình ông đoán đứa cháu nằm trong bụng chị mình
là bậc đại trí sau này. Trong kinh nói rằng ông rất kiêu ngạo và nghĩ
rằng không khéo thì mình thua đứa bé sau này. Theo một số tài liệu, ông
bỏ ra 16 năm trời để đọc sách và tự dặn lòng là không ra khỏi phòng,
không thèm cắt móng tay. Riết rồi móng tay ngày càng ra dài và khoanh
tròn lại cuối cùng người ta gọi là Dīghanakha là ‘trường trảo du sĩ’.
Tất cả các môn học trong đương thời ông đều học hết. Trải qua 16 năm
ngài Xá Lợi Phất lớn lên trở thành một thanh niên, ngài đi truyền đạo và
trở thành một vị Thánh tăng. Chuyện đó tôi khỏi cần nhắc lại vì các vị ở
đây đều tinh thông hết rồi. Dīghanakha đi tìm ngài Xá Lợi Phất hỏi đạo.
Nhưng trước khi gặp ngài Xá Lợi Phất thì Dīghanakha chợt suy nghĩ, cháu
mình đã nghe vang danh là bậc tướng quân chánh pháp tức là đệ tử trưởng
tràng của một vị giáo chủ. Với trí tuệ của cháu mình mà chấp nhận làm đệ
tử của một nhân vật nào đó thì hiển nhiên nhân vật này phải ghê gớm đến
dường nào. Vậy là ông đến gặp Đức Phật. Không biết là may hay rủi cho
ông. Xét về một góc độ nào đó thì phải nói rằng ông rủi vì ông gặp một
đối thủ không cân sức vì 20 năm trên giang hồ ông chưa tìm thấy đối thủ,
ông vẫn tự xưng là “Độc cô cầu bại”. Khi gặp Đức Phật ông nói như thế
này, gần giống như câu của Karl Marx: “Thưa sa môn Gotama không có gì
thuộc về loài người mà xa lạ đối với tôi, tuy nhiên tôi không hề chấp
thủ tất cả những kiến thức đó”.
Ổng khoe ổng giỏi nhưng sau đó ông khiêm tốn một cách
đáng ghét. Ý ông nói là tôi sở hữu tất cả kiến thức nhưng tôi không thèm
chấp thủ những cái đó, đó là đồ rơm rác. Một lần nữa ông muốn tự nâng
cao mình, nghĩa là ta giỏi nhưng ta không màng gì đến chuyện ta giỏi.
Đức Phật mới hỏi nhỏ một câu: “Nhưng mà Dīghanakha này,
ngươi mới vừa nói ngươi không chấp thủ những kiến thức mà ngươi đã sở
hữu tuy nhiên ngươi có bao giờ nghĩ đến chuyện rằng mình không chấp thủ
những kiến thức đó không. Dīghanakha trả lời có. Ngài nói: Như vậy lại
tiếp tục là một chấp thủ. Quý vị có hiểu không? Mình không biết đạo,
mình coi như đây là ngôi nhà của mình, đó là một cái chấp thủ. Nhưng khi
mình đã biết đạo rồi mình thấy rằng ngôi nhà này chỉ là sương khói phù
du là vô ngã không phải nhà của tôi cho nên nhà có bị cháy tôi vẫn mỉm
cười thoải mái. Đó là một trình độ rất tốt, tuy nhiên sau cái mỉm cười
thoải mái đó tôi lại vui vẻ nghĩ rằng tôi có trình độ rất cao, nhà cháy
mà vẫn cười. Như vậy là tôi vô tình mắc vào một cái sở tri kiến khác, tế
nhị và nguy hiểm hơn.
Chúng ta tiếp tục từ cái lao tù này qua một lao tù khác.
Có gì đâu, thay vì bị quản thúc bị giam nhốt ở trong một cái xà lim hai
mét vuông, chúng ta nhờ học ở Phật Pháp chúng ta ra khỏi xà lim đó bước
sang một cái phòng giam khác rộng hơn, hai mươi mét vuông. Ăn học một
thời gian, tu thiền một thời gian thì phòng giam của chúng ta được bốn
mươi mét vuông. Ăn học một thời gian, tu học một thời gian, trí tuệ phát
triển thêm một mức độ nữa thì chúng ta được thả lỏng ra ngoài nhưng bị
giam lỏng nghĩa là đi đâu cũng bị người ta kiểm soát và kiềm chế cả. Đó
chính là điều chúng tôi muốn nói trong đêm nay. Tôi không hiểu được lý
vô ngã, đó là cái tệ của tôi. Tôi hiểu được lý vô ngã đó là cái hay của
tôi, nhưng tôi chấp thủ rằng tôi hiểu được Phật Pháp thì đó là cái tệ
của tôi. Tôi vượt qua giai đoạn không chấp thủ những kiến thức Phật pháp,
đó là cái hay của tôi. Nhưng tôi lại tiếp tục chấp thủ rằng tôi không
chấp thủ cái không không chấp thủ đó, tôi lại tiếp tục rơi vào một cái
tệ khác.#vietheravada.net
Sau khi nghe bài pháp xong thì Dikhanakha xin xuất gia
tại chỗ, còn ngài Xá Lợi Phất đắc A-la-hán ngay tại chỗ.
Rồi một giai thoại khác, ngài A-nậu-đà-la (tiếng Pāḷi là
Anuruddha), ngài là đệ nhất thiên nhãn.Trong kinh nói, trái đất mình nó
chỉ là hạt cát trong vũ trụ bao la này thôi, mỗi một thế giới theo từ
trong kinh gồm 31 cõi chia làm bốn tầng: tầng đọa xứ, tầng nhân giới,
tầng dục giới,và tầng Phạm thiên giới. Tầng Phạm thiên giới lại chia ra
làm hai tầng nữa đó là tầng Sắc giới và Vô sắc giới, mà 31 cõi như vậy
được gọi là một thế giới. Tức là trái đất của mình các nhà khoa học dù
có thám hiểm đến mấy đi nữa thì họ chỉ quẩn quanh trong cái không gian
thái dương hệ của mình thôi không thể đi xa hơn được nữa và với những
phương tiện kính viễn vọng họ chỉ nhìn thấy chứ không đếm được những
thiên thể cách xa chúng ta hàng triệu năm ánh sáng. Định vị được nó, xác
định được một phần nào đó về điều kiện khí hậu hoặc là trong vấn đề hóa
học hoặc một vấn đề sinh thái nào trên đó thôi mà vẫn bằng thị giác chứ
không thể nào bằng xúc giác hoặc đặt chân trực tiếp lên đó. Như vậy
chúng ta đã thấy được sự mênh mông của vũ trụ, của cái gọi là thế giới
này rồi. Ấy thế mà trước khi trở thành vị A-la-hán, ngài A-nậu-đà-la lúc
đó mới chứng Sơ quả là ngũ thông, ngài có thể nhìn thấy một ngàn thế
giới như vậy. Tức là một thế giới gồm 31 cõi và một ngàn thế giới tức là
31 x 1000. Sau một bữa trưa thiền định ngài trở vào gặp Tôn giả Xá Lợi
Phất. Ngài nói, nói rất dễ thương chứ không như các Phật tử Đà Nẵng:
-Thưa sư huynh, Đệ rất mừng khi công phu tu hành của mình
có phần nào tiến bộ. Hôm nay Đệ có thể nhìn thấy 1000 thế giới một cách
rõ ràng, tinh tường, chính xác, tinh vi, chi li, rõ rệt, rạch ròi như là
người ta nhìn những trái sung trong lòng bàn tay vậy.
Các vị biết ngài Xá Lợi Phất trả lời sao không? Nếu gặp
mình, sẽ có hai thái độ. Một là mình ganh tị, mình nói: “Xí, cái đó đồ
bỏ”. Hai là mình sẽ hoan hỷ mừng khen người sư đệ: “Thật là tuyệt vời,
tuyệt kỹ công phu, tuyệt chiêu kiếm pháp”. Nhưng ngài Xá Lợi Phất thì
không. Ngài nghe như vậy ngài mỉm cười nói:
-Cái đó chưa phải là tiến bộ đâu hiền giả. Hiền giả nghĩ
như vậy là hiền giả đang rơi vào kiêu mạn rồi.
Có hai cái sánh với nhau “Phật dữ Phật tri, Thánh dữ
Thánh tri”. Thánh hiểu Thánh, Phật hiểu Phật, đồng thanh tương ứng, đồng
khí tương cầu.
Gặp ông sư huynh như vậy ngài A-nậu-đà-la cũng chẳng phải là tay vừa.
Mình đem khoe công phu tuyệt kỹ với sư huynh mà sư huynh chẳng những
không khen mà còn nói rằng đó là kiêu mạn mà sư đệ cần phải khắc phục.
Nghe như vậy ngài trở ra tiếp tục lần này không quan tâm đến vấn đề
thiên nhãn nữa mà ngài quan tâm đến thân thọ tâm pháp để sau đó trở
thành một vị A-la-hán như ngài Xá Lợi Phất và trở thành một trong 47 vị
Đại cao đồ của Đức Phật Thích Ca.
Chúng ta có làm được điều đó không? Tiến bộ được chút xíu
là chúng ta thoả mãn chúng ta tự đắc chúng ta tự hào. Chúng tôi nhớ La
Fontaine có viết cho chúng ta một câu chuyện ngụ ngôn, tôi kể nhưng tôi
sợ quý vị giận tôi, trong thời gian tôi còn ở Đà Nẵng nhiều khi tôi muốn
thêm bạn bớt thù. Ông kể cho mình nghe một câu chuyện như thế này:
Có một con ếch tình cờ thấy một con bò bự quá, to quá. Nó
nghĩ: “Ôi đâu có khó. Chịu khó phình bụng ra thì nó to chứ có gì đâu”.
Nhưng nó quên rằng cơ cấu sinh học trong con bò và con ếch đâu có giống
nhau. Con ếch ráng hít hơi phồng và kết quả là cuối cùng nó bể cha cái
bụng.
Khi nội lực của chúng ta chưa đến mức nào đó, mà cái ngộ nhận nó đi
trước nội lực của mình thì coi chừng chúng ta rơi vào hiện tượng mà bên
thuật ngữ khoa học người ta gọi là “tẩu hoả nhập ma”. Nếu may mắn gặp
được cao nhân tiền bối người ta điều trị cho, còn nếu tẩu hoả nhập ma về
tâm lý thì tôi nghĩ rằng bó tay.
Đêm nay chúng tôi muốn nhắc đến một vấn đề khác. Đó là
vấn đề chúng ta ngoài khuynh hướng tự mãn ở bản thân mình giam tù mình,
ta còn có một khuynh hướng khác: đó là tù nhân mà lại muốn đi bảo lãnh
một tù nhân khác.
Tôi sinh ra ở miền tây, tôi đi tu rất sớm mới tám tuổi
thôi, do đó những ký ức những kỷ niệm những kinh nghiệm sống ở quê tôi
hơi kém, trừ ra những kiến thức từ chương và sách vở, chẳng hạn những
kinh nghiệm về đi cầu khỉ. Các bạn xem video những băng Mưa bụi 1, Mưa
bụi 2 có những cảnh quê cảnh đi cầu khỉ, đại khái là như vậy. Trong một
chuyến về thăm quê ở miền Tây nam bộ của tôi, tôi đi cầu khỉ không được,
ở dưới mang dép trên mặc y mới mang dèm Thái, không phải tôi sang trọng
gì ai cho gì thì xài nấy thôi. Đi dưới quê sình lên đến mắc cá, nguyên
đoàn có cô Phật tử, cô tỏ ra linh hoạt có nét giống như Phật tử Đà Nẵng
mình đó. Bản thân là dân ở tù nhưng thích ký đơn bảo lãnh cho người ta
được tại ngoại hầu tra. Cô đứng ở đầu cầu chiều dài hơn 10m, độ lớn của
cây dừa chỉ bằng cườm chân khẳng khiu của tôi thôi mà tay vịn của nó
chắc bằng cườm tay của tôi. Dân chuyên gia đi cầu khỉ có thể chạy trên
đó được. Quý vị tưởng tượng cầu bằng thân dừa dài hơn 10m cách mặt nước
khoảng 3m mà khẳng khiu như thế đó làm sao mà đi. Bữa đó trời mưa lâm
râm rất trơn trợt tôi đứng trên cầu có cảm giác chẳng khác gì Bồ tát
trong đêm trước khi giác ngộ, phân vân giữa đôi bờ mê và giác dứt khoát
là qua mà không biết có qua không đây.
Cô gái dân địa phương thao thao bất tuyệt giảng cho tôi
nghe về cách qua cầu. Tôi đi trước cổ đi sau. Cổ hướng dẫn:
-Tay sư cầm dép, chân bám chặt các ngón chứ không phải
bám chặt bàn chân vào cầu, đi từng bước và nhớ đừng nhìn chung quanh.
Đặc biệt là đừng nhìn xuống nước chóng mặt sẽ rơi xuống ngay.
Cô nói vừa dứt câu thì tôi nghe một cái “đùng”. Cô gái
lọt xuống trước tôi.
Cái kinh nghiệm tu hành của chúng ta nằm ở chỗ đó. Chúng
ta đang ở tù mà dám ký giấy bảo lãnh cho người ta tại ngoại. Phật pháp
học chưa bao nhiêu hết nhưng gặp các Phật tử là thao thao bất tuyệt
giảng về giới định tuệ v.v… Để rồi chúng ta rớt một cái đùng. Kẻ đến sau
họ nhìn chúng ta họ cười. Họ chưa nhận được sự giúp đỡ nào của chúng ta
cả, trước mắt họ nhìn chúng ta ngã gục.
Tôi chưa một lần giác ngộ chắc các vị tin mà nhưng tôi có
một điều vừa may mắn vừa kiêm rủi ro. Đó là ít nhất trong vòng thời gian
14 tháng trở lại đây tôi đã hai lần có mặt tại phòng cấp cứu và tôi đã
trực diện với cảm giác tâm sinh lý của người đứng ngay ngưỡng cửa thần
chết, thở không ra hơi. Lúc đó bao nhiêu kiến thức về Uẩn xứ giới đế,
Duyên sinh, Duyên hệ, Vi diệu pháp, Tạng Kinh, Tạng Luận, Tạng Luật,
tiếng này tiếng nọ… thấy ghét vô cùng, tôi nhớ không nắm được cái nào
hết. Lúc đó tôi nghĩ, tại sao mình không có chỗ nắm. Sau đó tôi về tôi
viết một trang nhật ký về tâm trạng ngay lúc đó. Tôi lập tức tìm chỗ nắm
cho tôi và tôi nghĩ rằng đó là một kinh nghiệm sống gần như phải trả giá
bằng sinh mạng để tôi có được cái kinh nghiệm, kinh nghiệm trong giây
phút đó, giây phút thở không ra hơi. Đặc biệt là trong lúc chuyển tôi từ
dọc đường chuyển vào bệnh viện. Họ cáng tôi lên cầu thang bằng băng ca,
mà những người cáng lại là Phật tử thay vì y tá cáng. Những Phật tử họ
thương mình, chính vì tình thương đó lại hại mình. Khi họ cáng tôi trên
băng ca họ để đầu tôi đi phía dưới còn chân thì đưa phía trên. Thế là
tôi không đủ oxy để thở, tôi nói không được, tay thì vịn hờ thành băng
ca và tôi cứ ngớp ngớp để lấy từng chút không khí. Cô y tá đi kế bên
thấy vậy la lên: “Ông thầy bị ngộp, ông thầy bị ngộp”. Lúc đó họ mới
nâng đầu lên cho tôi thở. Nếu không có cô y tá thì hôm nay tôi đã ngậm
cười nơi chín suối rồi. Ở giây phút đó chúng ta mới trực nhận được cái
chết của chính mình, còn bình thường chúng ta chưa để ý tới. Chúng ta
hãy nhớ một điều rằng, tâm lý chúng ta, trừ các bậc thánh thì đại đa
phần tình trạng tâm lý của chúng sanh mình luôn được quy định bởi tình
trạng của sinh lý. Bình thường nhanh nhẹn, sắc bén, bén nhạy, lanh lợi
và có thể là bình tĩnh, can đảm, kiên cường, nhưng đến lúc có vấn đề
trong thể xác này rồi thì những kiến thức những kinh nghiệm về Phật Pháp
nếu nói một cách hơi tàn nhẫn là trở nên vô nghĩa. Chúng ta đừng nghĩ
rằng “tôi đã từng dự những khóa tu thiền với ngài Kim triệu, ngài Hộ
Pháp, ngài Giới Nghiêm năm ba tháng”, “tôi đã từng đảnh lễ ngài Narada”,
“tôi đã từng chiêm bái xá lợi”… Mình cứ đơn giản nhớ lại một kinh nghiệm
mà dường như tôi đã có nhắc tại Đà Nẵng này:
Để kiểm tra nội tâm của mình, ngày xưa một vị thiền sư đã
để trong thiền thất của mình ba cái tô. Một tô đựng đậu đen, một tô đựng
đậu trắng và một tô không. Ngài ngồi theo dõi nội tâm, không theo dõi
như trong kinh mà ngài theo dõi trực tiếp. Khi một thiện tâm khởi lên
ngài nhặt một hạt đậu trắng để ra. Khi nào một ác tâm khởi lên ngài nhặt
một hạt đậu đen để ra. Như quý vị cũng biết, sau một thời gian đầu
khoảng một năm kết quả có một tô đậu đen và vài hạt đậu trắng. Khi mình
vắt chân lên ngồi là bất thiện đã khởi lên. Mình nhớ đến ông sư kia hồi
nãy gặp mình quên chào, cô Phật tử kia gặp mình mặt không được dễ chịu,
chánh điện dơ không ai quét, bình bông héo không ai dẹp. Mỗi vọng tưởng,
mỗi suy nghĩ khởi lên như vậy ngài nhặt ra một hạt đậu đen. Một thời
gian sau 2/3 đậu đen, 1/3 đậu trắng. Một thời gian sau ½ đậu đen ½ đậu
trắng, một thời gian sau 1/3 đậu đen 2/3 đậu trắng, một thời gian sau
3/4 đậu trắng 1/4 đậu đen, một thời gian sau nữa 4/5 đậu trắng 1/5 đậu
đen. Cứ như thế cho đến sau cùng thì trong tô của Ngài toàn đậu trắng
không thôi. Chúng ta thì sao. Chúng ta chỉ cần mua một muỗng cafe đậu
trắng thôi, còn đậu đen mình làm vài thúng. Chỉ có cách đó mình mới xử
lý nội tâm của mình thôi. Mình phải trung thực với lòng mình như vậy.
Các vị hành thiền như vậy thì nội tiền mua đậu đen thôi cũng không còn
tiền ăn Tết. Cho nên vấn đề tôi muốn nhắn gửi đến quý vị Phật tử là:
Chúng ta phải luôn luôn tự biết kiểm tra chính mình bằng
tất cả tinh thần tự do của Du sĩ Trường Trảo cậu ruột của Ngài Xá Lợi
Phất, tinh thần tự do và tự giác của ngài Anuruddha một vị đồng phạm
hạnh của Xá Lợi Phất và tinh thần tự giác của vị thiền sư lựa đậu trắng
đậu đen để triển khai công án thiền định của mình. Đôi lúc trong việc tu
của mình chúng ta không có thầy, không có bạn, thực ra mà nói năm ba
cuốn sách, năm ba cuốn băng chưa đủ đâu. Vì cái quan trọng nhất, ông
thầy tích cực nhất gần gũi nhất cho mình vẫn chính là mình thôi. Và đôi
khi chính sự ngộ nhận, chính sự đi tìm nương đỗ ở các đối tượng khác lại
là cạm bẫy cho chính mình. Các vị nếu có dịp nào đó đọc được tác phẩm
nếu tôi nhớ không lầm đó là Sớ giải tập A tỳ đàm Câu Xá do ông Thế Thân
viết. Ông nói cái cảm giác của con người mình đối với danh và sắc, tại
sao chúng ta khổ, là bởi vì chúng ta không nhìn thấy nó như nó là, cho
nên chúng ta tự mình giam hãm mình. Và trong tác phẩm chú giải đó ngài
dùng ví dụ một người đi đêm không có đèn đạp phải sợi dây và cứ ngỡ đó
là một con rắn. Bản chất của đời sống thật ra không ngọt cũng không đắng,
đắng hay ngọt là do mình. Tôi xin lỗi khi dùng ví dụ này, cái đống phẩn
là cái đáng gớm đối với mình. Thậm chí ăn một tô bún mắm mà mình quên
rửa tay vẫn có thể là nỗi phiền cho người khác chứ đừng nói chi là một
đống cụ thể. Nhưng đối với con chó nhà nghèo hay những con chó hoang thì
đống đó là món hạp khẩu của nó. Đó là ví dụ cùng cực.
Bản chất của đời sống này là cay đắng hay ngọt ngào tùy
thuộc vào cái nhìn của chúng ta mà thôi. Mà cái quan trọng nhất là chúng
ta không thể thay đổi được cuộc đời nhưng ta có thể thay đổi được cách
nhìn về cuộc đời. #vietheravada.net
Có một tích truyện trong bài pháp tôi thuyết trong Nam,
nếu tôi nhớ không lầm thì bài pháp đó cũng được ghi âm tại Đà Nẵng và
trong bài pháp này tôi vẫn nhắc lại. Ngày xưa bên Tàu có một chàng thanh
niên rất đẹp trai, các vị nghiên cứu về văn học Trung hoa chắc cũng biết,
nghe tên cũng thấy đẹp rồi, tên là Nhã Tuấn. Rất là đẹp trai, môi trái
tim, mũi dọc dừa, chiều cao vừa phải, ký lô cân đối v.v... Vào một ngày
kia khi có công việc phải đi sang một xứ khác. Xứ này gọi là xứ La Sát.
Nghe tiếng La Sát là các vị cũng đã biết rồi. La Sát hiểu nôm na là quỷ.
Xứ này không phải là quỷ nhưng người ở xứ này xấu lắm. Giống như hôm nay
chúng ta qua những xứ Ethiopia, Uganda hay một số xứ sống bán khai bên
châu Phi, dân bản địa rất xấu. Cái xứ mà nếu tôi lọt qua bên ấy tôi sẽ
được xem là người mẫu như thường theo con mắt nhìn của chúng ta. Nhã
Tuấn vốn tự mãn với sắc đẹp của mình cho nên đi đâu cũng vênh váo, khinh
khi người, nghĩ rằng mình đẹp. Đi dưới đất mà cái mặt hếch lên trời, và
cái tự mãn này kéo dài cho đến khi chàng ta đến xứ La Sát. Có một điều
làm cho Nhã Tuấn rất ngạc nhiên là người dân xứ này con mắt nằm đàng sau,
lỗ tai nằm trước trán. Ở những chỗ cao sang quyền quý, những chỗ sang
trọng, hội họp dạ hội tiệc tùng, những người quý phái ăn mặc sang trọng
thì càng dị hình dị tướng. Nhất là những cô gái càng được các chàng trai
theo đuổi một cách say mê thì sắc diện càng xấu kinh khủng. Còn nói
riêng về Nhã Tuấn, đi đến đâu con nít đang khóc thì nín khóc, nó đang
cười thì nó bật khóc, người lớn đóng cửa lại, người già thì xỉu, những
người yếu tim thì bị tai biến mạch máu não hay bị lên tăng-xông v.v… Lúc
bấy giờ Nhã Tuấn nhận thấy rằng mình là hiện tượng kinh hoàng cho xứ La
Sát. Đi mấy ngày trời ai gặp mình đều đóng cửa, anh ta phải uống nước
suối, phải ăn trái cây rừng, ăn lá ăn củ ăn rễ chứ không được ăn cơm.
Sau cùng có một cụ già trong xứ La Sát, hình thù của ông cũng rùng rợn
lắm, chắc cũng là người mẫu của xứ đó. Do lòng nhân từ ông mới nói nhỏ
cho Nhã Tuấn nghe:
-Cậu biết xứ sở của tôi vốn hiếu khách lắm, nhưng tại sao
người ta sợ cậu không?
Bởi vì hình thù của cậu khác hẳn với mỹ cảm của xứ này,
con người của cậu không hợp với xứ này cho nên chúng tôi không chấp nhận
được cậu. Thay vì chúng tôi xem cậu bằng ánh mắt là bạn thì cậu lại trở
thành thù vì cậu và chúng tôi không giống nhau được, không cùng tần số,
và vẻ mặt của cậu không đáp ứng được với mỹ cảm của chúng tôi. Vậy cậu
nên tranh thủ tìm cách trở về quê hương của mình đi, cậu hãy nhớ lấy
điều đó. Lúc đó Nhã Tuấn nhận ra một điều, thì ra cái đẹp cái xấu trên
cuộc đời này chẳng qua chỉ là một khái niệm tương đối và nó được quy
định bởi một không gian và thời gian nhất định nào đó thôi. Chẳng hạn
đối với người Mỹ, người Pháp -- nói chung là người Tây phương-- họ đòi
hỏi một người con gái dễ thương phải là một người con gái linh hoạt, có
nhiều kiến thức, hoạt bát, năng động trong những buổi họp mặt. Nhưng đối
với nền đạo đức học cũng như nhân cách học của Đông phương người con gái
được xem là lý tưởng phải là thùy mị, đoan trang, ít nói, lễ phép, nhẹ
nhàng, ôn nhu, hiền hòa. Chứ con gái mà hút thuốc, uống rượu cụng ly với
con trai, bắt tay, gặp người lạ hoắc ôm hôn tỉnh bơ như đối với chồng
mình v.v... thì đạo đức Tây phương chấp nhận được và được xem là mẫu
người lý tưởng biết sống có khả năng xã giao đối ngoại; nhưng đối với
nền đạo đức Đông phương thì đó là đứa con gái hư, cần phải được giáo dục,
cần phải được tút lại, cần phải được đại tu, cần phải được tân trang lại,
chứ không thể nào để nguyên như vậy mà xài.
Chúng ta trở lại vấn đề, cuộc sống này nó ra sao thì ra,
chúng ta không thể nào sửa đổi được nó nhưng chúng ta có thể thay đổi
được cách nhìn của mình về nó. Đó là những ngộ nhận. Và tiếp sau đây
chúng tôi xin nhắc cho các vị một giai thoại nữa cũng về vấn đề tu học
của mình. Các vị hiểu sao thì hiểu, nhưng tôi hy vọng rằng sau bài pháp
này các vị sẽ luôn có rất nhiều thắc mắc là tại sao tôi luôn luôn kể
những giai thoại kỳ cục này trong bài pháp đêm nay. Ngày xưa có một đoàn
hát, ngày nay tạm gọi là đoàn hát bội hát các tích xưa. Người đóng vai
Tào Tháo, người đóng vai Lưu Bị, người đóng vai Triệu tử Long, người
đóng vai ma quỷ trong thập điện u-minh v.v… Vào một ngày đoàn hát diễn ở
một vùng quê, sau khi diễn xong tuồng có nội dung đại khái là một người
đẹp bị một tên ác quỷ bắt cóc. Thế rồi có một vị anh hùng thình lình
xuất hiện, đến tận hang ổ sào huyệt của con quỷ dữ giải thoát cho người
đẹp. Sau đó giữa đôi tâm hồn trẻ nẩy nở mối tình tuyệt đẹp. Sau khi diễn
xong, trời rất khuya, các diễn viên quá mệt mỏi. Khán giả đã về hết để
lại các diễn viên cô đơn với chiếc bóng của mình. Các diễn viên mỏi mệt
không thèm tẩy trang, húp qua loa tô cháo gà và vội tìm giấc ngủ giữa
chốn đồng hoang bên đống lửa bập bùng. Giữa khuya một người đóng vai La
sát trong đoàn thức giấc giải quyết bức bách của mình với khuôn mặt vẫn
giữ nguyên nét hóa trang mặt quỷ. Cánh đồng này trước kia nổi tiếng
trong thời chiến có rất nhiều người chết. Cùng lúc ấy lại có một bạn
diễn cũng thức giấc và nhìn thấy dưới ánh lửa bập bùng một hình bóng quỷ
với nanh vuốt mắt tai mũi lưỡi không có trật tự hệ thống gì cả. Với phản
xạ tự nhiên anh ta hét lên “Quỷ!” và vùng chạy. Anh bạn đang giải quyết
bức bách nghe la, cũng với phản xạ tự nhiên lập tức khóa vòi lại chạy
theo người bạn của mình đang chạy trước. Bạn bè thấy anh chạy theo thì
càng chạy nhanh hơn vì cứ tưởng là quỷ hiện hình. Anh thấy người bạn
chạy càng nhanh thì anh chạy càng lẹ. Cái nhanh cái lẹ này kéo dài tới
sáng. Khi bình minh ló dạng họ mới biết là phe ta rượt phe ta.
Cuộc tu hành của chúng ta là như vậy đó. Chúng ta luôn
luôn có những ngộ nhận về chính mình, về những người chung quanh. Chúng
ta không hề có sự cảm thông nào hết. Có gì đâu, một sự lỡ lời nào đó
thôi, nếu cảm thông cho nhau thì mọi việc sẽ qua. Không, đằng này chúng
ta đặt cho họ một vấn đề ghê gớm gay cấn nào đó, để rồi chúng ta thù
chúng ta oán họ. Đêm nay có một nhân vật vắng mặt cho nên chúng tôi mạnh
miệng chúng tôi nói. Đó là cô Bảy em của cô Thi. Hôm đó trong dịp lễ tân
gia, cô Bảy nói với tôi: “Nghe sư ra con tính lên thăm mà thấy sư nghỉ,
con về.” Quý vị biết không, trong năm tôi bị hai ba lần như vậy nên tôi
giận. Tôi đi vượt biên bị nhốt cả tháng trời, người ghẻ không, có hai ba
người lên thăm tôi thôi. Tới lúc tôi về được rồi mình mẩy tôi đen như
Pol pot, tóc tôi dài như Fulro. Phật tử bu lại, người cho thuốc bổ,
người cho tiền, người cho này cho nọ. Người này nói: “Con mà hay sư kẹt
ở trỏng, con tuần nào cũng lên thăm”.
Người kia nói: “Con mà biết con bảo lãnh cho sư, 24 giờ đồng hồ là sư ra
ngoài liền”. Người nọ nói: “Sư khỏi lao động, chỉ đắp y không cần mặc đồ
thế”. Ai cũng hứa hẹn với tôi những điều thần tiên tuyệt vời. Tôi mới
cay đắng biết rằng họ nói xạo.Tôi bị sốc. Nên khi nghe dì Bảy nói vậy
tôi chực nhớ đến chuyện kia. Thật tình tôi không nghĩ dì Bảy nói xạo
nhưng do trí nhớ tai hại của tôi về chuyện kia và do phản ứng lúc đó cái
miệng đi trước cái ý nên tôi nói:
-Có hay không thì nói nha, không có thì đừng có nói, mắc
công tôi mang ơn một cách vô ích uổng lắm!
Thế là dì Bảy phiền tôi.Tôi nghĩ, không biết lỗi ở ai, có
lẽ ở tôi một nửa ở dì Bảy một nửa. Ở tôi một nửa vì tôi phát biểu không
có tổ chức. Còn dì Bảy giận tôi bởi lý do đơn giản là vì dì Bảy không
chịu nhìn nhận tôi là một diễn viên trong đoàn mà nhìn tôi bằng ánh mắt
là một con La Sát. Thế là cả tháng nay dì Bảy đâu có lên gặp tôi. Một
cuộc rượt đuổi nhau trong cái ân tình dâu biển. Sống không bao lâu mà cứ
lo hiểu lầm nhau như vậy chúng ta được cái gì không? Không được gì hết.
Cho nên mình có dịp hãy cảm thông nhau, chuyện nhỏ đừng
xé ra to, dàn xếp được chuyện nào thì dàn xếp chuyên ấy. Đời vốn đã ngộ
nhận rồi, một nhạc sĩ nào đó đã từng nhắc nhở chúng ta: “Hãy cúi mặt đi
để nghe đời lầm lỡ.” Hãy luôn luôn phát hiện ra những lầm lỡ của mình.
Chúng ta có lắm điều sai trái mà mình không mấy khi chịu trực diện nhìn
ra nó. Điều này chúng tôi đã nhiều lần nhắc ở trong Nam cũng như nhắc ở
ngoài Trung. Phật tử miền Nam miền Trung nói riêng và Phật tử Việt Nam
nói chung có một điểm ưu việt mà chúng tôi thường hay tán dương đó là
trí nhớ hơi kém, cho nên những vấn đề nào mà chúng tôi nhắc cho các vị
trong bài pháp trước kỳ sau chúng tôi nhắc lại các vị vẫn hoan hỷ. Các
vị quên hết trơn hết trọi cho nên tôi không cần học hỏi nghiên cứu gì
thêm cứ việc nhắc đi nhắc lại hoài như nhai kẹo chewingum vậy, tôi vẫn
được tán dương là một người bác học. Chúng ta thường tự dối gạt mình, tự
cho phép mình đam mê một cái gì đó, giận hờn một ai đó, ngộ nhận hoặc có
thành kiến hoặc có ác cảm với một ai đó. Tự cho phép rằng đó là sự hợp
lý, đó là điều phải có, đó là điều thích đáng mà thực ra thì chúng ta
thiếu khách quan thiếu trung thực thiếu sáng suốt. Chúng ta không phải
là người đứng ngoài cuộc nhìn vào mà chúng ta là người đứng trong cuộc
nhìn ra.Chính vì vậy mà chúng ta bị rơi vào cái cảm giác, vào cái tình
trạng mà chúng tôi gọi là ngộ nhận.
Trường hợp mà ngài A-nậu-đà-la chấp thủ vào khả năng ghi
nhận của mình, trường hợp du sĩ Trường Trảo chấp thủ vào kiến thức của
mình, đó chính là bài học cho chúng ta. Chúng ta hôm nay có những điều
mà chúng tôi nói theo ngôn ngữ của cụ Nguyễn Du thời xưa hơn 200 năm về
trước: “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Tức là phiền não giữ trong
bụng nhưng luôn luôn dùng biện pháp hình thức lịch sự nào đó mà một
người có học bắt buộc phải giữ: phải giữ cho mình một thái độ xử sự tốt
nhưng thật ra trong bụng chúng ta không phải như vậy, muốn chửi người ta
lắm nhưng không dám chửi vẫn giữ ấm ức trong lòng mình, hiểu sai nhưng
không dám hỏi sợ rằng hỏi như vậy là nhục, muốn gặp người ta để xin lỗi
nhưng sợ người ta nghĩ rằng mình yếu cơ hơn. Tại sao như vậy? Hãy khách
quan với chính mình hãy nhìn ngắm chính mình. Lúc nãy mình là La Sát,
người ta là La Sát. La Sát trong vở kịch cuộc đời mà thôi, chứ không hề
là gì khác đâu. Đừng bao giờ để rơi vào tình cảnh ngoài tình cảnh thứ
nhất mà tôi nói là: “Tình trong như đã mặt ngoài còn e”. Còn đối tham ái
là: “ Đưa tay mà ngắt ngọn ngò.Thương em đứt ruột giả đò làm lơ.” Các
trường hợp này không nên.
Bài pháp đến đây đã gần trọn băng và chúng tôi cũng đoán
chừng là các vị cũng mệt mỏi và những gì chúng tôi sẽ nhận được từ bài
pháp này cũng vừa. Chúng tôi xin chấm dứt ở đây. Người ta nói “no mất
ngon giận mất khôn”, “nói nhiều mất hay”. Tôi sợ nhất là trường hợp nói
dài nói dở nói dai. Chúng tôi xin kết thúc bài pháp ở đây.
Chúng tôi xin thành tâm chia sẻ những công đức này đến
các vị Phật tử, trước hết vạn sự như ý sau thành tựu tất cả những trí
tuệ vừa đủ để hiểu được thấu suốt, để hội nhập được những gì chúng tôi
vừa trình bày như là một chút san sẻ chân tình của chúng tôi đối với sự
tu tập của quý vị. Mong rằng trong thời gian chúng tôi còn ở trong Nam
chúng ta có thể gặp nhau trong những sự trao đổi, những thắc mắc, những
giải đáp nếu quý vị cảm thấy cần. Phần phước báu của pháp thí thanh cao
này chúng tôi cũng không quên hồi hướng đến tất cả các Chư thiên nhất là
Đức trời Đế Thích, Tứ Đại Thiên Vương, tất cả Chư thiên hộ trì Phật giáo,
cũng như những vị Chư thiên vẫn luôn hộ trì chúng ta trong từng năm từng
tháng trong cuộc đời tu tập cũng như trong đời sống xã hội. Xin cho tất
cả luôn luôn được vạn sự như ý. Nam Mô Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật. (#vietheravada.net)
TK Giác Nguyên giảng