THERAVADA

PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY

 

PHẬT SỬ DIỄN CA

 

TK GIÁC CHÁNH

=================

 

08. BỒ TÁT XUẤT GIA

 

Ngay khi ấy được tin phi báo

“Bà Bim-Ba hoàng hậu khai hoa

Hoàng nam tướng hảo giống cha

Được tin, Bồ tát thở ra than rằng

 

Đấy là cảnh thê thằng tử phược

Đấy là dây trói buộc luân hồi[1]

Nhưng Ngài cũng gượng làm vui

Ngự về biệt điện, đủ mùi thanh tân

 

Đến canh giữa, cung tần mỏi mệt

Nằm ngửa nghiêng cùng khắp chiếu hoa

Thoáng trông như những thây ma

Ngài vừa thức giấc nh́n ra chán chường

 

Vội đánh thức thị thần Xa-Nặc[2]

Dạy thắng yên Kiền Trắc[3] đợi chờ

C̣n Ngài trở lại cung sau

Âm thầm từ giă thê hoa, vương triều…

 

Rồi lên ngựa cùng người thị vệ

Ra khỏi thành thẳng lối buông cương

Ác Ma hiện xuống đón đường

“Báo tin ngôi vị Thánh vương sắp thành”

 

Ngài dơng dạc đáp rằng “Ta biết!”

Nhưng ḷng Ta không tiếc nuối đâu

Ác Ma buồn bă âu sầu

Tránh qua nhường bước vó câu đăng tŕnh

 

Đêm gần măn, càng thêm lo ngại

Đường càng xa, sải ngựa càng nhanh

Bao phen xuống thác lên ghành

Vượt ba Quốc độ[4], năm trăm dặm đường!

 

Phi ngựa thẳng qua sông biên giới

A-nô-ma[5] giáp với Kiệt Đà[6]

Dừng cương trên nổng[7] phù sa

Bây giờ mới chắc xuất gia được rồi.

 

Cởi vương miệng, cẩm bào, ngọc đái

Gởi thị thần dâng lại Phụ hoàng

Nhắn lời từ giă trào đàng

Phụ vương, Di mẫu hưởng an tuổi gia

 

Khi sự nghiệp xuất gia tṛn đủ

Sẽ về triều tế độ Hoàng thân

Chứ nay c̣n lắm phong trần

Túy sanh mộng tử[8], sao đành hưởng an!

 

Nhắn xong, rút gươm vàng thí phát

Giữa hư không thả tóc nguyện rằng

“Nếu như Giác ngộ hoàn toàn

Th́ xin tóc ấy đừng lan xuống trần!”

 

Thật kỳ diệu! Tự nhiên mớ tóc

Không rơi theo hấp lực địa cầu

Chúa trời ngự xuống tiếp thâu

Đem lên Đạo Lợi đặt vào Tháp thiêng

 

Các Pháp khí, Phạm thiên dâng cúng

Cả Tam y, Pháp cụ linh tinh

Phạm Thiên Kha-Ti[9] lại xin

Bộ đồ triều phục, Tháp linh tôn thờ

 

Ngài lúc ấy, đúng hăm chín tuổi

Ngày thứ năm, tháng Sáu, đêm Rằm

Vào năm Ất Măo lịch âm

Bỏ ngôi Đại Đế đi tầm Vô Sanh

 

Bảy ngày đúng rừng xanh ẩn trú

Chốn hoang vu, toại thú xuất gia

Đêm ngày thứ tám ngự ra

Kinh thành Vương Xá[10] từng nhà hóa duyên

 


 

[1]Rāhula, tàu âm Ra-Hầu-La nghĩa là “Phú Chướng” sợi dây trói buộc. Do lời than này của thái tử Siddhattha mà đức vua Tịnh Phạn (Suddhodana) đặt tên cho cháu nội là Rāhula

[2] Xa Nặc (Channa) người tớ trung thành của Bồ tát Siddhattha       

[3] Kiền Trắc (Kanthaka), tên một con tuấn mă của b́nh thường Siddhattha

[4] Ba nước riêng thời bấy giờ (Sāvatthī, Vesali, Magadha)

[5] Anomā, tên một con sông giáp giới Ma-Kiệt-Đà

[6] Kiệt-Đà (Ma-Kiệt-Đà, Magadha) tên một xứ do Đức vua Bimbisāra (B́nh Sa Vương) trị v́, kinh đô là thành phố Rājagaha (Vương Xá)  

[7] G̣ cát nổi

[8] Sống say chết mộng

[9] Ghatikāra, tên một vị Phạm thiên chứng quả A-na-hàm thời kỳ Đức Phật Kassapa, chuyên làm đồ gốm, bạn của Bồ tát thuở xưa

[10] Rājagaha         

 

=================

Mục Lục Phật Sử Diễn Ca

=================

Trang Ngài Trưởng Lăo Giác Chánh
 

Updated 3-2020

 

 

Home