Bài kinh này dạy chúng
ta phải học tập kỹ càng rồi trong mỗi đêm, sau khi ngồi thiền, nhứt là
trong cơn bệnh nặng, chú tâm quán tưởng “10 phép luyện tập”, hẳn sẽ thấy
phát tâm phỉ lạc, có thể làm cho bệnh hoạn được thuyên giảm, mà nếu phải
chết, nhất định sẽ thọ sanh trong nhàn cảnh.
(Vaṅsarakkhita
Bhikkhu ‒ Hộ Tông tỳ khưu)
CẤP CÔ ĐỘC ‒ KHUYẾN DỤ KINH
TRƯỞNG LĂO H̉A THƯỢNG HỘ TÔNG
(VAṄSARAKKHITA MAHĀTHERA)
Soạn dịch
TỰA
Nhận thấy bài pháp “Cấp Cô Độc khuyến dụ kinh”
thật là cần thiết đặc biệt, chúng tôi dịch ra quốc văn, nguyện giúp cho
hạng sơ cơ học Phật thành tâm mộ đạo.
Nên nh́n nhận rằng: trong
cơn trọng bệnh, chúng ta rất khó chịu v́ những cơn đau đớn, nên chỉ
thường hay rên siết, đến nỗi hôn mê, không nhớ được câu niệm Phật, như
thể ắt phải sa trong 4 ác đạo, không sai. Xem coi, như ông Cấp Cô Độc là
bậc thánh nhân mà cũng c̣n kêu rêu than khổ trong giờ hấp hối, huống chi
chúng ta là kẻ phàm nhân.
Bài kinh này dạy chúng ta
phải học tập kỹ càng rồi trong mỗi đêm, sau khi ngồi thiền, nhứt là
trong cơn bệnh nặng, chú tâm quán tưởng “10 phép luyện tập”, hẳn sẽ thấy
phát tâm phỉ lạc, có thể làm cho bệnh hoạn được thuyên giảm, mà nếu phải
chết, nhất định sẽ thọ sanh trong nhàn cảnh.
Xét đoán, thấy bài kinh
này rất có giá trị, chư quư thiện nam, tín nữ chùa Bửu Quang - Thủ Đức -
xin xuất bản để làm việc pháp thí, chỉ mong cho chúng sinh khỏi khổ được
vui.
Vaṅsarakkhita Bhikkhu ‒
Hộ Tông tỳ khưu
GIẢI VỀ PHÁP NÊN SUY NGHĨ TRONG CƠN
BỆNH NẶNG
Khi
mang bệnh nặng, chúng ta nên nghĩ đến cái chi? Trong lúc đó, chúng ta có
rất nhiều ư tưởng như: nhớ đến của cải, con, vợ, thân quyến, bố thí, tŕ
giới, tham thiền hoặc các điều lành khác. Những cái đó, không có thể sửa
chữa sự khổ của chúng ta được chơn chánh: một ít pháp làm cho cái khổ
càng tăng gia, là sự xét nghĩ đến con, vợ, của cải. Về phần niệm sự bố
thí, tŕ giới, tham thiền hoặc các điều tốt của kẻ khác, có lẽ làm cho
tiêu diệt sự khổ được, song cũng chưa hay bằng các pháp sẽ giải sau đây.
Xin chư
Phật tử hăy niệm tưởng như vầy. Phật ngôn: “Evamne sutaṃ ekaṃ samayaṃ
bhagavā sāvatthīyaṃ viharati je’avane anāthapindikassa ārāme v.v. sādhu
sādhu Ananda yāvakataṃ kho Ananda takkāya pattabbam anuppattaṃ tayā
anāthapiṇḍiko so devaputta nānno.” Dịch: Tôi là Ananda, đă được nghe nhự
vầy: một thuở nọ, đức Thế Tôn ngự tại Kỳ Viên tịnh xá, gần kinh đô
Savatthī. Thuở đó, ông triệu phú Cấp Cô Độc mang trọng bệnh, phải chịu
đau đớn nặng nề, có cho một người nam đi vào bạch cho Phật rơ, rồi xin
thỉnh Đức Xá Lợi Phất (Sarīputtathera), Đức Xá Lợi Phất và đức Ananda
cũng có đến viếng và hỏi về t́nh trạng chứng bệnh của ông ra sao. Ông
Cấp Cô Độc tŕnh bày rằng “Gió siết đầu tôi như bị người xoáy bằng khoan,
hoặc mắc phải kẻ niềng đầu bằng dây mây; gió thắt chặt dữ dội, bụng tôi
như người thái bằng dao; thân thể, tứ chi của tôi nóng như bị nằm trên
ḷ than đỏ”. Rồi ông Cấp Cô Độc bạch rằng: “Tôi đau khổ rất nặng nề!”
Đức Xá Lợi Phất an ủi rằng: “V́ thế, ông triệu phú này, ông phải luyện
tập suy nghĩ như vầy:
10 phép luyện tập
1. Ta
không giữ vững mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm; như vậy thức nương mắt,
tai, mũi, lưỡi, thân, tâm mới không có đến ta.
2. Ông
nên nhận rằng ta không giữ vững sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp giới,
như vậy sự hiểu biết do ở sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp giới mới
không có đến ta.
3. Phải
suy nghĩ rằng: ta không giữ vững sự thâu nhận theo mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, tâm như vậy sự biết được phát sanh trong đường mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, tâm mới không có đến ta.
4. Ta
không giữ vững sự tiếp xúc trong đường mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm
như vậy điều hiểu biết tùy ở tâm tiếp xúc trong đường mắt, tai, mũi,
lưỡi, thân, tâm mới không có đến ta.
5. Phải
niệm rằng: ta không giữ vững cái thọ phát sanh theo sự tiếp xúc trong
đường mắt, tai, mũi, lưỡi, dựa vào cái thọ phát sanh v́ sự tiếp xúc
trong mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm, như vậy sự biết rơ mới không có
đến ta.
6. Ta
không giữ vững đất, nước, lửa, gió, hư không, thức th́ như vậy sự nhận
theo đất, nước, lửa, gió, hư không, thức, mới không có đến ta.
7. Ta
không giữ vững sắc, thọ, tưởng, hành, thức th́ như vậy sự hiểu biết dính
dáng vào sắc, thọ, tưởng, hành, thức mới không có đến ta.
8. Ta
không giữ vững ākāsānañcāyatana hư không vô biên thiền, vinñānañcāyatana
thức vô biên thiền, ākiñcaññāyatana vô hữu sở thiền,
nevasaññānānsaññāyatana phi phi tưởng thiền th́ như vậy sự phân biệt mới
không có đến ta.
9. Ta
không giữ vững thế gian nầy và thế giới khác th́ như vậy sự hiểu biết
dựa vào cơi đời nầy và đời khác mới không có đến ta.
10. Tất
cả cái chi mà ta đă thấy đă nghe, đă rơ, đă hiểu, đă t́m ṭi đă trải đi
bằng tâm, những cái đó ta cũng không giữ vững, như vậy sự nhận thức tùy
ở các cái đó, mới không có đến ta.
Nầy ông
triệu phú! Ông nên luyện tập, tưởng niệm như đă giải đó.
Khi Đức
Xá Lợi Phất giảng dạy, xong, ông triệu phú Cấp Cô Độc bèn khóc ̣a. Nhân
khi đó, Đức Ananda hỏi:
- Ông
triệu phú nầy! Ông c̣n quyến luyến chăng? C̣n đắm ch́m chăng?
- Bạch,
tôi không c̣n quyến luyến, không c̣n đắm ch́m, nhưng tôi đă vào bầu Phật
và chư Đại đức tỳ khưu lâu rồi, mà tôi chưa từng được nghe các pháp như
thế đâu.
- Nầy,
ông triệu phú! Các pháp đó, tự nhiên, không rơ rệt đến hạng cư sĩ, chỉ
minh bạch đến bậc xuất gia thôi.
- Tôi
cầu xin đức Xá lợi Phật cho các pháp ấy rơ rệt đến chúng cư sĩ với, v́
trong chư thiện tín cũng có người ít phiền năo, hạng nầy ắt sẽ bất hạnh,
nếu họ không được nghe pháp như thế.
Sau khi
đức Xá Lợi Phất và đức Ananda từ giă trở về, ông triệu phú Cấp Cô Độc
mạng chung, đi thọ sanh trong cung trời Đầu Xuất Đà (Dusita) thành một
vị trời Anāthapiṇdikadevaputta. Vào lúc nửa đêm, vị trời đó xuống đảnh
lễ Phật, tán dương công đức chư tăng rồi tỏ lời hoan hỉ về Kỳ Viên tịnh
xá, mà ḿnh đă tạo, và bạch như vầy: “Người tự nhiên, được trong sạch,
bằng sự: hành vi, hiểu biết, nghe pháp, tŕ giới. Chẳng phải tinh khiết
do ở ḍng dơi hoặc của cải. Nhân đó, bậc trí tuệ, khi đă nhận thấy điều
lợi ích của ḿnh, nên chọn lựa, ḍ xét, điều tra, sưu tầm cái pháp cho
chơn chính rồi thực hành theo mới trở nên tinh khiết được”. Bạch như thế,
rồi bái biệt.
Xin chư
Phật tử hăy lưu ư đến cái pháp nên suy nghĩ, đáng niệm tưởng, trong giờ
mang bệnh nặng, nghĩa là trong lúc trọng bệnh phải tưởng nhớ như đă giải
đó, cho đến khi không c̣n nhận biết cái chi là của ta, cho rơ rằng tất
cả muôn loài cũng chẳng phải của ta.
Cho nên,
khi c̣n mạnh khỏe phải tập tưởng rằng: mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm
chẳng phải của ta; sắc, thinh, hương, vị, xúc, pháp, giới cũng chẳng
phải của ta; sự nhận thức trong đường mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm
cũng chẳng phải của ta; sự tiếp xúc trong đường mắt, tai, mũi, lưỡi,
thân, tâm cũng chẳng phải của ta; cái thọ phát sanh bởi sự tiếp xúc
trong đường mắt, tai, mũi, lưỡi, thân, tâm cũng chẳng phải của ta; đất,
nước, lửa gió, hư không, thức, cũng chẳng phải của ta; sắc, thọ, tưởng,
hành, thức cũng chẳng phải của ta; thế gian nầy, thế giới khác cũng
chẳng phải của ta; cái mà ta đă thấy, đă nghe, đă hiểu, đă nhận biết, đă
t́m ṭi, đă suy nghĩ cũng chẳng phải của ta, cả thảy.
Phải
tập niệm tưởng, duy tŕ như thế cho quen. Trong giờ trọng bệnh, nhớ khi
đến, không cho cảm giác sự khổ, rồi tâm cũng sẽ trong sáng, an lạc, mát
mẻ, làm cho bệnh hoạn phải tiêu tan, mau lẹ, nếu phải chết, nhứt định sẽ
được sinh trong cơi vui (cơi trời hoặc người) như ông Cấp Cô Độc vậy.
– Dứt Cấp Cô Độc khuyến dụ kinh –
SAMVEJANIYA GATHĀ ‒ KỆ ĐỘNG TÂM
1)
Na tattha hatthīnaṃ bhūmi na rathānaṃ na pattiyā na cāpi mantayuddhena
sakkā jetuṃ dhanena vā tasmā hi paṇḍito poso sampassaṃ hatthamattano
buddhe dhamme ca sanghe ca dhīrosaddhaṃ nivesa ye yo dhammacārī kāyena
vācāya da cetasa idhevanaṃ pasaṃsanti peeca sagge pamodati ‒
Tất cả
chúng sanh không có thể chiến đấu với tử thần được, v́ sự chiến đấu ấy
chẳng phải là khả năng của voi binh, chẳng phải là khả năng của xa binh,
chẳng phải là khả năng của bộ binh, hoặc dùng bùa chú hay của cải để
chiến thắng được. Cho nên bậc trí tuệ, khi đă thấu rơ điều lợi ích của
ḿnh cần phải làm cho phát sanh sự tín ngưỡng vững chắc trong Đức Phật,
Đức Pháp và Đức Tăng. V́ người có thân, khẩu và ư trong sạch, trong thế
gian nầy, hằng được các đấng hiền minh ngợi khen vô cùng, đến khi mệnh
chung, hẳn được an vui trong cơi thiên đường.
2)
Sabbe sattā marissanti maranantaṃ hi jīvitaṃ yathākammaṃ gamissanti
puññapāpaphalūpagā nirayam pāpakammantā puññakammā ca sugatiṃ tasmā
kareyya kalyānaṃ nicayaṃ samparāyikaṃ puññāni paralokasmiṃ patitthā
honti pāninaṃ
‒Tất
cả chúng sanh chỉ sẵn dành để chịu chết đều nhau, v́ sanh mạng chúng
sanh chỉ có sự chết là nơi cuối cùng.
Tất cả
chúng sanh toàn phải nhận lấy quả phước và quả tội vừa với cái nghiệp
của ḿnh đă tạo, rồi đi thọ sanh trong kiếp sau. Chúng sanh nào làm
nghiệp dữ, phải chịu khổ trong địa ngục; chúng sanh nào gây việc lành
được thọ vui trong nhàn cảnh. Nhân đó, người đời cần phải hối hả làm
việc phước đức mà bậc trí tuệ hằng ngơ hầu làm của để dành, dính theo
trong đời vị lai, v́ các điều hạnh phúc là nơi nương nhờ của khắp cả
chúng sanh trong ngày vị lai.
3)
Upaniyati jīvitamappamāyuṃ jarūpanītassa na santi tānā etaṃ bhayaṃ
maraṇe pekkha māno puññāni kayirātha sukhāvahani
‒ Tuổi
thọ của chúng sanh rất ít, cái già hằng dẫn đi t́m cái chết, chúng sanh
bị sự già dẫn đi t́m sự chết, rồi chẳng có chi làm nơi nương nhờ được cả.
Nếu người đời đă thấy điều kinh sợ trong sự chết như thế, chỉ nên chuyên
cần làm những phước thiện là các điều lành, nó sẽ đem sự an vui đến cho.
Accenti kālā tarayanti rattiyo vayogunā anupubbaṃ jahanti etaṃ bhayaṃ
maraṇe pekkha māno puññāni kayirātha sukhāvahāni
‒ Th́
giờ chỉ thoáng qua ngày và đêm hằng thấm thoát, thời gian của các niên
cấp[1] chỉ hao ṃn th́ lần. Nếu người đời được xem thấy sự chết trong
niên cấp như thế, cần phải cố gắng làm việc phước đức, nó sẽ đem sự yên
vui đến cho.
4)
Upaniyati loko adhuvo atāno loko ana bhissaro assako loko sabbaṃ pahāya
gamanīyaṃ ūno loko attito tanhādāso
‒
Chúng sanh không bền vững lâu dài, sự già hằng dẫn t́m sự bệnh, sự bệnh
hay dẫn t́m sự chết; Chúng sanh không có chi cấm ngăn, đón ngừa được,
chẳng có ai cứu giúp, ǵn giữ được chúng sanh. Chúng sanh, tự nhiên, có
sự thiếu thốn, không biết no đủ, toàn là nô lệ của ḷng ham muốn.
5)
Sabbe sattā maranti na mariṃsu ca marissare tathevāhaṃ marassāmi natthi
me ettha saṃsayo
‒
Tất cả chúng sanh mới chết hiện tại hoặc đă chết qua rồi, hoặc sẽ chết
trong ngày vị lai, thế nào th́ ta đây ắt sẽ chết, như thế không sai. Tâm
nghi ngờ trong sự chết ấy, chẳng có đến ta đâu.
6)
Animittamanannātaṃ maccānaṃ idha jīvitaṃ kasiranca parittan ca tanca
dukkhena samyuttaṃ
‒
Sanh mạng của chúng sanh trong thế gian nầy, chẳng bao giờ t́m người
phân biện cho biết được: “Ta phải sống hết thời gian, chừng nầy hoặc
chừng ấy đâu và sự sống c̣n càng cực nhọc, càng vắn vỏi, có cả sự khổ (nhiều
thứ) nữa.
7)
Na hi so upakkamo atthi yena jātā na miyyare jarampi patvā maranaṃ evaṃ
dhammā hi pānino
‒
Tất cả chúng sanh đă sanh ra rồi, ngăn ngừa không cho chết bằng sự tinh
tấn nào, sự tinh tấn ấy chẳng có đâu (dầu chúng sanh cầu khẩn rằng “Đừng
cho chết, hoặc chờ đến già sẽ chết” như thế cũng chẳng đặng). V́, tất cả
chúng sanh, tự nhiên phải chịu sự già và sự chết, là thường sự.
8)
Yathāpi kumbhakārassa katā mattikabhājanā sabbe bhedapaŕyantā evaṃ
maccāna jīvitaṃ
‒
Các thứ đồ đựng mà thợ gốm đă làm rồi, đến cuối cùng đều lủng bể cả thảy,
thế nào, sự sống của tất cả chúng sanh (cũng đều có sự chết đón chờ phía
trước), cũng như thế ấy.
9)
Daharā ca mahantā ca yebālā yecapaṇḍitā sabbe maccuvasaṃ yanti sabbe
maccūparāyanā
‒ Tất
cả chúng sanh, dầu trẻ hay già, ngu hoặc trí tất cả chúng sanh ấy, đều
mắc trong quyền lực của sự chết, cả thảy.
10)
Jīvitaṃ byādhi kālo ca dehanikkhepanaṃ gati pañcete jīvalokasmini
animittā na nāyare
‒ Sanh
mạng là mạng sống của chúng sanh, bệnh là sự đau ốm của chúng sanh, th́
giờ xác định sự chết của chúng, nơi mà chúng sanh phải chết, cơi mà
chúng sanh phải đi đầu thai trong ngày vị lai, tất cả năm điều ấy, chẳng
có một ai, trong thế gian biết chắc được.
11)
Nasanti puttā tānāya na pitā napi bandhavā antakenā thipannassa
natthinātīsutānataetamathavasaṃ ñatvā paṇḍitosila saṃ vuto
nibbānagamanaṃ maggaṃ khippameva visodhaye
‒ Người
bị sự chết đàn áp rồi, các con đến pḥng ngừa cũng chẳng đặng, cha mẹ
đến ngăn cấm cũng chẳng đặng. Sự đề pḥng của tất cả thân quyến chẳng có
khả năng đâu. Cho nên bậc trí tuệ, khi đă được quyền lực phải điều lợi
ích là sự tŕ giới rồi, cần phải ức chế, ǵn giữ giới luật, cần phải
luyện tập đạo tâm để đi đến Niết-bàn cho mau chóng, không nên hứa hẹn
đâu.
12)
Tam vinā nāññato dukkhaṃ na hoti na ca antato dukkhahetuniyāmena iti
saccaṃ
‒
Cái khổ chẳng phải phát sanh v́ nguyên nhân nào khác, ngoài ḷng ham
muốn, cái khổ ấy hẳn chỉ phát sanh do ḷng ham muốn thôi, cho nên đức
Thế Tôn có giảng rằng: “Ḷng ham muốn tức là cái nhân sanh khổ”
13)
Nāññā nibbānato santi santaṃ na ca na taṃ yato santabhāvaniyā menā tato
saccamidaṃ mataṃ
‒
Các đức khác, ngoài Niết-bàn chẳng phải là pháp diệt khổ được. Niết-bàn
chính là pháp diệt khổ đặng. Cớ ấy, đức Thế Tôn có giảng rằng “Niết-bàn
là một điều thực, đúng theo trạng thái diệt khổ được”.
14)
Maggā annaṃ na niyyānaṃ aniyyāno cāpi so acchaniyyānabhāvattā
itisosaccasammato
‒
Các đức khác, ngoài đạo (bát chánh) chẳng phải là phương tiện dẫn chúng
sanh ra khỏi khổ được. Chỉ có đạo (bát chánh) nầy thôi, mới là phương
pháp có thể đưa chúng sanh ra khỏi khổ. Nhân đó, đức Thế Tôn mới giảng
rằng “Đạo (bát chánh) ấy chỉ danh là một điệu thật, v́ là một phương
pháp dẫn chúng sanh ra khỏi khổ được.
15)
Sabbe sankhārā aniccati yadā paññāyapassati atha nibbindati dukkhe esa
maggo visuddhiyā
‒ (Nếu
người đời) được quán tưởng thấy rơ bằng trí tuệ rằng tất cả tập hợp toàn
là không thường như thế, trong giờ nào, chắc sẽ chán nản lánh khỏi cái
khổ trong giờ ấy. Đó là con đường của sự trong sạch cao thượng.
16)
Sabbe sankhārā dukkhāti yadā paññāya passati atha nibbindati dukkhe esa
maggo visuddhiyā
‒
(Nếu người đời) được quán tưởng thấy rơ bằng trí tuệ rằng tất cả tập hợp
toàn là khổ như thế, trong giờ nào, chắc sẽ chán nản, lánh khỏi cái khổ
trong giờ ấy. Đó là con đường của sự trong sạch cao thượng.
17)
Sabbe dhammā anattāti yadā paññāya passati atha nibbindati dakkhe esa
maggo visuddhiyā
‒ Nếu
người đời được quán tưởng thấy rơ bằng trí tuệ rằng tất cả các pháp
chẳng phải là của ta, như thế, trong giờ nào, chắc sẽ chán nản, lánh
khỏi cái khổ trong giờ ấy; đó là con đường trong sạch cao thượng.
Aniccā vata sankhārā upādavaya dhammino uppajittvā nirujjhanti tesam
vūpasamo sukho
‒
Tất cả những tập hợp không thường đâu, sanh lên và diệt lại là tự nhiên;
bao giờ sanh lên rồi cũng diệt lại; sự đ́nh chỉ của các tập hợp ấy mới
là yên vui.
‒ Dứt tác phẩm Cấp Cô Độc (Pl.2500 – Dl.1956) ‒
[1] Niên cấp là ấu niên,
trung niên, lăo niên.