THIỀN HỌC NAM TRUYỀN

Giác Nguyên dịch Việt, 1996
Nguyên tác: Joseph Goldstein and Jack Kornfield (1987),
"Seeking the Heart of Wisdom - The Path of Insight Meditation",
Shambala Publications, Boston, USA.

 

Chương 15  
Pháp ứng dụng Thiền định vào đời sống thường nhật 

Làm thế nào để đưa cuộc tu của ḿnh vào từng sinh hoạt trong mỗi phút giây đời sống? Đó là một câu hỏi vô cùng quan trọng. Nó đ̣i hỏi ở chúng ta một sự tỉnh thứcđược kết hợp nhuần nhuyễn với tất cả khả năng bản thân: Từ những vận động sinh lư, những sinh hoạt lớn nhỏ, các cảm giác tâm sinh lư cùng tất cả các mối đối giao quan hệ,... mỗi thứ đều là những phút giây Thiền Định cả.

Quyển sách này, thực ra là những ghi chép về các bài giảng thiền định trong các thiền khóa, nên vấn đề trọng tâm được đề cập ở đây chính là những bước đầu của quá tŕnh Thiền Định hướng nội, những chướng ngại tinh thần, những biện pháp đối đầu với chúng cùng với những hiểu biết  trí tuệ trong Thiền Định. Việc ứng dụngkiên quyết Thiền Định vào đời sống và từng sinh hoạt của ḿnh được xem như là một nửa hành tŕnh của con đường Thiền Định. Để thực hiện đúng mức con đườngnày, đ̣i hỏi ta phải có những tư liệu kinh điển đáng tin cậy, chấp nhận những phép sống và ứng dụng một cách sinh động Giáo lư của Đức Phật vào đời sống thường nhật của ḿnh. Trong bài viết này, chúng ta sẽ bàn đến vấn đề đó.

Cho dầu việc Thiền Định trong những giờ tĩnh tọa hay trong từng hoạt động mang tính cách tu tập khác, chúng ta phải nhớ rằng bất cứ h́nh thức tu tập nào cũng đều tuyệt nhiên không phải là những kiểu cách, nghi thức mang tính mô phỏng, bắt chước ai hết. Dĩ nhiên trong cuộc tu hành của ḿnh, chúng ta phải biết tôn trọngnhững luật tắc, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng ta tu tập ở thế bị động, không thể tự tạo cho ḿnh những bước nhảy vọt tự tập và sáng tạo. Vấn đề đó thực ra chỉ đ̣i hỏi ở chúng ta một sự can đảm đúng đắn cộng với tâm hồn thanh thản. Don Juan cũng đă từng bảo rằng phải có một sự can đảm của người chiến sĩ, ta mới có thể mạnh dạn dấn bước trên hành tŕnh t́m đến trí tuệ. Ông cố t́nh mô tảthế giới này như là một miền đất huyền bí, khủng khiếp, thậm chí là một chốn ma thiêng nước độc và khuyên chúng ta phải có một thái độ sống thích nghi tương ứng để đủ sức hiện diện. Dầu có phải hiện diện trong một thời gian rất ngắn ở đó, ai cũng phải luôn nghĩ đến vấn đề thời gian.

Một đời sống tâm linh thật sự không bao giờ cho phép chúng ta hiện hữu  hoạt động bất ư, vô tâm như một chiếc phi cơ không người lái. Bằng mọi cách, chúng ta luôn phải có thái độ nghiêm cẩn  tinh thần trách nhiệm trong đời sống của chính ḿnh bằng tất cả nguồn đạo lực  bản thân cho phép. Cuộc tu và lư tưởng giải thoát của chúng ta phải luôn được giàn trải trên một thái độ thức tinh liên tục và phát triển kịp thời.

Phải nhận rằng hành tŕnh tu tập không phải luôn dễ dàng như ư ta muốn, mặc dù thật ra nó rất đơn giản: Đó chỉ đơn giản là cách học đối diện với tất cả thực tại vẫn luôn đổi thay trong từng giây phút ngay trước mắt ḿnh. Một thiếu phụ phương Tây sau nhiều năm t́m sang Châu Á, bà đă quay về với tư cách  tŕnh độ của một Thiền sư. Một hôm trong lúc đang rửa chén sau buổi cơm chiều, bà nh́n vào mấy chiếc đĩa rồi nói về pháp môn Thiền Định: "Có là lạ lùng lắm không, khi người ta cứ chọn một băi cát lún để an trí một món đồ như là trên mặt phẳng chắc chắn?" Đó quả là một câu nói hết sức ư nhị. Chính khả năngmở rộng đôi mắt trong từng phút giây để nhận diện cái bất toàn của vạn hữu là nguồn cội cho tất cả nguồn Đạo lực và sự tự dotrong đời sống. Cái khả năng đó cho phép ta đón nhận mọi sự, đối diện với tất cả để t́m thấy những bài học trong tất cả thực tại mà tự chúng luôn hiển hiện. Chỉ riêng mỗi phút giây thực tại, từng t́nh huống của cuộc sống đều có thể là những vị thầy cho chúng ta, mang lại cho chúng ta những cơ hội phát triển t́nh thương  trí tuệ. Thái độ sống tranh thủ này sẽ luôn giúp ích rất nhiều cho công phu Thiền Định của mỗi người: Từ việc duy tŕ thời gian Thiền Định, cho đến những khả năng phơi mở, thăng hoa, tra vấn và nh́n ngắm. Hăy luôn tự t́m thấy cho ḿnh những bài học qua các câu tự vấn, điều đó chắc chắn sẽ giúp cho cuộc tu của chúng ta ngày một nhiều ư nghĩa hơn.

Một nếp sống trọn vẹn phải luôn mang ư nghĩa hồn nhiên, chúng ta hăy liệm xác tất cả hồi ức quá khứ cùng những toan tính trong tương lai để sống hết ḿnh với mọi sự đang xảy ra, những thực tại như thật và đang hiện hữu. Một nếp sống như vậy rất có thể bị xem là khó chấp nhận, nếu không muốn nói là đáng sợ. Bởi có lẽ ai cũng thấy rằng một nếp sống chỉ luôn biết đối diện, thiếu đi những hy vọng cùng kỷ niệm, th́ quả là một nếp sống vô cùng tẻ nhạt, lạnh lẽo, đơn diệu. Nhưng thật ra, cách nghĩ đó sẽ không c̣n nữa ở bất cứ giây phút nào chúng ta cảm nghiệm được cái khía cạnh kỳ thú của trí tuệ về mọi phút giây thực tại ngay trong chính bản chất của chúng. Đó là cả một cuộc khám phá cần thiết  chúng ta phải thực hiện bằng tất cả niềm vui tự nguyện ngay trong từng giờ thiền định, từng quan hệ đối giao với thế giới chung quanh, trong mỗi mỗi tháng ngày. Mà tất cả những thành quả vô giá vẫn tŕnh bày nảy giờ luôn đ̣i hỏi ở chúng một sự can đảm như Don Juan đă nói.

Đến một lúc nào đó, chúng ta sẽ thấy được những dư thừa trong h́nh thức Thiền Định của ḿnh, và chúng sẽ trở nên rơ rànghơn trong cả lúc ta chấm dứt Thiền tọa. Chẳng hạn như những khi mới vừa thức dậy, chúng ta có thấy được ḿnh vẫn thường có những thói quen nào là không thật sự cần thiết hay không? Hầu hết Thiền sinh sau các Thiền khóa đều nhận ra rằng ḿnh đă không c̣n tiếp tục giữ lại được một nội tâm tĩnh lặng mà trước đó đă phải vất vả thật nhiều để có được một cách chật vật. Đối với những giá trị tinh thần th́ chúng ta, chua chát thay, lại rất dễ dàng đánh rơi tất cả. Chẳng hạn khi phải có mặt trong ḍng đời tất bật, từ sự định tâm cho đến phong thái tĩnh lặng, kể cả khả năng chánh niệm của chúng ta thường có khuynh hướng bị thất thoát. Những khi đó, tất cả công phu Thiền Định, chỉ c̣n là một mớ kư ức. Bởi thế, đối với những thiền sinh Tây phương, những người vốn đă từng lăn lộn với nhịp sống máy móc, khi họ đến tŕnh pháp th́ các vị Thiền sư Châu Á thường chỉ khuyên họ một câu thật đơn giản: "Tốt nhất hăy bỏ đi mọi thứ!".

Trí tuệ Thiền Dịnh không hề vơ trang cho chúng ta một kiến thức tư biện hay một sức mạnh tâm linh huyền hoặc nào đó. Bởi điều rơ ràng là khi có một sự cố, một thực tại hiển hiện, nó có thể bỏ mặc chúng ta tự đối diện bằng những cảm nghiệm. Càng va chạm, tiếp xúc với đời sống thực tế, chúng ta sẽ càng có nhiều dịp để nhận ra điều này. Đặc biệt đối với những Thiền sinhsau khi đă trải qua một thời gian dài của các Thiền khóa gắt gao, nghiêm khắc th́ họ càng thấm thía hơn, để rồi sau đó thường th́ người ta bỏ cuộc.

Hành tŕnh đối đầu thực tại với tất cả những chát chua của Trí tuệ Thiền Định như vậy luôn đ̣i hỏi ở chúng ta rất nhiều nghị lực: Kiên gan bền chí liên tục cho đến khi nào Trí tuệ Thiền Định đem lại cho ta những Thiền Lạc và sự tĩnh lặng của nội tâmthay v́ những vật vă nặng nề. Bởi v́ thực ra cái cay đắng không hề là thuộc tính duy nhất và sau cùng của Trí Tuệ Thiền Định. Nó c̣n đưa ta vào một cảnh giới khác sâu xa hơn, trong sáng và ổn định. Cho đến khi nào sự phơi mở tâm hồn  đối đầu vớithực tại c̣n là những đắng chát cho chúng ta, th́ như vậy cũng có nghĩa là trong tự đáy ḷng chúng ta vẫn c̣n có những cái Tôi, của Tôi, những sợ hăi  tổn thương tâm lư. Mà tất cả những cái này đều được khai sinh từ những h́nh thái hết sức sâu kín và tế vi của tham dục. Mặc dù để chấm dứt chúng, dĩ nhiên không phải là việc dễ dàng, nhưng trong những nỗ lực Thiền Định của bản thân, chúng ta hy vọng sẽ có đủ khả năng tỉnh thức để nhận diện chúng, bắt đầu cho ḿnh những tŕnh độ thấu thị trong sáng hơn, một khả năng nh́n ngắm mọi sự vô thường một cách dễ dàng hơn.

Thường th́ những khái niệm bi quan về đời sống vẫn cứ hiển hiện ngay trong giờ phút Thiền Định của chúng ta bởi chúng tacàng tỉnh thức nh́n ngắm th́ chúng càng trở nên hiển hiện rơ ràng hơn. Và đó chỉ mới nói riêng về những nổi khổ đau ngoại tại của tha nhân. C̣n đối với riêng bản thân chúng ta th́ chúng lại càng cụ thể hơn nhiều. Chẳng hạn như ngay trong những giây phút quan sát đầu tiên thông qua Trí tuệ Thiền Định, những tập tính (những h́nh thái ư thức mang tính tập quán) sẽ tự hiển lộcho chúng ta ngắm nh́n chúng một cách trọn vẹn. Chúng là những âu lo, ham muốn cùng biết bao khía cạnh tâm lư phức tạpkhác mà chúng ta đă cố t́nh chối bỏ, vẫn cứ luôn chực chờ để trở lại với chúng ta khi có cơ hội. Đại khái, chúng cứ như là những chiếc áo cũ mà ḿnh vẫn thích mặc. Chúng ta phải nh́n nhận rằng việc chấm dứt các tập tính không cần thiết để tiếp thu những tŕnh độ tâm linh khác cao cấp hơn, quả là một điều vô cùng khó khăn.

Tuy nhiên, ta cũng phải hiểu thêm rằng đây chính là cơ hội, thậm chí một lợi khí để chúng ta ứng dụng pháp môn Thiền Định. Cuộc tu của chúng ta rất cần đến những hiểu biết  cảm thông thay v́ là những thành kiến, để chúng ta có thể nh́n ngắm vạn sự với một t́nh thuơng và khả năng tỉnh thức. Bởi yêu cầu cao nhất của lư tưởng Phật giáo chính là một sự giải thoát, một sự chính xác cần được khám phá  thể hiện  chúng ta phải luôn học cách thực hiện bằng tất cả chính ḿnh. Nhưng hăy nhớ rằng con đường đó không chỉ đơn giản được thăng hoa qua số lượng thời gian của các Thiền khóa hoặc một h́nh thức Thiền Định thiếu nội dung. Nó phải là một cuộc dấn thân và đối diện với tất cả những tập tính vớ vẩn, những âu lo ngu ngơ, những nghi hoặc nông nổi mà chúng ta cần phải biế vận dụng Chánh niệm một cách đúng mức để loại trừ tất cả trong đời sống Thiền Định của ḿnh.

Lần đó, có một vị sư mới tu mà cũng là một tân Thiền sinh t́m đến gặp Ngài Thiền sư Achaan Chaa (một Thiền sư người Thái trứ danh) rồi thưa với Ngài đủ thứ chuyện, từ đời sống bản thân cho đến các bè bạn đồng tu trong tự viện, mà đáng kể nhất là vị này đă có một nhận xét trực tiếp về Ngài:

- Con thấy h́nh như Ngài chẳng giúp được ǵ cho con cả. Con chẳng biết phải làm sao với những lời hướng dẫn của Ngài. Bữa nay, Ngài nói thế này, hôm sau Ngài lại nói thế khác. Con nghĩ rằng một người như Ngài, vẫn được xem là một Thiền sư sở hữu được một trí tuệ khác người, mà tại sao lúc nào cũng tự mâu thuẫn với ḿnh như vậy?

Ngài Achaan Chaa bật cười rồi giải thích:

- Những hướng dẫn Thiền định của tôi chỉ luôn có một ư nghĩa là giúp người khác ổn định tâm hồn của ḿnh. Tôi vẫn xem các Thiền sinh ở đây là những người khách bộ hành đang từng bước ḍ bước trên những con đường đầy những sương mù mà tôi là một hướng dẫn viên có chút ít kinh nghiệm về con đường đó. Tôi thấy ai trong đoàn sắp lạc bước qua bên phải hoặc bên trái một cách nguy hiểm th́ tôi lập tức lên tiếng cảnh báo. Tất cả chỉ có vậy thôi.

Vấn đề cơ bản của thiền Định là ổn định hóa thân tâm. Một khi nhận ra được rằng ḿnh đang ở vào một trường hợp thiếu ổn định nào đó do sự tác động của các phiền năo, đặt biệt là một ham muốn, th́ lập tức buông bỏ nó đi để quay lại chính ḿnh, nh́n ngắm mmọi thực tại đang diễn ra bằng tất cả sự ổn định nhất. Hăy để mọi sự trôi qua một cách đơn giản, có ǵ là rắc rốiđâu! Một thái độ tỉnh thức trong mỗi t́nh huống đều có thể là một cơ hội để nuôi dưỡng sự quân b́nh của nội tâm. Tâm thái quân b́nh hay ổn định này chính là trọng điểm của giáo lư Đức Phật. Tŕnh độ tâm linh này sẽ dể hiểu hơn nếu ở đây ta gọi nó bằng một cụm hợp từ mà xưa nay vẫn không xa lạ ǵ đối với Phật giáo đồ, đó chính là "con đường Trung Đạo".

Có một vấn đề hết sức quan trọng là chúng ta đừng bao giờ nghĩ đến việc rủ rê hay đồng hóa bất cứ ai đó đi theo con đườngcủa ḿnh một cách nông nổi bởi điều đó đôi khi bị phản tác dụng: Thay v́ tiếp dẫn được người nhưng rồi chúng ta lại bị chính họ níu kéo. Không ít những Phật tử đă rơi vào t́nh trạng đó để rồi đánh mất chính ḿnh. Điều này xem ra giống như việc chúng ta đội trên đầu ḿnh chiếc bè gỗ thay v́ sử dụng nó như một phương tiện đi lại. Mục đích của Thiền Định không hề có lư tưởngrủ rê, đồng hóa hay hứa hẹn một điều ǵ đó với ai mà chính nếp sống Thiền Định, bản thân nó đă là những lời thuyết giáo. Nói gọn lại, tu tập Thiền Định là dứt bỏ mọi thứ.

Một nữ Thiền sinh sau khi trở về với gia đ́nh từ tự viện Naropa, đă có những rắc rối với người thân trong nhà về vấn đề tư tưởng. Bởi v́ gia đ́nh cô ấy vốn là những con chiên Gia Tô giáo chính thống nên họ đă xem cô ngoài t́nh máu mủ, là một người xa lạ. Sau một thời gian đấu tranh với gia đ́nh và tự giải quyết bản thân, cô đă tự chọn ra một hướng giải quyết thật tuyệt vời để có thể dung ḥa với mọi người trong gia đ́nh, đồng thời giàn xếp mọi t́nh huống có liên quan đến vấn đề tư tưởngmà bấy lâu nay đôi bên vẩn khổ tâm, với tư cách của một người thầy mà chỉ có mỗi một ḿnh cô biết. Cô đă viết những ḍng chữ sau đây như là những lời nhắn gởi cho tất cả mọi người: "Gia đ́nh chằng ưa ǵ tôi khi tôi là một Phật tử, nhưng họ lại vô cùng yêu mến tôi khi tôi là một vị Phật." Đúng ra th́ chúng ta cũng chẳng cần ǵ đến cái danh xưng Phật tử cả, bởi vấn đề duy nhất quan trọng là chúng ta tự biết khám phá ra một nếp sống hết ḿnh cho t́nh thương, hiểu biết và sự thanh thản trong tâm hồn ḿnh, th́ điều đó cũng có nghĩa là một vị Phật đang hiển hiện trong chính tâm hồn chúng ta rồi đó.

Có dịp được đọc trực tiếp các kinh điển nguyên thủy, chúng ta mới thấy rằng Đức Phật ngoài những trường hợp hết sức cần thiết, Ngài thường tŕnh bày giáo lư của ḿnh đơn giản và ngắn gọn mà nội dung tất yếu dĩ nhiên phải là cô đọng. Lần đó có một vị du sĩ t́m đến yết kiến Đức Phật nhưng ông lại gặp Ngài ngay trên đường khất thực. Vị du sĩ thưa rơ với Đức Phật mục đích tầm đạo giải thoát của ḿnh, người mà theo ông, vẫn thường được nghe tôn xưng là một bậc A-La-Hán Đạo sư của các vị La Hán khác. V́ đang trong giờ khất thực (cùng nhiều lư do khác không thể nói hết ở đây), nên Đức Phật từ chối cuộc nói chuyện và hẹn ông một dịp khác. Do một tiền duyên quá khứ, vị du sĩ một mực cầu thỉnh Đức Phật hăy nói cho ông một lời thuyết giáo nào đó thật ngắn gọn cũng được. Sau ba lần năn nỉ của ông, Đức Phật vẫn với b́nh bát trên tay, nói với ông một bài kệ thật ngắn gọn:

"Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, ngửi chỉ là ngửi, nếm chỉ là nếm, đụng chỉ là đụng và suy nghĩ chỉ là suy nghĩ."

Vừa dứt lời, Đức Phật lặng lẽ tiếp tục con đường khất thực của ḿnh. Tương truyền rằng, sau khi Đức Phật đă ra đi không bao lâu, vị du sĩ nọ đă t́m vào một gốc cây gần đó để trầm tư về những câu nói ngắn gọn của Ngài khi nảy. Trong thoáng chốc, ông đă trở thành một bậc A-La-Hán.

Nội dung của Phật giáo là như vậy đó, như thật  đơn giản, khởi điểm và đích đến nếu cần, chỉ trong một câu nói!

Chân lư vốn luôn đơn giản nhưng chúng ta thường có thói quen làm rắc rối mọi sự. Tất cả cảm nghiệm của đời sống thực rachỉ là từng phút giây tung hứng các ngoại cảnh thực tại mà thôi. Đó là những sắc, thinh, khí, vị xúc và tư tưởng. Chỉ đơn giảncó vậy. Trong toàn bộ các cảm nghiệm cùng những đối tượng của chúng hoàn toàn không có một cái Tôi, cái người nào cả - để chúng ta có thể chán ghét hoặc chấp thủ. Có thấy được như vậy, nội tâm chúng ta mới được tự do. Hăy tu tập Thiền Định bằng một tinh thần đơn giản hóa vạn sự để chúng ta có thể cắt đứt tất cả những ảo giác chằng chịt phức loạn và nh́n thấy các pháp một cách rơ ràng và trực tiếp.

Có tất cả bốn h́nh thức sống đơn giản để giúp ta hiểu biết  tu tập các pháp một cách như thật và giản dị.

Trước hết là sự đơn giản về sinh lư. Chẳng hạn như trong tư thế ngồi, dù là để thiền định về bất cứ một đề mục nào đó th́ trước hết ta cũng cần phải tự giàn xếp cho ḿnh được yên tĩnh, tỉnh táo hơn. Khi nhận ra cảm giác bức xúc ở một bộ phận nào đó trên cơ thể th́ hăy t́m cách giải quyết nó ngay: Ta có thể tạm thời lưu tâm đến đôi vai, hơi thở, cổ, lưng hoặc các cơ bắp. Trong khi đang tĩnh tọa như vậy ta hăy tự theo dơi tất cả những cảm giác sinh lư nào xuất hiện ở nội thân ḿnh, đưa nó vào sự kiểm soát của khả năng tỉnh thức và thăng bằng của nội tâm. Cứ thế trong mọi hoạt động lớn nhỏ ta cũng đều luôn tỉnh thứcnhư vậy, tức luôn chú ư đến mỗi t́nh trạng sinh lư của ḿnh. Sự tỉnh thức đối với tấm thân sinh lư cũng giống như một tấm gương giúp ta có thể nh́n thấy rơ ràng phản ảnh của những ǵ cần được lưu tâm và cần được bỏ quên. Sự đơn giản hóa và lưu tâm đến đời sống sinh lư của ḿnh cũng là những bài học cần thiết, đồng thời  điều kiện đảm bảo phần nào t́nh trạng sức khỏe của mỗi người để công phu Thiền Định của chúng ta có được có được nhiều hiệu quả hơn. Nói một cách khác, vấn đề ở đây là hành giả phải luôn biết trân trọng một cách hợp lư h́nh hài của ḿnh và lưu tâm đến những ǵ nó đ̣i hỏi, nhưng không v́ thế mà đáp ứng những đ̣i hỏi có phương hại cho sức khỏe.

Ở đây ta có thể nhắc lại h́nh ảnh ví dụ vẫn được kinh điển dùng để diễn tả một t́nh trạng sinh lư quân b́nh. Đó là một cây đàn mà người biết chơi không bao giờ để dây nó quá chùng hoặc quá căng. Chúng ta cứ thử nghiệm ở chính ḿnh xem: Với môt sức khỏe tốt th́ mọi khả năng nội tâm sẽ dễ dàng phát triển hơn. Đồng thời, đối với các tân Thiền sinh, khi nhận thấy nội tâmḿnh đă v́ t́nh trạng sinh lư thế nào đó, mà lại xao lăng tâm điểm chú niệm th́ phải lập tức tỉnh thức nhận diện ngay thực tạinày và quay về với nội tại bằng tất cả khả năng ổn định hóa tâm sinh lư.

Phép đơn giản hóa cuộc tu trong trường hợp thứ hai, chính là sự giàn xếp các nếp sinh hoạt, nói cụ thể hơn, là hướng hành động. Con đường này được thực hiện bằng tất cả sự chú niệm. Chỉ có thế thôi. Ở đây, vấn đề cốt lơi là sự nghiêm tŕ năm học giới mà ta đă có dịp biết tới. Đó là một nếp sống cẩn trọng để tránh mọi xúc phạm hay bức hại đối với thế giới chung quanh ḿnh bằng tất cả t́nh thương. Ta phải học được cách tỉnh thức kịp thời khi nội tâm ḿnh đang phơi mở hay khép kín để nó luôn được trải rộng. Cũng giống như một đóa hoa, tân hồn chúng ta luôn có những thời điểm phơi mở hoặc khép chặt, với một số điều kiện nhất định nào đó. Ta hăy luôn đặt biệt lưu tâm đến nhưng phút giây này, bởi với những tuần hoàn bất trắc của nội tâm, vấn đề nghiêm tŕ ngũ giới chắc chắn không dễ dàng lắm đâu.

Phép sống đơn giản thứ ba là một sinh phong tự tại, thanh thản. Phép sống này rất quan trọng nhất là khi ta hiểu được rằng những bận rộn, ràng buộc, tạp loạn trong đời sống luôn là những trở lực cho niềm tịnh lạc của chúng ta. Càng ít rối ren tâm lư, đặc biệt là các ham muốn, th́ cuộc sống của chúng ta lại hạnh phúc hơn. Và chính nếp sống đơn giản mà nhiều ư nghĩa này đă là sinh phong căn bản cho các du sĩ tăng ni nói chung. C̣n đối với hàng tu sĩ tại gia th́ nếp sống đơn giản như vừa nói trên đây không có nghĩa là vất hết các công việc thực sự, nhưng ta vẩn có thể thực hiện một kiểu sống đơn giản thích hợp bằng cách loại bỏ những suy nghĩ không thật sự cần thiết với một cái nh́n ngắm trung thực của bản thân. Nhưng cẩn thận đấy, chúng ta luôn rất dễ dàng trở thành những cổ máy. Đừng nắm giữ một cách nông nổi bất cứ thứ ǵ trên đời: Bởi kể cả tấm thân này c̣n không là của chúng ta nữa mà! Dùng nó như một phương tiện, xử lư và nh́n ngắm nó một cách cẩn trọng để cuộc sống của chúng ta có nhiều nội dung hơn.

Phép sống đơn giản thứ tư là sự đơn giản từ nội tại, tức một tâm hồn dung dị, vô tư. Tư tưởng của chúng ta, từ những lập trường kiến giải hay các suy nghĩ b́nh thường nhất, cũng đều luôn thay đổi như thời tiết hay thủy triều. Điều mà Trí tuệ Thiền định đ̣i hỏi ở chúng ta chính là thái độ đối diện với những thực tại vô thường đó một cách giản đơn và thông minh. Như đă nói, qui luật vận động  tồn tại của các pháp luôn vô cùng đơn giản. Mọi thứ luôn đổi thay. Hành động và tư tưởng hôm nay của mỗi người sẽ tạo ra những thói quen  điều kiện cho các hành động cùng tư tưởng, nói gọn là h́nh thức hiện hữu của chúng ta mai sau. Hôm nay chúng ta có những tác động thế nào đó đối với thế giới chung quanh th́ trong tương lai ta sẽ nhận lại những hậu quả phản ứng tương xứng. Đó chính là qui luật Nghiệp báo: Gieo giống nào th́ thu hoạch quả nấy. Sức mạnhcủa các ham muốn luôn cho ra những đau khổ đối xứng.

Thiền sư Achaan Chaa thường hỏi các học tṛ:

- Bữa nay có thấy ḿnh bị chút ǵ là đau khổ không?

Nếu các thiền sinh trả lời rằng "không có" th́ Ngài mỉm cười. C̣n nếu họ thưa là có ít hay nhiều, th́ Ngài nói ngay:

- Vậy là bị các ham muốn tấn công rồi đấy! Rồi Ngài lại cũng mỉm cười.

Ḷng ham muốn cứ như ánh đèn tín hiệu vậy, nó giúp ta biết được những đau khổ như là cái giá phải trả. Nhờ nó, ta có thể học được khả năng dứt bỏ tất cả.

Sống đơn giản, chỉ là biết nh́n thẳng vào những ǵ đang xảy ra trước mắt ḿnh. Một vị Thiền sư kia lúc đang hấp hối, đă nhắc nhở học tṛ của ḿnh:

- Đừng để cái cổ của ḿnh, phải gánh lấy cái đầu ngộ nhận và trong từng giây phút nên lưu tâm đến mỗi bước chân một cách cẩn thận!

Câu nói của Thiền sư đó đă nói hết những ǵ cần nói, cần nghe và cần thực hiện. Chúng ta có thể xem cuộc tu của ḿnh là một quá tŕnh làm thăng hoa các cảm xúc. Nội dung trọng điểm của các học giới có thể được gọi là thái độ cảm xúc của ḿnh với môi trường sống chung quanh: Tôn trọng  yêu thương tất cả mọi loài. Thiền Định cũng là một nếp sống cảm xúc: Chú hướng và điều chỉnh nội tâm để lắng nghe cái mà Kabir vẫn gọi là "âm vang từ những kiềng chân trong từng nhịp đi của các côn trùng". C̣n trí tuệ, nếu cần cũng là những cảm xúc về từng vận động và sự vô thường liên tục của chính mỗi kinh nghiệm tự bản thân. T́nh thương  trí tuệ chỉ đến từ sự u mặc cùng với một khả năng mẫn cảm của tinh tế của nội tâm bởi vạn sự, vạn vật trên đời đều có thể dạy cho ta học lắm điều hay nếu ta tự có được khả năng cảm nhận từng thứ. Trong mỗi phút giây đi qua, vạn pháp luôn sinh diễn nối đuôi nhau dưới sự điều hành của các quy luật vận động. Mỗi khoảnh khắc là một bài học cho ta về định lư vô thường, vô ngă của vạn pháp. Chỉ cần biết ngồi lại lắng nghe, ta có thể học hỏi được lắm điều từ những ba động nhỏ nhiệm, tinh tế của thân tâm trong h́nh thức các ḍng tư tưởng  cảm xúc. Từng vận động, đổi thay của nội tâm là từng lời mặc khải cho thiền định.

Ta sẽ t́m thấy khuôn mặt thật của đời sống thông qua những công phu khám phá từng khía cạnh của nó trong từng ngày. Trí tuệ nội quán có thể được thăng hoa trong bất cứ hoàn cảnh nào. Mọi t́nh huống tốt xấu đều khả dĩ góp phần làm sâu sắc trí tuệ cũng như những cảm nhận tuyệt vời của ta về thực tại.

Một điều hết sức tự nhiên là trên hành tŕnh phơi mở nội tâm, trước thế giới quanh ḿnh, ta sẽ phải vượt qua rất nhiều rào chắn chướng ngại. Chúng có thể là những hoài nghi, ác cảm, ham muốn, lười biếng, hướng ngoại, phóng tán... hay nói gọn hơn th́ chính là những khát vọng và âu lo, toan tính luôn là những ma chướng nguy hiểm cho ư hướng phơi trải trí tuệ nhưng ta cũng nên nhớ rằng chính các chướng ngại đó lại đồng thời  phương tiện tối ưu để ta t́m thấy sự tự do.

Ở đây chúng ta có thể lấy tâm trạng sợ hăi làm h́nh ảnh ví dụ. Thoạt đầu mới xuất hiện, nó lập tức ngăn trở khả năng lư trí của ta. Ta bị đồng hóa với đối tượng bằng một sự quên ḿnh không cưỡng nổi. Mà trong đời sống, chúng ta thường có lắm cái để sợ: cái ám ảnh đến từ ngay bên trong nội tâm hay đến từ ngoài cảnh, một t́nh huống bất trắc nào đó chẳng hạn. Và chúng tacó một thói quen  cố gắng làm ngơ để lăng quên nó đi. Nhưng càng cố quên th́ cũng có nghĩa là ta vẫn cứ nhớ tới nó và cảm nghiệm của chúng ta đối với thực tại lúc này càng tệ hại thêm, thiển cận và nông nổi, bối rối. Nhưng bên cạnh đó, chính ḷng sợ hăi lại là dấu hiệu của một tâm thái trưởng thành. Nó đưa ta tới một không gian khác mới mẻ hơn, bằng cách nằm giữa để làm cái trạm trung chuyển cho những ǵ ta đă biết với cái chưa được biết. Nó vén cho ta thấy được những thứ quan trọng hơn so với những ǵ mà ta vẫn thường cảm nghiệm. Trong cuộc sống này, lẽ tương đối luôn là một quy luật lạ lùng như vậy đấy: cái khó và cái thiêng không thể tách rời nhau.

Để khám phá được chân lư th́ vấn đề là luôn đ̣i hỏi ở chúng ta cái can đảm lột trần, phơi mở tất cả khía cạnh sai biệt của đời sống. Ḷng sợ hăi chính là một cơ hội để ta thực hiện điều đó. Khi bắt đầu một công phu nào đó, ta cứ thường e sợ mắc phải lỗi lầm nhưng rồi th́ sau cùng th́ ta sẽ hiểu được rằng tất cả những ǵ là vĩ đại, là thành công đều bắt đầu từ lầm lỗi. Đây là vấn đề tối trọng mà ta phải ghi nhớ như một bài học xương máu. Chính một thiền sư lừng danh cũng đă từng tuyên bố: "Đời sống là những chuỗi dài của những lỗi lầm".

Chẳng thua ǵ ḷng sợ hăi, những cố chấp  thành kiến cũng là chướng ngại cho công phu phơi mở nội tâm. Một chi phái Thiền tông khác đă đặc biệt đề nghị người tu thiền phải biết thơ ngây, một tâm trạng tâm lư thật hồn nhiên như tinh thần anh nhi trong Đạo Đức Kinh của Lăo tử. Chính thái độ vô tư này mới là một liệu pháp hiệu quả và cần thiết để ta vượt thoát được ngục tù sở tri chướng, một căn bệnh trầm kha nguy hiểm.

Có lần một số các bà tín nữ Triều Tiên đến viếng một thiền viện tại Mỹ và mang theo thức ăn cùng bông hoa để cúng Phật. Có lẽ do không có hoa tươi nên các bà đă mua các nhánh hoa bằng nhựa. Tất cả đều được đem cắm lên bàn Phật ngay trước mặt đoàn người hành hương, nhưng rồi sau khi phái đoàn vừa rời khỏi thiền viện th́ các thiền sinh Mỹ đă đem vất hết mấy cành hoa bằng nhựa đó. Vị thiền sư viện chủ thấy thế đă bảo họ nhặt chúng lên và đem vào chưng lại ngay ngắn trên bàn Phật. Ngài nói với các thiền sinh người Mỹ rằng thật ra mấy nhánh hoa kia không phải bằng nhựa mà chính nội tâm của họ bằng nhựa th́ đúng hơn. Bởi theo Ngài th́ các thiền sinh chỉ biết nghĩ tới cái đẹp thông thường mà quên đi tấm ḷng tín thànhtrong sạch đă được gửi gắm trên các cành hoa bằng nhựa ấy.

Chúng ta ai cũng có thể dễ dàng bị vướng kẹt trong những toan tính, đề án, phương hướng này nọ của chính ḿnh để từ đó, tầm nh́n của mỗi người về thực tại càng chật hẹp, tù túng hơn. Chúng ta không thể nào có được cái nh́n bao quát và trọn vẹncái toàn cảnh của một bức tranh khi chỉ biết dán mắt vào một chi tiết nhỏ trên đó.

Chuyện xưa kể rằng có một con chồn rất khôn ngoan kia đă tự biết đào những chiếc hố để bẫy mồi. Nó thích thú với mấy cái hố đó lắm, v́ chúng là công tŕnh sáng kiến của nó. Thế rồi một hôm t́nh cờ có người thợ săn vào rừng làm hố bẫy thú và anh ta đă gài bẫy ngay trên một cái hố của chú chồn kia. Như thường lệ, chồn vẫn tới thăm bẫy của ḿnh và lần này th́ nó lâm nạnở chính cái bẩy mà ḿnh đă đào. Nó đau đớn giăy giụa và đúng ra có thể phá tung cái bẫy tai ác kia nhưng v́ cứ nghĩ tiếc côngtŕnh của ḿnh nên phút cuối nó đă bị người thợ săn tóm lấy. Chúng ta thường khi cũng giống con chồn tinh khôn này vậy: luôn dễ dàng trở thành nạn nhân cho chính cái thông minh của ḿnh!

Quả là vô ích và buồn cười nếu chúng ta chỉ biết nhắm mắt tuân theo những lề thói, định kiến đă tự sẳn trong đời sống để rồi buông xuôi, phó thác tất cả tâm tư, t́nh cảm của ḿnh theo khuôn thước đó như một cái máy. Ta phải học được cách thấu suốt và từ bỏ chúng, một nếp đời tẻ nhạt và chết cứng, bởi mục tiêu của đời sống phải luôn là một cái nh́n quán triệt  sinh động, tươi tắn, bén nhạy.

Chúng ta rất cần tới khả năng bén nhạy bởi v́ có những lúc chính nó giúp ta quan sát tường tận mọi chi tiết trong từng cảm nghiệm về thực tại; rồi cũng chính nó đem lại cho ta cái nh́n phơi mở và tỉnh thức mọi sự. Có lần đó, một đàn thiên nga bay ngang qua thiền thất của đại sư Suzuki. Nh́n chúng, đại sư nhắc nhở các môn đệ:

- Người ta thường đánh bắt các loài chim trời để về nuôi trong nhà ḿnh. Mấy con thiên nga này đẹp quá nên ai cũng thích bắt nuôi chúng. Các ngươi phải tu tập thế nào để thấy được ḿnh với đàn thiên nga kia là một, bởi trong đời sống, chỉ nh́n thôi vẫn chưa đủ,ta c̣n phải biết cảm nhận nữa. Hăy lặng nh́n các loài chim bay đi rồi lắng nghe tiếng hót, tiếng kêu của chúng bằng một tâm hồn vô phân biệt. Có thấy chúng với ḿnh chỉ là một th́ chúng ta sẽ thấy không cần thiết để bắt giữ chúng lại, bởi chính mỗi người đă là vạn vật, là toàn bộ thế giới rồi...

Có buông tay xả bỏ những ǵ ḿnh vẫn ôm ấp th́ chúng ta mới có thể nh́n thấy các pháp đúng với các bản chất của chúng. Thật ra trong tự bản chất, không có cái ǵ là đơn giản hay phức tạp cả mà vấn đề chỉ nằm ở cách nh́n của chúng ta, trong khi chúng ta lại thường xuyên thiếu tỉnh thức  chánh niệm. Cái đẹp nhất trên đời này vốn nằm trong chính nội tâm mỗi người và nó là cái ǵ đó thật đơn giản. Chúng ta không thể t́m thấy cái đẹp với một thái độ cưỡng cầu, gán ép, áp đặt hoặc đi xông xáo lùng sục một cách nông nổi. Trong khi đó, với môt tâm hồn thật sự b́nh lặng th́ cái ǵ quanh ta cũng đều là những thứ tuyệt vờicả, thậm chí đó chỉ là những sự vật thông thường nhất: một bóng nắng xiên khoai trong chiều tà, một nụ cười nồng ấm, một phong thái mời trà của ai đó.

Ta sẽ bổng nhiên thấy được nét đẹp tinh khôi và sung măn của đời sống, cái ǵ cũng mới lạ và độc đáo, mỗi khoảnh khắc là một cuộc đời. Rồi từ đấy ta cũng thấy luôn mỗi mỗi phút giây biến hoại của vạn hữu. Tất cả khía cạnh sinh diệt của chúng đối với ta lúc này chỉ là một ṿng tuần hoàn hết sức tự nhiên không cần minh chứng nữa.

Tŕnh độ cảm nghiệm thực tại luôn phản ảnh chính xác khả năng tỉnh thức của chúng ta. Càng bị đa đoan  thiếu độ lượng th́ khả năng cảm nhận của ta càng hạn chế. Rất nhiều học thuật của Á Châu đă đặt nền tảng trên quan điểm này. Chẳng hạn đối với các nhà danh họa chuyên vẽ tranh sơn thủy của Trung Hoa. Để có được một bức tranh ra hồn th́ họ trước hết phải bỏ ramột thời gian dài tĩnh mặc để chuẩn bị tư tưởng. Một khi tâm trí các vị đă thật sự ḥa nhập được với đề tài của bức tranh ḿnh muốn vẽ rồi, th́ đây chính là lúc họ bắt tay vào mài mực, cầm cọ và phóng bút với tất cả tâm hồn.

Đem được tinh thần trên đây vào đời sống thường nhật quả là tuyệt vời nhưng ta dĩ nhiên phải thực hiện sao cho hợp lư  thực tế. Để làm được điều đó, ta có thể tạm thời vận dụng một vài phương pháp tương đối quan trọng sau đây mà ư nghĩa đặc biệt của chúng là nhắm tới sự tỉnh thức thường trực.

Phương pháp đầu tiên là cố tập luyện tư thế tọa thiền tức khả năng ngồi lâu, ngồi yên  vững chăi. Đây là một trong những công phu quan trọng nhất mà ta có thể thực hiện mỗi ngày. Khả năng này không chỉ là một thao tác trui rèn nghị lực thiền địnhmà c̣n là một phần nhân cách tối yếu cho người hành giả. Nó cho ta cái thời gian để im lặng, lắng nghe chính ḿnh và nối kết các giá trị tâm linh khác của bản thân. Thế giới này, theo một cách nói đặc biệt, chẳng cần phải thêm cái ǵ nữa. Cái nó cần chính là sự cắt giảm, sự bớt đi: sự bớt đi những tham đắm, sự bớt đi những âu lo, hiềm khích, kiêu ngạo. Từng phút giây tọa thiền là từng thời gian để hành giả gội rửa nội tâm khỏi khỏi các niềm thống hối trong sự tĩnh lặng, phơi mở chính ḷng ḿnh ra để hiểu biết, đón nhận và t́m thấy sự bằng an cho tâm hồn. Với một sự khổ luyện đúng mức, tư thế tọa thiền sẽ giúp ta dễ dàng kiểm soát các hoạt động của ḿnh trong đời sống thường nhật. Và hăy ngồi với một tinh thần sống vô ngă, chúng ta có thể giao ḥa với tất cả thực tại đi qua ḷng ḿnh và như vậy công phu tọa thiền của chúng ta sẽ là một tặng phẩm cho tất cả tha nhân  ư nghĩa chân thành nhất.

Hăy cố gắng tọa thiền mỗi ngày hai lần. Quy định này sẽ là một thời khóa rất tốt để ta sống trọn vẹn với mọi thời gian. Buổi tọa thiền ban sáng sẽ đem lại cho ta một nhịp dộ sinh hoạt thăng bằng cũng như khả năng tỉnh thức thường trực trong suốt một ngày. C̣n buổi tọa thiền ban chiều sẽ giúp ta buông thả hết tất cả những ǵ nặng nề c̣n bị tồn đọng sau một ngày cực ḷng đối diện với đời sống, đồng thời cũng giúp ta ổn định được thân tâm cho trở nên yên tỉnh, thư thái hơn. Nếu khả năng cho phép, hành giả hăy thử ngồi thiền hai giờ đồng hồ trong một ngày. C̣n như không được vậy, thử bắt đầu thực hiện mỗi buổi tọa thiềnkhoảng nửa giờ cũng được. Nói chung, cuộc sống thiền định luôn đ̣i hỏi chúng ta phải tự biết đưa ra cho ḿnh một nền nếp căn bản để sống và nương theo đó như một cẩm nang để cuộc tu khỏi phải rơi vào t́nh trạng nửa vời!

Chính v́ việc tọa thiền là một công phu mang tính trường kỳ  thực dụng nên ta không thể có một quan niệm cứng nhắc và máy móc về nó, chẳng hạn một quy định vô lối nào đó. Ta cũng hiểu rằng ai cũng luôn dễ dàng mắc phải một hay nhiều trở lựctrong từng ngày của đời sống thiền định: một cơn buồn ngủ hay t́nh trạng bù đầu bởi quá nhiều bận rộn vẫn luôn đợi sẳn phía trước. Đầu ngày hay cuối ngày bất luận, ta dễ dàng bị t́nh trạng rối tung đầu óc và căng thẳng sinh lư cho những lo toan vướng vít. Trong t́nh trạng đó, nếu chỉ xem việc tọa thiền là một thao tác của thời khóa biểu th́ ta sẽ không tài nào xử lư, giàn xếp nổi nội tâm của ḿnh - đặc biệt là trong một thời gian dài và phải đối đầu với quá nhiều phức tạp. Công phu tọa thiền không phải là cái h́nh thức ép buộc trong từng thiền khóa ngắn hạn. Nó là cái thời gian để ta thư giản sinh lư  quân b́nh, ổn định tâm lư. Bất cứ khi nào cần tới sự tập trung để giàn xếp nội tâm th́ thiền định luôn là liệu pháp cần thiết, và nếu với một t́nh trạng sinh lư bất ổn hay một nội tâm rối bời th́ dù có vận dụng một tư thế tọa thiền nào cũng đều là vô hiệu cả. Ngược lại, trong t́nh trạngtâm sinh lư b́nh ổn, chỉ với sự lắng nghe hơi thở và đón bắt từng cảm nhận của sinh lư ta có thể khám phá thực tại  t́m thấymối tương quan thật sự của mọi vận động thân tâm.

Việc tọa thiền lạ lùng lắm. Có lúc ta thấy nó thật dễ dàng nhưng cũng có khi lại gây cho ta không ít khó chịu, phiền phức. Chẳng hạn mới bắt chân vào để ngồi th́ dường như bao nhiêu chuyện trên đời cứ đổ xô về như thác lũ. Trong trường hợp đó, hăy giàn xếp nội tâm ḿnh đă, đừng nản ḷng hay tỏ ra bất lực rồi phí mất một ngày. Nếu t́nh trạng này xảy ra vào lúc ta sắp đi ngủ th́ cũng vẫn cố gắng giải quyết nó bằng cách ngồi ngay xuống bên chân giường hoặc một chỗ thích hợp nào đó trong tối thiểu năm phút. Đừng bao giờ tự cho phép ḿnh an ḷng, thỏa măn đă ngồi đủ thời gian tọa thiền trong thời khóa của một ngày. Đôi khi ta chỉ cần một hai phút là đă quá đủ rồi, miễn sao thân tâm được ổn định là được. Điều vừa nhắc tới trên đây là một nhắc nhở quan trọng cho tất cả hành giả.

Để việc tọa thiền được thực hiện thuận lợi, việc cần thiết là ta phải có được một không gian riêng tư thật thích hợp mà ở đây có thể là một căn pḥng hay một góc giường ngủ. Tốt nhất nên có một tọa cụ hay một chiếc ghế thoải mái để ngồi. Và nếu cảm thấy cần thiết, ta cũng nên an vị trước mặt ḿnh một pho tượng hoặc bức ảnh Phật hoặc bất cứ môt thứ trang trí nào đó khả dĩ khơi gợi cho ḿnh những tư tưởng tích cực. Bên cạnh đó, việc có thêm đôi ba quyển kinh tâm đắc nhất để đọc lúc cần thiếtcũng là một điều hay, chẳng hạn như giúp ta ôn tập kiến thức Phật pháp và tiếp sức cho tinh thần thiền định.

Bên cạnh tư thế thiền tọa, tư thế kinh hành cũng thường trực của hành giả. Trước giờ tọa thiền nên dành ra chút thời gian để đi kinh hành để ổn định tâm sinh lư, đó là chưa kể đến những giờ kinh hành đặc biệt trong một ngày. Chúng ta thường mất nhiều th́ giờ cho những vọng tâm ảo tưởng. Có thể nói 90% những ư nghĩ thường nhật của mỗi người là vô ích, phí phạm, và như vậy ta chỉ c̣n lại rất ít những tư tưởng  ư nghĩa. Người hành giả phải tự biết đ́nh chỉ những ǵ không thật sự cần thiết. Trong lúc kinh hành, ta chỉ cần biết "Đi là Đi", cảm nhận nó một cách hết ḿnh. Thiền định trong tư thế kinh hành rất dễ thực hiện, ở bất cứ nơi đâu-lúc nào-làm ǵ, ta cũng có thể tu tập.

Ta đă thiền định trong tư thế ngồi và đi th́ cũng có nghĩa là trong từng bữa ăn, ta vẫn có thể thiền định. Ta ăn uống trong sự tỉnh thức qua từng thao tác lớn nhỏ trên bàn ăn, tỉnh thức khi ngồi trước những món ăn quen miệng. Hăy cố gắng ăn uốngtrong im lặng, một cách thong thả chậm răi và chánh niệm. Và nói thật gọi là hăy ăn từng trái táo với một sự cẩn trọng, chuyên chú mà ta vẫn vận dụng như ta đang đối diện với toàn bộ đời sống.

Trọng tâm của sự chuyên chú này là trọn vẹn cái đang hiện hữu và để từ đó ta nắm bắt được bản chất của thực tại xuyên quatừng vận động của thân tâm. Ở đây vấn đề không phải ở chỗ phân biệt Đúng với Sai, mà chỉ đơn giản là một cái nh́n trong sáng và thậm chí khôi hài nữa là khác. Lần đó, thiền sư Soen-Sa-Nim (Triều Tiên) vừa ăn sáng vừa đọc kinh (tại trung tâmthiền định Providence, Rhode Island, Hoa kỳ) như thường lệ và điều này t́nh cờ đă làm một thiền sinh thắc mắc khi vẫn thường nghe thấy nhắc nhở rằng làm ǵ th́ biết nấy, trong khi thiền sư lại cùng lúc làm hai việc: vừa ăn vừa đọc. Vị thiền sinhbèn đến hỏi, ngài thiền sư trông lên và mĩm cười:

- Ta vẫn làm đúng như những ǵ đă dạy cho các con là làm ǵ biết nấy. Ta vừa ăn vừa đọc kinh và cũng tự biết ḿnh vừa đọc kinh vừa ăn!

Chánh niệm có một vai tṛ rất quan trọng trong đời sống, nó giúp ta nối kết mối tương giao với mọi người qua sự phát hiện ở họ những giá trị đức tính. Một hôm, tôn giả Ananda đă thưa với Đức Phật:

- Bạch Thế Tôn, theo con, một nửa đời sống phạm hạnh được thiết lập trên t́nh pháp hữu.

Và Đức Phật đă trả lời:

- Không phải chỉ là một nữa đâu, Ananda, ta nói rằng toàn bộ đời sống phạm hạnh được thiết lập trên đạo t́nh pháp hữu với nhau thông qua sự khéo tu tập và một đạo lộ toàn thiện.

Thái độ sống hội nhập và san sẻ với tha nhân là một vấn đề vô cùng quan trọng. Làm sao chúng ta có thể chối bỏ tất cả tương giao trong đời sống, nhất là trong thế giới hôm nay, một thế giới luôn vang động những thông điệp kêu gọi về vô vàn vấn đề mà ta không thể làm ngơ? Một trong những quyền thiêng liêng của tất cả Tăng ni Phật giáo là được sống với tư cách một thành viên của giáo hội. Trong khi đó, dù cũng là những Phật giáo đồ nhưng hàng cư sĩ tại gia không có được cái tạm gọi là ân sủngđặc biệt này. Chính nhờ ư thức rằng ḿnh đang góp mặt trong một cộng đồng, dù chỉ với những quan hệ mang ư nghĩa tinh thần, đạo tâm  đạo lực của chúng ta sẽ được cũng cố. Ư thức đó sẽ được trợ lực cho chúng ta rất nhiều, nhất là những khi trong cuộc tu có vấn đề. Tóm lại h́nh ảnh của cộng đồng sẽ luôn tiếp sức cho chúng ta trong từng bước tu hành.

Từ những vấn đề trên, ta có thể nghĩ tới một h́nh thức tu tập mang tính biện pháp cho những lúc cần thiết, đó chính là tọa thiền tập thể. Nếu không t́m thấy một thiền đường nào, th́ ta vẫn có thể ngồi thiền một ḿnh trong một tập thể Phật giáo đồ trong giờ phút thích hợp, kể cả trường hợp đó không là những thiền sinh. Càng gần gũi nhiều với những tâm hồn hướng nội, có chiều sâu tâm linh th́ hành giả càng được tiếp sức một cách hiệu quả.

Và cũng với tinh thần đó, mỗi năm ta nên dành thời gian tham dự các thiền khóa để có cơ hội được sống yên lặng và nâng caocông phu thiền định. Phải nói rằng các thiền khóa luôn có ư nghĩa quan trọng đối với hành giả. Qua đó, ta sẽ có điều kiện sống tiếp cận, ḥa ḿnh với thiên nhiên hơn. Bất luận ở thiền viện hay nhà riêng, nếp sống im lặng  thiên nhiên, núi rừng hay đại dương, sẽ nuôi dưỡng khả năng thiền định của hành giả ngày một tăng tiến hơn. Cho nên không phải do t́nh cờ mà hôm nay đột nhiên có rất nhiều trung tâm thiền định ồ ạt mọc lên khắp nơi trên thế giới. Đó là những trú xứ cho ta đi t́m sự yên lặng mà nếp sống yên lặng có giá trị như thế nào đối với thiền định th́ tất cả chúng ta đă rơ. Trong khi có nhiều người vẫn c̣n đang cật lực mày ṃ những hang hốc của ư thức, mỏi mắt ngóng đợi từng bước tiến của tŕnh độ thiền định th́ ta hăy hiểu rằng chỉ cần sự yên lặng lắng nghe là đă quá đủ. Chính nó là toàn bộ đời sống thiền định của chúng ta. Chắc chắn sẽ có lúc chúng ta sẽ nhận ra cái ḿnh cần nhất đời chỉ là một không gian thật tĩnh lặng để thiền định, để thoát khỏi cái ṿng quay lẩn quẩn của những bận rộn gia đ́nh, những quan hệ vớ vẫn với xă hội, cộng đồng, tập thể chung quanh. Tức là trong đời sống hướng nội, chúng ta mỗi lúc chỉ sống hết ḿnh với một vấn đề, một cảnh giới. Nói vậy cũng gần như là chúng ta luôn phải có một sự khu biệt nếu không muốn nói là chọn lựa thật kỹ lưỡng con đường ḿnh phải đi, thậm chí đó là sự chọn lựa tối thiểu giữa các oai nghi (tư thế) thiền định rồi đằng sau đó là những cẩn trọng cần thiết trong mọi sinh hoạt và quan hệ thường nhật. Mà để làm được điều này ta thường chỉ nhận được sự tiếp sức từ các thiền khóa, thời gian lư tưởng để sống thinh lặng. Từ đó chúng tamới có thể cầm lấy chánh niệm bước vào tất cả những ngơ ngách của đời sống một cách an toàn  ư nghĩa hơn.

Ngoài ra, nếp sống đó c̣n giúp ta từng bước khám phá đời ḿnh và thấy được những ǵ cần được lưu tâm, ư thức. Những cái đó bao gồm tất cả công việc, vận động sinh lư, quan hệ đối giao và cả khả năng vị tha, hào sảng của bản thân. Hăy nhớ lại điều chúng ta đă biết, là tất cả nghịch cảnh khách quan hay nội tại đều luôn có thể mang ư nghĩa nuôi lớn đời sống tâm linh của mỗi người. Có điều là ta phải luôn biết đón nhận, xử lư và vận dụng chúng bằng tất cả sức mạnh của chánh niệm một cách đúng mức, hợp lư y cứ trên tầm vóc thực tế của chính ḿnh. Tự nhiên, mọi hoạt động lớn nhỏ của ta từ lúc này sẽ được điều hànhvà thăng bằng với sự trợ lực của các giá trị nội tâm như điềm tĩnh, trong sáng, tập trung và thoải mái. Tuy nhiên ta cũng phải biết rằng nếp sống hướng nội như trên vừa tŕnh bày không hề không có nghĩa là cắt đứt một cách vô lối tất cả sinh phong dung dị của một người b́nh thường. Cho đến cả những hành giả thâm niên có nhiều sở đạt cũng phải cần tới một trí nhớ tối thiểu về những dữ kiện mang ư nghĩa nối kết với đời thường mà ḿnh đă đánh mất một cách tai hại. Chính điều này giúp ta hạn chế những cách ngăn, giữa đời sống nội tâm với đời sống thực tế. Cứ mỗi hoạt động đều có thể dạy ta học được những quy luật của vạn hữu. Chẳng hạn ta có thể học hỏi về từng ước vọng của bản thân, những kinh nghiệm nếm trải đời sống qua chính gia đ́nh hoặc bằng cách theo dơi hơi thở và các cảm giác sinh lư. Sự tự do không giới tuyến và một t́nh thương vô bờ mà Đức Phật đă có được thật ra không phải là điều bất khả đối với chúng ta. Đôi ba năm sống thiền hết ḿnh trong những trú xứ thích hợp, chúng ta sẽ ít nhiều cảm nhận được hai giá trị đó. Điều phải nhớ là trong mọi lúc, đối với chúng ta chỉ có một vấn đề thôi đó là "tại đây và bây giờ". Chánh niệm sẽ luôn dẫn ta đến không gian  thời gian đó thôi, những ǵ luôn vô thường, biến đổi một cách tất định.

Một khía cạnh khác có ư nghĩa giúp ta phơi mở tâm hồn một cách trọn vẹn đó là sự hàm dưỡng một trái tim hào phóng, độ lượng. Hăy nghĩ nhiều về tha nhân, từ gần tới xa và bắt đầu học cách ban phát những ǵ ḿnh có. Khi ḷng hào sảng đă thành ra một phản ứng tâm lư tự nhiên th́ coi như hành giả đă sở hữu được nó rồi. Chúng ta có thể tự t́m lấy những cơ hội giúp đỡ người khác bằng tất cả khả năng một cách hợp lư, có thể là của cải hoặc công sức. Hăy luôn đặc biệt chú ư nội tâm chính ḿnh khi nó bắt đầu có những dấu hiệu chùn bước hay e ngại trong mối quan hệ mang tính hy sinh này để ta kịp thời tu chỉnh một cách thích ứng. Dần rồi theo thời gian, hành giả sẽ có được niềm vui tế nhị trong thái độ sống hào sảng của ḿnh, và chính điều này sẽ khơi mở, tác động tích cực đến cuộc tu của chúng ta qua rất nhiều khía cạnh đạo lực khác.

Một căn bản khác cũng là tối yếu cho đời sống thiền định là sự nghiêm tŕ ngũ giới, một quy cách sinh hoạt có ư thức. Chỉ riêng công phu giữ ḿnh theo năm học giới này cũng là phần đóng góp quan trọng cho khả năng chánh niệm thường nhật. Nghi thứcthọ tŕ ngũ giới rất đơn giản: có thể là sự phát nguyện trước một ông thầy hay chỉ riêng một ḿnh tự lập tâm cũng được (Phần vấn đề ngũ giới đă được nhắc tới trong bài "Tự do trong tự chế" ở trước).

Theo nghi thức truyền thống th́ người muốn chấp tŕ ngũ giới phải đọc bằng miệng từng câu thệ nguyện cho mỗi điều. Chẳng hạn như ở điều thứ nhất: "Tôi xin thọ tŕ học giới bất sát". Các học giới c̣n lại cũng thế. Chúng ta hăy học cách sinh hoạt theo tinh thần của ngũ giới. Vi phạm học giới nào ta cũng tự biết là ḿnh đă bị lấm nhơ học giới đó rồi phát thệ trở lại (Xem ở bài vừa nêu). Mỗi học giới là một lời khuyên răn cho ta không xúc phạm tới chúng sanh khác và nhắc nhở ta một thái độ sống mẫn cảm, độ lượng hơn. Sức mạnh của năm học giới rất lớn. Nếu toàn thể nhân loại giữ được giới bất sát và giới không vọng ngữth́ chắc chắn một phần lớn t́nh h́nh toàn cầu sẽ được sửa đổi tốt đẹp nhơn nhiều.

Hăy sống theo tinh thần ngũ giới. Chính điều này là một chuẩn bị hết sức quan trọng cho đời sống tâm linh. Vi phạm các học giới cũng có nghĩa là ta đă tự gây trở ngại cho việc tu tập thiền định của ḿnh. V́ vi phạm học giới nào cũng là một sự xúc phạm đối với tha nhân, mà đă như vậy th́ làm sao ta có thể sống với một tâm hồn thanh thản, b́nh yên. Có giữ được ngũ giớimột cách sống trong sạch ta mới có được sự giao ḥa nhất định với thế giới xung quanh. Cứ mỗi học giới bị vi phạm là một ánh đèn tín hiệu báo cho ta biết về t́nh trạng nội tâm của ḿnh. Nếu tự biết xét ḿnh một cách nghiêm cẩn, ta sẽ biết được ḿnh đă bị cái ǵ tác động xấu và cũng biết cả cách tự sửa một cách chính xác. Nói gọn lại, hăy trân quư ngũ giới như một phương tiện tuyệt hảo để sửa đổi bản thân  hoán chuyển thế giới.

Chúng ta thường có khuynh hướng thích rao giảng hay trao đổi sở tri của ḿnh với người khàc. Điều đó dĩ nhiên rất tốt nếu đề tài có nội dung quan hệ giáo lư nhưng vấn đề c̣n đ̣i hỏi ta phải biết chú ư lưu tâm đến hoàn cảnh thực tế nữa. Không phải ở đâu ta cũng có thể đàm đạo tùy thích. Thật ra chúng ta nào cần thiết phải khuyến dụ hay kêu gọi đức tin của người khác. Thay vào đó, ta chỉ nên thích nghi với điều kiện chung quanh và như vậy là ta đă tạo được cơ hội cho người khác chấp nhận ḿnh. Nói vậy có nghĩa là chỉ nên nói với ai thật trong ḷng muốn lắng nghe ta nói. Ta hăy là một "Đức Phật", không nên dừng lại ở vai tṛ một "người Phật giáo". Hăy để thái độ sống của ḿnh nói lên Phật pháp tốt hơn là nói bằng ngôn ngữ chữ nghĩa. Bởi nên nhớ rằng con người ta không chỉ quan hệ với nhau qua ngôn ngữ mà c̣n qua sự cảm nhận lặng lẽ từ tâm hồn nữa. Thiên hạsẽ học hỏi  chúng ta những ǵ chúng ta sống chớ không phải qua những ǵ chúng ta nói.

Một hôm có vài thiền sinh đến hỏi một vị đại sư người Tây Tạng lừng danh rằng họ phải làm sao để có thể hướng dẫn con cái ḿnh có được một đời sống tâm linh sâu sắc. Vị Lạt Ma này đă trả lời rằngmỗi người có một duyên nghiệp riêng, các bậc cha mẹ không thể cưỡng cầu trong việc bắt buộc con ḿnh phải đi theo một hướng sống nào đó một cách hoàn toàn như ư được. Tuy nhiên tấm gương sống t́nh thương  trong sáng của cha mẹ sẽ ít nhiều tác động đến đời sống tinh thần của con cái. Chúng ta có thể bảo ban lũ trẻ phải biết thương người nhưng trong khi đó chúng ta lại không làm đúng được những ǵ ḿnh vẫn nói th́ những lời khuyên răn kia không thể có hiệu quả. Nói chung, hăy học cách đưa hết tâm tư, ngôn ngữ và hành động của ḿnh vào thành một, rồi cứ thế phát triển các đức tánh như t́nh thương và sự tỉnh thức cho tới khi tất cả những thứ đó trở thành một nếp sống căn bản th́ mọi chuyện trên đời sẽ là những cơ hội tốt cho ta tu tập: từ tiếng khóc của trẻ con đến những cơn đau nhức trong giờ tọa thiền hoặc thậm chí đến việc sinh ly tử biệt cũng thế.

Trong một chuyến sang thăm Hoa Kỳ, đại sư Kalu Rinpoche đă đến một trại nuôi động vật thủy tộc ở Boston. Người ta để ưthấy cứ mỗi lần đi ngang qua một chiếc lồng kính th́ vị Lạt Ma trứ danh này đều lấy tay chạm nhẹ vào đó rồi miệng cứ thầm th́ câu thần chú Mật tông: "Án Ma Ni Bát Mê Hồng". Khi được hỏi lư do, Ngài đă trả lời:

- Tôi chạm tay vào ḷng kính và chú tâm cầu nguyện cho các chúng sanh bị nhốt trong đó được tự do.

Thật là ư nghĩa nếu trong mọi quan hệ đối giao ta đều có được thái độ bao dung trước tất cả vạn loài. Hăy biết nghĩ về người bằng trọn vẹn trái tim độ lượng của ḿnh và thật ḷng mong mỏi cho tất cả luôn b́nh an, chẳng hạn một sự tự do.

Sự cô đơn luôn làm cho cuộc tu của chúng ta trở nên vất vả hơn, nó sẽ là những hành trang quan trọng cho cuộc hành tŕnhđó. Ta có thể sống qua các thiền khóa dưới sự hướng dẫn của những thiền sư nhưng rồi ở đoạn cuối của hành tŕnh này ta vẫn chỉ c̣n lại một ḿnh để ta làm thầy cho chính ta và từ giai đoạn tự tu này ta mới có thể khám phá được cái Phật pháp giải thoátở chính bản thân ḿnh.

Một vị sư người phương Tây trước khi trở về Mỹ, đă đến nói chuyện với một vị đại đức già người Anh, vị này vốn là một người đă từng có nhiều chuyến đi qua lại giữa Châu Âu và Châu Á. Nhà sư trẻ kia muốn xin được đôi lời nhắc nhở để chuẩn bị cho ngày tháng tu hành ở phương Tây sau này của ḿnh. Vị đại đức người Anh chỉ nói mấy câu ngắn gọn:

- Tôi chỉ có thể khuyên sư một điều thôi: Khi đang có mặt tại một trạm xe buưt, hăy thấy rằng chiếc xe buưt không hề có dính líutới ḿnh. Dù có là người đứng đợi xe, sư cũng đừng để ḿnh phải bận tâm, cực ḷng v́ nó. Lúc nào cũng có một chuyến xe buưt cho sư mà!

Không có ǵ để cho ta phải học tốc, cấp tập, vội vă. Ta phải biết sống trọn vẹn với từng giây phút thực tại để khám phá chính ḿnh. Qua nếp sống này, đời sống của ta sẽ được hoán chuyển tốt đẹp hơn. Và để thực hiện được như vậy, ta phải tự có cái khả năng đối diện cấp thời mà điều này xem ra không đơn giản tí nào.

Tỉnh thức, mẫn cảm, can đảm  sáng suốt là những giá trị tinh thần tự chứng, không thể có được từ một sức mạnh ngoại tại nào cả. Chúng được thành tựu từ bên trong nội tâm mỗi người, thông qua từng vận động của bản thân từ ngữ ngôn đến hoạt động. Những pháp tánh đó là nguồn năng lực chuyển hóa nội dung chúng ta, là những nguồn năng lực không ǵ có thể thay đổi được, bởi chúng lúc này đă là bản chất thật sự của chúng ta rồi.

J. K.

Hướng dẫn thực tập  
Nuôi dưỡng Chánh Niệm 

1/ Lập một thời khóa tọa thiền mỗi ngày:

Đây là một phương cách để trưởng dưỡng công phu thiền định thường nhật, đồng thời cũng giúp ta kiểm tra những chu tŕnh của nó một cách dễ dàng. Hăy thử bỏ ra một hoặc hai tháng với một cuốn sổ tay để bên cạnh chỗ ḿnh tọa thiền rồi viết vào đó, một cách trung thực, thời gian tọa thiền cùng tất cả những ǵ xảy ra trong tâm ḿnh. Chẳng hạn: Ngày X tháng Y, ngồi được một giờ đồng hồ, phóng tán hướng ngoại hoặc trong sáng định tĩnh, có hoặc không những chấn động cảm xúc...

Cuối thời gian đă định, hành giả đọc lại tất cả để đánh giá chính xác được từng bước công phu của ḿnh rồi tự đưa ra những hướng đi thích ứng. Chánh niệm sẽ qua con đường này mà được nuôi lớn.

2/ T́m một ấn tượng để tập trung tinh thần (tạo thói quen tỉnh thức để tỉnh thức trở thành thói quen):

Hăy chú ư vào một hoạt động thường nhật nào đó mà ta thường thực hiện trong sự vô tâm rồi đưa hết chánh niệm vào đấy. Ta có thể lấy việc uống trà, tắm rửa, hoặc lái xe để làm bài thực tập bằng cách dành ra đôi ba phút trước khi bắt đầu làm việc đó. Công việc sẽ được thực hiện trong sự nhẹ nhàng, cẩn trọng  trở thành một công án thiền định tuyệt vời về thực tại, những ǵ đang xảy ra. Làm thế có nghĩa là hành giả đă mở ra tất cả cánh cửa ḷng ḿnh với vạn vật, với mọi sự. Ta có thể nuôi cái cảm giác rằng chính Đức Phật đang từng bước có mặt bên cạnh cuộc tu của ḿnh như một sự gia tŕ thiêng liêng.

Ở đây, ta thử sống trầm lặng  tỉnh thức như một người Nhật Bản uống trà đúng theo nghi thức Trà Đạo, nhưng không dừng lại ở riêng một hoạt động nào mà là mọi hoạt động, luôn khi và mọi nơi. Công phu thực tập có thể kéo dài trong một tuần hay một tháng. Vấn đề thời gian không quan trọng, miễn sao chánh niệm của ta ngày một lớn mạnh th́ thôi.

3/ Thực hiện một kiểu sống giản dị tự nguyện:

Cố gắng bỏ ra đôi ba ngày thử nghiệm một nếp sống không bị chi phối bởi một sinh quan văn minh hay tiện nghi nào để ḥa ḿnh với thiên nhiên. Trước hết hành giả ngồi lại trong im lặng rồi cố nhớ lại tất cả những ǵ là mật thiết trong đời sống bản thân bằng cách đưa vào tư tưởng mọi thứ ḿnh đă sống qua: công việc, quan hệ xă hội, gia đ́nh, nhà cửa, các hoạt động nổi bật, các thứ ḿnh sở hữu được, những mục tiêu để vươn tới trong nay mai hoặc đời sống tinh thần hằng ngày...

Cứ mỗi một h́nh ảnh đi qua trong tư tưởng, hành giả hăy tự đặt cho ḿnh một câu hỏi: Có phải nó chỉ khiến cho ta thêm rắc rốicuộc đời hay không?

Hành giả lại tự trả lời, vẫn trong thinh lặng và một cách trung thực sau khi tự phản tỉnh, soi rọi. Sau đó, nên có thêm một câu tự vấn khác: Nếu mọi sự được giàn xếp đơn giản hơn thế th́ có phải là ta sẽ được hạnh phúc hơn không?

Mục tiêu của đời sống tinh thần phải là giây phút khám phá ra sự tự do, là sự hài ḥa tích cực với cuộc đời chung quanh và nhận ra được bản chất thật sự trong sự hiện hữu của chính ḿnh. Nếu cái cần thiết cho đời sống của chúng ta là việc giản dị hóa mọi sự và ta cũng đă t́m thấy được con đường để thực hiện nó th́ hăy biết giữ nó lại cho ḿnh như một hành trang để bước vào hành tŕnh chuyển hóa, thăng hoa tâm linh.

[Hết]


 Mục Lục


NGHIÊN CỨU PHẬT PHÁP

 

 

Home