THIỀN HỌC NAM
TRUYỀN
Giác Nguyên
dịch Việt, 1996
Nguyên tác: Joseph Goldstein and Jack Kornfield (1987),
"Seeking the Heart of Wisdom - The Path of Insight Meditation",
Shambala Publications, Boston, USA.
Chương 15
Pháp ứng dụng Thiền
định vào đời
sống thường nhật
Làm thế nào để đưa cuộc tu của ḿnh vào từng sinh
hoạt trong mỗi phút giây đời sống? Đó là một
câu hỏi vô
cùng quan trọng. Nó đ̣i hỏi ở chúng
ta một sự tỉnh
thứcđược kết
hợp nhuần nhuyễn với tất cả khả năng bản
thân: Từ những vận
động sinh
lư, những sinh
hoạt lớn nhỏ, các cảm
giác tâm sinh
lư cùng tất cả các mối đối giao quan hệ,...
mỗi thứ đều là những phút giây Thiền Định cả.
Quyển sách này, thực
ra là những ghi chép về các bài giảng thiền
định trong các thiền khóa, nên vấn
đề trọng
tâm được đề cập ở đây chính là những bước
đầu của quá tŕnh Thiền Định hướng nội,
những chướng
ngại tinh
thần, những biện
pháp đối
đầu với chúng cùng với những hiểu
biết và trí
tuệ trong Thiền Định. Việc ứng
dụngkiên quyết Thiền Định vào đời
sống và từng sinh
hoạt của ḿnh được xem
như là một nửa hành
tŕnh của con
đường Thiền Định. Để thực
hiện đúng mức con
đườngnày, đ̣i hỏi ta phải có những tư liệu kinh
điển đáng
tin cậy, chấp
nhận những phép sống và ứng
dụng một cách
sinh động Giáo
lư của Đức Phật vào đời
sống thường nhật của ḿnh. Trong bài viết
này, chúng
ta sẽ bàn đến vấn
đề đó.
Cho dầu việc Thiền Định trong những giờ tĩnh
tọa hay trong từng hoạt
động mang tính
cách tu
tập khác, chúng
ta phải nhớ rằng bất cứ h́nh
thức tu
tập nào cũng đều tuyệt
nhiên không phải là những kiểu cách, nghi
thức mang tính mô
phỏng, bắt chước ai hết. Dĩ
nhiên trong cuộc tu
hành của ḿnh, chúng
ta phải biết tôn
trọngnhững luật tắc, nhưng điều đó không có nghĩa là chúng
ta tu
tập ở thế bị
động, không thể tự tạo cho ḿnh những bước nhảy vọt tự
tập và sáng
tạo. Vấn
đề đó thực
ra chỉ đ̣i hỏi ở chúng
ta một sự can
đảm đúng
đắn cộng với tâm
hồn thanh
thản. Don Juan cũng đă từng bảo rằng phải có một sự can
đảm của người chiến sĩ, ta mới có thể mạnh
dạn dấn bước trên hành
tŕnh t́m đến trí
tuệ. Ông cố
t́nh mô
tảthế giới này như là một miền đất huyền bí,
khủng khiếp, thậm chí là một chốn ma thiêng nước độc và khuyên chúng
ta phải có một thái
độ sống thích
nghi tương
ứng để đủ
sức hiện
diện. Dầu có phải hiện
diện trong một thời
gian rất ngắn ở đó, ai cũng phải luôn nghĩ
đến vấn
đề thời
gian.
Một đời sống tâm
linh thật sự không bao giờ cho
phép chúng
ta hiện
hữu và hoạt
động bất ư, vô
tâm như một chiếc phi cơ không người lái.
Bằng mọi cách, chúng
ta luôn phải có thái
độ nghiêm
cẩn và tinh
thần trách
nhiệm trong
đời sống của chính ḿnh bằng tất cả nguồn đạo
lực mà bản
thân cho
phép. Cuộc tu và lư
tưởng giải
thoát của chúng
ta phải luôn được giàn trải trên một thái
độ thức
tinh liên
tục và phát triển kịp thời.
Phải nhận rằng hành
tŕnh tu
tập không phải luôn dễ dàng như
ư ta muốn, mặc dù thật ra nó rất đơn
giản: Đó chỉ đơn
giản là cách học đối
diện với tất cả thực
tại vẫn luôn đổi thay trong từng giây phút
ngay trước
mắt ḿnh. Một thiếu phụ phương Tây sau nhiều
năm t́m sang Châu Á, bà đă quay
về với tư
cách và tŕnh
độ của một Thiền
sư. Một hôm trong lúc đang rửa chén sau buổi cơm chiều,
bà nh́n vào mấy chiếc đĩa rồi nói về pháp
môn Thiền Định: "Có là lạ lùng lắm không,
khi người ta cứ chọn một băi cát lún để an
trí một món đồ như là trên mặt phẳng chắc
chắn?" Đó quả là một câu nói hết
sức ư
nhị. Chính khả năngmở
rộng đôi mắt trong từng phút giây để nhận
diện cái bất toàn của vạn
hữu là nguồn cội cho tất cả nguồn Đạo lực và
sự tự
dotrong đời sống. Cái khả năng đó cho
phép ta đón nhận mọi sự, đối
diện với tất cả để t́m
thấy những bài học trong tất cả thực
tại mà tự chúng luôn hiển
hiện. Chỉ riêng mỗi phút giây thực
tại, từng t́nh huống của cuộc sống đều có thể là những vị
thầy cho chúng
ta, mang lại cho chúng
ta những cơ hội phát triển t́nh
thương và trí
tuệ. Thái
độ sống tranh
thủ này sẽ luôn giúp ích rất nhiều cho công
phu Thiền Định của mỗi người: Từ việc duy
tŕ thời
gian Thiền Định, cho
đến những khả năng phơi mở, thăng hoa, tra
vấn và nh́n ngắm. Hăy luôn tự t́m
thấy cho ḿnh những bài học qua các câu tự
vấn, điều đó chắc
chắn sẽ giúp cho cuộc tu của chúng
ta ngày một nhiều ư
nghĩa hơn.
Một nếp
sống trọn
vẹn phải luôn mang ư
nghĩa hồn
nhiên, chúng
ta hăy liệm xác tất cả hồi ức quá
khứ cùng những toan tính trong tương lai để
sống hết ḿnh với mọi sự đang xảy ra, những thực
tại như
thật và đang hiện
hữu. Một nếp
sống như vậy rất có thể bị xem là khó chấp
nhận, nếu
không muốn nói là đáng
sợ. Bởi có lẽ ai cũng thấy rằng một nếp
sống chỉ luôn biết đối
diện, thiếu đi những hy
vọng cùng kỷ niệm, th́ quả là một nếp
sống vô
cùng tẻ
nhạt, lạnh lẽo, đơn diệu. Nhưng thật ra, cách nghĩ đó sẽ
không c̣n nữa ở bất cứ giây phút nào chúng
ta cảm nghiệm được cái khía cạnh kỳ thú của trí
tuệ về mọi phút giây thực
tại ngay trong chính bản
chất của chúng. Đó là cả một cuộc khám
phá cần
thiết mà chúng
ta phải thực
hiện bằng tất cả niềm vui tự nguyện ngay
trong từng giờ thiền
định, từng quan hệ đối giao với thế
giới chung quanh, trong mỗi mỗi tháng ngày.
Mà tất cả những thành
quả vô
giá vẫn tŕnh bày nảy giờ luôn đ̣i hỏi ở
chúng một sự can
đảm như Don Juan đă nói.
Đến một lúc nào đó, chúng
ta sẽ thấy được những dư
thừa trong h́nh
thức Thiền Định của ḿnh, và chúng sẽ trở
nên rơ
rànghơn trong cả lúc ta chấm
dứt Thiền
tọa. Chẳng hạn như những khi mới vừa thức
dậy, chúng
ta có thấy được ḿnh vẫn thường
có những thói
quen nào là không
thật sự cần
thiết hay không? Hầu hết Thiền
sinh sau các Thiền khóa đều nhận
ra rằng ḿnh đă không c̣n tiếp
tục giữ lại được một nội
tâm tĩnh lặng mà trước đó đă phải vất
vả thật nhiều để có được một cách chật
vật. Đối với những giá
trị tinh
thần th́ chúng
ta, chua chát thay, lại rất dễ dàng đánh rơi tất cả.
Chẳng hạn khi phải có mặt trong ḍng đời tất bật, từ sự định
tâm cho
đến phong thái tĩnh lặng, kể cả khả năng chánh
niệm của chúng
ta thường
có khuynh hướng bị thất thoát. Những khi đó,
tất cả công
phu Thiền Định, chỉ c̣n là một mớ kư ức. Bởi
thế, đối với những thiền
sinh Tây
phương, những người vốn đă từng lăn lộn với nhịp sống máy
móc, khi họ đến tŕnh pháp th́ các vị Thiền
sư Châu Á thường chỉ khuyên họ một câu thật đơn
giản: "Tốt nhất hăy bỏ đi mọi thứ!".
Trí tuệ Thiền Dịnh không hề vơ trang cho chúng
ta một kiến
thức tư biện hay một sức
mạnh tâm
linh huyền hoặc nào đó. Bởi điều rơ
ràng là khi có một sự
cố, một thực
tại hiển
hiện, nó có thể bỏ mặc chúng
ta tự đối
diện bằng những cảm nghiệm. Càng va
chạm, tiếp
xúc với đời
sống thực
tế, chúng
ta sẽ càng có nhiều dịp để nhận
ra điều này. Đặc biệt đối với những Thiền
sinhsau khi đă trải
qua một thời
gian dài của các Thiền khóa gắt
gao, nghiêm
khắc th́ họ càng thấm thía hơn, để rồi sau
đó thường th́ người ta bỏ cuộc.
Hành tŕnh đối
đầu thực
tại với tất cả những chát chua của Trí
tuệ Thiền Định như vậy luôn đ̣i hỏi ở chúng
ta rất nhiều nghị
lực: Kiên
gan bền chí liên
tục cho
đến khi nào Trí
tuệ Thiền Định đem lại cho ta những Thiền
Lạc và sự tĩnh lặng của nội
tâmthay v́ những vật
vă nặng nề. Bởi v́ thực
ra cái cay
đắng không hề là thuộc tính duy
nhất và sau cùng của Trí
Tuệ Thiền Định. Nó c̣n đưa ta vào một cảnh
giới khác sâu
xa hơn, trong
sáng và ổn định. Cho
đến khi nào sự phơi mở tâm
hồn và đối
đầu vớithực
tại c̣n là những đắng chát cho chúng
ta, th́ như vậy cũng có nghĩa là trong tự đáy
ḷng chúng
ta vẫn c̣n có những cái Tôi, của Tôi, những sợ
hăi và tổn
thương tâm
lư. Mà tất cả những cái này đều được khai sinh từ những
h́nh thái hết
sức sâu kín và tế vi của tham
dục. Mặc dù để chấm
dứt chúng, dĩ
nhiên không phải là việc dễ dàng, nhưng
trong những nỗ
lực Thiền Định của bản
thân, chúng
ta hy
vọng sẽ có đủ
khả năng tỉnh
thức để nhận
diện chúng, bắt đầu cho ḿnh những tŕnh
độ thấu thị trong
sáng hơn, một khả năng nh́n ngắm mọi sự vô
thường một cách dễ dàng hơn.
Thường th́ những khái niệm bi
quan về đời
sống vẫn cứ hiển
hiện ngay trong giờ phút Thiền Định của chúng
ta bởi chúng
tacàng tỉnh
thức nh́n ngắm th́ chúng càng trở nên hiển
hiện rơ
ràng hơn. Và đó chỉ mới nói riêng về những
nổi khổ đau ngoại tại của tha
nhân. C̣n đối với riêng bản
thân chúng
ta th́ chúng lại càng cụ
thể hơn nhiều. Chẳng hạn như ngay trong
những giây phút quan
sát đầu tiên thông qua Trí
tuệ Thiền Định, những tập tính (những h́nh
thái ư
thức mang tính tập quán) sẽ tự hiển
lộcho chúng
ta ngắm
nh́n chúng một cách trọn
vẹn. Chúng là những âu lo, ham
muốn cùng biết bao khía cạnh tâm
lư phức
tạpkhác mà chúng
ta đă cố
t́nh chối bỏ, vẫn cứ luôn chực chờ để trở
lại với chúng
ta khi có cơ hội. Đại khái, chúng cứ như là
những chiếc áo cũ mà ḿnh vẫn thích mặc. Chúng
ta phải nh́n nhận rằng việc chấm
dứt các tập tính
không cần
thiết để tiếp
thu những tŕnh
độ tâm
linh khác cao cấp hơn, quả là một điều vô
cùng khó khăn.
Tuy nhiên,
ta cũng phải hiểu thêm rằng đây chính là cơ hội, thậm chí một
lợi khí để chúng
ta ứng
dụng pháp
môn Thiền Định. Cuộc tu của chúng
ta rất cần đến những hiểu
biết và cảm
thông thay v́ là những thành
kiến, để chúng
ta có thể nh́n ngắm vạn
sự với một t́nh thuơng và khả năng tỉnh
thức. Bởi yêu
cầu cao nhất của lư
tưởng Phật
giáo chính là một sự
giải thoát, một sự chính
xác cần được khám
phá và thể
hiện mà chúng
ta phải luôn học cách thực
hiện bằng tất cả chính ḿnh. Nhưng hăy nhớ
rằng con
đường đó không chỉ đơn
giản được thăng hoa qua số lượng thời
gian của các Thiền khóa hoặc một h́nh
thức Thiền Định thiếu nội dung. Nó phải là
một cuộc dấn thân và đối
diện với tất cả những tập tính vớ
vẩn, những âu lo ngu ngơ, những nghi
hoặc nông nổi mà chúng
ta cần
phải biế vận dụng Chánh
niệm một cách đúng mức để loại trừ tất cả trong
đời sống Thiền Định của ḿnh.
Lần đó, có một vị sư mới tu mà cũng là một tân Thiền
sinh t́m đến gặp Ngài Thiền
sư Achaan Chaa (một Thiền
sư người Thái trứ
danh) rồi thưa với Ngài đủ thứ chuyện, từ đời
sống bản
thân cho
đến các bè bạn
đồng tu trong tự
viện, mà đáng
kể nhất là vị này đă có một nhận
xét trực tiếp về Ngài:
- Con thấy h́nh như Ngài chẳng giúp được ǵ cho con cả. Con
chẳng biết phải làm sao với những lời hướng dẫn của Ngài. Bữa
nay, Ngài nói thế này, hôm sau Ngài lại nói thế khác. Con nghĩ
rằng một người như Ngài, vẫn được xem là một Thiền
sư sở
hữu được một trí
tuệ khác người, mà tại sao lúc nào cũng tự mâu
thuẫn với ḿnh như vậy?
Ngài Achaan Chaa bật cười rồi giải
thích:
- Những hướng dẫn Thiền
định của tôi chỉ luôn có một ư
nghĩa là giúp người khác ổn định
tâm hồn của ḿnh. Tôi vẫn xem các Thiền
sinh ở đây là những người khách bộ hành đang
từng bước ḍ bước trên những con
đường đầy những sương mù mà tôi là một hướng
dẫn viên có chút ít kinh
nghiệm về con
đường đó. Tôi thấy ai trong đoàn sắp lạc
bước qua bên phải hoặc bên trái một cách nguy hiểm th́ tôi lập
tức lên
tiếng cảnh
báo. Tất cả chỉ có vậy thôi.
Vấn đề cơ bản của thiền Định là ổn định hóa
thân tâm. Một khi nhận
ra được rằng ḿnh đang ở vào một trường
hợp thiếu ổn định nào đó do sự tác
động của các phiền
năo, đặt biệt là một ham
muốn, th́ lập
tức buông
bỏ nó đi để quay lại chính ḿnh, nh́n ngắm
mmọi thực
tại đang diễn ra bằng tất cả sự ổn định
nhất. Hăy để mọi sự trôi
qua một cách đơn
giản, có ǵ là rắc
rốiđâu! Một thái
độ tỉnh
thức trong mỗi t́nh huống đều có thể là một
cơ hội để nuôi
dưỡng sự quân
b́nh của nội
tâm. Tâm thái quân
b́nh hay ổn định này chính là trọng điểm của giáo
lư Đức Phật. Tŕnh
độ tâm
linh này sẽ dể hiểu hơn nếu ở đây ta gọi nó
bằng một cụm hợp từ mà xưa
nay vẫn không xa
lạ ǵ đối với Phật
giáo đồ, đó chính là "con đường Trung Đạo".
Có một vấn
đề hết
sức quan trọng là chúng
ta đừng bao giờ nghĩ đến việc rủ rê hay đồng
hóa bất cứ ai đó đi
theo con
đườngcủa ḿnh một cách nông nổi bởi điều đó đôi khi bị
phản tác
dụng: Thay v́ tiếp
dẫn được người nhưng rồi chúng
ta lại bị chính họ níu kéo. Không ít những Phật
tử đă rơi vào t́nh
trạng đó để rồi đánh mất chính ḿnh. Điều
này xem
ra giống như việc chúng
ta đội trên đầu ḿnh chiếc bè gỗ thay v́ sử
dụng nó như một phương
tiện đi lại. Mục
đích của Thiền Định
không hề có lư
tưởngrủ rê, đồng
hóa hay hứa hẹn một điều ǵ đó với ai mà
chính nếp
sống Thiền Định, bản
thân nó đă là những lời thuyết giáo. Nói gọn
lại, tu
tập Thiền Định là dứt bỏ mọi thứ.
Một nữ Thiền
sinh sau khi trở
về với gia
đ́nh từ tự
viện Naropa, đă có những rắc
rối với người thân trong nhà về vấn
đề tư
tưởng. Bởi v́ gia
đ́nh cô ấy vốn là những con chiên Gia Tô
giáo chính
thống nên họ đă xem cô ngoài t́nh máu
mủ, là một người xa
lạ. Sau một thời
gian đấu tranh với gia
đ́nh và tự giải
quyết bản
thân, cô đă tự chọn ra một hướng giải
quyết thật tuyệt
vời để có thể dung
ḥa với mọi
người trong gia
đ́nh, đồng
thời giàn xếp mọi t́nh huống có liên
quan đến vấn
đề tư
tưởngmà bấy lâu nay đôi bên vẩn khổ
tâm, với tư
cách của một người thầy mà chỉ có mỗi một
ḿnh cô biết. Cô đă viết những ḍng chữ sau
đây như là những lời nhắn gởi cho tất cả mọi
người: "Gia đ́nh chằng ưa ǵ tôi khi tôi là một Phật
tử, nhưng họ lại vô
cùng yêu mến tôi khi tôi là một vị Phật."
Đúng ra th́ chúng
ta cũng chẳng cần ǵ đến cái danh xưng
Phật tử cả, bởi vấn
đề duy
nhất quan trọng là chúng
ta tự biết khám
phá ra một nếp
sống hết ḿnh cho t́nh
thương, hiểu
biết và sự thanh
thản trong tâm
hồn ḿnh, th́ điều đó cũng có nghĩa là một
vị Phật đang hiển
hiện trong chính
tâm hồn chúng
ta rồi đó.
Có dịp được đọc trực tiếp các kinh
điển nguyên
thủy, chúng
ta mới thấy rằng Đức Phật ngoài những trường
hợp hết
sức cần
thiết, Ngài thường tŕnh bày giáo
lư của ḿnh đơn
giản và ngắn gọn mà nội dung tất yếu dĩ
nhiên phải là cô đọng. Lần đó có một vị du
sĩ t́m đến yết
kiến Đức Phật nhưng ông lại gặp Ngài ngay
trên đường khất
thực. Vị du sĩ thưa rơ với Đức Phật mục
đích tầm đạo giải
thoát của ḿnh, người mà theo ông, vẫn
thường được nghe tôn xưng là một bậc A-La-Hán Đạo sư của các vị La
Hán khác. V́ đang trong giờ khất
thực (cùng nhiều lư
do khác không thể nói hết ở đây), nên Đức
Phật từ chối cuộc
nói chuyện và hẹn ông một dịp khác. Do một tiền
duyên quá
khứ, vị du sĩ một mực cầu
thỉnh Đức Phật hăy nói cho ông một lời
thuyết giáo nào đó thật ngắn gọn cũng được. Sau ba lần năn
nỉ của ông, Đức Phật vẫn với b́nh
bát trên tay, nói với ông một bài
kệ thật ngắn gọn:
"Thấy chỉ là thấy, nghe chỉ là nghe, ngửi chỉ là ngửi, nếm chỉ
là nếm, đụng chỉ là đụng và suy
nghĩ chỉ là suy
nghĩ."
Vừa dứt lời, Đức Phật lặng
lẽ tiếp
tục con
đường khất
thực của ḿnh. Tương truyền rằng, sau khi
Đức Phật đă ra đi không bao lâu, vị du sĩ nọ đă t́m vào một gốc
cây gần đó để trầm tư về những câu nói ngắn gọn của Ngài khi
nảy. Trong thoáng chốc, ông đă trở
thành một bậc A-La-Hán.
Nội dung của Phật
giáo là như vậy đó, như
thật và đơn
giản, khởi điểm và đích đến nếu
cần, chỉ trong một câu nói!
Chân lư vốn luôn đơn
giản nhưng chúng
ta thường
có thói
quen làm rắc
rối mọi sự. Tất cả cảm nghiệm của đời
sống thực
rachỉ là từng phút giây tung hứng các ngoại
cảnh thực
tại mà thôi. Đó là những sắc, thinh, khí, vị
xúc và tư
tưởng. Chỉ đơn
giảncó vậy. Trong toàn
bộ các cảm nghiệm cùng những đối tượng của
chúng hoàn
toàn không có một cái Tôi, cái người nào cả
- để chúng
ta có thể chán
ghét hoặc chấp
thủ. Có thấy được như vậy, nội
tâm chúng
ta mới được tự
do. Hăy tu
tập Thiền Định bằng một tinh
thần đơn
giản hóa vạn
sự để chúng
ta có thể cắt đứt tất cả những ảo
giác chằng chịt phức loạn và nh́n thấy các
pháp một cách rơ
ràng và trực tiếp.
Có tất cả bốn h́nh
thức sống đơn
giản để giúp ta hiểu
biết và tu
tập các pháp một cách như
thật và giản dị.
Trước hết là sự đơn
giản về sinh
lư. Chẳng hạn như trong tư thế ngồi, dù là để thiền
định về bất cứ một đề
mục nào đó th́ trước hết ta cũng cần
phải tự giàn xếp cho ḿnh được yên tĩnh, tỉnh
táo hơn. Khi nhận
ra cảm
giác bức xúc ở một bộ phận nào đó trên cơ
thể th́ hăy t́m
cách giải
quyết nó ngay: Ta có thể tạm thời lưu
tâm đến đôi vai, hơi
thở, cổ, lưng hoặc các cơ bắp. Trong khi đang tĩnh
tọa như vậy ta hăy tự theo
dơi tất cả những cảm
giác sinh
lư nào xuất
hiện ở nội thân ḿnh, đưa nó vào sự kiểm
soát của khả năng tỉnh
thức và thăng bằng của nội
tâm. Cứ thế trong mọi hoạt
động lớn nhỏ ta cũng đều luôn tỉnh
thứcnhư vậy, tức luôn chú ư đến mỗi t́nh
trạng sinh
lư của ḿnh. Sự tỉnh
thức đối với tấm thân sinh
lư cũng giống như một tấm gương giúp ta có
thể nh́n thấy rơ
ràng phản
ảnh của những ǵ cần được lưu
tâm và cần được bỏ
quên. Sự đơn
giản hóa và lưu
tâm đến đời
sống sinh
lư của ḿnh cũng là những bài học cần
thiết, đồng
thời là điều
kiện đảm
bảo phần nào t́nh
trạng sức
khỏe của mỗi người để công
phu Thiền Định của chúng
ta có được có được nhiều hiệu
quả hơn. Nói một cách khác, vấn
đề ở đây là hành
giả phải luôn biết trân
trọng một cách hợp
lư h́nh
hài của ḿnh và lưu
tâm đến những ǵ nó đ̣i hỏi, nhưng không v́
thế mà đáp
ứng những đ̣i hỏi có phương
hại cho sức
khỏe.
Ở đây ta có thể nhắc lại h́nh
ảnh ví dụ vẫn được kinh
điển dùng để diễn
tả một t́nh
trạng sinh
lư quân
b́nh. Đó là một cây đàn mà người biết chơi không bao giờ
để dây nó quá chùng hoặc quá căng. Chúng
ta cứ thử nghiệm ở chính ḿnh xem: Với môt sức
khỏe tốt th́ mọi khả năng nội
tâm sẽ dễ dàng phát triển hơn. Đồng thời,
đối với các tân Thiền
sinh, khi nhận
thấy nội
tâmḿnh đă v́ t́nh
trạng sinh
lư thế nào đó, mà lại xao
lăng tâm điểm chú niệm th́ phải lập
tức tỉnh
thức nhận
diện ngay thực
tạinày và quay
về với nội tại bằng tất cả khả năng ổn định hóa
tâm sinh
lư.
Phép đơn
giản hóa cuộc tu trong trường
hợp thứ hai, chính là sự giàn xếp các nếp sinh
hoạt, nói cụ
thể hơn, là hướng hành động. Con
đường này được thực
hiện bằng tất cả sự chú niệm. Chỉ có thế
thôi. Ở đây, vấn
đề cốt
lơi là sự nghiêm tŕ năm học
giới mà ta đă có dịp biết tới. Đó là một nếp
sống cẩn
trọng để tránh mọi xúc
phạm hay bức hại đối với thế
giới chung quanh ḿnh bằng tất cả t́nh
thương. Ta phải học được cách tỉnh
thức kịp thời khi nội
tâm ḿnh đang phơi mở hay khép kín để nó
luôn được trải rộng. Cũng giống như một đóa hoa, tân hồn chúng
ta luôn có những thời điểm phơi mở hoặc khép
chặt, với một số điều
kiện nhất
định nào đó. Ta hăy luôn đặt biệt lưu
tâm đến nhưng phút giây này, bởi với những tuần
hoàn bất trắc của nội
tâm, vấn
đề nghiêm tŕ ngũ
giới chắc
chắn không dễ dàng lắm đâu.
Phép sống đơn
giản thứ ba là một
sinh phong tự
tại, thanh
thản. Phép sống này rất quan trọng nhất là khi ta hiểu
được rằng những bận rộn, ràng
buộc, tạp loạn trong
đời sống luôn là những trở
lực cho niềm tịnh lạc của chúng
ta. Càng ít rối
ren tâm
lư, đặc
biệt là các ham
muốn, th́ cuộc sống của chúng
ta lại hạnh
phúc hơn. Và chính nếp
sống đơn
giản mà nhiều ư
nghĩa này đă là sinh phong căn
bản cho các du sĩ tăng
ni nói chung. C̣n đối với hàng tu
sĩ tại
gia th́ nếp
sống đơn
giản như vừa nói trên đây không có nghĩa là
vất hết các công việc thực sự, nhưng ta vẩn có thể thực
hiện một kiểu sống đơn
giản thích
hợp bằng cách loại
bỏ những suy
nghĩ không
thật sự cần
thiết với một cái nh́n ngắm trung
thực của bản
thân. Nhưng cẩn
thận đấy, chúng
ta luôn rất dễ dàng trở
thành những cổ máy. Đừng nắm giữ một cách
nông nổi bất cứ thứ ǵ trên đời: Bởi kể cả tấm thân này c̣n
không là của chúng
ta nữa mà! Dùng nó như một phương
tiện, xử lư và nh́n ngắm nó một cách cẩn
trọng để cuộc sống của chúng
ta có nhiều nội dung hơn.
Phép sống đơn
giản thứ tư là sự đơn
giản từ nội tại, tức một tâm
hồn dung
dị, vô
tư. Tư
tưởng của chúng
ta, từ những lập
trường kiến
giải hay các suy
nghĩ b́nh
thường nhất, cũng đều luôn thay đổi như thời
tiết hay thủy triều. Điều mà Trí
tuệ Thiền
định đ̣i hỏi ở chúng
ta chính là thái
độ đối
diện với những thực
tại vô
thường đó một cách giản đơn và thông
minh. Như đă nói, qui luật vận
động và tồn
tại của các pháp luôn vô
cùng đơn
giản. Mọi thứ luôn đổi thay. Hành động và tư
tưởng hôm nay của mỗi người sẽ tạo ra những thói
quen và điều
kiện cho các hành động cùng tư
tưởng, nói gọn là h́nh
thức hiện
hữu của chúng
ta mai
sau. Hôm nay chúng
ta có những tác
động thế nào đó đối với thế
giới chung quanh th́ trong tương lai ta sẽ
nhận lại những hậu
quả phản
ứng tương xứng. Đó chính là qui luật Nghiệp
báo: Gieo giống nào th́ thu hoạch quả nấy. Sức
mạnhcủa các ham
muốn luôn cho ra những đau
khổ đối
xứng.
Thiền sư Achaan Chaa thường hỏi các học tṛ:
- Bữa nay có thấy ḿnh bị chút ǵ là đau
khổ không?
Nếu các thiền
sinh trả
lời rằng "không có" th́ Ngài mỉm
cười. C̣n nếu họ thưa là có ít hay nhiều, th́ Ngài nói
ngay:
- Vậy là bị các ham
muốn tấn công rồi đấy! Rồi Ngài lại cũng mỉm
cười.
Ḷng ham muốn cứ như ánh
đèn tín hiệu vậy, nó giúp ta biết được những đau
khổ như là cái giá phải trả. Nhờ nó, ta có
thể học được khả năng dứt bỏ tất cả.
Sống đơn
giản, chỉ là biết nh́n thẳng vào những ǵ đang xảy ra trước
mắt ḿnh. Một vị Thiền
sư kia lúc đang hấp hối, đă nhắc nhở học tṛ
của ḿnh:
- Đừng để cái cổ của ḿnh, phải gánh lấy cái đầu ngộ
nhận và trong từng giây phút nên lưu
tâm đến mỗi bước chân một cách cẩn thận!
Câu nói của Thiền
sư đó đă nói hết những ǵ cần nói, cần nghe
và cần thực
hiện. Chúng
ta có thể xem cuộc tu của ḿnh là một quá
tŕnh làm thăng hoa các cảm
xúc. Nội dung trọng điểm của các học
giới có thể được gọi là thái
độ cảm
xúc của ḿnh với môi trường sống chung
quanh: Tôn
trọng và yêu
thương tất cả mọi loài. Thiền Định cũng là
một nếp
sống cảm
xúc: Chú hướng và điều
chỉnh nội
tâm để lắng nghe cái mà Kabir vẫn gọi là "âm
vang từ những kiềng chân trong từng nhịp đi của các côn trùng".
C̣n trí
tuệ, nếu
cần cũng là những cảm
xúc về từng vận
động và sự vô
thường liên
tục của chính mỗi kinh
nghiệm tự bản
thân. T́nh
thương và trí
tuệ chỉ đến từ sự u mặc cùng với một khả
năng mẫn cảm của tinh
tế của nội
tâm bởi vạn
sự, vạn
vật trên đời đều có thể dạy cho ta học lắm
điều hay nếu ta tự có được khả năng cảm nhận từng thứ. Trong mỗi
phút giây đi qua, vạn
pháp luôn sinh diễn nối đuôi nhau dưới sự điều
hành của các quy
luật vận
động. Mỗi khoảnh khắc là một bài học cho ta về định lư
vô thường, vô
ngă của vạn
pháp. Chỉ cần biết ngồi lại lắng nghe, ta có thể học
hỏi được lắm điều từ những ba động nhỏ
nhiệm, tinh
tế của thân
tâm trong h́nh
thức các ḍng tư
tưởng và cảm
xúc. Từng vận
động, đổi thay của nội
tâm là từng lời mặc khải cho thiền
định.
Ta sẽ t́m
thấy khuôn mặt thật của đời
sống thông qua những công
phu khám
phá từng khía cạnh của nó trong từng ngày. Trí
tuệ nội
quán có thể được thăng hoa trong bất cứ hoàn
cảnh nào. Mọi t́nh huống tốt xấu đều khả dĩ
góp phần làm sâu sắc trí
tuệ cũng như những cảm nhận tuyệt
vời của ta về thực
tại.
Một điều hết
sức tự
nhiên là trên hành
tŕnh phơi mở nội
tâm, trước thế
giới quanh ḿnh, ta sẽ phải vượt
qua rất nhiều rào chắn chướng
ngại. Chúng có thể là những hoài
nghi, ác
cảm, ham
muốn, lười biếng, hướng ngoại, phóng tán... hay
nói gọn hơn th́ chính là những khát vọng và
âu lo, toan tính luôn là những ma
chướng nguy hiểm cho ư
hướng phơi trải trí
tuệ nhưng ta cũng nên nhớ rằng chính các chướng
ngại đó lại đồng
thời là phương
tiện tối ưu để ta t́m
thấy sự tự
do.
Ở đây chúng
ta có thể lấy tâm trạng sợ
hăi làm h́nh
ảnh ví dụ. Thoạt
đầu mới xuất
hiện, nó lập
tức ngăn trở khả năng lư
trí của ta. Ta bị đồng
hóa với đối tượng bằng một sự quên
ḿnh không cưỡng nổi. Mà trong
đời sống, chúng
ta thường
có lắm cái để sợ: cái ám
ảnh đến từ ngay bên trong nội
tâm hay đến từ ngoài cảnh, một t́nh huống
bất trắc nào đó chẳng hạn. Và chúng
tacó một thói
quen là cố
gắng làm ngơ để lăng quên nó đi. Nhưng càng
cố quên th́ cũng có nghĩa là ta vẫn cứ nhớ tới nó và cảm nghiệm
của chúng
ta đối với thực
tại lúc này càng tệ hại thêm, thiển
cận và nông nổi, bối
rối. Nhưng bên cạnh đó, chính ḷng sợ
hăi lại là dấu hiệu của một tâm thái trưởng
thành. Nó đưa ta tới một không
gian khác mới mẻ hơn, bằng cách nằm giữa để
làm cái trạm trung chuyển cho những ǵ ta đă biết với cái chưa
được biết. Nó vén cho ta thấy được những thứ quan trọng hơn so
với những ǵ mà ta vẫn thường cảm nghiệm. Trong cuộc sống này,
lẽ tương
đối luôn là một quy
luật lạ lùng như vậy đấy: cái khó và cái
thiêng không thể tách rời nhau.
Để khám
phá được chân
lư th́ vấn
đề là luôn đ̣i hỏi ở chúng
ta cái can
đảm lột trần, phơi mở tất cả khía cạnh sai
biệt của đời
sống. Ḷng sợ
hăi chính là một cơ hội để ta thực
hiện điều đó. Khi bắt đầu một công
phu nào đó, ta cứ thường e sợ mắc phải lỗi
lầm nhưng rồi th́ sau cùng th́ ta sẽ hiểu
được rằng tất cả những ǵ là vĩ đại, là thành
công đều bắt đầu từ lầm lỗi. Đây là vấn
đề tối trọng mà ta phải ghi nhớ như một bài
học xương máu. Chính một thiền
sư lừng danh cũng đă từng tuyên
bố: "Đời sống là những chuỗi dài của những lỗi lầm".
Chẳng thua ǵ ḷng sợ
hăi, những cố
chấp và thành
kiến cũng là chướng
ngại cho công
phu phơi mở nội
tâm. Một chi phái Thiền
tông khác đă đặc
biệt đề nghị người tu
thiền phải biết thơ
ngây, một tâm trạng tâm
lư thật hồn
nhiên như
tinh thần anh
nhi trong Đạo Đức Kinh của Lăo
tử. Chính thái
độ vô
tư này mới là một liệu pháp
hiệu quả và cần
thiết để ta vượt thoát được ngục tù sở
tri chướng, một căn bệnh trầm kha nguy hiểm.
Có lần một số các bà tín
nữ Triều
Tiên đến viếng một thiền
viện tại Mỹ và mang
theo thức
ăn cùng bông hoa để cúng
Phật. Có lẽ do không có hoa
tươi nên các bà đă mua các nhánh hoa bằng
nhựa. Tất cả đều được đem cắm lên bàn Phật ngay trước
mặt đoàn người hành
hương, nhưng rồi sau khi phái
đoàn vừa rời khỏi thiền
viện th́ các thiền
sinh Mỹ đă đem vất hết mấy cành hoa bằng
nhựa đó. Vị thiền
sư viện
chủ thấy thế đă bảo họ nhặt chúng lên và đem
vào chưng lại ngay ngắn trên bàn Phật. Ngài nói với các thiền
sinh người Mỹ rằng thật ra mấy nhánh hoa kia
không phải bằng nhựa mà chính nội
tâm của họ bằng nhựa th́ đúng hơn. Bởi theo
Ngài th́ các thiền
sinh chỉ biết nghĩ tới cái đẹp thông thường
mà quên đi tấm ḷng tín thànhtrong
sạch đă được gửi gắm trên các cành hoa bằng
nhựa ấy.
Chúng ta ai cũng có thể dễ dàng bị vướng kẹt
trong những toan tính, đề án, phương
hướng này nọ của chính ḿnh để từ đó, tầm
nh́n của mỗi người về thực
tại càng chật hẹp, tù
túng hơn. Chúng
ta không thể nào có được cái nh́n bao quát
và trọn
vẹncái toàn cảnh của một bức
tranh khi chỉ biết dán mắt vào một chi
tiết nhỏ trên đó.
Chuyện xưa kể rằng có một con chồn rất khôn ngoan kia đă tự biết
đào những chiếc hố để bẫy mồi. Nó thích
thú với mấy cái hố đó lắm, v́ chúng là công
tŕnh sáng kiến của nó. Thế rồi một hôm t́nh
cờ có người thợ săn vào rừng làm hố bẫy thú
và anh ta đă gài
bẫy ngay trên một cái hố của chú chồn kia.
Như thường lệ, chồn vẫn tới thăm bẫy của ḿnh và lần này th́ nó lâm
nạnở chính cái bẩy mà ḿnh đă đào. Nó đau
đớn giăy
giụa và đúng ra có thể phá tung cái bẫy tai
ác kia nhưng v́ cứ nghĩ tiếc
côngtŕnh của ḿnh nên phút cuối nó đă bị người thợ săn
tóm lấy. Chúng
ta thường khi cũng giống con chồn tinh
khôn này vậy: luôn dễ dàng trở
thành nạn nhân cho chính cái thông
minh của ḿnh!
Quả là vô
ích và buồn cười nếu chúng
ta chỉ biết nhắm mắt tuân
theo những lề
thói, định
kiến đă tự sẳn trong
đời sống để rồi buông xuôi, phó thác tất cả
tâm tư, t́nh cảm của ḿnh theo khuôn thước đó như một cái máy.
Ta phải học được cách thấu suốt và từ
bỏ chúng, một nếp đời tẻ
nhạt và chết cứng, bởi mục
tiêu của đời
sống phải luôn là một cái nh́n quán
triệt và sinh
động, tươi tắn, bén nhạy.
Chúng ta rất cần tới khả năng bén nhạy bởi
v́ có những lúc chính nó giúp ta quan
sát tường tận mọi chi
tiết trong từng cảm nghiệm về thực
tại; rồi cũng chính nó đem lại cho ta cái nh́n phơi mở và tỉnh
thức mọi sự. Có lần đó, một đàn thiên
nga bay ngang qua thiền
thất của đại
sư Suzuki. Nh́n chúng, đại
sư nhắc nhở các môn
đệ:
- Người ta thường đánh bắt các loài chim trời để về nuôi trong
nhà ḿnh. Mấy con thiên
nga này đẹp quá nên ai cũng thích bắt nuôi
chúng. Các ngươi phải tu
tập thế nào để thấy được ḿnh với đàn thiên
nga kia là một, bởi trong
đời sống, chỉ nh́n thôi vẫn chưa đủ,ta c̣n
phải biết cảm nhận nữa. Hăy lặng nh́n các loài chim bay đi rồi
lắng nghe tiếng hót, tiếng kêu của chúng bằng một tâm
hồn vô
phân biệt. Có thấy chúng với ḿnh chỉ là một th́ chúng
ta sẽ thấy không cần
thiết để bắt giữ chúng lại, bởi chính mỗi
người đă là vạn
vật, là toàn
bộ thế
giới rồi...
Có buông tay xả bỏ những ǵ ḿnh vẫn ôm ấp th́ chúng
ta mới có thể nh́n thấy các pháp đúng với
các bản
chất của chúng. Thật ra trong tự bản
chất, không có cái ǵ là đơn
giản hay phức
tạp cả mà vấn
đề chỉ nằm ở cách nh́n của chúng
ta, trong khi chúng
ta lại thường
xuyên thiếu tỉnh
thức và chánh
niệm. Cái đẹp nhất trên đời này vốn nằm trong chính nội
tâm mỗi người và nó là cái ǵ đó thật đơn
giản. Chúng
ta không thể t́m
thấy cái đẹp với một thái
độ cưỡng cầu, gán ép, áp đặt hoặc đi xông
xáo lùng sục một cách nông nổi. Trong khi đó, với môt tâm
hồn thật sự b́nh lặng th́ cái ǵ quanh ta
cũng đều là những thứ tuyệt
vờicả, thậm chí đó chỉ là những sự vật thông thường nhất:
một bóng nắng xiên khoai trong chiều tà, một nụ cười nồng ấm,
một phong thái mời trà của ai đó.
Ta sẽ bổng nhiên thấy được nét đẹp tinh khôi và sung
măn của đời
sống, cái ǵ cũng mới lạ và độc đáo, mỗi khoảnh khắc là
một cuộc
đời. Rồi từ đấy ta cũng thấy luôn mỗi mỗi phút giây biến
hoại của vạn
hữu. Tất cả khía cạnh sinh
diệt của chúng đối với ta lúc này chỉ là một
ṿng tuần
hoàn hết
sức tự
nhiên không cần minh chứng nữa.
Tŕnh độ cảm nghiệm thực
tại luôn phản
ảnh chính
xác khả năng tỉnh
thức của chúng
ta. Càng bị đa
đoan và thiếu
độ lượng th́ khả năng cảm nhận của ta càng hạn
chế. Rất nhiều học
thuật của Á Châu đă đặt nền tảng trên quan
điểm này. Chẳng hạn đối với các nhà danh họa
chuyên vẽ tranh sơn
thủy của Trung Hoa. Để có được một bức
tranh ra hồn th́ họ trước hết phải bỏ
ramột thời
gian dài tĩnh
mặc để chuẩn bị tư
tưởng. Một khi tâm
trí các vị đă thật sự ḥa nhập được với đề
tài của bức
tranh ḿnh muốn vẽ rồi, th́ đây chính là lúc
họ bắt tay vào mài mực, cầm cọ và phóng bút với tất cả tâm
hồn.
Đem được tinh
thần trên đây vào đời
sống thường nhật quả là tuyệt
vời nhưng ta dĩ
nhiên phải thực
hiện sao cho hợp
lư và thực
tế. Để làm được điều đó, ta có thể tạm thời
vận dụng một vài phương
pháp tương
đối quan trọng sau đây mà ư
nghĩa đặc
biệt của chúng là nhắm tới sự tỉnh
thức thường
trực.
Phương pháp đầu tiên là cố tập luyện tư
thế tọa thiền tức khả năng ngồi lâu, ngồi
yên và vững
chăi. Đây là một trong những công
phu quan trọng nhất mà ta có thể thực
hiện mỗi ngày. Khả năng này không chỉ là một
thao tác trui rèn nghị
lực thiền
địnhmà c̣n là một phần nhân cách tối yếu cho người hành
giả. Nó cho ta cái thời
gian để im
lặng, lắng nghe chính ḿnh và nối kết các giá
trị tâm
linh khác của bản
thân. Thế
giới này, theo một cách nói đặc
biệt, chẳng cần
phải thêm cái ǵ
nữa. Cái nó cần chính là sự cắt giảm, sự bớt đi: sự bớt
đi những tham đắm, sự bớt đi những âu lo, hiềm
khích, kiêu
ngạo. Từng phút giây tọa
thiền là từng thời
gian để hành
giả gội rửa nội
tâm khỏi khỏi các niềm thống hối trong sự
tĩnh lặng, phơi mở chính ḷng ḿnh ra để hiểu
biết, đón nhận và t́m
thấy sự bằng an cho tâm
hồn. Với một sự khổ luyện đúng mức, tư
thế tọa thiền sẽ giúp ta dễ dàng kiểm
soát các hoạt
động của ḿnh trong
đời sống thường nhật. Và hăy ngồi với một tinh
thần sống vô
ngă, chúng
ta có thể giao ḥa với tất cả thực
tại đi qua ḷng ḿnh và như vậy công
phu tọa
thiền của chúng
ta sẽ là một tặng phẩm cho tất cả tha
nhân có ư
nghĩa chân
thành nhất.
Hăy cố
gắng tọa
thiền mỗi ngày hai lần. Quy
định này sẽ là một thời khóa rất tốt để ta
sống trọn
vẹn với mọi thời
gian. Buổi tọa
thiền ban sáng sẽ đem lại cho ta một nhịp dộ sinh
hoạt thăng bằng cũng như khả năng tỉnh
thức thường
trực trong
suốt một ngày. C̣n buổi tọa
thiền ban chiều sẽ giúp ta buông thả hết tất
cả những ǵ nặng nề c̣n bị tồn đọng sau một ngày cực
ḷng đối
diện với đời
sống, đồng
thời cũng giúp ta ổn định được thân
tâm cho trở nên yên tỉnh, thư
thái hơn. Nếu khả năng cho
phép, hành
giả hăy thử ngồi
thiền hai giờ đồng hồ trong một ngày. C̣n như
không được vậy, thử bắt đầu thực
hiện mỗi buổi tọa
thiềnkhoảng nửa giờ cũng được. Nói chung, cuộc sống thiền
định luôn đ̣i hỏi chúng
ta phải tự biết đưa ra cho ḿnh một nền nếp căn
bản để sống và nương theo đó như một cẩm
nang để cuộc tu khỏi phải rơi vào t́nh
trạng nửa vời!
Chính v́ việc tọa
thiền là một công
phu mang tính trường
kỳ và thực
dụng nên ta không thể có một quan
niệm cứng nhắc và máy móc về nó, chẳng hạn
một quy
định vô lối nào đó. Ta cũng hiểu rằng ai
cũng luôn dễ dàng mắc phải một hay nhiều trở
lựctrong từng ngày của đời
sống thiền
định: một cơn buồn
ngủ hay t́nh
trạng bù đầu bởi quá nhiều bận rộn vẫn luôn
đợi sẳn phía trước. Đầu ngày hay cuối ngày bất luận, ta dễ dàng
bị t́nh
trạng rối tung đầu óc và căng
thẳng sinh
lư cho những lo toan vướng vít. Trong t́nh
trạng đó, nếu chỉ xem việc tọa
thiền là một thao tác của thời khóa biểu th́
ta sẽ không tài nào xử lư, giàn xếp nổi nội
tâm của ḿnh - đặc
biệt là trong một thời
gian dài và phải đối
đầu với quá nhiều phức
tạp. Công
phu tọa
thiền không phải là cái h́nh
thức ép
buộc trong từng thiền khóa ngắn hạn. Nó là
cái thời
gian để ta thư giản sinh
lư và quân
b́nh, ổn định
tâm lư. Bất cứ khi nào cần tới sự tập trung
để giàn xếp nội
tâm th́ thiền
định luôn là liệu pháp cần
thiết, và nếu với một t́nh
trạng sinh
lư bất ổn hay một nội
tâm rối bời th́ dù có vận dụng một tư
thế tọa thiền nào cũng đều là vô
hiệu cả. Ngược lại, trong t́nh
trạngtâm sinh
lư b́nh ổn, chỉ với sự lắng nghe hơi
thở và đón bắt từng cảm nhận của sinh
lư ta có thể khám
phá thực
tại và t́m
thấymối tương quan thật sự của mọi vận
động thân
tâm.
Việc tọa
thiền lạ lùng lắm. Có lúc ta thấy nó thật dễ
dàng nhưng cũng có khi lại gây cho ta không ít khó chịu, phiền
phức. Chẳng hạn mới bắt chân vào để ngồi th́ dường như
bao nhiêu chuyện trên đời cứ đổ xô về như thác lũ. Trong trường
hợp đó, hăy giàn xếp nội
tâm ḿnh đă, đừng nản ḷng hay tỏ
ra bất lực rồi phí mất một ngày. Nếu t́nh
trạng này xảy ra vào lúc ta sắp đi ngủ th́
cũng vẫn cố
gắng giải
quyết nó bằng cách ngồi ngay xuống bên chân
giường hoặc một chỗ thích
hợp nào đó trong tối
thiểu năm phút. Đừng bao giờ tự cho
phép ḿnh an
ḷng, thỏa
măn đă ngồi đủ thời
gian tọa
thiền trong thời khóa của một ngày. Đôi khi
ta chỉ cần một hai phút là đă quá đủ rồi, miễn sao thân
tâm được ổn định là được. Điều vừa nhắc tới
trên đây là một nhắc nhở quan trọng cho tất cả hành
giả.
Để việc tọa
thiền được thực
hiện thuận
lợi, việc cần
thiết là ta phải có được một không
gian riêng tư thật thích
hợp mà ở đây có thể là một căn pḥng hay một
góc giường ngủ. Tốt nhất nên có một tọa
cụ hay một chiếc ghế thoải
mái để ngồi. Và nếu cảm
thấy cần
thiết, ta cũng nên an
vị trước
mặt ḿnh một pho tượng hoặc bức ảnh Phật
hoặc bất cứ môt thứ trang trí nào đó khả dĩ khơi gợi cho ḿnh
những tư
tưởng tích
cực. Bên cạnh đó, việc có thêm đôi ba quyển kinh tâm
đắc nhất để đọc lúc cần
thiếtcũng là một điều hay, chẳng hạn như giúp ta ôn tập kiến
thức Phật
pháp và tiếp sức cho tinh
thần thiền
định.
Bên cạnh tư thế thiền
tọa, tư thế kinh
hành cũng thường
trực của hành
giả. Trước giờ tọa
thiền nên dành ra chút thời
gian để đi
kinh hành để ổn định
tâm sinh
lư, đó là chưa kể đến những giờ kinh
hành đặc
biệt trong một ngày. Chúng
ta thường mất nhiều th́
giờ cho những vọng
tâm ảo
tưởng. Có thể nói 90% những ư
nghĩ thường nhật của mỗi người là vô
ích, phí
phạm, và như vậy ta chỉ c̣n lại rất ít những tư
tưởng có ư
nghĩa. Người hành
giả phải tự biết đ́nh
chỉ những ǵ không
thật sự cần
thiết. Trong lúc kinh
hành, ta chỉ cần biết "Đi là Đi", cảm nhận nó một cách
hết ḿnh. Thiền
định trong tư thế kinh
hành rất dễ thực
hiện, ở bất cứ nơi đâu-lúc nào-làm ǵ, ta cũng có thể tu
tập.
Ta đă thiền
định trong tư thế ngồi và đi th́ cũng có
nghĩa là trong từng bữa
ăn, ta vẫn
có thể thiền
định. Ta ăn
uống trong sự tỉnh
thức qua từng thao tác lớn nhỏ trên bàn ăn, tỉnh
thức khi ngồi trước những món ăn quen miệng.
Hăy cố
gắng ăn
uốngtrong im
lặng, một cách thong
thả chậm răi và chánh
niệm. Và nói
thật gọi là hăy ăn từng trái táo với một sự cẩn
trọng, chuyên
chú mà ta vẫn vận dụng như ta đang đối
diện với toàn
bộ đời
sống.
Trọng tâm của sự chuyên
chú này là trọn
vẹn cái đang hiện
hữu và để từ đó ta nắm bắt được bản
chất của thực
tại xuyên
quatừng vận
động của thân
tâm. Ở đây vấn
đề không phải ở chỗ phân
biệt Đúng với Sai, mà chỉ đơn
giản là một cái nh́n trong
sáng và thậm chí khôi hài nữa là khác. Lần
đó, thiền
sư Soen-Sa-Nim (Triều
Tiên) vừa ăn sáng vừa đọc
kinh (tại trung
tâmthiền định Providence, Rhode Island, Hoa
kỳ) như thường lệ và điều này t́nh
cờ đă làm một thiền
sinh thắc mắc khi vẫn thường nghe thấy nhắc
nhở rằng làm ǵ th́ biết nấy, trong khi thiền
sư lại cùng
lúc làm hai việc: vừa ăn vừa đọc. Vị thiền
sinhbèn đến hỏi, ngài thiền
sư trông lên và mĩm cười:
- Ta vẫn làm đúng như những ǵ đă dạy cho các con là làm ǵ biết
nấy. Ta vừa ăn vừa đọc
kinh và cũng tự biết
ḿnh vừa đọc
kinh vừa ăn!
Chánh niệm có một vai
tṛ rất quan trọng trong
đời sống, nó giúp ta nối kết mối tương giao
với mọi
người qua sự phát hiện ở họ những giá
trị đức tính. Một hôm, tôn
giả Ananda đă thưa với Đức Phật:
- Bạch Thế
Tôn, theo con, một nửa đời
sống phạm
hạnh được thiết
lập trên t́nh pháp
hữu.
Và Đức Phật đă trả
lời:
- Không phải chỉ là một nữa đâu, Ananda, ta nói rằng toàn
bộ đời
sống phạm
hạnh được thiết
lập trên đạo t́nh pháp
hữu với
nhau thông qua sự khéo tu
tập và một đạo lộ toàn
thiện.
Thái độ sống hội nhập và san sẻ với tha
nhân là một vấn
đề vô
cùng quan trọng. Làm sao chúng
ta có thể chối bỏ tất cả tương giao trong
đời sống, nhất là trong thế
giới hôm nay, một
thế giới luôn vang động những thông
điệp kêu gọi về vô vàn vấn
đề mà ta không thể làm ngơ? Một trong những
quyền thiêng
liêng của tất cả Tăng
ni Phật
giáo là được sống với tư
cách một thành viên của giáo
hội. Trong khi đó, dù cũng là những Phật
giáo đồ nhưng hàng cư
sĩ tại
gia không có được cái tạm gọi là ân
sủngđặc biệt này. Chính nhờ ư
thức rằng ḿnh đang góp mặt trong một cộng
đồng, dù chỉ với những quan hệ mang ư
nghĩa tinh
thần, đạo
tâm và đạo
lực của chúng
ta sẽ được cũng cố. Ư
thức đó sẽ được trợ
lực cho chúng
ta rất nhiều, nhất là những khi trong cuộc
tu có vấn
đề. Tóm
lại h́nh
ảnh của cộng
đồng sẽ luôn tiếp sức cho chúng
ta trong từng bước tu
hành.
Từ những vấn
đề trên, ta có thể nghĩ tới một h́nh
thức tu
tập mang tính biện
pháp cho những lúc cần
thiết, đó chính là tọa
thiền tập thể. Nếu
không t́m
thấy một thiền
đường nào, th́ ta vẫn
có thể ngồi
thiền một
ḿnh trong một tập thể Phật
giáo đồ trong giờ phút thích
hợp, kể cả trường
hợp đó không là những thiền
sinh. Càng gần gũi nhiều với những tâm
hồn hướng nội, có chiều sâu tâm
linh th́ hành
giả càng được tiếp sức một cách hiệu
quả.
Và cũng với tinh
thần đó, mỗi năm ta nên dành thời
gian tham
dự các thiền khóa để có cơ hội được sống yên
lặng và nâng
caocông phu thiền
định. Phải nói rằng các thiền khóa luôn có ư
nghĩa quan trọng đối với hành
giả. Qua đó, ta sẽ có điều
kiện sống tiếp cận, ḥa ḿnh với thiên
nhiên hơn. Bất luận ở thiền
viện hay nhà riêng, nếp
sống im
lặng ở thiên
nhiên, núi
rừng hay đại
dương, sẽ nuôi
dưỡng khả năng thiền
định của hành
giả ngày một tăng
tiến hơn. Cho nên không phải do t́nh
cờ mà hôm nay đột
nhiên có rất nhiều trung
tâm thiền
định ồ
ạt mọc lên khắp nơi trên thế
giới. Đó là những trú xứ cho ta đi t́m sự yên lặng mà nếp
sống yên lặng có giá
trị như thế nào đối với thiền
định th́ tất cả chúng
ta đă rơ. Trong khi có nhiều người vẫn c̣n
đang cật
lực mày ṃ những hang hốc của ư
thức, mỏi mắt ngóng đợi từng bước tiến của tŕnh
độ thiền
định th́ ta hăy hiểu rằng chỉ cần sự yên
lặng lắng nghe là đă quá đủ. Chính nó là toàn
bộ đời
sống thiền
định của chúng
ta. Chắc
chắn sẽ có lúc chúng
ta sẽ nhận
ra cái ḿnh cần nhất đời chỉ là một không
gian thật tĩnh lặng để thiền
định, để thoát
khỏi cái ṿng quay lẩn quẩn của những bận
rộn gia
đ́nh, những quan hệ vớ vẫn với xă
hội, cộng
đồng, tập thể chung quanh. Tức là trong
đời sống hướng nội, chúng
ta mỗi lúc chỉ sống hết ḿnh với một vấn
đề, một cảnh
giới. Nói vậy cũng gần như là chúng
ta luôn phải có một sự khu biệt nếu
không muốn nói là chọn lựa thật kỹ lưỡng con
đường ḿnh phải đi, thậm chí đó là sự chọn
lựa tối
thiểu giữa các oai
nghi (tư thế) thiền
định rồi đằng sau đó là những cẩn
trọng cần
thiết trong mọi sinh
hoạt và quan hệ thường nhật. Mà để làm được
điều này ta thường chỉ nhận được sự tiếp sức từ các thiền khóa, thời
gian lư
tưởng để sống thinh lặng. Từ đó chúng
tamới có thể cầm lấy chánh
niệm bước vào tất cả những ngơ ngách của đời
sống một cách an
toàn và ư
nghĩa hơn.
Ngoài ra, nếp
sống đó c̣n giúp ta từng bước khám
phá đời ḿnh và thấy được những ǵ cần được lưu
tâm, ư
thức. Những cái đó bao
gồm tất cả công việc, vận
động sinh
lư, quan hệ đối giao và cả khả năng vị
tha, hào sảng của bản
thân. Hăy nhớ lại điều chúng
ta đă biết, là tất cả nghịch
cảnh khách quan hay nội tại đều luôn có thể
mang ư
nghĩa nuôi lớn đời
sống tâm
linh của mỗi người. Có điều là ta phải luôn
biết đón nhận, xử lư và vận dụng chúng bằng tất cả sức
mạnh của chánh
niệm một cách đúng mức, hợp
lư y
cứ trên tầm vóc thực
tế của chính ḿnh. Tự
nhiên, mọi hoạt
động lớn nhỏ của ta từ lúc này sẽ được điều
hànhvà thăng bằng với sự trợ
lực của các giá
trị nội
tâm như điềm
tĩnh, trong
sáng, tập trung và thoải
mái. Tuy
nhiên ta cũng phải biết rằng nếp
sống hướng nội như trên vừa tŕnh bày không
hề không có nghĩa là cắt đứt một cách vô lối tất cả sinh phong dung
dị của một người b́nh
thường. Cho
đến cả những hành
giả thâm
niên có nhiều sở đạt cũng phải cần tới một trí
nhớ tối
thiểu về những dữ
kiện mang ư
nghĩa nối kết với đời thường mà ḿnh đă đánh
mất một cách tai
hại. Chính điều này giúp ta hạn
chế những cách ngăn, giữa đời
sống nội
tâm với đời
sống thực
tế. Cứ mỗi hoạt
động đều có thể dạy ta học được những quy
luật của vạn
hữu. Chẳng hạn ta có thể học
hỏi về từng ước
vọng của bản
thân, những kinh
nghiệm nếm trải đời
sống qua chính gia
đ́nh hoặc bằng cách theo
dơi hơi
thở và các cảm
giác sinh
lư. Sự tự
do không
giới tuyến và một t́nh
thương vô bờ mà Đức Phật đă có được thật ra
không phải là điều bất khả đối với chúng
ta. Đôi ba năm sống thiền hết ḿnh trong những trú xứ thích
hợp, chúng
ta sẽ ít nhiều cảm nhận được hai giá
trị đó. Điều phải nhớ là trong mọi lúc, đối
với chúng
ta chỉ có một vấn
đề thôi đó là "tại đây và bây giờ". Chánh
niệm sẽ luôn dẫn ta đến không
gian và thời
gian đó thôi, những ǵ luôn vô
thường, biến
đổi một cách tất
định.
Một khía cạnh khác có ư
nghĩa giúp ta phơi mở tâm
hồn một cách trọn
vẹn đó là sự hàm dưỡng một trái tim hào
phóng, độ
lượng. Hăy nghĩ nhiều về tha
nhân, từ gần tới xa và bắt đầu học cách ban phát những ǵ
ḿnh có. Khi ḷng hào sảng đă thành ra một phản
ứng tâm
lư tự
nhiên th́ coi như hành
giả đă sở
hữu được nó rồi. Chúng
ta có thể tự t́m lấy những cơ hội giúp đỡ
người khác bằng tất cả khả năng một cách hợp
lư, có thể là của
cải hoặc công sức. Hăy luôn đặc
biệt chú ư nội
tâm chính ḿnh khi nó bắt đầu có những dấu
hiệu chùn bước hay e ngại trong mối quan hệ mang tính hy
sinh này để ta kịp thời tu chỉnh một cách thích
ứng. Dần rồi theo thời
gian, hành
giả sẽ có được niềm vui tế
nhị trong thái
độ sống hào sảng của ḿnh, và chính điều này
sẽ khơi mở, tác
động tích
cực đến cuộc tu của chúng
ta qua rất nhiều khía cạnh đạo
lực khác.
Một căn
bản khác cũng là tối yếu cho đời
sống thiền
định là sự nghiêm tŕ ngũ
giới, một quy cách
sinh hoạt có ư
thức. Chỉ riêng công
phu giữ ḿnh theo năm học
giới này cũng là phần đóng góp quan trọng
cho khả năng chánh
niệm thường nhật. Nghi
thứcthọ tŕ ngũ
giới rất đơn
giản: có thể là sự phát
nguyện trước một ông thầy hay chỉ riêng một
ḿnh tự
lập tâm cũng được (Phần vấn
đề ngũ
giới đă được nhắc tới trong bài "Tự do trong
tự chế" ở trước).
Theo nghi
thức truyền
thống th́ người muốn chấp
tŕ ngũ
giới phải đọc bằng miệng từng câu thệ
nguyện cho mỗi điều. Chẳng hạn như ở điều
thứ nhất: "Tôi xin thọ
tŕ học
giới bất sát". Các học
giới c̣n lại cũng
thế. Chúng
ta hăy học cách
sinh hoạt theo tinh
thần của ngũ
giới. Vi
phạm học
giới nào ta cũng tự biết là ḿnh đă bị lấm
nhơ học
giới đó rồi phát thệ trở
lại (Xem ở bài vừa nêu). Mỗi học
giới là một lời
khuyên răn cho ta không xúc
phạm tới chúng
sanh khác và nhắc nhở ta một thái
độ sống mẫn cảm, độ
lượng hơn. Sức
mạnh của năm học
giới rất lớn. Nếu toàn
thể nhân
loại giữ được giới bất sát và giới
không vọng
ngữth́ chắc
chắn một phần lớn t́nh
h́nh toàn cầu sẽ được sửa
đổi tốt
đẹp nhơn nhiều.
Hăy sống theo tinh
thần ngũ
giới. Chính điều này là một chuẩn bị hết
sức quan trọng cho đời
sống tâm
linh. Vi
phạm các học
giới cũng có nghĩa là ta đă tự gây trở ngại
cho việc tu
tập thiền định của ḿnh. V́ vi
phạm học
giới nào cũng là một sự xúc
phạm đối với tha
nhân, mà đă như vậy
th́ làm sao ta có thể sống với một tâm
hồn thanh
thản, b́nh yên. Có giữ được ngũ
giớimột cách
sống trong
sạch ta mới có được sự giao ḥa nhất
định với thế
giới xung
quanh. Cứ mỗi học
giới bị vi
phạm là một ánh
đèn tín hiệu báo cho ta biết về t́nh
trạng nội
tâm của ḿnh. Nếu tự biết xét
ḿnh một cách nghiêm
cẩn, ta sẽ biết được ḿnh đă bị cái ǵ tác
động xấu và cũng biết cả cách tự sửa một
cách chính
xác. Nói gọn lại, hăy trân quư ngũ
giới như một phương
tiện tuyệt
hảo để sửa
đổi bản
thân và hoán
chuyển thế
giới.
Chúng ta thường
có khuynh hướng thích rao giảng hay trao
đổi sở
tri của ḿnh với người khàc. Điều đó dĩ
nhiên rất tốt nếu đề tài có nội dung quan hệ giáo
lư nhưng vấn
đề c̣n đ̣i hỏi ta phải biết chú ư lưu
tâm đến hoàn
cảnh thực
tế nữa. Không phải ở đâu ta cũng có thể đàm
đạo tùy thích. Thật ra chúng
ta nào cần
thiết phải khuyến dụ hay kêu gọi đức
tin của người khác. Thay vào đó, ta chỉ nên thích
nghi với điều
kiện chung quanh và như vậy là ta đă tạo
được cơ hội cho người khác chấp
nhận ḿnh. Nói vậy có nghĩa là chỉ nên nói
với ai thật trong ḷng muốn lắng nghe ta nói. Ta hăy là một "Đức
Phật", không nên dừng lại ở vai
tṛ một "người Phật giáo". Hăy để thái
độ sống của ḿnh nói lên Phật
pháp tốt
hơn là nói bằng ngôn
ngữ chữ
nghĩa. Bởi nên nhớ rằng con
người ta không chỉ
quan hệ với
nhau qua ngôn
ngữ mà c̣n qua sự cảm nhận lặng
lẽ từ
tâm hồn nữa. Thiên
hạsẽ học
hỏi ở chúng
ta những ǵ chúng
ta sống chớ không phải qua những ǵ chúng
ta nói.
Một hôm có vài thiền
sinh đến hỏi một vị đại
sư người Tây
Tạng lừng danh rằng họ phải làm sao để có
thể hướng dẫn con cái ḿnh có được một
đời sống tâm
linh sâu sắc. Vị Lạt
Ma này đă trả
lời rằngmỗi người có một duyên
nghiệp riêng, các bậc cha
mẹ không thể cưỡng cầu trong việc bắt buộc
con ḿnh phải đi
theo một hướng sống nào đó một cách hoàn
toàn như
ư được. Tuy
nhiên tấm gương sống t́nh
thương và trong
sáng của cha
mẹ sẽ ít nhiều tác
động đến đời
sống tinh
thần của con cái. Chúng
ta có thể bảo ban lũ trẻ phải biết thương
người nhưng trong khi đó chúng
ta lại không làm đúng được những ǵ ḿnh vẫn
nói th́ những lời
khuyên răn kia không thể có hiệu
quả. Nói chung, hăy học cách đưa hết tâm tư, ngôn
ngữ và hành động của ḿnh vào thành một, rồi
cứ thế
phát triển các đức tánh như t́nh
thương và sự tỉnh
thức cho tới khi tất cả những thứ đó trở
thành một nếp
sống căn
bản th́ mọi chuyện trên đời sẽ là những cơ
hội tốt cho ta tu
tập: từ tiếng khóc của trẻ con đến những cơn đau nhức
trong giờ tọa
thiền hoặc thậm chí đến việc sinh
ly tử biệt cũng
thế.
Trong một chuyến sang thăm Hoa Kỳ, đại
sư Kalu Rinpoche đă đến một trại nuôi động
vật thủy tộc ở Boston. Người ta để
ưthấy cứ mỗi lần đi ngang qua một chiếc lồng kính th́ vị Lạt
Ma trứ
danh này đều lấy tay chạm nhẹ vào đó rồi
miệng cứ thầm th́ câu thần
chú Mật
tông: "Án Ma
Ni Bát
Mê Hồng". Khi được hỏi lư
do, Ngài đă trả
lời:
- Tôi chạm tay vào ḷng kính và chú
tâm cầu
nguyện cho các chúng
sanh bị nhốt trong đó được tự
do.
Thật là ư
nghĩa nếu trong mọi quan hệ đối giao ta đều
có được thái
độ bao
dung trước tất cả vạn loài. Hăy biết nghĩ về
người bằng trọn
vẹn trái tim độ
lượng của ḿnh và thật ḷng mong
mỏi cho tất cả luôn b́nh
an, chẳng hạn một sự tự
do.
Sự cô
đơn luôn làm cho cuộc tu của chúng
ta trở nên vất
vả hơn, nó sẽ là những hành trang quan trọng
cho cuộc hành
tŕnhđó. Ta có thể sống qua các thiền khóa dưới sự hướng
dẫn của những thiền
sư nhưng rồi ở đoạn cuối của hành
tŕnh này ta vẫn chỉ c̣n lại một
ḿnh để ta làm thầy cho chính ta và từ giai
đoạn tự tu này ta mới có thể khám
phá được cái Phật
pháp giải
thoátở chính bản
thân ḿnh.
Một vị sư người phương Tây trước khi trở
về Mỹ, đă đến nói chuyện với một vị đại
đức già người Anh, vị này vốn là một người
đă từng có nhiều chuyến đi qua lại giữa Châu Âu và Châu Á. Nhà
sư trẻ kia muốn xin được đôi lời nhắc nhở để
chuẩn bị cho ngày tháng tu
hành ở phương Tây sau này của ḿnh. Vị đại
đức người Anh chỉ nói mấy câu ngắn gọn:
- Tôi chỉ có thể khuyên sư một điều thôi: Khi đang có mặt tại
một trạm xe buưt, hăy thấy rằng chiếc xe buưt không hề có dính
líutới ḿnh. Dù có là người đứng đợi xe, sư cũng đừng để
ḿnh phải bận tâm, cực
ḷng v́ nó. Lúc nào cũng có một chuyến xe
buưt cho sư mà!
Không có ǵ để cho ta phải học tốc, cấp tập, vội vă. Ta phải
biết sống trọn
vẹn với từng giây phút thực
tại để khám
phá chính ḿnh. Qua nếp
sống này, đời
sống của ta sẽ được hoán
chuyển tốt
đẹp hơn. Và để thực
hiện được như vậy, ta phải tự có cái khả
năng đối
diện cấp
thời mà điều này xem
ra không đơn
giản tí nào.
Tỉnh thức,
mẫn cảm, can
đảm và sáng
suốt là những giá
trị tinh
thần tự
chứng, không thể có được từ một sức
mạnh ngoại tại nào cả. Chúng được thành
tựu từ bên trong nội
tâm mỗi người, thông qua từng vận
động của bản
thân từ
ngữ ngôn đến hoạt
động. Những pháp
tánh đó là nguồn năng
lực chuyển
hóa nội dung chúng
ta, là những nguồn năng
lực không ǵ có thể thay đổi được, bởi chúng
lúc này đă là bản
chất thật sự của chúng
ta rồi.
J. K.
Hướng dẫn thực
tập
Nuôi dưỡng Chánh
Niệm
1/ Lập
một thời khóa tọa
thiền mỗi ngày:
Đây là một phương
cách để trưởng
dưỡng công
phu thiền
định thường nhật, đồng
thời cũng giúp ta kiểm
tra những chu tŕnh của nó một cách dễ dàng.
Hăy thử bỏ
ra một hoặc hai tháng với một cuốn sổ tay để
bên cạnh chỗ ḿnh tọa
thiền rồi viết vào đó, một cách trung
thực, thời
gian tọa
thiền cùng tất cả những ǵ xảy ra trong tâm
ḿnh. Chẳng hạn: Ngày X tháng Y, ngồi được một giờ đồng hồ,
phóng tán hướng ngoại hoặc trong
sáng định tĩnh, có hoặc không những chấn
động cảm
xúc...
Cuối thời
gian đă định, hành
giả đọc lại tất cả để đánh
giá chính
xác được từng bước công
phu của ḿnh rồi tự đưa ra những hướng đi thích
ứng. Chánh
niệm sẽ qua con
đường này mà được nuôi lớn.
2/ T́m
một ấn
tượng để tập trung tinh
thần (tạo thói
quen tỉnh
thức để tỉnh
thức trở
thành thói
quen):
Hăy chú ư vào một hoạt
động thường nhật nào đó mà ta thường thực
hiện trong sự vô
tâm rồi đưa hết chánh
niệm vào đấy. Ta có thể lấy việc uống trà,
tắm rửa, hoặc lái xe để làm bài thực
tập bằng cách dành ra đôi ba phút trước khi
bắt đầu làm việc đó. Công việc sẽ được thực
hiện trong sự nhẹ nhàng, cẩn
trọng và trở
thành một công
án thiền
định tuyệt
vời về thực
tại, những ǵ đang xảy ra. Làm thế có nghĩa là hành
giả đă mở ra tất cả cánh cửa ḷng ḿnh với vạn
vật, với mọi sự. Ta có thể nuôi cái cảm
giác rằng chính Đức Phật đang từng bước có
mặt bên cạnh cuộc tu của ḿnh như một sự gia
tŕ thiêng
liêng.
Ở đây, ta thử sống trầm
lặng và tỉnh
thức như một người Nhật
Bản uống trà đúng theo nghi
thức Trà Đạo, nhưng không dừng lại ở riêng
một hoạt
động nào mà là mọi hoạt
động, luôn khi và mọi
nơi. Công
phu thực
tập có thể kéo dài trong một tuần hay một
tháng. Vấn
đề thời
gian không quan trọng, miễn sao chánh
niệm của ta ngày một lớn mạnh th́ thôi.
3/ Thực
hiện một kiểu sống giản dị tự nguyện:
Cố gắng bỏ
ra đôi ba ngày thử nghiệm một nếp
sống không bị chi
phối bởi một
sinh quan
văn minh hay tiện
nghi nào để ḥa ḿnh với thiên
nhiên. Trước hết hành
giả ngồi lại trong im
lặng rồi cố nhớ lại tất cả những ǵ là mật
thiết trong
đời sống bản
thân bằng cách đưa vào tư
tưởng mọi thứ ḿnh đă sống qua: công việc,
quan hệ xă
hội, gia
đ́nh, nhà cửa, các hoạt
động nổi
bật, các thứ ḿnh sở
hữu được, những mục
tiêu để vươn tới trong nay mai hoặc đời
sống tinh
thần hằng
ngày...
Cứ mỗi một h́nh
ảnh đi qua trong tư
tưởng, hành
giả hăy tự đặt cho ḿnh một câu hỏi: Có phải
nó chỉ khiến cho ta thêm rắc
rốicuộc đời hay không?
Hành giả lại tự trả
lời, vẫn trong thinh lặng và một cách trung
thực sau khi tự phản
tỉnh, soi rọi. Sau đó, nên có thêm một câu tự vấn khác:
Nếu mọi sự được giàn xếp đơn
giản hơn thế th́ có phải là ta sẽ được hạnh
phúc hơn không?
Mục tiêu của đời
sống tinh
thần phải là giây phút khám
phá ra sự tự
do, là sự hài ḥa tích
cực với cuộc
đời chung quanh và nhận
ra được bản
chất thật sự trong sự hiện
hữu của chính ḿnh. Nếu cái cần
thiết cho đời
sống của chúng
ta là việc giản
dị hóa mọi sự và ta cũng đă t́m
thấy được con
đường để thực
hiện nó th́ hăy biết giữ nó lại cho ḿnh như
một hành trang để bước vào hành
tŕnh chuyển
hóa, thăng hoa tâm
linh.
[Hết]
Mục
Lục