Khóc có hiện hữu
trong các bậc Thánh không
ĐĐ Uyên Minh trả lời:
Nam Mô Bổn Sư Thích Ca mâu Ni Phật. Chúng tôi xin trả lời
câu hỏi này theo Giáo Lư A Tỳ Đàm của Nam Tông, cho nên không đem Bát
Nhă, Duy Thức, Kim Cang, Thủy Sám, Địa Tạng, kinh Dược Sư ra. Hôm nay
chúng tôi xin giảng về Khóc có hiện hữu trong các bậc Thánh không.
Trước hết chúng ta phải làm hai việc, là xin giải nghĩa
bậc Thánh là ǵ, và khóc là ǵ. Khóc là một biểu hiệu của t́nh trạng tâm
lư bất ổn, nó có từ chuyên môn trong Phật học gọi tên nó là PHIỀN NĂO,
khóc là một biểu tượng bất ổn của tâm lư ḿnh, v́ ḿnh buồn quá, ḿnh
giận quá, ḿnh sợ quá, ḿnh đau quá, ḿnh mới khóc, chứ không ai khơi
khơi mà lại khóc.
Cũng có trường hợp ḿnh dư nước mắt, như con em ḿnh đi
nước ngoài lâu quá, khi nó về gặp lại ở phi trường cũng khóc, đó là hiện
tượng đặc biệt, nó cũng là một biểu tượng ḿnh thấy họ vui quá cũng
khóc, nhưng thật ra họ cũng khóc bằng tâm sân, tâm sân ở đây nói theo
ATỳĐàm là sự xúc động. "trời ơi, ta tưởng đâu chết bờ chết bụi, mày đă
đi lâu rồi, không biết mày về mày c̣n gặp tao nữa hay không ", thí dụ
như vậy.
Nói chung, Khóc là biểu tượng bất ổn tâm lư mà ḿnh gọi
là phiền năo. Trước hết là phải nói trước như vậy đă.
Thứ hai Thánh nhân có bốn bậc : Tu Đà Hườn, Tư Đà Hàm, A
Na Hàm và A La Hán. Th́ bậc Tu Đà Hườn diệt trừ được thân kiến, hoài
nghi, giới cấm thủ. Thân kiến tức là không có c̣n xem sắc, thọ,tưởng,
hành, thức, này là tôi, là của tôi. Sắc, tưởng, thọ, hành, thức kia là
cũa ông nọ bà kia
Không phải tới lúc bấy giờ biết rơ là cái này để chỉ sắc,
thọ, tưởng, hành, thức luôn luôn vô thường, khổ vô ngă, các thứ luôn vận
hành theo nguyên tắc nhân quả, theo duyên sinh mà thôi, chứ ở đây không
có tôi, có ta, không có người, knông có ngă, ngă sở, không có bỉ, không
có thử, đó là thân kiến,
Hoài nghi, là vị này không có những nghi hoặc, những nghi
hoặc mà nó ảnh hưởng tới trí tuệ tu chứng, thí dụ như nghi ngờ về Đức
Phật, nghi ngờ về giáo pháp, nghi ngờ về pháp môn ḿnh đang tu học, nghi
ngờ về quá khứ, hiện tại, vị lai, nghi ngờ về uẩn, về xứ, về giới.
Ḿnh không biết trước đây ḿnh tồn tại như thế nào, ḿnh
không biết người ta nói về Thượng Đế, người ta nói về một ĺnh hồn,
chuyện đó có thật hay không. Có phải bây giờ tâm tư t́nh cảm của tôi, nó
là một cơi linh hồn tồn tại bất biến, c̣n cái Phật Giáo kêu nó là từng
chuỗi sát na. Nó chỉ là một cách nói thôi, nhưng thật ra tôi vẫn có một
linh hồn nào đó khi thân xác này ră tan rồi th́ tôi đi qua một thân xác
khác v.v....Th́ đó là ḿnh thắc mắc, hoài nghi về những điều liên hệ đến
quá tŕnh tu chứng, ḿnh hoài nghi về Tam Bảo, hoài nghi về uẩn, về xứ,
về đế, hoài nghi về sự tồn tại của bản thân ḿnh, hoài nghi về sự tồn
tại của người khác, nói chung như vậy gọi là hoài nghi.
Thứ ba là giới cấm thủ, vị Thánh Tu Đà Hườn không có c̣n
chấp triền những môn nào mà nằm ngoài lư tưởng của Đạo Đế. Đạo Đế đây là
Bát Chánh Đạo, tức là chánh kiến, chánh tư duy, chánh ngữ, chánh
nghiệp,chánh mạng. Các Ngài không làm cái ǵ, không tu tập theo pháp môn
nào mà lư tưởng hướng đến ngoài Niết bàn, mà phương thức hành tŕ nằm
ngoài Đạo Đế, th́ không có, Bất cứ một cái công phu nỗi lực của các vị
Thánh đều lấy Niết bàn làm lư tưởng, lấy Diệt Đế làm lư tưởng, lấy Đạo
Đế làm con đường hành tŕ, th́ cái đó mới không c̣n giới cấm thủ nữa,
c̣n nếu con đường hành tŕ nào nằm ngoài Bát Chánh Đạo, mà lư tưởng
hướng đến nằm ngoài ra Niết bàn, th́ con đường đó gọi là giới cấm thủ,
đó là cái phiền năo của vị Tu Đà Hườn diệt trừ.
C̣n nói về Tư Đà Hàm, th́ các vị giảm nhẹ thêm hai thứ
nữa, đó là dục ái và sân, tức là đối với sự đam mê, hưởng thụ trong
sắc,trong thinh, trong hương,trong vị, trong xúc. Các vị giảm nhẹ rất
nhiều, giảm nhẹ tức là không có h́nh thức hưởng thụ như người khác nữa,
ở đây " giảm nhẹ" trong kinh sách giải thích là như vậy, các Ngài chỉ
c̣n h́nh thức trong tâm mà thôi, c̣n về h́nh thức th́ đă khác với vị Tu
Đà Hườn,
C̣n vị A Na Hàm th́ đă diệt trừ hẳn dục ái và sân, ở
trong các niềm đam mê đối với dục trần, như sắc, hương, thinh, vị, xúc,
các Ngài không c̣n nữa, kể cả cái pháp trần, tức là những suy tư liên hệ
đến dục lạc cũng không c̣n nữa. Các Ngài chỉ c̣n lại niềm đam mê trong
thiền định, niềm đam mê trong cảnh giới tái sanh ngũ tịnh cư th́ có, c̣n
niềm đam mê mà tất cả những ǵ liên hệ tới cơi dục, như cơi dục, cảnh
dục, th́ không c̣n giá trị ǵ trong tâm hồn của vị Thánh A Na Hàm nữa.
Các Ngài tuyệt đối không c̣n tâm sân, tức là không c̣n sợ, không c̣n
buồn, không c̣n giận, không c̣n âu lo nữa, tuyệt đối không c̣n cái ǵ
làm cho các Ngài cảm thấy khó chịu.
Vị A La Hán th́ đoạn trừ tất cả những phiền năo mà các vị
A Na Hàm c̣n dư xót, ví dụ như là sắc ái. Sắc ái, vô sắc ái tức là niềm
đam mê ở trong các tầng thiền sắc giới và vô sắc, hoặc trong các cảnh
giới sắc và vô sắc, rồi ngă mạn, rồi phóng dật, và một phần của vô minh
mà vị A Na Hàm c̣n dư xót lại. Dục ái, sắc ái, ngă mạn, phóng dật và vô
minh đây là năm phiền năo mà vị A La Hán chấm dứt hoàn toàn, nghĩa là
không c̣n một cái phiền năo nào nữa. Theo giáo lư Nam Tông th́ sự thanh
tịnh trong tâm hồn của một vị A La Hán đệ tử, và cái sự thanh tịnh trong
tâm hồn của một Đức Phật hoàn toàn giống nhau. có một điểm khác biệt
giữa Đạo Sư, giữa Đức Phật và các vị Thánh A La Hán đệ tử, đó là ngoài
sự thanh tịnh đó ra Đức Thế Tôn c̣n có thể hiểu biết tất cả những ǵ mà
Ngài muốn hiểu biết, và không có ǵ trên đời này mà Ngài không biết.
Vị Thánh Thanh Văn hoàn toàn sạch sẽ, thanh tịnh các
phiền năo nhưng cái sự hiểu biết lại không được. Chúng ta có thể nói một
cách nôm na như thế này. Cái tư tưởng tâm linh của chúng ta nó giống như
một thùng rác, cái giống ǵ cũng chứa trong đó hết, đó chính là nội tâm
của phàm phu. C̣n nội tâm của một vị A La Hán giống như một tủ sắt sang
trọng, xinh đẹp đắt tiền, dĩ nhiên đă nói là tủ sắt sang trọng xin đẹp
th́ dứt khoát là không có đồ rẻ tiền, đồ dơ bẩn trong đó rồi. Nhưng mà
không phải tủ sắt nào cũng có nhiều đồ quí trong đó, c̣n đối với Đức Thế
Tôn, th́ tâm hồn của vị Phật cũng giống như tủ sắt cũng đắc tiền cũng
xinh đẹp nhưng mà có chứa nhiều đồ quí trong đó. Đó là căn cứ trong kinh
mà dùng thí dụ theo bây giờ để mô tả như vậy, tức là sự thanh tịnh giữa
Đức Phật và Chư Thánh Thanh Văn th́ giống nhau, nhưng mà về trí tuệ th́
khác nhau.
Chứ c̣n trong kinh điển Nam Tông không nh́n nhận trường
hợp, không nh́n nhận ở đây nghĩa là bôi bác, không nh́n nhận ở đây là
không nói đến. Trường hợp thật là chấm dứt hoàn toàn những cái chấp,
Thanh Văn tuy không c̣n chấp ngă, nhưng c̣n chấp pháp. Chấp ngă tức là
không c̣n chấp sắc, thọ, tưởng, hành, thức, chấp h́nh tướng, không c̣n
chấp nhà lầu xe hơi, vợ con chồng vợ cha mẹ của tôi, nhưng mà vẫn c̣n
chấp pháp, tức là chấp ta có giới, ta có định, ta có tuệ, ta hơn người
này, ta kém người kia, ta bằng người nọ . Nói chung là vị A La Hán c̣n
chấp pháp, chỉ có Phật không c̣n chấp ǵ thôi, Phật là Bồ Tát th́ không
chấp ǵ hết, c̣n riêng về A La Hán c̣n chấp pháp, th́ xin thưa trong Nam
Tông không có cái đó.
Và dầu chúng ta có tin tưởng điều này hay không, bằng một
cái thiện trí thật sự xuất phát từ đáy ḷng chúng tôi xin có một lời
khuyên, đó là cái điều ǵ ḿnh chưa xác định được ḿnh không nên bôi
bác, nếu đó là chánh pháp th́ cái đại tội đó ḿnh gánh chớ không phải là
ai gánh. Một cạm bẫy thành công nhất của Bà La Môn giáo đó chính là họ
bài bác A La Hán trong Phật Giáo truyền thống, đó là cái thành công rất
là lớn, bởi họ không có niềm vui nào trên đời này lớn cho bằng nh́n thấy
những người Phật tử, ăn rồi ôm cuốn kinh Di Ma rồi chửi Ngài Xá Lợi Phất
c̣n hơn là ḿnh chửi con, đó là một trong những thành tựu lớn nhất của
Bà la Môn giáo.
Ở đây chúng tôi trở lại vấn đề cái phiền năo duy nhất có
thể làm cho ḿnh khóc đó chính là tâm sân, th́ tầng thánh thứ ba không
c̣n sân nữa, kể từ Thánh A Na Hàm trở đi th́ không khóc, c̣n vị Tu Đà
Hườn vẫn c̣n khóc, c̣n vị Tư Đà Hàm th́ trong kinh chúng tôi chưa xem cụ
thể chỗ nào nói Thánh Tư Đà hàm c̣n khóc, mặc dù nói trên phiền năo th́
vị này vẫn c̣n tâm sân, nhưng mà do đă giảm nhẹ rất là nhiều, giảm nhẹ
cũng bằng thánh trí, chứ không phải giảm nhẹ do một cảm hứng nhất thời
nào như chúng ta. Cho nên trong kinh chúng ta thấy những vị Thánh Tư Đà
Hườn c̣n khóc, như bà Visakka, như Ngài Ananda c̣n khóc, nhưng mà chắc
chắn các bậc Thánh A Na Hàm trở lên A La Hán tuyệt đối không có khóc.
Như trong kinh nói bà Visakka có người cháu qua đời bà cũng khóc.
Đức Phật Ngài thấy vậy Ngài mới hỏi: "Này Visakka, nếu
hết tất cả những thị dân ở Sàvatth́ này mà đều trở thành bà con của
Visakka, th́ Visakka có thích hay không ".
Th́ bà Visakka :" Bạch Đức Thế Tôn, dĩ nhiên là con
thích, nếu tất cả dân trong thành phố này ai cũng là bà con với con th́
con rất là vui."
Th́ Đức Phật Ngài nói ; " Nếu tất cả mọi người ở trong
thành Sàvatth́ này đều là bà con của Visakka th́ Visakka sẽ khóc hết
ngày này sang ngày khác. "
Là v́ quí vị hăy tượng tưởng trong một thành phố, thí dụ
như thành phố Houston hay là thành phố Saigon, hay là Paris, Luân Đôn,
một thành phố như vậy gần như ngày nào cũng có người chết, gần như ngày
nào cũng có người hấp hối, ngày nào ḿnh cũng khóc, v́ ai cũng là bà con
của ḿnh, mà nếu khóc hoài như vậy th́ chết. Do đó bà nghe vậy bà thức
tỉnh. C̣n Ngài Ananda, khi Ngài nghe Ngài Xá Lợi Phất viên tịch, Ngài
cũng khóc, nghe tin Đức Phật hứa khả ba tháng nữa Ngài Niết bàn, Ngài
Ananda cũng khóc, nghe tin bà Gotami, bà Da Du Đà La, Ngài Rahula viên
tịch Ngài cũng khóc v́ Ngài vẫn c̣n phiền năo.
Cho nên ở đây chúng tôi xin tóm gọn lại, trong các Thánh
nhân th́ từ bậc A Na Hàm trở lên, không c̣n tâm sân nữa cho nên các Ngài
không có khóc. Nhưng những bậc Thánh hữu học, nhất là Tu Đà Hườn th́ có
thể khóc.
Điều thứ hai khóc chính là phiền năo, chứ không phải ḿnh
đánh giá, đừng nhận xét khóc như biểu tượng văn hóa, thí dụ như trong
bối cảnh như vậy ḿnh không nhỏ vài giọt nước mắt ngó coi sao được,
nhưng mà xin thưa ở trong Phật học Nam Tông trong trường hợp nào anh
khóc th́ cũng là phiền năo thôi. Chứ anh không có lư luận: " con tôi đi
xa quá, hồi đó nó đi vượt biên tưởng nó chết rồi, bây giờ gặp nó tôi
mừng quá tôi khóc, khóc đó là t́nh mẫu tử, khóc đaọ đức, khóc tâm lư
học, khóc triết học, khóc b́nh diện trên trời dưới đất, cái đó ḿnh nói
cho vui, chứ đă khóc là phiền năo rồi.
Nhưng chúng tôi cũng xin thưa, cười cũng không phải là
tốt hết đâu nhé, cười cũng có cái cười bất thiện, và cũng có cái cười
chánh pháp, cái cười nào mà được khởi đi bằng tâm thiện, cười hoan hỷ
với cái thiện của ḿnh, thiện của người th́ cái cười đó là cái cười
chánh pháp, cười tốt. Nhưng cười v́ ḿnh khoái trí, cười trong bất thiện
pháp của ḿnh, của người, th́ cái cười đó không phải là cười chánh pháp.
Thí dụ ḿnh mới vừa gạt được người ta, chơi xấu người ta được một vố,
ḿnh khoái trí ḿnh cười, hoặc thấy người ta bất hạnh, ḿnh cười, ḿnh
thấy người ta đang đi trên đường đạp vỏ chuốt bị té cái ạch, ḿnh khoái
ḿnh cười, th́ cũng một nụ cười, nhưng nụ cười đó không phải là nụ cười
chánh pháp, không phải nụ cười an lạc. Chúng tôi xin ngừng ở đây, Nam Mô
Bổn Sư Thích Ca Mâu Ni Phật
(Nguồn: ĐH Minh Hạnh - Room Diệu
Pháp)