BHANTE INDACANDA
Dịch giả Tỳ Khưu Indacanda, thế danh là Trương
Đình Dũng.
Bút hiệu: Nguyệt Thiên
Sinh ngày 23 tháng 7 năm 1958.
Quê quán ở Thành Nội Huế.
1994 định cư tại Hoa Kỳ.
Lãnh vực nghiên cứu: Pàli và Sanskrit
-Năm 2006 (PL 2550 -Vesak) bản
dịch Kinh Tiểu Bộ số 42 ra đời, khởi sự cho
Công Trình
Ấn Tống Song Ngữ Pali - Việt và những năm tiếp theo:
- 2006: 1 tập - Kinh, Tiểu Bộ 42
- 2007: 2 tập - Kinh, Tiểu Bộ 37 38
- 2008: 3 tập - Kinh, Tiểu Bộ 39, 40, 41
- 2009: 5 tập - Luật 01, 02, 03, 04, 05
- 2010: 4 tập - Luật 06, 07, 08, 09
- 2011: 1 tập - Kinh, Tiểu Bộ 45
- 2012: 1 tập - Kinh, Tiểu Bộ 31
- 2013: 1 tập - Kinh, Tiểu Bộ 30
- 2014: 1 tập - Kinh, Tiểu Bộ 28
- 2015: 1 tập - Kinh, Tiểu Bộ 29
- 2016: 1 tập - Kinh, Tiểu Bộ 32
- 2017: 2 tập - Kinh, Tiểu Bộ 33, 34
- 2018: 2 tập - Kinh, Tiểu Bộ 35, 36
- 2019: 1 tập - Kinh, Tiểu Bộ 43
- 2020 - 2021: 1 tập - Kinh, Tiểu Bộ 44
-Năm 2019, ngài tạo mãi và sáng lập ngôi
Tàng Kinh Các (Center
for Proto Buddhism Studies of Georgia Inc.) tại Hoa Kỳ. Địa chỉ 260 Den
Creek Trail, Fayetteville, GA 30215.
BIOGRAPHY - TIỂU SỬ
- Full Name: Ven. TRUONG DINH DUNG
- INDACANDA Bhikkhu -
- Date of Birth: 23-07-1958
- Father’s Name: Truong Dinh Cau (deceased)
- Mother’s Name: Truong Thi Tuyet Nga (deceased)
- Ordination Date: 07-11-1984 (Pabbajjā)
- Higher Ordination: 22-05-1986 (Upasampadā)
- Upajjhāya Name: HT. Nhieu Nheng (Brahmasuvaṇṇa
Mahāthera)
- Place of Ordination: Candaraṇsyārāma, District 3,
Saigon, Vietnam
- Educationnal - Obtained/Acquired Degrees:
+ 1976, High School Certificate: Ham Nghi High School,
Hue City, Vietnam
+ 2001, Bachelor of Arts, Magna Cum Laude, University of
Washington, USA
+ 2004, Master of Arts: Postgraduate Institute of Pali
and Buddhist Studies, University of Kelaniya, Sri Lanka
+ 2008, Doctor of Philosophy: Postgraduate Institute of
Pali and Buddhist Studies,
University of Kelaniya, Sri Lanka
- Ritual Places and Countries visited: India, Myanmar,
Thailand, Sri Lanka
- Arrival Date to Sri Lanka: 16-12-2002
- Arrival Date to Sri Jayawardhanaramaya: 20-12-2002
- Literary Services: Translator: From Pali and Sanskrit
into Vietnamese
TRANSLATED BOOKS - SÁCH ĐÃ DỊCH
(Tải
những tập sách này ở đây)
VINAYAPITAKA (9 Books):
● Pārājikapāḷi & Phân Tích Giới Tỳ Khưu I (2008)
● Pācittiyapāḷi bhikkhu & Phân Tích Giới Tỳ Khưu II (2008)
● Pācittiyapāḷi bhikkhunī & Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni (2008)
● Mahāvaggapāḷi I & Đại Phẩm I (2009)
● Mahāvaggapāḷi II & Đại Phẩm II (2009)
● Cullavaggapāḷi I & Tiểu Phẩm I (2009)
● Cullavaggapāḷi II & Tiểu Phẩm II (2009)
● Parivārapāḷi I & Tập Yếu I (2010)
● Parivārapāḷi II & Tập Yếu II (2010)
SUTTANTA PITAKA - KHUDDAKANIKAYA
● Khuddakapāthapāḷi - Tiểu Tụng (2013)
● Dhammapadapāḷi - Pháp Cú (2013)
● Udānapāḷi - Lời Cảm Hứng (2013)
● Itivuttakapāḷi - Phật Thuyết Như Vậy (2013)
● Suttanipātapāḷi - Kinh Tập (2014)
● Vimānavatthupāḷi - Chuyện Thiên Cung (2012)
● Petavatthupāḷi - Chuyện Ngạ Quỷ (2012)
● Theragathāpāḷi - Trưởng Lão Kệ (2011)
● Therīgāthāpāḷi - Trưởng Lão Ni Kệ (2011)
● Patisambhidamaggapāḷi I - Phân Tích Đạo, tập I (2006)
● Patisambhidamaggapāḷi II - Phân Tích Đạo, tập II (2006)
● Apadanapāḷi I - Thánh Nhân Ký Sự, tập I (2008)
● Apadanapāḷi II - Thánh Nhân Ký Sự, tập II (2007)
● Apadanapāḷi III - Thánh Nhân Ký Sự, tập III (2007)
● Buddhavamsapāḷi - Phật Sử (2005)
● Cariyapitakapāḷi - Hạnh Tạng (2005)
● Milindapañhapāḷi - Milinda Vấn Đạo (2011)
● Nettipakarana - Cẩm Nang Học Phật (2019)
● Petakopadesa - Tam Tạng Chỉ Nam (2021)
OTHER PĀLI BOOKS:
● Bhikkhunī Pātimokkha - Giới bổn Pātimokkha của Tỳ khưu ni (2005)
● Dīpavamsa - Sử liệu về đảo Lanka (2005)
● Saddhammasangaha - Diệu pháp yếu lược (2003)
● Buddhaghosuppatti - Cuộc đời ngài Buddhaghosa (2005)
● Dāthāvamsa - Sử liệu về Xá-lợi Răng Phật (2005)
● Thūpavamsa - Sử liệu về Bảo tháp Xá-lợi Phật (2005)
● Học Pāli qua kinh tụng, Mẫu Tự Pāli và Cách Phát Âm (2004)
FROM SANKRIT (với bút hiệu Nguyệt Thiên):
● Hitopadeśa - Chuyện Cổ Tích Ấn Độ (2000)
● Saundarananda - Phật Độ Nan Đà (2001)
● Aśokāvadāna - Truyền Thuyết Vua A Dục (2007)
TÀNG KINH CÁC
(Center for Proto-Buddhism Studies
of Georgia Inc.)
Được thành lập vào ngày 20 tháng 6 năm 2019. Nơi đây
trưng bày Tam Tạng Pāli của 7 quốc gia được ghi lại bằng các loại mẫu
khác nhau: India, Sri Lanka, Myanmar, Thailand, Cambodia, PTS England,
and Vietnam.
Giới thiệu cho những người yêu Phật giáo bộ kinh cổ của Đức Phật, The
Tipitaka Pāli, được viết bằng chữ của 7 quốc gia, đó là: Ấn Độ, Sri
Lanka, Myanmar, Thái Lan, Campuchia, PTS Anh và Việt Nam.
Hiện vẫn đang cần sự hỗ trợ của thí chủ bốn phương để tồn
tại và phát triển.
(Xem
thêm)
THÔNG TIN LIÊN LẠC:
To: Ven. Dung Dinh Truong
260 Den Creek Trl,
Fayetteville, GA 30215 – USA
Số điện thoại: +1 (678) 783 8388
• tamtangpaliviet@gmail.com •
• tamtangpaliviet@yahoo.com •
VỊ TỲ KHƯU ĐẶC BIỆT CỦA PHẬT GIÁO VIỆT NAM
Đức Phật của chúng ta sau khi trải qua vô số kiếp thực
hành các pháp toàn hảo và lần lượt tiếp nhận sự thọ ký của hai mươi bốn
vị Phật tiền nhiệm rồi đã chứng quả Toàn Giác vào năm 623 trước Tây Lịch.
Ngài đã thuyết giảng bài Pháp đầu tiên, tức là bài Kinh Chuyển Pháp Luân,
ở tại Migadāya thành Bārāṇasī. Lời giảng dạy của đức Phật được biết đến
với nhiều tên gọi: Giáo Pháp, Chánh Pháp, Pháp và Luật, Phạm Hạnh là một
số tên gọi đã được nói đến. Đức Phật đã nói với vị trưởng lão Ānanda
rằng: “Sau khi ta Niết Bàn, chính các Pháp và Luật đã được ta giảng dạy
sẽ là thầy của các ngươi.” Điều ấy có nghĩa là Giáo Pháp của đức Phật sẽ
là kim chỉ nam cho các vị tỳ khưu tu tập. Tuy nhiên, ngay sau sự ra đi
của đức Phật vị tỳ khưu tên Subhadda đã có quan điểm rằng: “Bởi vì đức
Phật đã không còn, các đệ tử của Ngài có thể sống cuộc sống theo như ước
muốn của mình.” Và còn có những vị tỳ khưu khác như Devadatta,
Sunakkhatta, Ariṭṭha ngay lúc đức Phật còn tại tiền cũng đã có các suy
nghĩ như vị tỳ khưu Subhadda.
Tuy nhiên, khi vấn đề liên quan đến Giáo Pháp của đấng
Toàn Giác vừa mới nảy sinh, các vị A-la-hán hộ trì Giáo Pháp như Ngài
Mahā Kassapa và Ngài Upāli đã nghĩ đến sự cần thiết của việc bảo vệ tính
chất thuần khiết của Giáo Pháp. Do đó, vào ngày thứ hai của tháng thứ tư
sau khi đức Phật Niết Bàn, cuộc Kết Tập lần thứ nhất đã được thực hiện
với sự tham dự của năm trăm vị A-la-hán tại hang động Sattapaṇṇī dưới sự
bảo trợ của đức vua Ajātasattu (A-xà-thế). Cuộc Kết Tập Giáo Pháp được
tiến hành bởi các vị tỳ khưu Mahā-kassapa, Ānanda, Upāli, và các vị
Thánh A-la-hán khác đã là nền tảng cho các cuộc kết tập về sau. Chú Giải
đề cập rằng cuộc Kết Tập Giáo Pháp này đã được tất cả các vị tỳ khưu
thừa nhận. Cuộc Kết Tập Giáo Pháp lần thứ nhất này còn được gọi là Cuộc
Kết Tập về Luật của năm trăm vị vì có liên quan đến các điều học nhỏ
nhặt và ít quan trọng (khuddānukhuddakasikkhā). Giáo Pháp của đức Phật
đã được phân chia thành Tạng (Piṭaka) trong cuộc kết tập này.
Cuộc Kết Tập lần thứ nhì đã được tổ chức vào khoảng một
trăm năm sau lần thứ nhất vào thời trị vì của đức vua Kālasoka. Cuộc kết
tập này dựa trên nền tảng của “Mười sự việc không được phép.” Các vị tỳ
khưu xứ Vajjī đã ra sức vận động để hợp thức hóa mười sự việc xét ra có
bản chất không đúng với Luật. Cuộc Kết Tập lần thứ nhì đã được tiến hành
bằng hình thức hội thảo giữa các vị tỳ khưu A-la-hán Sabbakāmī, Revata,
Sāḷha, Ujjasobhita, Vāsabhagāmika, Sambhūta Sāṇavāsī, Yasa
Kākaṇḍakaputta, và Sumana. Bảy trăm vị A-la-hán đã tham dự cuộc Kết Tập
này. Cuộc Kết Tập Giáo Pháp lần thứ nhì này còn được gọi là Cuộc Kết Tập
về Luật của bảy trăm vị. Trong cuộc Kết Tập này, hai chương về Kết Tập ở
Cullavagga (Luật Tiểu Phẩm), bài kinh Muṇḍarājasutta, Serissaka
Vimānakathā Uttaravāda, Petavatthu, v.v... đã được công nhận vào Chánh
Tạng Pāḷi.
Do sự xuất hiện của nhiều bộ phái, tính chất đúng đắn về
giáo lý và sở hành của các bộ phái chính bị suy giảm, các vị tỳ khưu
chân chánh đều lui vào rừng ở ẩn. Nhằm bảo vệ phẩm chất của Giáo Pháp
đức Phật trong tình trạng này, vào khoảng hai trăm ba mươi năm sau thời
kỳ đức Phật Niết Bàn cuộc Kết Tập lần thứ ba đã được tổ chức ở tại
Āsokārāma do đức vua Asoka. Cuộc Kết Tập này đã được tiến hành bởi vị tỳ
khưu A-la-hán Moggaliputta Tissa cùng với một ngàn vị A-la-hán. Đặc biệt
bộ Kathāvatthupakaraṇa đã được trùng tụng nhằm chỉnh đốn những sai lầm
đang được thực hành bởi các bộ phái. Cuộc Kết Tập này đã hoàn tất sau
chín tháng và đã được gọi là cuộc Kết Tập của một ngàn vị.
Sau cuộc Kết Tập lần thứ nhất, Tạng Luật đã được duy trì
do các vị tỳ khưu thuộc nhóm của vị Thánh A-la-hán Upāli, Tạng Kinh gồm
có Trường Bộ do nhóm của ngài Ānanda, Trung Bộ do nhóm của ngài
Sāriputta, Tương Ưng do nhóm của ngài Kassapa, Tăng Chi do nhóm của ngài
Anuruddha, và Tạng Vi Diệu Pháp do nhóm của ngài Sāriputta .
Sự thành lập các nhóm trì tụng (bhāṇaka):
Sau Cuộc Kết Tập lần thứ nhất, Giáo Pháp đã được phân
chia thành nhiều phần và các phần chính yếu đã được giao cho các vị tỳ
khưu tinh thông về lãnh vực ấy có nhiệm vụ duy trì và phổ biến. Một số
nhóm trì tụng chính là nhóm Trì Tụng Trường Bộ (Dīghabhāṇaka), nhóm Trì
Tụng Trung Bộ (Majjhimabhāṇaka), nhóm Trì Tụng Tương Ưng (Saṃyuttabhāṇaka),
nhóm Trì Tụng Tăng Chi (Aṅguttarabhāṇaka), nhóm Trì Tụng Kinh Bổn Sanh (Jātakabhāṇaka),
nhóm Trì Tụng Kinh Pháp Cú (Dhammapadabhāṇaka), nhóm Trì Tụng hai Bộ
Luật (Ubhato Vibhaṅgabhāṇaka), nhóm Trì Tụng bộ Đại Sử về Thánh Nhân (Mahā
Ariyavaṃsa), v.v... Các vị đệ tử này đã làm phong phú và gìn giữ Giáo
Pháp bằng phương tiện trùng tụng bằng trí nhớ. Nhóm cuối cùng của các vị
trì tụng này đã sống tại Sri Lanka. Sau cuộc Kết Tập lần thứ ba, Giáo
Pháp của đức Phật đã được truyền sang Sri Lanka do công của Trưởng Lão
Mahinda là vị đệ tử của ngài tỳ khưu A-la-hán Moggaliputta Tissa.
Theravāda: Ý nghĩa của từ “Thera” là “Trưởng Lão.” Các
thành viên của Theravāda là các vị trưởng lão. Các vị tỳ khưu
Mahākassapa, Upāli, Yasa, v.v... đã tham dự cuộc Kết Tập Giáo Pháp lần
thứ nhất và thứ nhì đã trùng tụng Chánh Tạng, và các lời trùng tụng ấy
được gọi là Theravāda. Sớ giải tên Sāratthadīpanī Ṭīkā có đề cập rằng:
“Sabbaṃ theravādanti dve saṅgītiyo āruḷhā pāḷiyevettha theravādo ti
veditabbā. Sā hi mahākassapapabhutīnaṃ mahātherānaṃ vādattā theravādo ti
vuccati.” Các vị Theravāda còn được gọi là Therika (thuộc về các vị
Trưởng Lão). Các vị này sống chủ yếu ở Magadhya và Ujjayini. Trong số
các vị này, nhóm Ujjayinī đã đến Sri Lanka. Các vị trưởng thượng
“Porāṇa” của Giáo Hội Theravāda là những vị thầy lỗi lạc và đã đóng vai
trò vô cùng quan trọng trong việc thành lập Giáo Hội Theravāda.
Sau cuộc Kết Tập lần thứ ba, ngài tỳ khưu Mahinda đã đem
Tam Tạng của Theravāda đến xứ sở Sri Lanka và đã chuyển hóa được rất
đông người xuất gia theo Phật Giáo. Các vị ấy đã học tập Tam Tạng và đã
viết Chú Giải bằng tiếng Sinhala. Cuộc Kết Tập Giáo Pháp đầu tiên ở Sri
Lanka đã được thực hiện bởi vị tỳ khưu A-la-hán Ariṭṭha trước đây là vị
quan đại thần của đức vua Devānampiya Tissa (247-207 trước Tây Lịch). Đã
có sáu mươi ngàn vị A-la-hán tham dự. Tỳ khưu Ariṭṭha chính là vị đệ tử
đầu tiên của ngài Mahinda. Cuộc Kết Tập đã được tổ chức tại tu viện
Thūpārāma ở Anurādhapura.
Tu viện Mahā Vihāra đã được xây dựng cho ngài Mahinda và
đã có một vị trí vô cùng lớn lao và quan trọng đối với Giáo Hội
Theravāda. Lúc bấy giờ đã xảy ra nhiều sự kiện có liên quan đến lời Giáo
Huấn của đức Phật, sự kiện Lokuttaravāda là một. Mặc dầu có nhiều khó
khăn phải đối phó nhưng các vị tỳ khưu ở Mahā Vihāra đã bảo vệ được sự
thuần khiết của Giáo Pháp và đã được khắp nơi biết tiếng. Do đó, nhiều
người ngoại quốc đã đến Sri Lanka để tiếp thâu Phật Giáo, trong đó có
Viśākha, Pītimalla, Buddhaghosa, v.v...
Sự Kết Tập thành sách:
Tam Tạng Giáo Pháp do Ngài Mahinda đem đến và giảng dạy
cho các vị tỳ khưu ở Mahā Vihāra đã được duy trì bằng trí nhớ trong bốn
trăm năm. Vào thời trị vì của đức vua Vaḷagamba (440-454 theo Phật Lịch),
Tam Tạng đã được ghi lại thành các tập sách. Sau đó, Tam Tạng Pāḷi này
đã được truyền sang các nước như là Thái Lan, Cambodia, và Miến Điện.
Champa (Việt Nam):
Được biết Champa là vùng đất ở về phía đông nam của bán
đảo Đông Dương, hiện nay là Việt Nam. Điều được phỏng đoán là triết học
Phật Giáo đã được thiết lập tại xứ này vào khoảng thế kỷ thứ 3 sau Tây
Lịch. Vào khoảng năm 605 sau Tây Lịch, thủ đô Champa đã bị chiếm đóng
bởi người Trung Quốc và họ đã du nhập Phật Giáo vào Trung Quốc; điều này
được ghi lại trong văn kiện của Trung Quốc. Điều rõ rệt là Phật Giáo đã
được phổ biến tại Việt Nam trước thế kỷ thứ bảy sau Tây Lịch và Phật
Giáo Champa là chánh yếu và được liệt kê vào bộ phái Arya Sammiti là một
nhóm nhỏ thuộc bộ phái Sravasti. Tư liệu của thế kỷ thứ tám sau Tây Lịch
được ghi lại trên bia đá chứng tỏ rằng Phật Giáo Mahāyāna đã hiện diện ở
Việt Nam và Tantrayāna phát xuất từ Mahāyāna cũng có mặt.
Vào thế kỷ thứ 15 sau Tây Lịch, người Annam ở phía bắc đã
kiểm soát xứ sở và Phật Giáo mang đặc điểm của Mahāyāna đã có sự tác
động. Về sau, Phật Giáo mang đặc điểm của Trung Quốc đã tác động đến xứ
sở này thay vì Phật Giáo Champa trước đây.
Vị tỳ khưu Indacanda người Việt Nam đã đến Sri Lanka
trong những năm gần đây và đang ngụ tại tu viện Sri Jayawardhanaramaya
khu vực Kotte. Vị này đã học Pāli và đã sử dụng Tam Tạng Pāḷi ấn bản
Buddha Jayanti do Buddhist Cultural Centre ấn hành. Vị này đã học Tam
Tạng và sau đó dịch sang tiếng Việt Nam. Khi xem xét đến lịch sử của
nước Việt Nam và lịch sử của Tam Tạng, chúng tôi nhận thấy rằng sự nỗ
lực và ước nguyện thực hiện Tam Tạng Song Ngữ của vị này thật là phi
thường. Nếu việc làm ấy được thành tựu thì sự hiểu biết về Tam Tạng của
Theravāda ở Việt Nam sẽ được phổ biến và Phật Giáo Theravāda ở Việt Nam
sẽ thêm phần phát triển. Khi ấy, vị tỳ khưu Indacanda sẽ là người sứ giả
có công đóng góp cho sự hoằng Pháp của Phật Giáo Theravāda ở Việt Nam và
điều này sẽ được ghi nhận bởi lịch sử của hai nước, Việt Nam cũng như
của Sri Lanka.
Ý định của vị tỳ khưu này thật lớn lao, và sự nỗ lực của
vị này thật đáng khâm phục. Chư Phật tử sống ở Sri Lanka và Việt Nam hãy
nên hỗ trợ tỳ khưu Indacanda trong công việc dấn thân này.
Chúng tôi phúc chúc cho tỳ khưu Indacanda được sức khỏe,
sống lâu, và đạt đến sự thành công đối với điều ước nguyện của mình.
Venerable Kirama Wimalajothi
Giám Đốc Buddhist Cultural Centre
Nedimala, Dehiwala, Sri Lanka
Tháng Nikini 2550.