GIỚI THIỆU VỀ TẠNG LUẬT
Tỳ khưu Indacanda
(Trương đ́nh Dũng)
Tạng Luật (Vinayapiṭaka) thuộc về Tam
Tạng (Tipiṭaka) là những lời dạy và quy định của đức Phật về các vấn
đề có liên quan đến cuộc sống và sự sinh hoạt của các thành viên cũng như
các công việc của hội chúng, trong đó, chủ yếu đề cập đến các tỳ khưu, một
phần dành cho tỳ khưu ni, đồng thời một số vấn đề có thể áp dụng cho hàng
tại gia cư sĩ cũng được t́m thấy.
Tạng Luật được chia làm 3 phần chính: Suttavibhaṅga,
Khandhaka, và Parivāra.
I. Suttavibhaṅga (Phân
Tích Giới Bổn) tŕnh bày về giới bổn Pātimokkha của
tỳ khưu gồm có 227 điều học và của tỳ khưu ni gồm có 311 điều học. Ư nghĩa
của từ "sutta" ở nhóm từ "suttavibhaṅga" có ư nghĩa tương
đương như là "sikkhāpada" (điều học, học giới, điều giới, ...), nếu
xét theo ư nghĩa bao quát có thể gọi là "giới bổn." Như vậy, Suttavibhaṅga nghĩa
là sự phân tích các điều học hoặc là sự phân tích về giới bổn (ở Tạng Kinh,
từ "sutta" được dịch là "kinh", ví dụ như Brahmajālasutta được
dịch là Kinh Phạm Vơng,
v.v...).
Theo truyền thống đang được áp dụng ở Tích Lan và Miến Điện, Suttavibhaṅga được
phân làm hai: Pārājikapāḷi và Pācittiyapāḷi.
Cách phân chia này có thể do việc chia hai số lượng sách của Suttavibhaṅga
và được tŕnh bày như sau:
Pārājikapāḷi: Mở đầu là Chương Verañja giới
thiệu việc ngài Sāriputta thỉnh
cầu đức Phật quy định điều học và công bố giới bổn Pātimokkha;
khi ấy đức Phật đang an cư mùa mưa tại xứ Verañjā.
Kế đến là các điều học được tŕnh bày theo thứ tự:
1) 4 Pārājika (bất
cộng trụ)
2) 13 Saṅghādisesa (tăng
tàng)
3) 2 Aniyata (bất
định)
4) 30 Nissaggiya Pācittiya (ưng
xả đối trị)
Pācittiyapāḷi: tŕnh bày phần c̣n lại của Suttavibhaṅga:
5) 92 Pācittiya (ưng
đối trị)
6) 4 Pāṭidesanīya (ưng
phát lộ)
7) 75 Sekhiya (ưng
học)
8) 7 Adhikaraṇasamathā Dhammā (các
pháp dàn xếp tranh tụng)
9) Bhikkhunīvibhaṅga (Phân
Tích Giới Tỳ Khưu Ni).
Truyền thống Thái Lan cũng phân Suttavibhaṅga làm
hai, nhưng căn cứ theo nội dung:
Mahāvibhaṅga (Đại Phân
Tích): c̣n có tên là Bhikkhuvibhaṅga (Phân
Tích Giới Tỳ Khưu) v́ có đầy đủ phần phân tích 227 giới trong giới bổn Pātimokkha của
tỳ khưu từ 4 pārājikacho
đến 7 adhikaraṇasamathā dhammā.
Bộ này được phân chia làm 2 tập: Tập I gồm 4pārājika, 13 saṅghādisesa,
và 2 aniyata, tập II gồm
phần c̣n lại của giới bổn bắt đầu với 30nissaggiya pācittiya và
kết thúc với lời tụng đọc tổng kết.
Bhikkhunīvibhaṅga (Phân
Tích Giới Tỳ Khưu Ni) chỉ tŕnh bày các điều học quy định dành riêng cho tỳ
khưu ni, những điều học quy định chung cần phải xem ở Bhikkhuvibhaṅga (Phân
Tích Giới Tỳ Khưu).
II. Khandhaka (Hợp
Phần): Khandhaka gồm
các vấn đề có liên quan đă được sắp xếp thành từng chương và được phân làm
hai: Mahāvagga (Đại
Phẩm) và Cullavagga (Tiểu
Phẩm). Chúng tôi tạm dịch Khandhaka là Hợp
Phần (khandha có
nghĩa là khối, nhóm, uẩn, ... và tiếp vĩ ngữ -ka trong
trường hợp này có ư nghĩa là thuộc về, có liên quan, ...).
Mahāvagga (Đại Phẩm): gồm
10 chương, mở đầu là sự chứng ngộ đạo quả của đức Phật, kế đến là các nhiệm
vụ quan trọng của các tỳ khưu như lễ xuất gia, lễ Uposatha (Bố
Tát), việc an cư mùa mưa, lễ Pavāraṇā (Tự
Tứ), v.v...
Cullavagga (Tiểu Phẩm):
gồm 12 chương đề cập đến việc hành xử các tỳ khưu phạm tội, giải quyết các
sự tranh tụng, việc chia rẽ hội chúng, và các vấn đề khác liên quan đến đời
sống xuất gia. Đặc biệt chương 10 đề cập việc xuất gia của tỳ khưu ni và hai
chương cuối 11 và 12 nói về hai kỳ kết tập Tam Tạng đầu tiên ở Ấn Độ.
III. Parivāra (Tập
Yếu): phân tích về Giới và Luật theo các tiêu đề và được tŕnh bày dưới dạng
vấn đáp, có thể được xem như là cuốn cẩm nang hướng dẫn việc hành xử Luật.
--ooOoo--
Tạng Luật Tiếng Việt
Bản dịch tiếng Việt Tạng Luật của chúng tôi căn cứ vào văn bản Pāli Roman từ
CD Budsir IV của trường đại học Mahidol (Thái Lan), được phân thành 5 bộ, có
8 tập:
1. Phân Tích Giới Tỳ Khưu (2 tập)
2. Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni
3. Đại Phẩm (2 tập)
4. Tiểu Phẩm (2 tập)
5. Tập Yếu
*****
1. Phân Tích Giới Tỳ Khưu:
Gồm có hai tập và có thể nói gọn lại là Giới Tỳ Khưu cho dễ nhớ.
Đề cập đến nội dung, chương mở đầu Verañja tŕnh bày về thời điểm quy định
điều học cho các tỳ khưu căn cứ vào câu trả lời của đức Phật đối với sự
thỉnh cầu của ngài Sāriputta (Xá Lợi Phất) rằng: "Này Sāriputta, ngươi hăy
chờ đợi! Này Sāriputta, ngươi hăy chờ đợi! Trong trường hợp này, chỉ có Như
Lai mới biết thời điểm." Và ngài đă xác định về thời điểm đó như sau: "Này
Sāriputta, chính bởi v́ một số pháp đưa đến lậu hoặc xuất hiện trong hội
chúng này ... chính bởi v́ hội chúng đạt đến sự đông đảo về số lượng ...
chính bởi v́ hội chúng đạt đến sự lớn mạnh về việc phát triển ... chính bởi
v́ hội chúng đạt đến sự dồi dào về lợi lộc nên một số pháp đưa đến lậu hoặc
xuất hiện trong hội chúng này, nên bậc Đạo Sư quy định điều học và công bố
giới bổn Pātimokkha cho các đệ tử nhằm diệt trừ chính các pháp đưa đến lậu
hoặc ấy."
Đến các chương kế tiếp, chúng ta biết được rằng mỗi khi điều học được quy
định, trước tiên có sự chỉ trích và chê bai về việc làm hay lời nói nào đó
của các vị xuất gia, việc chỉ trích và chê bai lan rộng khiến các tỳ khưu
nghe được và cuối cùng đến tai đức Phật. Đối tượng vi phạm trong các câu
chuyện này có thể là cá nhân hay nhóm tỳ khưu, không hẳn là phàm nhân mà
ngay cả một số vị đă chứng được thiền và thần thông như các vị Devadatta với
việc chia rẽ hội chúng và Sāgata do say sưa v́ uống rượu, một vài trường hợp
do các bậc đă chứng Thánh quả như ngài Anuruddha về việc nằm chung chỗ ngụ
với người nữ, ngài Cūḷapanthaka về việc giáo huấn các tỳ khưu ni khi mặt
trời đă lặn, hoặc ngài Veḷaṭṭhasīsa về việc thọ dụng vật thực đă tích trữ.
Về các sự chỉ trích và chê bai, đa số phát xuất từ hàng tại gia có thể là
các cư sĩ đă quy y, những người theo ngoại đạo, hoặc quần chúng b́nh thường,
kế đến do các vị đă xuất gia, chỉ một vài trường hợp do phi nhân hạng trên
hoặc dưới. Thông thường, đức Phật triệu tập các tỳ khưu lại, xác định vấn
đề, khiển trách và giáo huấn, rồi mới quy định điều học. Mỗi lần như vậy,
đức Phật luôn khẳng định về mười điều lợi ích của việc làm ấy như sau: "Nhằm
sự tốt đẹp cho hội chúng, nhằm sự an lạc cho hội chúng, nhằm việc trấn áp
những nhân vật ác xấu, nhằm sự lạc trú của các tỳ khưu hiền thiện, nhằm ngăn
ngừa các lậu hoặc trong hiện tại, nhằm sự trừ diệt các lậu hoặc trong tương
lai, nhằm đem lại niềm tin cho những kẻ chưa có đức tin, nhằm tăng thêm niềm
tin của những người đă có đức tin, nhằm sự tồn tại của Chánh Pháp, và nhằm
sự hỗ trợ Luật." Có nhiều trường hợp, điều học đă được quy định thêm (anupaññatti),
có trường hợp mức độ nghiêm khắc trong việc thực hành càng gia tăng, có
trường hợp được giảm nhẹ do nhu cầu cần thiết ví dụ như tỳ khưu bị bệnh có
thể thọ thực ở phước xá hơn một lần, hoặc vị tỳ khưu có thể hẹn trước rồi đi
chung với tỳ khưu ni ở đoạn đường có nguy hiểm hoặc chung chuyến đ̣ lúc sang
sông. Sau phần quy định về điều học, có phần phân tích về từ ngữ và về các
trường hợp vi phạm hoặc không vi phạm. Phần này cần xem xét kỹ lưỡng mới có
thể hiểu được điều học thêm phần chính xác. Ngoài ra, có phần các câu chuyện
dẫn giải ở 4 điều học pārājika và 5 điều học đầu của saṅghādisesa, gồm những
sự việc cụ thể giúp cho hiểu rơ hơn về trường hợp vi phạm tội. Khi đọc các
câu chuyện này, ta nên liên hệ với phần phân tích ở phía trước để thấy được
sự phán quyết của đức Phật. Một điều quan trọng cần lưu ư rằng đối tượng
chính của các điều học này là hạng tỳ khưu và tỳ khưu ni đă được tu lên bậc
trên bằng hành sự với lời thông báo đến lần thứ tư, đầu tiên là vị bà-la-môn
đă được ngài Sāriputta tế độ do việc bố thí một muỗng thức ăn (Đại Phẩm,
chương I, [85]).
2. Phân Tích Giới Tỳ Khưu Ni:
Nói gọn hơn cho dễ nhớ là Giới Tỳ Khưu Ni. Tập này tŕnh bày 311 điều học
của các tỳ khưu ni được phân chia như sau:
1) 8 Pārājika (bất
cộng trụ)
2) 17 Saṅghādisesa (tăng
tàng)
3) 30 Nissaggiya Pācittiya (ưng
xả đối trị)
4) 166 Pācittiya (ưng
đối trị)
5) 8 Pāṭidesanīya (ưng
phát lộ)
6) 75 Sekhiya (ưng
học)
7) 7 Adhikaraṇasamathā Dhammā (các
pháp dàn xếp tranh tụng).
Tuy nhiên, chỉ có những điều học quy định riêng cho tỳ khưu ni (asādhāraṇapaññatti)
được tŕnh bày trong tập này, c̣n những điều quy định chung cho tỳ khưu và
tỳ khưu ni (sādhāraṇapaññatti) cần phải xem ở Phân Tích Giới Tỳ Khưu.
Ngài Buddhaghosa trong Chú Giải Tạng Luật Samantapāsādikā đă
giúp chúng ta xác định những điều học chung này, tuy nhiên thứ tự các điều
học trong giới bổn đầy đủ của các tỳ khưu ni được tŕnh bày như thế nào
không thấy ngài đề cập đến. Giới bổn đầy đủ của tỳ khưu ni được t́m thấy ở
các tài liệu Pāli có tên Bhikkhunīpātimokkha, Ubhato-pātimokkha, Dvemātikāpāḷī,
c̣n được lưu trữ ở các nước có Phật giáo là quốc giáo như Tích Lan, Thái
Lan, Miến Điện.
So sánh giới bổn Pātimokkha của
tỳ khưu và tỳ khưu ni, có một số vấn đề đáng được lưu ư như sau:
1) Tỳ khưu ni không có phần giới aniyata (bất
định). Tỳ khưu và tỳ khưu ni đều có 30 điều nissaggiya pācittiya (ưng
xả đối trị), tuy có số lượng giống nhau nhưng một số điều học lại khác nhau,
75 điều sekhiya (ưng
học) và 7 pháp dàn xếp tranh tụng hoàn toàn giống nhau.
2) Đức Phật quy định các điều học cho các tỳ khưu ni thông qua các tỳ khưu.
Mỗi khi có sự việc sanh khởi, các tỳ khưu ni đă kể lại sự việc cho các tỳ
khưu, rồi các tỳ khưu mới tŕnh lên đức Phật. Khi đức Phật quy định điều
học, ngài cũng quy định gián tiếp qua các tỳ khưu: "... Và này các tỳ khưu,
các tỳ khưu ni hăy phổ biến điều học này ..." Cũng nên lưu ư về thể của động
từ sử dụng trong lời nói của đức Phật: Động từ "uddissantu" trong
trường hợp của các tỳ khưu ni thuộc mệnh lệnh cách, hàm ư sự chỉ thị, sự ra
lệnh, nên được dịch là "hăy," c̣n "uddisseyyātha" áp dụng cho các tỳ
khưu thuộc giả định cách có ư nghĩa khuyên bảo nhẹ nhàng được dịch là "nên;"
chúng tôi chưa t́m ra được lư giải về văn phạm cho điểm này, cũng có thể lối
nói gián tiếp hay trực tiếp là lư do của sự khác biệt này. Và trong các câu
chuyện ở Tạng Luật, dường như chỉ có bà Mahāpajāpati Gotamī là chủ động thưa
chuyện cùng đức Phật, c̣n các tỳ khưu ni chỉ lắng nghe và trả lời mỗi khi
đức Phật hỏi đến.
3) Các tỳ khưu ni khi đến với đức Phật đều đứng cho dù nghe Pháp. Điều này
được ghi nhận ở các đoạn văn "... rồi đứng ở một bên. Khi đă đứng ở một
bên..." Và khi từ giă đức Phật, chỉ có phần mô tả việc các tỳ khưu ni đảnh
lễ đức Phật, hướng vai phải nhiễu quanh và ra đi, không có đoạn "... từ chỗ
ngồi đứng dậy..." Riêng đối với các tỳ khưu, vị tỳ khưu ni cần phải xin phép
khi ngồi xuống ở phía trước (pācittiya điều
94).
4) Tội quy định cho tỳ khưu thường được giảm nhẹ so với các tỳ khưu ni trong
khi cả hai đều thực hiện hành động phạm tội giống nhau. Ví dụ như việc che
giấu tội pārājika của
vị khác, tỳ khưu phạm pācittiya (ưng
đối trị) điều 64, tỳ khưu ni lại phạm pārājika (bất
cộng trụ) điều 2, hoặc vị xu hướng theo tà kiến và vẫn không dứt bỏ sau khi
được nhắc nhở, tỳ khưu phạm pācittiya (ưng
đối trị) điều 68, c̣n tỳ khưu ni phạm pārājika (bất
cộng trụ) điều 3, v.v...
5) Tuy nhiên, tỳ khưu ni cũng được 2 điều giảm nhẹ là chỉ hầu cận ni sư tế
độ 2 năm, trong khi tỳ khưu tối thiểu phải 5 năm hoặc hơn, và tỳ khưu ni
không phải hành parivāsa khi
phạm tội saṅghādisesa (tăng
tàng), bù lại, phải thực hành mānatta nửa
tháng ở cả hai hội chúng (trong khi đó tỳ khưu phải hành parivāsa tùy
theo số ngày che giấu và chỉ 6 đêmmānatta).
6) Vấn đề xuất gia cho người nữ có phần phức tạp hơn, ví dụ như ni sư tế độ
phải 12 năm thâm niên (so với tỳ khưu chỉ 10 năm) và không thể tiếp độ hàng
năm (pācittiya điều 82),
điều này không thấy quy định cho tỳ khưu. Sau khi cho tu lên bậc trên xong,
cần phải di chuyển vị tân tỳ khưu ni đi xa, để tránh trường hợp người chồng
bắt lại (pācittiya điều
70).
7) Về phần giới tử ni muốn tu lên bậc trên, phải có sự cho phép của cha mẹ
và người chồng (đă xuất giá vẫn c̣n lệ thuộc vào cha mẹ), phải tṛn đủ hai
mươi tuổi, đă thực hành sáu pháp trong hai năm, và sự truyền pháp tu lên bậc
trên cần được tiến hành lần lượt ở cả hai hội chúng.
8) Xă hội Ấn Độ thời đó có vẻ rất nguy hiểm đối với nữ giới qua những sự
việc bất trắc xảy ra cho các tỳ khưu ni đi riêng lẻ hay nhóm.
9) Vấn đề thâu hồi Kaṭhina lại
được t́m thấy ở bộ Luật này (pācittiya điều
30, [253]), thay v́ được kết tập ở chương Kaṭhina (Đại
Phẩm, chương VII).
Nếu xem xét kỹ lưỡng hai bộ Luật của tỳ khưu và tỳ khưu ni, chúng ta có thể
t́m ra những sự khác biệt về tâm lư giữa hai giới tính đă được đức Phật
nghiệm ra bằng sự tu chứng và giác ngộ của bản thân, trong khi hiện nay, môn
Tâm Lư Học phải tốn nhiều công sức với các sự nghiên cứu để t́m ra nguyên lư
và áp dụng vào thực tế. Chúng tôi nghĩ rằng c̣n nhiều vấn đề lư thú khác mà
bản thân chúng tôi đă bỏ sót hay không đủ khả năng để phát hiện.
3. Đại Phẩm:
Đại Phẩm gồm có mười chương:
1. Chương 1 nói về sự khởi đầu của Giáo Pháp được tính từ lúc đức Thế Tôn
chứng đắc quả Vô Thượng Chánh Đẳng Giác, và bao gồm quá tŕnh h́nh thành
nghi thức cho xuất gia và tu lên bậc trên trở thành tỳ khưu, cùng một số vấn
đề liên quan đến việc huấn luyện các vị xuất gia.
2. Chương 2 giảng giải về lễ Uposatha với
nguyên nhân ban đầu là lời thỉnh cầu của đức vua Seniya Bimbisāra và nhiều
vấn đề có liên quan đến việc tiến hành cuộc lễ, như việc ấn định ranh giới (sīmā)
và nhà hành lễ Uposatha,
việc sám hối, việc đọc tụng giới bổnPātimokkha, v.v... Việc ǵn giữ
sự hợp nhất của hội chúng là điểm được nhấn mạnh ở chương này.
3. Chương 3 giảng giải về việc vào mùa (an cư) mưa. Tuy chỉ được ghi lại
trong hai tụng phẩm, nhưng nội dung của chương này tŕnh bày những sự việc
có liên quan đến 1/3 thời gian sống và tu tập của vị tỳ khưu. Chương này cần
được xem xét kỹ lưỡng v́ có những tư liệu mới chưa được tŕnh bày trong các
tài liệu về Luật đă được phổ biến.
4. Chương 4 giảng giải về lễ Pavāraṇā (Tự
Tứ) tức là một trong những h́nh thức góp ư nhau về đời sống tu tập có liên
quan đến giới luật. Hành sự của lễ Pavāraṇā tuy
chỉ được tiến hành một lần trong năm sau ba tháng cư trú mùa mưa, nhưng có
tầm quan trọng tương đương với lễ Uposatha nhằm
bảo tồn sự trong sạch đồng thời tính hợp nhất của hội chúng.
5. Chương 5 nói về da thú có liên quan đến đời sống của các vị tỳ khưu ví dụ
như giày dép, v.v... Câu chuyện xuất gia của thanh niên Soṇa Koḷivisa ở đầu
chương giới thiệu về sự nỗ lực tinh tấn của vị tỳ khưu trẻ tuổi này, dẫu
rằng do chính sự tinh tấn quá mức này đă là chướng ngại cho sự đắc chứng của
vị ấy nhưng cũng là một ví dụ để chúng ta thấy được động cơ tu tập của các
vị xuất gia vào thời đức Phật c̣n tại tiền.
6. Chương 6 nói về dược phẩm và các cách thức chữa bệnh. Chương này gồm có 4
tụng phẩm đề cập đến cách thức chữa trị một số bệnh thông thường, về một số
quy định đă được áp dụng trong thời kỳ khó khăn về vật thực, về đức tin vững
chắc của nữ cư sĩ Suppiyā, về vấn đề thọ dụng cá và thịt trong Phật Giáo,
ngoài ra, c̣n có câu chuyện về kỷ nữ Ambapālī và một số vấn đề khác vẫn c̣n
có được sự ứng dụng thực tiễn trong thời hiện tại.
7. Chương 7 giảng giải về lễ dâng y Kaṭhina.
Đây là cuộc phước thí có tầm vóc quan trọng, v́ sự thành tựu của Kaṭhina không
những có ảnh hưởng đến phước báu của người thí chủ mà c̣n có liên quan đến
sự tu tập của các tỳ khưu. Sự giảng giải chi tiết với những sự việc tương
phản của chương này có lẽ không ngoài mục đích tŕnh bày một số điểm tế nhị
cần đến sự chú tâm suy xét.
8. Chương 8 là chương về y phục giảng giải về loại y và các vấn đề có liên
quan về nhiều phương diện. Điểm thú vị ở chương này là tụng phẩm mở đầu với
câu chuyện về thầy thuốc Jīvaka Komārabhacca và tài năng chữa bệnh của vị
này, đáng ngạc nhiên là việc giải phẩu ở đầu và ở bụng đă được tiến hành vào
thời gian cách đây hơn 2,500 năm.
9. Chương 9 được đặt tên theo một sự kiện xảy ra ở Campā, nêu lên một tiền
lệ không tốt đẹp về việc sử dụng sức mạnh tập thể để áp đặt hành phạt sai
trái lên cá nhân. Thời bấy giờ c̣n có đức Phật là vị quan ṭa để phân xử,
trong thời hiện tại trách nhiệm xem xét lại sự việc được trao cho các hội
chúng tỳ khưu ở những trú xứ khác nếu có sự thỉnh cầu. Các điều giảng giải
trong chương này không ngoài việc tŕnh bày khuôn mẫu trong việc tiến hành
các hành sự, khả năng thực hiện của hội chúng đối với các loại hành sự khác
nhau tùy thuộc vào số lượng tỳ khưu hiện diện, và một số nguyên tắc cần được
áp dụng để bảo đảm tính chất đúng Pháp đúng Luật của hành sự. Các hành sự
của hội chúng cùng với việc thâu hồi các hành sự ấy cũng được tŕnh bày ở
chương này gồm có: hành sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua đuổi,
hành sự ḥa giải, và ba loại hành sự án treo.
10. Chương thứ 10 nói về sự việc chia rẽ hội chúng ở Kosambī từ lúc khởi đầu
đến hồi kết thúc. Mầm mống chia rẽ trong câu chuyện này chỉ là một sự tranh
căi về một điều Luật không quan trọng, từ sự xung đột cá nhân đă lan rộng
đến tập thể và trở nên căng thẳng không những đưa đến ẩu đả giữa các tỳ khưu
mà c̣n khiến cho đức Phật đă bỏ đi vào rừng sâu sống với sự phục vụ của voi
và khỉ. Yếu tố đưa đến việc giải quyết sự chia rẽ này là hành động tẩy chay
tích cực của các cư sĩ ở thành Kosambī, cuối cùng sự tranh tụng được giải
quyết do sự phục thiện của vị tỳ khưu sai trái. Câu chuyện về hoàng tử
Dīghāvu và nếp sống sinh hoạt của ba vị đại đức Anuruddha, Nandiya, Kimbila
nhằm đề cao sự sống chung ḥa ái và không thù hận lẫn nhau là yếu tố quan
trọng cần được xây dựng và duy tŕ trong đời sống tập thể.
4. Tiểu Phẩm:
Tiểu Phẩm là phần thứ nh́ của bộ Hợp Phần gồm có 12 chương:
1. Chương đầu là chương Hành Sự đề cập đến bảy loại hành sự nhằm mục đích
nhắc nhở và cảnh tỉnh vị tỳ khưu có những hành vi không đúng với Pháp, không
đúng với Luật, hầu tạo điều kiện cho vị ấy có cơ hội phục thiện và sửa đổi.
Bảy hành sự ấy là hành sự khiển trách, hành sự chỉ dạy, hành sự xua đuổi,
hành sự ḥa giải, và 3 loại hành sự án treo trong việc không nh́n nhận tội,
trong việc không sửa chữa lỗi, và trong việc không từ bỏ tà kiến ác.
2. Chương 2 giảng giải về cách thức phục hồi cho vị tỳ khưu phạm tội saṅghādisesa (tăng
tàng) từ lúc khởi đầu cho đến khi kết thúc trải qua các giai đoạn parivāsa,
mānatta, mūlāya paṭikassanaṃ nếu
vi phạm lại tội ấy hoặc tội tương tợ trong thời gian thực thi hành phạt, và
cuối cùng là phần giải tội abbhāna để
phục hồi phẩm vị trước đây cho vị tỳ khưu phạm tội.
3. Chương 3 giảng giải về các trường hợp đặc biệt của vị tỳ khưu trong khi
đang thực thi các hành phạt để thoát khỏi tội saṅghādisesa lại
tiếp tục vi phạm tội ấy nữa, hoặc các tội tương tợ cùng nhóm.
4. Chương 4 giảng giải về bảy cách dàn xếp là cách hành xử Luật với sự hiện
diện, hành xử Luật bằng sự ghi nhớ, hành xử Luật khi không điên cuồng, việc
phán xử theo tội đă được thừa nhận, thuận theo số đông, theo tội của vị ấy,
cách dùng cỏ che lấp đối với bốn loại tranh tụng là sự tranh tụng liên quan
đến tranh căi, sự tranh tụng liên quan đến khiển trách, sự tranh tụng liên
quan đến tội, và sự tranh tụng liên quan đến nhiệm vụ.
5. Chương 5 là chương các Tiểu Sự đề cập đến nhiều vấn đề có liên quan đến
sự sinh hoạt hàng ngày của vị tỳ khưu về nhiều khía cạnh khác nhau, như cách
phục sức, thuyết Pháp, các vật dụng, v.v...
6. Chương 6 Sàng Tọa thuật lại việc dâng cúng 60 trú xá đầu tiên của một nhà
đại phú ở thành Rājagaha cho đến sự cúng dường một tu viện hoàn chỉnh của
ông Anāthapiṇḍika (Cấp Cô Độc) và các vấn đề liên quan như việc xây dựng,
cách thức sử dụng, và các sự phân công trong việc quản lư tu viện.
7. Chương thứ 7 là chương Chia Rẽ Hội Chúng, bắt đầu với câu chuyện dài giới
thiệu sự sinh hoạt trong một gia đ́nh tiêu biểu của ḍng họ Sākya (Thích
Ca), tiếp đến sự xuất gia của sáu thanh niên thuộc ḍng họ này, trong đó có
Devadatta về sau là người khởi xướng và tiến hành việc chia rẽ hội chúng.
Chương này được kết thúc với những câu hỏi của trưởng lăo Upāli để xác định
những điểm khác biệt giữa sự bất đồng trong hội chúng là việc thường xảy ra
trong tập thể, và sự chia rẽ hội chúng là việc có tính chất nghiêm trọng.
Nghiệp quả xấu dành cho kẻ chia rẽ hội chúng và phước báu của vị làm hợp
nhất hội chúng đă bị chia rẽ cũng được đề cập đến ở chương này.
8. Chương thứ 8 giảng giải về 14 phận sự trong đời sống xuất gia. Cuộc sống
của vị tỳ khưu được mô tả đầy đủ trong chương này, bắt đầu với phận sự của
vị tỳ khưu văng lai, thường trú, hoặc chuẩn bị ra đi, luôn cả phận sự của vị
tỳ khưu đối với chỗ trú ngụ ở trong rừng hoặc ở trong tu viện. Các phận sự
thường nhật như đi khất thực, phận sự ở nhà ăn, tùy hỷ phước báu của thí
chủ, việc sử dụng nhà tắm, nhà vệ sinh đều được mô tả chi tiết. Ngoài ra,
c̣n quy định các phận sự tương tác giữa thầy tế độ và thầy dạy học đối với
các đệ tử hoặc học tṛ có liên hệ nữa. Cuộc sống chung có được tốt đẹp hay
không chính là do sự nhận thức và thực hành các phận sự này của hàng xuất
gia, điển h́nh là các vị tỳ khưu.
9. Chương thứ 9 Đ́nh Chỉ Giới Bổn Pātimokkha tŕnh
bày nguyên do việc đức Thế Tôn đă thuyết giảng về tám pháp kỳ diệu phi
thường trong biển cả, để so sánh với tính chất đặc biệt của Pháp và Luật mà
Ngài đă tuyên thuyết, đồng thời có liên quan đến việc giao phó trách nhiệm
đọc tụng giới bổn Pātimokkha cho
các tỳ khưu kể từ thời điểm ấy trở đi. Phương thức đ́nh chỉ giới bổn Pātimokkha nhằm
để bảo vệ sự trong sạch của hội chúng, bằng cách loại ra những tỳ khưu phạm
tội nhưng vẫn che giấu hoặc tỏ ra không hay biết. Đặc biệt chương này c̣n đề
cập đến nhiều chi tiết tế nhị trong việc khiển trách tội của vị tỳ khưu
nguyên cáo và thái độ thích hợp của vị tỳ khưu bị cáo hầu giữ được ḥa khí
của hai bên.
10. Chương thứ 10 đề cập việc xuất gia của tỳ khưu ni với đầy đủ chi tiết,
bắt đầu với việc cầu xin xuất gia của bà Mahāpajāpati Gotamī, sau đó đă được
tu lên bậc trên do sự chấp thuận Tám Trọng Pháp, kế đến là năm trăm công
nương ḍng Sākya được xuất gia với hội chúng tỳ khưu, tiếp nữa là tiến tŕnh
tu lên bậc trên với cả hai hội chúng: với hội chúng tỳ khưu ni trước rồi với
hội chúng tỳ khưu sau. Trong trường hợp đặc biệt, hành sự tu lên bậc trên ở
hội chúng tỳ khưu có thể được tiến hành với sự hiện diện của vị tỳ khưu ni
là người đại diện. Ngoài ra, một số vấn đề nảy sinh có tính cách cá biệt của
phái nữ cũng được kết tập ở chương này. Nghiên cứu kỹ lưỡng về chương này có
thể nắm được nét chung về sự sinh hoạt của tỳ khưu ni vào thời bấy giờ.
11. Chương thứ 11 nói về cuộc kết tập Tam Tạng lần thứ nhất ở Ấn Độ. Ngoài
những sử liệu liên quan đến công việc kết tập lời dạy của đức Phật gồm có
phần duyên khởi, việc chuẩn bị và tiến hành, chương này c̣n đề cập đến lời
tuyên bố của đại đức Purāṇa về việc vị ấy chỉ ghi nhận những lời dạy do
chính bản thân đă được nghe trực tiếp từ kim khẩu của đức Thế Tôn, về việc
các vị trưởng lăo quyết định không thêm vào và không bỏ bớt bất cứ điều học
nào, sự tuân thủ của đại đức Ānanda đối với các bậc trưởng lăo, và cách thức
áp dụng h́nh phạt Brahma (Phạm
đàn).
12. Chương thứ 12 nói về lần kết tập Tam Tạng lần thứ nh́ ở Ấn Độ với phần
duyên khởi ở Vesālī vào khoảng 100 năm sau khi đức Phật Vô Dư Niết Bàn. Các
chi tiết về tiến tŕnh vận động của cả hai phe trong cuộc tranh tụng này
giúp cho độc giả biết được vài nét khái quát trong đời sống sinh hoạt tinh
thần vào thời bấy giờ. Đây là sự kiện chia phe nhóm thứ hai sau lần ở
Kosambī được ghi chép lại, tiếc rằng sử liệu này dừng ở thời điểm kết thúc
của lần kết tập này mà không tiết lộ thêm chi tiết nào về sự phân chia tông
phái về sau này.
5. Tập Yếu:
Tập Yếu (Parivāra) là bộ cuối cùng của Tạng Luật (Vinayapiṭaka).
Về ư nghĩa của từ parivāra,
học giả I. B. Horner phân tích như sau: "... pari là tiếp đầu ngữ có ư
nghĩa: đi ṿng quanh, bao bọc xung quanh, v.v... và vāra lấy theo từ gốc của Sanskrit là
√vṛ có nghĩa là bao
phủ..." (√vṛ c̣n có nghĩa
thứ hai là chọn lựa); dựa theo đó, chúng tôi tạm lấy tên là "Tập Yếu", có ư
nghĩa nôm na là "Tập hợp lại những điều chính yếu." Những điều chính yếu ấy
đă được chọn lọc từ hai bộ Luật Suttavibhaṅga và Khandhaka rồi
được sắp xếp và tŕnh bày qua những góc nh́n khác biệt.
Như vậy, phải chăng bộ Tập Yếu này không đem lại tư liệu ǵ mới cho người
đọc? Suy nghĩ như vậy xét ra cũng có phần đúng. Tuy nhiên, trong số những
người đă đọc qua, thậm chí đă học một cách kỹ lưỡng hai bộ Luật trên, người
nào có thể khẳng định rằng bản thân có thể hiểu được chính xác và ghi nhớ
đầy đủ các điều đức Phật đă dạy, hoặc nghĩ đến việc hệ thống hóa lại kiến
thức về Luật? Chúng ta hăy thử trả lời các câu hỏi sau: "Các điều học đă
được quy định ở bao nhiêu địa điểm? Mỗi địa điểm như vậy được bao nhiêu
điều? Có bao nhiêu điều học đă được quy định chung cho tỳ khưu và tỳ khưu
ni? Là các điều học nào? Có bao nhiêu điều học đă được quy định riêng cho tỳ
khưu, cho tỳ khưu ni? Là các điều học nào? v.v... Bộ Tập Yếu đă giải quyết
các câu hỏi đó giúp cho người đọc khỏi phải mất th́ giờ vận dụng kư ức hoặc
phải mở sách ra xem lại.
Mười chín chương của bộ Tập Yếu được tŕnh bày theo thứ tự như sau:
I. Chương Mười Sáu Phần Chính thuộc Phân Tích Giới Tỳ khưu: Tóm lược đầy đủ
227 điều học của tỳ khưu.
II. Chương Mười Sáu Phần Chính thuộc Phân Tích Giới Tỳ khưu Ni: là phần tóm
lược Bhikkhunīvibhaṅga gồm
các điều học được quy định riêng cho tỳ khưu ni, cách tŕnh bày cũng tương
tợ như ở chương trên dành cho tỳ khưu.
III. Tóm Lược về Nguồn Sanh Tội: Từ thân khẩu ư được phân chia thành sáu
nguồn sanh tội: có thể sanh lên do thân và do ư, không do khẩu; có thể sanh
lên do khẩu và do ư, không do thân, v.v... Có tội chỉ có một nguồn sanh tội,
có tội có hai, có tội có ba, có tội có bốn, có tội có sáu, và tất cả có mười
ba nhóm có nguồn sanh tội giống nhau.
IV. Tuy được phân ra làm hai phần: (a) Sự Trùng Lặp Liên Tục và (b) Phân
Tích Cách Dàn Xếp, nhưng phần (b) chỉ là phần tiếp theo của phần (a) chưa
được hoàn tất. Sở dĩ nhận ra được hai phần riêng biệt do việc các nhà kết
tập vẫn lưu lại câu văn báo hiệu sự kết thúc của phần đầu: "antarapeyyālaṃ
niṭṭhitaṃ" có nghĩa là "Sự Trùng Lặp Liên Tục được chấm dứt." Về phương
diện h́nh thức, cả hai phần này là các câu hỏi và đáp mở đầu bằng dạng tiêu
đề (mātikā).
V. Các Câu Hỏi về bộ Hợp Phần: Chỉ là một chương ngắn gọn giới thiệu qua các
chương của bộ này gồm có Đại Phẩm và Tiểu Phẩm dưới dạng câu hỏi và đáp về
bao nhiêu loại tội cho mỗi chương và chấm dứt khi liệt kê đầy đủ 22 chương
của bộ Luật này.
VI. Tăng Theo Từng Bậc: được tŕnh bày dưới dạng pháp số từ nhóm một đến
nhóm mười một có nội dung liên quan đến Luật và h́nh thức được tŕnh bày
tương tợ như ở Kinh Tăng Chi Bộ thuộc Tạng Kinh.
VII. Các Câu Vấn Đáp về Lễ Uposatha,
v.v... Chỉ là một chương ngắn đề cập đến các hành sự từ lễ Uposatha,
lễ Pavāraṇā, ... hành phạt mānatta,
và sự giải tội. Phần thứ nh́ nói về lợi ích của việc quy định điều học. Điều
đáng lưu ư là chương này được kết thúc với câu "Mahāvaggo niṭṭhito"
nghĩa là "Đại Phẩm được chấm dứt," trong khi đó các phần đă được tŕnh bày
trong chương này được t́m thấy rải rác trong toàn bộ Tạng Luật chứ không
phải chỉ riêng ở Đại Phẩm.
VIII. Sưu Tập Các Bài Kệ: Phần lớn được tŕnh bày dưới thể kệ có xen vào một
số đoạn văn xuôi. Nội dung liệt kê tên của tám địa điểm đă xảy ra việc quy
định của các điều học, mỗi nơi là bao nhiêu điều học, v.v... ngoài ra c̣n
phân các điều học thành nhóm theo nhiều khía cạnh khác nhau như quy định
chung, quy định riêng, v.v...
IX. Phân Tích Sự Tranh Tụng: Phân tích chi tiết về bốn sự tranh tụng và bảy
cách dàn xếp. Chủ đề được tŕnh bày cô đọng nhưng không kém phần súc tích
cần được tham khảo.
X. Sưu Tập Khác về Các Bài Kệ: Chỉ là một chương ngắn thuần túy ở thể kệ
thuộc đề tài có liên quan đến vị cáo tội: ư nghĩa và mục đích của việc cáo
tội, các điểm sai trái chủ yếu mà vị cáo tội cần phải quán xét trong quá
tŕnh cáo tội vị khác.
XI. Chương Cáo Tội: là phần tŕnh bày tiếp theo của chương trên có liên quan
đến vị cáo tội và vị xét xử.
XII. Xung Đột (Phần Phụ): Chỉ là một chương ngắn có liên quan đến vị xét xử,
tuy nhiên các chi tiết được tŕnh bày là hoàn toàn mới lạ, không t́m thấy
trong các phần Luật đă được đọc qua.
XIII. Xung Đột (Phần Chính): Sự thực hành của vị xét xử được giảng giải chi
tiết. Cách thức được tŕnh bày tương tợ như ở bộ Phân Tích Giới Bổn, trước
tiên giới thiệu một đoạn văn sau đó là phần giải thích ư nghĩa của từng câu.
XIV. Phân Tích Kaṭhina:
Các điều cần biết về Kaṭhina được
gom tụ lại dưới dạng hỏi đáp có tính cách tổng quát nhưng không kém phần súc
tích, ngoài ra c̣n có những chi tiết chưa được tŕnh bày ở chương Kaṭhina thuộc
Đại Phẩm.
XV. Nhóm Năm của Upāli: là các câu hỏi của ngài Upāli và câu trả lời của đức
Phật như đă được thấy trong Đại Phẩm và Tiểu Phẩm .
XVI. Nguồn Sanh Khởi: Tŕnh bày về nguồn sanh tội như đă được đề cập ở
chương I, II, III. Trong chương này, nguồn sanh tội là chủ đề chính và được
tŕnh bày cô đọng theo từng điều học một.
XVII. Sưu Tập Các Bài Kệ (Phần Hai): Là các câu hỏi đáp liên quan đến tội vi
phạm. Tuy nhiên, câu trả lời chỉ có tính cách gợi ư. Có câu có thể dễ dàng
liên hệ được vấn đề, nhưng nhiều câu trả lời khác đă chiếm mất nhiều thời
gian của chúng tôi trong việc t́m hiểu ư nghĩa từ lời giải thích của ngài
Buddhaghosa cũng như xem xét và kiểm tra các phần trích dẫn của Cô I. B.
Horner trong bản dịch tiếng Anh.
XVIII. Các Bài Kệ Làm Xuất Mồ Hôi: là các câu hỏi khó khiến người đọc phải
lúng túng và đổ mồ hôi khi suy nghĩ. Về chương này, phần cước chú là điều
không thể thiếu sót và cũng đă tạo ra nhiều khó khăn cho chúng tôi trong
việc xác định vấn đề. Có một vài câu hỏi, chúng tôi chỉ ghi lời dịch và
không thực hiện phần giải thích v́ không xác định được nguồn trích dẫn.
XIX. Năm Phần: Tŕnh bày theo năm đề tài: Hành sự, điều lợi ích, sự quy định
các loại hành sự, bảy cách dàn xếp đă được quy định, và sự tổng hợp theo
chín vấn đề khác nhau.
Về phần tác giả, nói đúng hơn là vị đă biên tập tài liệu này, chúng ta chỉ
biết được tên vị ấy là Dīpa qua lời tổng kết ở phần cuối của tập sách. Vị ấy
được giới thiệu là "bậc trí tuệ đă học hỏi từ các vị thầy và thực hiện Parivāra nhằm
làm sáng tỏ Chánh Pháp, giúp cho người học Phật giải quyết những hoài nghi
đă sanh khởi." Có ư kiến cho rằng Dīpa là một vị xuất gia người ở đảo Tích
Lan (Dịch giả I. B. Horner ghi lại theo Winternitz, A
History of Indian Literature, Volume ii, p. 33).
Về thời điểm, cũng không thể xác định chắc chắn. Dựa vào bài kệ liệt kê tên
các vị trưởng lăo kế thừa Tạng Luật được đề cập ở đoạn [3] nêu tên năm vị
thuộc Jambudīpa (Ấn Độ), kế tiếp là nhóm năm vị dẫn đầu là ngài Mahinda có
trách nhiệm đi hoằng Pháp ở Tambapaṇṇi, và vị trưởng lăo cuối cùng trong
danh sách ấy có tên là Sīva. Có tài liệu phỏng đoán rằng vị Sīva đă sống vào
khoảng thế kỷ thứ nhất sau Tây lịch (Oskar Von Hinüber, A
Handbook of Pāli Literature, tr. 22); như vậy, có thể suy luận rằng tập Parivāra được
thực hiện vào khoảng thời gian đó. Địa điểm đă thực hiện Parivāra được
mặc nhiên chấp nhận là ở trên ḥn đảo Tambapaṇṇi ấy (tức là nước Sri Lanka
ngày nay).
Về nội dung, có các vấn đề đáng được lưu ư như sau:
1) Parivāra tuy
được xếp vào Tipiṭaka (Tam
Tạng), nhưng phần lớn của Parivāra không phải là những điều đă được nghe
trực tiếp từ chính kim khẩu của đức Phật và được ghi lại nguyên văn như hai
bộ Luật kia hoặc các bộ thuộc tạng Kinh; điều này được dễ dàng xác định qua
văn bản. Parivāra tuy
không khẳng định là Phật ngôn nhưng các vấn đề thảo luận không đi ra ngoài
những lời dạy của đức Phật.
2) Parivāra hiện
đang sử dụng gồm có 19 chương; tuy nhiên cuối chương XIV có ḍng chữ "Parivāraṃ
niṭṭhitaṃ" báo hiệu sự kết thúc của Parivāra. Dịch giả I. B. Horner dẫn
chứng rằng các bản Chú Giải về Luật và Kinh Trường Bộ của ngài Buddhaghosa
đề cập đến "soḷasaparivāra" nghĩa là Parivāra gồm
có 16 chương và lưu ư chúng ta về chương IV gồm có 2 phần riêng biệt là Anantarapeyyāla (Sự
trùng lặp liên tục) và Samathabheda (Phân
tích cách dàn xếp) và chương VII gồm có Uposathādipucchāvissajjanā (Các
câu vấn đáp về lễ Uposatha,
v.v...) và Atthavasapakaraṇa (Lời
giải thích về điều lợi ích) đă được thu gọn lại; theo cách giải thích này
chúng ta có được Parivāra với
mười sáu chương theo như các Chú Giải đă đề cập. Như vậy, phải chăng các
chương XV-XIX ở phần Chánh Tạng và Chú Giải đă được thêm vào sau thời kỳ của
ngài Buddhaghosa (vào khoảng thế kỷ thứ 5 sau Tây Lịch)? Điều này cần phải
chờ đợi câu trả lời từ các công tŕnh nghiên cứu nghiêm túc hoặc từ sự t́m
ra các di tích từ những công cuộc khảo cổ để có được câu trả lời thích đáng.
3) Có điều cần nói thêm rằng: Parivāra không
phải là sách để đọc thông thường mà được xem là tài liệu học tập, là học cụ
giúp cho người nghiên cứu Luật hiểu rơ và nắm vững các vấn đề thuộc về Luật.
Sự tŕnh bày vấn đề dưới nhiều góc cạnh, theo từng chủ đề có thể giúp cho
người đọc xác định lại kiến thức và góp phần vào việc củng cố sự ghi nhớ.
Tuy nhiên, người đọc phổ thông cũng có thể học hỏi được những nét đa dạng
trong nghệ thuật phân tích vấn đề.
Nội dung của Tạng Luật tuy có chủ đề là các điều học đă được đức Phật quy
định cho các tỳ khưu và tỳ khưu ni, nhưng c̣n được lồng vào những câu chuyện
dẫn nhập tŕnh bày bối cảnh xă hội của Ấn Độ vào thời đức Phật. Nếu nghiên
cứu kỹ người đọc có thể chọn lọc ra những tư liệu giá trị về lịch sử, y
khoa, tâm lư, v.v... và rút ra được những bài học có thể ứng dụng trong đời
tu tập sống hàng ngày của hàng xuất gia lẫn tại gia cư sĩ.
Mong rằng bản dịch tiếng Việt Tạng Luật sẽ đóng góp chút ít công đức trong
việc tu học và nghiên cứu của quư vị.
Sri Jayawardhanaramaya,
Ngày 04 tháng 07 năm 2005
Bhikkhu Indacanda
(Trương đ́nh Dũng)
========