Từ Điển
Thuật Ngữ Luật Tạng (Tỳ-kheo Giác Nguyên dịch)
Aṃsabaddhaka: Dây
đeo b́nh bát
Akaṭayūsa: Cháo suông
Akatamallaka: Loại bàn chải dùng để gải ngứa (trong lúc bị ghẻ)
Akālacīvara: Y ngoại thời, có được sau mùa tăng y (một tháng sau
ngày Tự Tứ), vị tỳ kheo chỉ được phép cất giữ tối đa một tháng, sau đó
phải xả bỏ.
Akiriyato Samuṭṭhānā Āpatti: Tội bất cẩn, chẳng hạn trước khi sử
dụng y mới lại quên chú nguyện. Các tội thuộc loại này chỉ được xem là
bị vi phạm sau khi đối chiếu và suy luận theo luật định. Xin xem chữ
Kiriyato-Samuṭṭhitā-Āpatti.
Akkanāḷa: Loại y dệt từ cuống lá Akka (Catotropis Gigantea), một
loại cây được giới Bàn Môn dùng để cúng thần Shiva, tỳ kheo sử dụng sẽ
bị phạm tội Tác Ác.
Aggaḷa: Sự vá khâu y áo nói chung.
Aggisālā: Hỏa Sự Pḥng, nơi giữ lửa trong chùa vào mùa đông. Đức
Phật cấm chư tỳ kheo đốt lửa bừa băi trong khu cư ngụ để tránh hỏa hoạn
và giữ vệ sinh, mỹ quan.
Aggaḷavaṭṭikā: Then cửa, chốt gài cửa, tỳ kheo được phép sử dụng
trong am tự.
Agghasamodhānaparivāsa: Phép Huân Tội Cấm Pḥng, dành cho trường
hợp tỳ kheo phạm cùng lúc nhiều tội Tăng Tàn và có thời gian dài che
dấu.
Agyāgāra: = Aggisālā.
Aṅgulicchinna: Người bị cụt mất ít nhất một ngón tay, không được
thọ Cụ Túc Giới. Vị tỳ kheo nào tế độ cho đương sự, sẽ phạm tội Tác Ác
(SM, Vl. 3).
Aṅgulimuddikā: Nhẫn, cà rá.
Acelaka: Tu sĩ phái lơa thể.
Accekacīvara: Đặc Di Y, y dư, có được ngoài mùa tăng y và nằm
ngoài số y được phép sử dụng, cất giữ.
Acchakañji: Cháo trắng (gạo với nước nấu nhừ = Taṇḍulodakamaṇḍo).
Acchinnakacīvara: Lá y chỉ là một tấm vải liền, nguyên vẹn, không
do nhiều điều ghép lại. Tỳ kheo không được sử dụng loại y này.
Acchinnadasācīvara: Y ca-sa có viền tua ren. Tỳ kheo không được
sử dụng.
Ajinakkhipa: Tấm da thú để choàng người, tỳ kheo không được sử
dụng. Kinh gọi loại khăn choàng da thú này là Titthiyadhaja (lá cờ ngoại
giáo), không phải Arahattadhaja (lá cờ La Hán) như y ca-sa đúng phép.
Ajinappaveṇī: Tấm trải giường làm bằng da thú, tỳ kheo không được
sử dụng.
Añjana: Thuốc nhỏ mắt. Gồm nhiều loại như Kālañ-jana, Rasañjana,
Sotañjana, Geruka, Kapalla.
Añjanī: Lọ đựng thuốc nhỏ mắt, có thể được làm bằng nhiều chất
liệu, nhưng tỳ kheo không được dùng thứ làm bằng quư kim hay ngà voi,
sừng thú.
Añjanithavikā: Túi đựng lọ thuốc nhỏ mắt. Đức Phật cho phép vị tỳ
kheo làm thêm một dây đeo cho túi thuốc này.
Añjanisalākā: Cây que dùng để lấy thuốc nhỏ mắt từ lọ. Tỳ kheo
được phép dùng, chỉ tránh sử dụng loại que bằng quư kim hay ngà, sừng.
Añjanupapiṃsana: Sự chế luyện thuốc nhỏ mắt, gồm việc sử dụng một
số thảo dược như trầm hương, Tagara, Kālānusāriya, Tālī-sa,
Bhaddamuttaka. Đức Phật cho phép vị tỳ kheo có thể tự ḿnh chế thuốc
dùng riêng.
Aññavādaka (+ bhikkhu): Người chối quanh, khi bị cật vấn về giới
luật, chỉ quanh co không đáp thẳng câu hỏi.
Aṭṭāna: Tấm ván dùng để kỳ cọ thân ḿnh trong lúc tắm (ở bến
nước). Tỳ kheo không được phép sử dụng.
Aṭṭha Garudhamma: Bát Kỉnh Pháp, tám trọng giới cùa tỳ kheo ni
buổi sơ thời Phật giáo:
1) Dù đă trăm tuổi đạo vẫn phải kính lễ tỳ kheo mới tu một ngày.
2) Không đuợc nhập hạ nơi không thể gặp gỡ tỷ kheo tăng.
3) Mỗi nửa tháng phải đến làm lễ Phát Lộ dưới sự chứng minh của tỳ kheo
tăng.
4) Ngày Tự Tứ phải làm lễ trước lưỡng phái tăng.
5) Tỳ kheo ni phạm tội Tăng Tàn phải trải qua 14 ngày Mānatta trước
lưỡng phái tăng, không phải chỉ 6 đêm như tỷ kheo.
6) Nữ nhân nào cũng phải trải qua hai năm Học Nữ (sikkhāmānā) trước khi
thọ Đại Giới trước lưỡng phái tăng.
7) Tỳ kheo ni không được vin bất cứ lư do nào để nặng lời với một tỷ
kheo.
8) Tỷ kheo ni không thể làm việc trách cứ, giáo giới, huấn thị đối với
tỷ kheo tăng (Cullavagga).
Aṭṭhapadaka: Việc mạng,vá bằng cách may chỉ ngang dọc ngay chỗ
thủng, rách. Đức Phật cho phép cách vá khâu này. Tiếng Việt gọi là Mạng.
Aḍḍhakusi: Các đường đê nối liền các điều trong lá y ca sa.
Aḍḍhaduka: Việc nhổ lông ngực tạo thành hai mảng lông rời nhau,
như nhiều người rậm lông ngực vẫn làm. Tỳ kheo không được phép làm việc
này.
Aḍḍhapallaṅka: Tư thế bán già, xếp bằng với một chân trên (không
như kiết già với cả hai bàn chân đều xếp cả lên trên).
Aḍḍhamaṇḍala: Trong lá y ca-sa gồm có nhiều ô chữ nhật lớn nhỏ
ghép lại, và ô lớn được gọi là Maṇḍala, ô nhỏ được gọi là Aḍḍha-maṇḍala.
Aḍḍayoga: Kiểu nhà một mái hay hai mái xuôi, trông như con đại
bàng đang rũ cánh (Supannavaṅkageha). Đức Phật cho phép tỷ kheo cất am
thất, tự viện với kiến trúc này.
Atiritta (bhojana): Tàn thực, thức ăn sót lại sau bữa độ trai của
tỳ kheo. Tỷ kheo chỉ nên ăn tàn thực với vài điều kiện như đó là món hợp
luật nghi, chưa bị đem vất bỏ, và được trao tận tay …
Atirekacīvara: Y ca sa nằm ngoài số lượng được phép, hoặc trong
trường hợp chưa chú nguyện (adhiṭ-ṭhita), chưa làm dấu (avi-kappita). Tỳ
kheo nhận y này chỉ được cất giữ tối đa mười ngày, sau đó phải xả bỏ
trước sự chứng minh của vị tỳ kheo khác.
Atirekapatta: B́nh bát dư, cũng cần được giải quyết theo cách y
dư.
Attādāna: Lời tự thú của tỳ kheo trước khi tăng chúng tụng Giới
Bổn.
Athullavajjā Āpatti: Tội nhẹ, lỗi nhỏ.
Adasakanisīdana: Tọa cụ (tấm trải để ngồi) không có may viền. Tỷ
Kheo không được phép sử dụng.
Adinna: Chữ này thường được hiểu theo hai nghĩa: Vật chưa được
chủ nhân đem cho, hoặc vật chưa được đưa tận tay.
Aduṭṭhullā-āpatti: Tội nhỏ, gồm năm loại Trọng Tội, Ưng Đối Trị,
Tác Ác, Phát Lộ và Ác Khẩu. Năm tội này c̣n gọi là Lahukāpatti (Khinh
thiểu tội) hay Desa-nagāminī-āpatti (tội có thể giải trừ bằng lời sám
hối). Riêng bốn tội Ba La Di và 13 Tăng Tàn th́ gọi là Duṭ-ṭhullāpatti
(Nghiệt tội) hay Garukāpatti (Đại tội), Adesanāgāminī-āpatti (tội không
thể giải trừ bằng một phép sám hối đơn giản).
Adesagāmini-āpatti: Xem chữ Aduṭṭhulā-āpatti.
Adhikaraṇa: Tránh Tụng Sự, nôm na là những sự vụ mà tăng chúng
phải họp mặt để cùng giải quyết. Có tất cả bốn trường hợp tranh tụng:
– Vivādādhikaraṇa: Những tranh luận giữa các tỷ kheo về giáo lư và giới
luật mang tính cách biện bác học thuật.
– Anuvādādhikaraṇa: Những bàn cải mang tính phê b́nh cụ thể về một tỳ
kheo nào đó bị xem là người phá giới (sīlavipatti), mắc tà kiến
(ditthivipatti) hoặc thiếu hạnh kiểm (ācāravipatti), sống tà mạng
(ājīvavipatti).
– Āpattādhikaraṇa: Những nghị luận của tăng chúng trong trường hợp xác
định tội danh một tỳ kheo.
– Kiccādhikaraṇa: trường hợp tăng chúng họp bàn về các tăng sự xem phải
làm ǵ, làm sao,..
Có tất cả bảy phép giải quyết các Tránh Sự, xin xem thêm trong Giới Bổn
tỳ kheo.
Adhiṭṭhāna: Việc chú nguyện trước khi sử dụng hay xả bỏ y bát.
Việc chú nguyện này sẽ không c̣n hiệu lực (adhiṭṭhānavija-hana) trong
các trường hợp sau: y hay bát đó bị trộm lấy, hoặc được đem cho, bị mang
đi nơi khác ngoài tầm sử dụng của chủ nhân, khi tỷ kheo hoàn tục, hay từ
trần, hay đương sự tác ư xả bỏ, khi tỷ kheo bị thay đổi giới tính, khi
phạm tội Ba La Di, khi y hay bát ấy bị hư hoại nặng.
Adhiṭṭhāna-uposatha: Phép làm lễ Phát Lộ một ḿnh. Khi vị tỳ kheo
không sống gần bạn tu, vào ngày Bố Tát chỉ việc chú nguyện câu Ajja Me
Uposatho (hôm nay là ngày lễ Bố Tát của ta). Lời nguyện này cũng có giá
trị như một buổi nghe tụng giới.
Anatiritta (bhojana): Thức ăn c̣n mới nguyên, chưa là tàn thực.
Anavajjapanñatti: Chỉ chung cho những học giới biệt chế cho tăng
ni. Bản thân chúng chưa hẳn là tội xấu trong quan niệm đạo đức của xă
hội. Chẳng hạn những học giới về y bát hay chuyện ăn uống.
Anavasesa-āpatti: Một tên gọi khác của tội Ba La Di. Tỳ kheo phạm
vào tội này th́ không c̣n cách nào để giải quyết và đạo nghiệp coi như
kết thúc (anava-sesa). Các tội khác vẫn c̣n phương giải trừ
(Avasesā-patti).
Anāmantacāra: Tự tại du hành, một trong năm đặc quyền của tỷ kheo
trong thời gian hậu tăng y là rời khỏi trú xứ không cần báo cho bạn đồng
trú biết trước.
Anārambha: Tính hợp luật của một miếng đất mà vị tỷ kheo dự tính
xây dựng trú xứ.
Anāvāsa: Tính cách hay nơi chốn không thích đáng để vị tỷ kheo cư
ngụ.
Aniyatā: Từ gọi chung hai trường hợp Tùy Chứng Định Tội của vi tỷ
kheo. Như khi vị ấy cùng có mặt riêng lẻ với một phụ nữ trong bối cảnh
thuận tiện cho việc mờ ám, nhân chứng (phải là vị thánh Sơ quả) tŕnh
tăng thế nào th́ chư tỷ kheo theo đó mà định tội tỷ kheo đương sự.
Anupasampanna: Người chưa thọ Đại Giới, thuật ngữ gọi chung cho
tất cả những ai không phải tỷ kheo hay tỷ kheo ni.
Anukkhepa: Vật đền bù khi trao đổi một món có giá trị. Vị tỷ kheo
có thể dùng món nào đó để đền bù cho bạn tu khi trao đổi một vật dụng có
giá trị hơn vật của ḿnh đưa ra. Dĩ nhiên vật sở hữu của tỳ kheo chỉ là
những ǵ hợp luật.
Anuppaññatti: Điều bổ chế, chi tiết bổ sung đối với một học giới
chưa hoàn bị và rơ ràng.
Anuppannapaññatti: Dự Chế, những cấm chế không đợi duyên sự (hầu
hết các học giới đều được cấm chế ngay sau khi xảy ra một chuyện đáng
tiếc nào đó). Chẳng hạn Bát Kỉnh Pháp của tỳ kheo ni.
Anumatikappa: Một trong mười chủ trương của nhóm tỷ kheo Vajjī,
cho phép thực hiện một tăng sự vội vă với hi vọng mong manh vào sự đồng
thuận của những tỷ kheo chưa kịp đến họp mặt, đặt họ vào t́nh thế mọi sự
đă rồi. Vị nào cố ư làm vậy, phạm Tác Ác.
Anumodanavatta: Nôm na là việc chúc phúc cho thí chủ sau khi thọ
trai. Việc này cũng được Luật tạng cho là chuyện nên làm, nhưng không
đ̣i hỏi tăng số. Một hay vài vị tỷ kheo được cử làm đại diện cho tăng
chúng cũng được.
Anuvāta: Đường may dằn theo chiều dọc của lá y.
Anuvādādhikaraṇa: Xem chữ Adhikaraṇa.
Anuvijjaka: Vị tỷ kheo đóng vai tṛ luật sư được chư tăng đề cử
để cật vấn ai đó trong các tăng sự.
Anuvivaṭṭa: Hai điều nằm giữa của lá y ca-sa.
Antarāmuttaka: Chữ gọi vị tỷ kheo tiếp tục ở lại trú xứ nhập hạ
sau ngày Tự Tứ.
Antaravāsaka: Y nội hay hạ y của tỳ kheo.
Antarāya: Điều trở ngại hay nguy cơ, mối phương hại đối với sinh
hoạt, đời sống hay cuộc tu của vị tỷ kheo nói chung. Trong đó gồm các
thứ thiên tai, nhân họa, cám dỗ hoặc thử thách. Chẳng hạn mười lư do trở
ngại khiến chư tăng phải lược tụng Giới Bổn trong ngày Bố Tát.
Antarāyika: Chướng duyên trong cuộc tu. Như các điều ngăn ngại
khả năng chứng ngộ thượng pháp, gồm Trọng nghiệp chướng (kammantarāyika)
ám chỉ năm tội đại nghịch và sách nhiễu tỷ kheo ni, Phiền năo chướng
(kilesantarāyika) ám chỉ cho tà kiến nguy hiểm, Ác báo chướng
(vi-pākantarāyika) như mang thân đọa lạc hoặc có vấn đề về phái tính,
Quan chướng (upavādantarāyika) ám chỉ việc chống báng hiền thánh, Tội
chướng (ānāvī-tikkamantarāyika) chỉ cho trường hợp tỷ kheo đă phạm phải
các trọng tội trong Giới Bổn.
Chướng duyên ở đây cũng có thể là một trong 13 trở ngại khiến một người
không thể thọ đại giới, như mắc trọng bệnh hay có rắc rối về gia đ́nh,
xă hội, pháp luật.
Antimavatthu-ajjhāpanaka (bhikkhu): Tỷ kheo đă phạm tội Ba La Di.
Antevāsika: = Antevāsī: Học tṛ, đệ tử.
Antopakka(piṇḍa): Thức ăn được nấu ngay trong am thất hay tự
viện, không phải từ những nơi hợp luật (kappiyabhūmi). Tỷ kheo thọ thực
các món này phạm tội Tác Ác.
Antovuṭṭhaṃ(piṇḍa): Các thức ăn được cất giữ lại trong am thất
hay tự viện không thông qua sự đồng ư của tăng chúng. Vị nào thọ dụng
phạm Tác Ác.
Andha: Người mù bẩm sinh (một trong những hạng không được thọ đại
giới).
Andhabadhira: Người vừa mù vừa điếc.
Andhamūga: Người vừa mù vừa câm.
Andhamūgabadhira: Người bị cùng lúc ba chứng mù, câm, điếc.
Anvādhika: Miếng vải nối thêm, có thể không cùng thứ vải với phần
trước, trong trường hợp thiếu vải may y. Tỷ kheo được phép làm vậy.
Appaticchannamānatta: Xem hai chữ Abbhāna và Mānatta.
Apalokanakamma: Tăng sự dành cho các trường hợp triệu hồi
(osārana), trục xuất (nissaraṇa), thí phát (bhandukamma),phạt Phạm đàn
(brahmadaṇḍa), hay các trường hợp tương tự (kammalakkhana). Tăng sự này
cần ba bận tuyên ngôn trước tăng chúng.
Apassenaphalaka: Phiến đá dựng nghiêng vào chân tường để ngăn
việc sụt lún và cũng có tác dụng không để y áo phơi sát tường bị cọ quẹt
dễ rách.
Apesi: Cổng rào, nhằm ngăn các loại gia súc xâm nhập tự viện.
Appaṭikamma-āpatti: Trọng tội nặng đến mức vô phương giải trừ,
chỉ cho tội Ba La Di của tỷ kheo.
Appamattavissajjaka: Vị tỷ kheo có trách nhiệm phân phối các vật
dụng lặt vặt (appamatta) như kim, chỉ, dao, kéo,… cho tăng. Chư tăng cần
hai lần tuyên ngôn để bổ nhiệm đương sự.
Abaddhasīmā: Cương giới tự thành, tức một khu đất khi được tăng
chúng chọn làm nơi tiến hành một tăng sự nào đó th́ nơi này cũng lập tức
có giá trị tương đương như một khu vực Sīmā đă được kiết giới bằng hai
lần tuyên ngôn hẳn hoi. Trong trường hợp này, dấu mốc của khu vực sīmā
không thể là bốn ḥn đá tượng trưng được nữa, mà có thể là một ḍng
nước, một ngôi làng để làm ranh. Ba loại Sīmā sau đây cũng được kể vào
trường hợp Sīmā tự thành: Gāma-sīmā, Sattabbhantarasīmā và
Udakukkhepasīmā. Xin xem thêm ở ba chữ này.
Abbhāna: Phép triệu hồi, dành cho một tỷ kheo phạm tội Tăng Tàn
đă trải qua 6 đêm khuất hạnh (mānatta). Tăng sự này cần đến bốn bận
tuyên ngôn và phải có sự chứng minh của ít nhất hai mươi tỷ kheo thanh
tịnh.
Abbhānāraha: Danh từ này dùng để gọi vị tỷ kheo đă trải qua 6 đêm
khuất hạnh một cách nghiêm cẩn, là người Đáng Được Tăng Chúng Gọi Về.
Nếu trong thời gian 6 đêm khuất hạnh đương sự lại tiếp tục phạm thêm một
tội Tăng Tàn nữa, th́ mọi sự coi như phải làm lại từ đầu. Luật tạng gọi
đây là trường hợp Abbhānārahamūlāyapatikassanā, trùng phạm cấm pḥng.
Amūḷhavinaya: Trường hợp tăng sự xác định t́nh trạng mất trí của
một tỷ kheo trong lúc vi phạm các học giới để đương sự không bị cư xử
như một người cố t́nh phá giới. Tăng sự phải được thực hiện sau khi vi
tỷ kheo mất trí được hồi phục, với ba điều kiện sau: Đương sự đích thị
đă từng mất trí, có tỷ kheo tố cáo đương sự vi phạm giới luật và chính
đương sự xin tăng thực hiện tăng sự này.
Tăng sự này cần đến bốn bận tuyên ngôn để thỉnh ư tăng chúng. Nếu tất cả
một ḷng xác quyết đương sự đă có lúc mất hết tự chủ th́ mọi lầm lỗi
trong thời điểm đó phải được bỏ qua. Vị nào cố t́nh nhắc lại chuyện cũ,
phạm tội Ưng Đối Trị (Pācittiya-Ba Dật Đề).
Loại tăng sự này cũng được kể vào trường hợp Anuvā-dādhikaraṇa.
Ambapāna: Nước xoài ép, một trong các loại nước tỷ kheo được uống
buổi chiều.
Alajjī: Kẻ vô sĩ, chỉ hạng tỳ kheo cố t́nh dấu diếm tội lỗi,
không sám hối hay hoàn tục.
Aḷacchinna: Người bị cụt mất ngón chân hay ngón tay cái (không
được thọ đại giới).
Avakkārapātī: Thùng rác, chậu đựng thức ăn thừa.
Avandiya: Loại người không đáng nhận sự lễ bái. Bao gồm thiếu
niên, tu sĩ ác giới, người chưa thọ đại giới, không thuộc nam giới (như
nữ nhân hay lưỡng tính), và tỷ kheo chưa giải quyết xong tội Tăng Tàn
(kể rơ th́ có năm trường hợp, nhưng tựu chung chỉ một câu trên là đủ,
muốn t́m hiểu thêm xin xem từng mục từ).
Avalekhanakattha: Bàn chải dùng trong nhà xí.
Avalekhanapithara: Vật đựng bàn chải chà cầu.
Avahāra: Sự lấy trộm một vật chưa được chủ cho.
Avippavāsasīmā: Khu vực Sīmā đă được kiết giới bằng hai bận tuyên
ngôn, tỳ kheo sống trong đây được phép không giữ đủ tam y (lẽ ra ở nơi
khác th́ không thể rời tam y trước b́nh minh hôm sau).
Avissajjiya: ( = Avebhaṅgiya): Các thứ giáo sản của tăng chúng
tuyệt đối không được tùy tiện xử lư, dù đó là tập thể hay cá nhân, gồm
có nhà đất của tự viện và các thứ gia dụng lớn nhỏ khác như giường gối
chăn đệm, đến cả kềm búa, cuốc xẻng, thau chậu,…
Avebhaṅgiya: = Avissajjiya
Asamādānacāro: Đặc quyền có thể không mang đủ tam y khi rời trú
xứ. Đây là một trong 5 quyền lợi của một tỷ kheo trong thời gian hậu
tăng y, suốt 5 tháng sau ngày Tự Tứ.
Asamānāsanika: Khi hai tỷ kheo chênh lệch nhau từ ba hạ trở lên
th́ không thể ngồi chung một sàng tọa. Việc không thể ngồi chung này
được gọi là Bất đồng tọa. Nhưng đó là trường hợp sàng tọa nhỏ hẹp, nếu
chỗ rộng răi th́ cũng có thể chia nhau mà nằm ngồi. Đây là nói về các tỷ
kheo với nhau mà thôi, hạng khác th́ không được phép.
Asādhāranapaññatti: Các học giới biệt chế, tức các học giới chỉ
cấm chế riêng cho tỷ kheo hay tỷ kheo ni, để phân biệt với những học
giới cấm chế chung cho lưỡng phái tăng.
Assattharana: Tấm trải trên lưng ngựa, tỷ kheo không được sử dụng
vào bất cứ mục đích ǵ.
Āgantukavatta: Nói chung những bổn phận của một vị tăng khách
phài ghi nhớ để hành xử khi đến chỗ khác.
Ācamanakumbhī: Lu nước trong nhà cầu, theo Luật Tạng phải luôn
đầy nước và được che đậy.
Ācamanapādukā: Ghế gỗ trong nhà xí dùng để tiện việc rửa ráy.
Ācamanasarāvaka: Gáo hay ca nước trong nhà cầu, phải luôn giữ khô
ráo bằng cách úp ngược.
Ācārinī: Nữ giáo thọ (của ni giới)
Ācāriya: Giáo thọ sư hay Y chỉ sư nói chung, tức tỷ kheo (phải
trên năm hạ) dạy học cho vị khác nhỏ hơn ḿnh hay cho vị nhỏ nương nhờ
bằng cách thường xuyên khuyên nhắc, dạy dỗ nọ kia.
Ācāravipatti: Tên gọi chung các thứ tội nhỏ, chỉ vừa đủ làm hỏng
tế hạnh của người xuất gia, bao gồm từ Trọng Tội xuống đến Ác Khẩu.
Ācinnakappa: Tạm gọi là phép Ngu Trung, một trong những quan điểm
của nhóm tỷ kheo Vajjī, buộc vị tỷ kheo phải tuyệt đối tuân phục và
truyền thừa trọn vẹn những răn dạy mang tính tư kiến của thầy tổ, không
được nghi ngờ hay chối bỏ. Theo các vị Kiết Tập Sư th́ đây là một h́nh
thức cuồng tín lợi bất cập hại, người tu chỉ nên y cứ kinh điển (theo
Culla-vagga).
Ājīvavipatti: Lối sống tà mạng bằng cách lừa mị thiên hạ.
Ānicolaka: Tấm vải lót dùng trong những ngày có tháng, dành cho
ni chúng. Nam Truyền ĐTK dịch là Hoa Nguyệt Y.
Āpatti: Các thứ tội hay sự vi phạm các học giới nói chung (sẽ
được tŕnh bày răi rác trong tập từ vựng này).
Āpattādhikarana: Xem chữ Adhikarana.
Āpatti-āvikarana: Sự thú tội của tỷ kheo đối với vị khác, báo cho
biết ḿnh đă vi phạm học giới nào đó để sám hối hoặc giải quyết.
Āpattipatikamma: Phép giải tội, có nhiều cách thức khác nhau, tùy
tội nặng nhẹ, hoặc chỉ bằng một câu sám hối hay phải tổ chức tăng sự. Tỷ
kheo phạm cùng tội (sabhāgāpatti) không giúp ǵ nhau được.
Āmaḷakavattikāpātha: Loại ghế nhiều chân nói chung.
Āmisakhāra: Loại thuốc trị bệnh làm từ cơm cháy.
Āyoga: Tọa cụ làm từ nhiều lớp vải xếp chồng nhau. Tỷ kheo vô
bệnh không được dùng loại tọa cụ này. Và tỷ kheo cũng không được dùng
Tăng Già Lê để lót ngồi.
Āraññaka: Tỷ kheo ẩn lâm, người chuyên sống ở rừng. Có lẽ do muốn
giữ lại chút nét cổ phong, các dịch giả của Hán Tạng đôi khi không dịch
chữ Ārañña, mà chỉ phiên âm. Do đó, cụm từ Tỷ Kheo Sống Nơi Lan Nhă là
dịch từ chữ Āraññaka (Sans. Aranyaka) này vậy.
Āraññikavatta: Phận sự của tỷ kheo sống trong rừng.
Ārāma: Gồm hai loại hoa viên (pupphārāma vườn hoa) và thọ viên
(phalā-rāma – vườn trái). Thời Phật tại thế, các tự viện thường được xây
dựng trong những vườn cây (như chùa Trúc Lâm, chùa Kỳ Viên, vườn da-xà
của ḍng Thích Tộc, vườn xoài của lương y Jīvaka, vườn xoài của danh kỹ
Ambapāli,..), như một lối ẩn lâm tại thị. Từ đó cảnh chùa thường được
gọi là Già Lam, chữ phiên âm từ Phạn ngữ Ārāma (khu vườn). Tất cả cây,
trái, hoa, lá,… trong các vườn cây đă được dâng cúng Tam Bảo đều là
những giáo sản của chung tăng chúng mười phương, không ai có thể tùy
tiện sử dụng riêng tư. Tỷ kheo ni khi chưa xin phép trước cũng không
được vào những khu vườn của tăng chúng, nếu tùy tiện sẽ phạm tội Ba Dật
Đề.
Ārāmavatthu: Viên trạch của chùa nói chung.
Ārāmika: Tịnh nhân, từ gọi chung những cư sĩ giúp việc trong một
tự viện (chỉ là trường hợp cá biệt). Đức Phật cho phép chư tăng nuôi họ
trong điều kiện có thể. Ngày xưa, vua Tần Bà Sa La (Bimbisāra) từng gửi
500 người đến phục vụ ngài Pilindavaccha. Nhóm người này đă lập thôn mà
sống và làng họ ở được gọi là Pilindavacchagāma. Khu vườn của ngài
trưởng lăo cũng được gọi là Pilinda-vacchārāma. Cả khu vườn và ngôi làng
mang tên ngài hiện nằm trong khu Bihar-shariff ở quận Nalanda, bang
Bihar, Ấn Độ).
Ārāmikinī: Nữ Tịnh Nhân. Những phụ nữ giúp việc trong chùa.
Ārāmika-pesaka: Vị tỷ kheo giữ trách nhiệm điều động những người
giúp việc chùa.
Ālambanabāha: Lan can lầu hay tay vịn trên cầu.
Āḷinda: Thềm nhà. Thềm trong th́ gọi là Āḷinda, thềm ba hay hiên
ngoài gọi là Osāraka).
Ālokasandhi: Chỉ chung cho cửa sổ hoặc lổ gió, khe thông ánh
sáng.
Āvaraṇa: Nôm na là lối phạt Cấm Cửa, một trong các phép Phạm Đàn
(Brahma-daṇḍa) đối với một tỷ kheo ni hay Sa Di có thái độ bất kính đối
với tỷ kheo tăng. Đương sự bị cấm không cho bước vào trú xá tập thể, nếu
đó là ni, c̣n đối với Sa Di th́ bị cấm không cho về pḥng riêng hay chỗ
ngụ thường ngày. Trường hợp tỷ kheo th́ bị cấm không được dùng cơm chung
với tăng chúng.
Āvasatha: Am thất của ni giới, bắt buộc phải có cửa nẻo nghiêm
cẩn, và khi rời khỏi phải báo cho bạn tu được biết, để pḥng kẻ gian.
Không làm vậy sẽ phạm tội Ba Dật Đề.
Trong vài trường hợp, Āvasatha c̣n đồng nghĩa với Āvasathāgāra, một kiểu
phước xá tương đối tiện nghi ở vài địa phương, dành cho khách phương xa,
người bệnh hay phụ nữ có con mọn. Ngày nay ở Ấn Độ cũng có nhà
Dharma-sālā với tổ chức và mục đích tương tự.
Āvasathacīvara: ( = Ānicolaka) Tấm vải lót được ni giới sử dụng
trong những ngày có kinh nguyệt. Hán dịch là Hoa Nguyệt Y. Trong hoàn
cảnh khó khăn, sau khi sử dụng, đương sự phải giặt sạch để bạn tu c̣n
dùng.
Āvasathapiṇḍa: Chỉ chung cho các thực phẩm miễn phí trong các
phước xá (xem chữ Āvasatha). Tăng ni vô bệnh chỉ được đến đây nhận lănh
thực phẩm mỗi ngày một lần mà thôi, nhiều hơn sẽ bị phạm tội Ba Dật Đề.
Āvāpaka: Đăy, bị, tụng, túi lớn.
Āvāsa: Trú xứ, chỗ ở.
Āvāsakappa: Đồng Trú Biệt Sự, một trong các chủ trương trái luật
của nhóm tỷ kheo Vajjī, cho phép tăng chúng được quyền chia nhiều nhóm
rời rạc nhau làm tăng sự trên cùng một khu đất Sīmā.
Āvāsikavatta: Những bổn phận của tỷ kheo thường trụ tại một trú
xứ.
Āviñchanachidda: Lổ khoét trên cửa để dễ dàng mở, đóng.
Āviñchanarajju: Sợi dây cột vào cửa để dể dàng mở, đóng.
Āvesanavitthaka: Cái hộp để đựng các vật dụng nhỏ gọn như kim
chỉ, dao kéo. Tỷ kheo được phép dùng.
Āsandi: Trường kỷ, một kiểu ghế dài sang trọng, cao hơn tám ngón
tay đức Phật (sugataṅgula). Tỷ kheo sử dụng ghế này phạm Tác Ác, tỷ kheo
ni sử dụng phạm Ba Dật Đề.
Āvāsacchedikā: Thuật ngữ ám chỉ trường hợp vị tỷ kheo sau ngày Tự
Tứ đă rời chỗ vừa an cư với mục đích riêng nào đó, chẳng hạn đi t́m y,
và lúc ra đi đă không chuẩn bị ư tưởng quay về. Sau đó dù có giải quyết
được việc riêng hay không, đương sự coi như đă tự đánh mất các đặc quyền
được hưởng của một tỷ kheo sau mùa tăng y.
Āhaccapādaka (-pītha, mañca): Ghế hay giường xếp, có thể gấp lại
khi cần. V́ mục đích an toàn, vị tỷ kheo không được dùng loại giường ghế
này trong một căn pḥng quá chật (vehāsakuṭi), không đủ rộng để xoay
trở. Nếu dùng, phạm Ba Dật Đề.
Ikkāsa: Nhựa cây, đôi khi được dùng để trát vữa hay sơn ngoài am
thất.
Iṇāyika: Con nợ, người chưa trả xong các món nợ vật chất nói
chung (một trong các hạng người không đưọc thọ đại giới).
Itthālaṅkāra: Nữ trang nói chung. Ni giới không được sử dụng bất
cứ thứ ǵ được người đời gọi là nữ trang.
Ukkāsika: Loại khăn tắm bằng vải được xoắn lại để tiện kỳ cọ cáu
ghét. Tỷ kheo được phép sử dụng.
Ukkuṭikā-gamana: Chỉ chung hai cách đi nhón gót (chỉ bằng các
ngón chân) hay chỉ dùng gót chân. Tăng ni không được đi đứng kiểu này,
tội Tác Ác.
Ukkuṭikānisīdana: Cách ngồi chồm hổm, được đức Phật cho phép
trong tất cả các dịp tăng sự.
Ukkhittaka (bhikkhu): Từ gọi vị tỷ kheo trong thời gian đang bị
xử phạt (bằng tăng sự Ukkhepanīyakamma) do phạm các tội ngoan cố trong
hành xử hay trong tri kiến.
Ukkhepanīyakamma: Nghĩa đen là Bị Bỏ Rơi, một cách xử phạt của
tăng chúng đối với vị tỳ kheo nào có thái độ ngoan cố hay cố chấp cứng
cơi về đời sống giới luật hay về kiến giải giáo lư. Đương sự tạm thời
không được sống trung trú xá với chư tăng, hoặc không được góp mặt trong
các buổi sinh hoạt tập thể của tăng chúng. Nếu vị này hoàn tục sau khi
bị xử phạt, th́ trước khi muốn thọ giới trở lại cũng phải bày tỏ thái độ
hối lỗi về những sai phạm ngày trước của ḿnh. Được vậy, tăng chúng mới
nên chấp nhận.
Uggahitapatiggahita (piṇḍa): Vị tỷ kheo không được tự ḿnh cầm
lấy các món ăn chưa được thí chủ đưa tận tay. Khi lấy phạm tội Tác Ác,
khi ăn phạm tội Ba Dật Đề. Phần thực phẩm tự tiện kia, được gọi bằng
thuật ngữ Uggahita-patiggahitapiṇḍa, nghĩa đen là thức ăn Tự Trao Tự
Nhận.
Uccāsayanamahāsayana: Từ gọi chung tất cả giường ghế cao rộng có
trang hoàng sang trọng hay đắt giá bằng các thứ xa xỉ như vàng bạc hay
da thú, lông thú. Tăng ni (và cả người thọ Bát Giới) không được nằm ngồi
trên những giường ghế này. Trong trường hợp không thể có chọn lựa khác,
tăng ni chỉ được ngồi mà không nằm trên đó. Tội Tác Ác.
Một chiều cao quy định chung cho sàng tọa của tăng ni là không cao hơn
tám ngón tay đức Phật (sugataṅgula). Số đo này tạm thời vẫn chưa được
thống nhất là bao nhiêu.
Ucchurasa: Nước mía, tăng ni được phép dùng.
Ujjhāpanaka: Việc sĩ nhục người khác bằng một cách thức chà đạp
nào đó. Tỷ kheo cố ư làm nhục bạn tu sẽ phạm tội Ba Dật Đề.
Uttarattharaṇa: Khăn trải giường hay bọc ghế.
Uttarapāsaka: Lổ chốt cửa.
Uttarālumpa: Nắp nối, h́nh dáng như cái b́nh không đáy, được dùng
để gắn thêm trên nồi nước nhuộm y (rajanakumbhī), để ngăn nước trào ra.
Uttarasaṅga: Thượng y, y vai trái của tăng ni. Kích thước y này
không thể lớn hơn lá thượng y của Thế Tôn (tính theo bàn tay của Ngài,
là dài chín gang và ngang sáu gang). Xem chữ Sugatavidatthi. Đồng thời,
thượng y (một lớp) và Tăng Già Lê (từ hai lớp trở lên) của tăng ni phải
có kích thước bằng nhau và cả tam y (tính luôn y nội, tức hạ y) phải
cùng một màu nhuộm. Theo luật định, tăng ni đă thọ đại giới không thể
thiếu một trong ba y, và khi vào khu dân cư luôn phải mang theo đầy đủ,
trừ trường hợp ngoại lệ.
Uttarimanussadhamma: Pháp thượng nhân, chỉ chung cho các tầng
thiền định từ Sơ Thiền và thánh trí từ Sơ Quả. Tăng ni khoe mẻ với người
chưa thọ đại giới về các pháp thượng nhân mà ḿnh thực chứng th́ phạm Ba
Dật Đề, nếu chưa thực chứng mà chỉ mạo nhận th́ phạm tội Ba La Di, vĩnh
viễn bị trục xuất khỏi giáo hội.
Udakakoṭṭhaka: Bồn chứa nước nóng, dùng trong lúc chữa bệnh (như
thống phong, tê thấp). Tăng ni được phép sử dụng.
Udakaniddhamana: Ống dẫn hay máng chảy để đưa nước từ nơi này
sang nơi khác.
Udakasāṭikā: Y tắm của tỳ kheo ni. Y tắm của tỷ kheo là
Udakasāṭaka.
Udakukkhepasīmā: Cũng một loại cương giới (sīmā) tự thành, tức
không cần đến các ḥn đá làm mốc cùng hai lần tuyên ngôn xác định. Đây
là khu đất được tăng chúng mặc định là khu vực tiến hành tăng sự sau khi
giả định ranh giới là một ḍng nước nào đó trong khoảng cách vừa đủ để
một người sức lực trung b́nh có thể tạt nước.
Udapāna: Giếng nước.
Udapānasālā: Mái che hay túp lều dựng bên trên miệng giếng để giữ
nước sạch và che mát cho người lấy nước.
Udukkhala: Cối giă gạo. tăng ni được phép sử dụng.
Udukkhalika: Lổ chốt cửa (bên dưới). Lổ chốt cửa bên trên th́ gọi
là Uttara-pāsaka.
Uddesa: Sự trùng tụng, tuyên đọc (như việc tụng Giới Bổn trong
mỗi kỳ Bố Tát).
Uddesabhatta: Bữa ăn được cúng dường cho một số lượng nhất định
các tỷ kheo do tăng chúng chỉ định.
Uddosita: Pḥng chứa đồ, được đức Phật cho phép, đặc biệt ở trú
xứ ni chúng.
Uddhalomī: Thảm len có sợi dài, tăng ni không được phép sử dụng.
Trường hợp bất đắc dĩ có thể ngồi nhưng không được nằm. Tội Tác Ác.
Upajjhā: ( = Upajjhāya): Vị tỷ kheo làm thầy tế độ cho người khác
xuất gia. Theo Luật Tạng, có rất nhiều tiêu chuẩn được đ̣i hỏi ở một vị
thầy tế độ, nhưng điều kiện tiên quyết và tối thiểu là đương sự phải
trên mười năm tu, kể từ ngày thọ đại giới. Ngoài việc chứng minh cho đệ
tử thọ giới, vị thầy tế độ c̣n phải có trách nhiệm trực tiếp giáo dưỡng
hoặc giao phó cho người mà ḿnh tin cậy.
Upajjhāyā: ( = Upajjhāyinī): Vị tỷ kheo ni làm thầy tế độ cho
người khác xuất gia. Tiêu chuẩn tối thiểu để đảm nhiệm vai tṛ này là
phải có trên mười hai năm tu, tính từ ngày thọ đại giới. Tinh thần trách
nhiệm bên ni giới phải rất lớn, ngoài việc huấn luyện đệ tử ít nhất hai
năm đầu, sau đó nếu đệ tử có việc phải rời thầy th́ vị thầy phải cùng đi
với đệ tử một quăng đường tối thiểu là năm hoặc sáu do-tuần (hơn mười
cây số).
Upajjhāyavatta: Gọi chung những trách nhiệm của vi thầy tế độ đối
với đệ tử.
Upaṭṭhānasālā: Trai đường hay hội trường, nơi tăng chúng họp mặt
trong các dịp sinh hoạt chung.
Upasampadā: Đại giới hay Cụ túc giới, tên gọi của giới phẩm tỷ
kheo, tỷ kheo ni. Người muốn thọ giới Cụ túc phải ít nhất hai mươi tuổi
đời và thật sự không vướng mắc một vấn đề nào về xă hội (trốn việc quan
hay bị truy nă, nợ nần), gia đ́nh (không phải trốn lánh cha mẹ) và sức
khỏe bản thân (không phải người tàn tật hay bị trọng bệnh nan y). T́nh
trạng nhân thân đó phải được chính đương sự xác nhận trước tăng chúng
trong lúc thọ giới.
Vị tân thọ cụ túc luôn được giáo hối vắn tắt nội dung tu học suốt đời
ḿnh sau đó, gồm bốn chuẩn bị cho đời sống vật chất (là sẵn sàng mặc y
phấn tảo, ăn đồ khất thực, sống dưới gốc cây và có thể uống cả nước đái
ḅ để trị bệnh) cùng bốn điều phải tuyệt đối tránh xa là dâm dục, trộm
cướp, sát nhân và mạo nhận hiền thánh.
Những điều kiện về t́nh trạng nhân thân của một phụ nữ muốn thọ giới Cụ
Túc kể ra có nhiều khó khăn và phức tạp hơn một nam nhân, từ sức khỏe cá
nhân đến hoàn cảnh gia đ́nh (chẳng hạn vấn đề thai nghén, con mọn). Lư
do đơn giản là t́nh trạng xă hội thời nào cũng thường gắn liền với thân
phận nữ giới một cách chặt chẽ, đôi lúc khốc liệt. Theo luật định, một
trưởng lăo ni (tối thiểu có từ mười hai tuổi đạo) chỉ được phép tế độ đệ
tử xuất gia mỗi hai năm một lần mà thôi. Và một nữ nhân muốn thọ giới Cụ
túc, trước phải trải qua hai năm Học Nữ để thực tập.
Theo Luật Tạng, kể từ buổi sơ thời Phật giáo cho đến lúc luật nghi được
cấm chế hoàn bị, có tất cả tám nghi thức tiến hành lễ thọ giới Cụ Túc,
càng về trước càng càng đơn giản:
– Ehibhikkhūpasampadā: Đương sự lập tức thành tựu Cụ túc giới ngay sau
câu nói ngắn gọn của Đức Phật: Hăy đến đây, tỷ kheo (hay tỷ kheo ni)!
– Saraṇagamanūpasampadā: Phép thọ giới Cụ túc chỉ bằng ba biến quy mạng
Tam Bảo.
– Ovādapatiggahanūpasampadā: Phép thọ Cụ túc chỉ bằng một vài câu giáo
giới.
– Paññābyākaraṇūpasampadā: Thành tựu Cụ túc giới ngay sau lời tuyên bố
thánh trí cùng bạn tu.
Garudhammapatiggahanūpasampadā: Thành tựu Cụ túc giới sau khi thọ tŕ
Bát Kỉnh Pháp (trường hợp các tỷ kheo ni đầu tiên).
– Dūtenūpasampadā: Trở thành tỷ kheo ni sau khi nhận được lời nhắn của
đại diện tăng ni.
– Aṭṭhavācikūpasampadā: Phép thọ Cụ túc giới thông thường của ni chúng,
thông qua tám lần tuyên ngôn, tức hai lần Tứ Tác Bạch.
– Ñatticatutthakammūpasampadā: Phép thọ Cụ túc giới phổ thông của tỷ
kheo, tức bốn bận tuyên ngôn trước tăng chúng.
Upassaya: Ni xá, ni viện, trú xứ của tỷ kheo ni. Tỷ kheo ni không
được phép tự ḿnh xua đuổi bạn tu khi họ đă được ni chúng chấp nhận cho
cộng trú.
Upāsaka: Ưu Bà Tắc, thiện nam, nam cư sĩ trong Phật giáo. Thiện
nam đầu tiên trong Phật giáo quy y Tam Bảo là thân phụ của trưởng lăo
Yasa.
Upāsikā: Ưu Bà Di, tín nữ, nữ cư sĩ trong Phật giáo.
Upāhana: Giày dép làm bằng các loại da thú. Lúc đầu, đức Phật
không cho phép chư tăng dùng loại dép này, nhưng về sau do nhu cầu thật
sự của các tỷ kheo bệnh (đầu tiên là ngài Sona Kolivisa), Thế Tôn đă tùy
duyên cho phép. Giáo sư C.S Upasak đă kể khá đủ các loại giày dép được
nhắc đến trong Luật Tạng, bản dịch tiếng Việt không tiện ghi đủ.
Loại dép tỷ kheo được phép dùng chỉ nên có một lớp đế, nhiều hơn sẽ bị
tội Tác Ác. Nếu là dép cũ, th́ trên hai lớp cũng không sao.
Tỷ kheo không được tùy tiện mang dép những nơi tôn nghiêm, vào ban đêm
th́ vô tội. Tỷ kheo cũng không nên mang dép đi bên cạnh thầy tổ khi các
ngài đi chân trần. Lúc vào khu dân cư cũng không được mang dép, và ở tại
trú xứ th́ phải để dép ở nơi chốn thích hợp. Văn hóa giày dép của Ấn Độ
xưa có nhiều điểm rất hợp với tinh thần Phật giáo.
Tỳ kheo ni vô bệnh không được mang dép.
Upāhanathavikā: Giỏ đựng dép, tỷ kheo được phép sử dụng, đặc biệt
khi ở rừng.
Uposatha: Hán dịch là Trưởng Tịnh. Thật ra đây là một thuật ngữ
đă được dùng rộng răi tại Ấn Độ trước khi đức Phật ra đời, chỉ chung
những ngày trai tịnh kiêng khem của tín đồ các tôn giáo. Sau đó, chữ này
được đức Phật dùng để chỉ các ngày Bát Quan Trai của cư sĩ và hai ngày
Bố Tát của tăng ni vào hôm rằm và bữa cuối tháng.
Ngoài ư nghĩa tịnh hóa giới hạnh bản thân mỗi tăng ni, nghi thức Phát Lộ
hay Bố Tát c̣n là cơ hội để tăng ni xác định, siết chặt sự đoàn kết
thông qua việc họp mặt nhau trên cùng một lễ đàn trong tự viện hay rừng
sâu, sau hai lần tuyên ngôn với một chuẩn bị tối thiểu nhưng vừa có ư
nghĩa tinh thần mà cũng rất thực dụng là một bầu nước sạch cùng một ngọn
đèn được thắp sáng. Lễ đàn này chỉ gồm toàn các tỷ kheo thanh tịnh.
Những vị đang chịu phạt và bất cứ ai chưa thọ giới Cụ Túc cũng không
được tham dự tăng sự này. Ni chúng tuyệt đối không được góp mặt trong lễ
Bố Tát của riêng tăng chúng. Những đối tượng bị đặt ngoài lễ Bố Tát của
tăng ni được gọi chung là Vajjanī-yapuggala (người bị loại trừ).
Uposathagga: ( = Uposathāgāra): Bố Tát Đường, nơi tiến hành lễ
Phát Lộ của tăng ni, có thể là một hang núi, tự viện hay một khu vườn.
Uposathapamukha: Thuật ngữ ám chỉ không gian mở rộng trong trường
hợp Bố Tát Đường quá chật hẹp không chứa hết số lượng tăng chúng quá
đông đảo, tăng chúng được phép ra ngoài ngồi quanh Bố Tát Đường để làm
lễ Phát Lộ.
Uposathikabhatta: Bữa cơm cúng dường của cư sĩ đến tăng ni trong
ngày Bố Tát.
Ubbāhika: Sự ủy nhiệm hay phó sự. Từ gọi trường hợp tăng chúng
đem giao một vấn đề rắc rối cho cá nhân hay một nhóm tỷ kheo đa văn giải
quyết.
Ubhatopaññatti: Những học giới được Thế Tôn cấm chế chung cho cả
tăng ni.
Ubhatobyañjanaka: Người lưỡng tính, một trong những hạng người
không được thọ giới Cụ Túc.
Ubhatolohitakūpadhāna: Kiểu giường sang trọng với cả khăn trải và
gối kê đều tuyền một màu đỏ, được xem là vật dụng không nên dùng đối với
tăng ni và người thọ giới Bát Quan.
Ummattakasammuti: Lời xác định của tăng chúng về t́nh trạng mất
trí của một tỷ kheo nào đó, thông qua hai lần tuyên ngôn. Sau đó, trong
các tăng sự được quyền không kể đến sự hiện diện của đương sự nữa.
Uḷūkapakkha: Lông cánh chim cú, vẫn được người Ấn xưa dùng làm y
phục, nhưng tăng ni không được phép sử dụng.
Ussāvanatikākappiyabhū-mikuṭi: Một trong bốn loại nhà kho được
phép sử dụng để cất giữ vật dụng của chư tăng.
Ekatopaññatti: Những học giới Biệt Chế, chỉ được ban hành cho
riêng tăng hay ni chúng.
Ekantalomī: Nói chung các loại thảm hay khăn trải có lông ở cả
hai mặt, tăng ni không được phép sử dụng.
Eḷakapādaka-pīṭha: Ghế đẩu, tỷ kheo được phép dùng.
Okāsa: Lời thỏa thuận; Lời đề nghị; cơ hội.
Okkhittacakkhu: Sự ngó xuống. Tăng ni lúc vào chỗ dân cư không
nên ngó dáo dác, hay dơi mắt nh́n quá khoảng cách ” một lưỡi cày”.
Ottharaka: Bộ phận lược nước cỡ lớn, dùng ở các hồ ao.
Onaddhapītha: Ghế có nệm, tỷ kheo được dùng loại đơn giản nhất.
Onaddhamañca: Giường nệm, tăng ni được phép dùng loại đơn giản
nhất.
Omasavāda: Lời hạ nhục với nội dung bêu riếu hay kẻ vạch, châm
biếm. Tỷ kheo hạ nhục bạn tu sẽ bị phạm Ba Dật Đề.
Ovaṭṭika: Ṿng xuyến đeo tay; Sự khâu, vá , mạng.
Ovāda: Sự giáo hối, lời giáo huấn.
Ovādaṭhapana: Sự bỏ mặc. Một h́nh thức xử phạt tỷ kheo ni bất
kính tỷ kheo. Sau khi bị cấm vào tăng viện, nếu đương sự tiếp tục không
biết lỗi th́ tiếp theo phải bị xử phạt bằng cách không vị nào khuyên
nhắc, dạy dỗ đương sự nữa.
Osāraka: Hiên ngoài, hay hành lang của am thất.
Osāraṇā: Sự tiếp nhận hay mời gọi, thuật ngữ ám chỉ việc tăng
chúng chứng minh cho một người thọ giới Cụ túc. Từ này cũng chỉ việc chư
tăng xá tội cho một tỷ kheo đă hết hạn bị phạt (bằng các h́nh thức
Tajjanīya, Pabbājanīya, Niyassa, Ukkhepanīya – xem thêm ở các mục từ
này).
Kañcuka: Áo khoát ngoài, áo choàng dài (tiếng Anh trong nguyên
tác là Jacket or long mantle). Tăng ni không được phép dùng (Mv. trang
321, Cv trang 388).
Katacchuparissāvana: Dụng cụ lọc nước.
Kaṭākaṭa: Cháo đậu xanh.
Kaṭissa: Khăn trải giường bằng lụa có thêu thùa và kim tuyến.
Tăng ni không được sử dụng.
Kaṭisuttaka: Dây thắt lưng dùng như một thứ trang sức, tỷ kheo
kheo không được sử dụng. Thuật ngữ này cũng được dùng để gọi sợi dây đeo
băng vải dùng trong ngày kinh nguyệt, tỷ kheo ni được phép dùng. Sau
những ngày đó, nếu dùng sẽ phạm tội Tác Ác.
Kaṭhina: Nghĩa đen là khung gỗ để căng vải may y. Tỷ kheo được
phép sử dụng (Cullavagga trang 205).
Ở một nghĩa chuyên biệt khác, đây là tên gọi một tăng sự được tổ chức
sau ngày Tự Tứ, lúc các tỷ kheo vừa trải qua ba tháng an cư kiết hạ.
Tăng chúng sẽ chọn ra một nhân tuyển thích hợp để đại diện chư tăng thọ
y. Đó có thể là vị tỷ kheo đang cần y mới để thay đổi y cũ đă rách nát,
hoặc một vị trưởng lăo nào đó. Nghi thức chỉ định nhân tuyển là hai lần
tuyên ngôn. Nếu thí chủ chỉ dâng vải suông, chưa may thành y, th́ vị tỷ
kheo nhận y (thường với sự giúp đỡ của huynh đệ) sẽ phải tự tay may lấy
một trong ba y, đặc biệt y nào được xem là cấp thiết nhất lúc đó, để
dùng ngay trong tăng sự thọ y.
Tỷ kheo thọ y ngoài việc được nhận y mới, c̣n được những đặc quyền khác
(kaṭhiṇānisamsa),như trong 5 tháng sau đó có thể đi khỏi trú xứ không
cần thông báo cho bạn tu, được phép không mang đủ tam y cách đêm nếu
thấy bất tiện,… Xin xem ở các mục từ Anāmantacāro, Asamā-dānacāro,
Gaṇabhojana, Adhiṭṭhāna, Vikappana.
Tam y hoặc vải may y được dâng cho tăng sự Kaṭhina có thể là của cư sĩ
hoặc một cá nhân tăng ni nào đó cúng dường, đôi lúc đó chỉ là một miếng
vải lượm từ chỗ bất tịnh và đă được giặt sạch, nhưng quan trọng là không
thể nằm trong các trường hợp sau: Y hay vải do ḿnh gợi ư cho thí chủ
(animittakena), do ḿnh trực tiếp đề nghị (aparikathākatena), y hay vải
tạm mượn để sau tăng sự phải trả lại (akukku-katena), vải chưa được
chuẩn bị đúng mức như giặt hay nhuộm màu để không thể sẳn sàng sử dụng
sau tăng sự trong ṿng một ngày, nghĩa là phải trải qua thời gian Cất
Giữ (asanni-dhikatena), y hay vải có được từ một tỷ kheo phạm Xả Ba Dật
Đề (nissaggiya-cīvara). Tóm lại, y hay vải dùng trong tăng sự Kaṭhina
phải được chuẩn bị đàng hoàng (kappakata) để có thể sử dụng chậm lắm
cũng một ngày sau đó.
Có một số trường hợp tỷ kheo không thể là nhân tuyển thích hợp cho việc
thọ y Kaṭhina, như đương sự không biết ǵ về những việc phaûi làm trước
khi thọ y (pubbakaraṇa), không biết làm ǵ với y cũ (pac-cuddhāra),
không biết cách chú nguyện y mới (adhiṭṭhāna), không biết thế nào là làm
hỏng quả báo tăng y Kaṭhina (uddhāra), không biết những ràng buộc về y
và trú xứ liên quan đến Kaṭhina (palibodha), không biết ǵ về năm đặc
quyền của một vị thọ y Kathina (kaṭhi-nānisaṃsa).
Một tăng sự Kaṭhina có thể không thành tựu v́ một trong các lư do sau:
– Vatthuvipanna: y hay vải trong lễ thọ y không hợp luật nghi (kappiya).
– Kālavipanna: Y hay vải Kaṭhina không được dâng kịp thời, một ngày sau
đó cũng bị xem là quá trễ.
– Karanavipanna: Vải dâng Kaṭhina chưa kịp may thành một y nào trong ba
y để có thể làm tăng sự Kaṭhina.
Vị tỷ kheo thọ y có thể bị mất năm đặc quyền hậu tăng y trong một số
trường hợp, xin xem chữ Kaṭhina-uddhāra.
Kaṭhina-attharana: Thuật ngữ chỉ chung việc tỷ kheo may và thọ y
Kaṭhina. Nghĩa đen là Trải Vải (hay y) Lên Khung May.
Kaṭhina-uddhāra: Nghĩa nôm na là trường hợp ư nghĩa hay quả báo
tăng y bị hỏng, do các nguyên nhân sau:
– Pakkamantikā: Tỷ kheo rời chỗ vừa an cư để t́m thêm y và không có ư
quay về nữa.
– Niṭṭhānantikā: Tỷ kheo lúc ra đi t́m y có ư quay về, nhưng sau đó
không về được.
– Sanniṭṭhānantika: Tỷ kheo lúc đi t́m y không có ư về lại, và sau đó
cũng không quay lui.
– Nāsanantikā: Ngay sau lễ Kaṭhina, tỷ kheo cố ư đi t́m một lá y ngoài y
Kaṭhina và không quay về trú xứ nữa, ư nghĩa tăng y của lá y vừa thọ
cũng tự mất.
– Sāvanantikā: Tỷ kheo rời trú xứ để t́m y ngoài y Kaṭhina với ư sẽ quay
lại, nhưng sau đó chưa về đến nơi th́ tăng chúng đă tuyên bố đương sự
không c̣n được hưởng các đặc quyền Kaṭhina nữa.
– Āsāvacchedikā: Tỷ kheo rời trú xứ để t́m y, nhưng không t́m được.
– Sīmātikkantikā: Chỉ cần rời khỏi chỗ nhập hạ quá một ngày sau lễ
Kaṭhina, tỷ kheo đă làm hỏng ư nghĩa tăng y.
– Sahubbhāra: Tỷ kheo có đi và có về trong một ngày, nhưng tự ư nhường
lại cho vị khác được hưởng quả báo tăng y.
Cũng có trường hợp tăng chúng xét lại rồi thay đổi nhân tuyển được hưởng
quả báo tăng y bằng hai bận tuyên ngôn, thuật ngữ gọi trường hợp này là
Antarā-ubbhāra (thay ngựa giữa ḍng).
Kaṭhina-ubbhāra: = Kaṭhina-uddhāra.
Kaṭhinadussa: Vải được chuẩn bị để may y Kaṭhina. Xem chữ
Kaṭhina.
Kaṭhinapalibodha: Những ràng buộc của tỷ kheo thọ y Kaṭhina, gồm
hai việc: Có đi đâu cũng phải quay về nơi ḿnh vừa thọ y hôm trước và
phải may xong một trong ba y ngay trong ngày nhận vải Kaṭhina.
Kaṭhinamaṇḍapa: = Kaṭhi-nasālā.
Kaṭhinarajju: Sợi dây ràng trên khung vải may y Kaṭhina.
Kaṭhinasālā: Căn pḥng được chọn làm nơi may y Kaṭhina, nhưng
không thể là nơi cử hành tăng sự thọ y.
Kaṇṭhasuttaka: Một loại dây chuyền đeo cổ.
Kaṇḍaracchinna: Người đă bị cắt nhượng chân, gân chân bị cắt.
Không được thọ đại giới.
Kaṇḍupaticchādi: Y rịt ghẻ, tấm vải dùng quấn bó những chỗ lở lói
hay trầy sướt do các bệnh ngoài da. Là một trong chín loại y tỷ kheo
được phép dùng.
Kaṇḍūsaka: Dấu mực tạm thời trên mảnh vải đang may y, đức Phật
dạy nên làm vậy để khi may xong tấm y vẫn được giữ sạch. Các thợ may
thời nay vẫn dùng một loại phấn màu (sờ như sáp) để đánh dấu vải may,
vết mực này sau đó có thể tự mất sau một lần giặt.
Kaṇṇacchinna: Người đă bị cắt mất vành tai, không được thọ đại
giới.
Kaṇṇanāsacchinna: Người bị xẻo mất cả tai và mũi, không được thọ
đại giới.
Kaṇṇamalaharaṇī: Đồ ráy tai nói chung. Tăng ni được phép dùng
nhưng cấm sử dụng các vật liệu quư như vàng bạc.
Kaṇṇasuttaka: Những sợi dây căng y sau khi nhuộm, bằng cách cột
vào bốn góc của lá y.
Kataka: Bàn chải chà chân có h́nh dáng cầu kỳ (chẳng hạn h́nh hạt
sen úp). Tỷ kheo không được phép dùng.
Kadalīmigapavarapaccat-tharana: Một loại khăn trải giường làm
bằng da nai, thường được may cặp với vải trắng. Tỷ kheo không được dùng.
Kapisīsaka: Lổ chốt cửa.
Kappiyakāraka: Những cư sĩ chuyên lo việc chuẩn hóa các món vật
dụng hay thực phẩm để chư tỷ kheo có thể dùng (chẳng hạn lấy ra các hột
từ trái cây hoặc dùng dao tạo một vết cắt tượng trưng).
Kappiyabhūmi: Nhà kho hay pḥng chứa dành cất giữ các món thực
phẩm hay thuốc men được dâng chung tăng chúng. Trong nguyên tác Anh ngữ
có kể rơ các loại nhà kho ở tự viện. Nhưng kể gọn th́ gồm hai loại nhà
kho chuyên dụng và nhà kho do tăng chúng tạm thời chỉ định.
Kabalikā: Một loại thuốc dán làm từ bột, dùng dán lên các vết
thương.
Kambala: Hán dịch là Mao Chức Y, chỉ chung các loại chăn mền bằng
len. Tỷ kheo được phép dùng.
Kamma: Tên gọi chung các tăng sự.
Karakaṭaka: Bộ phận quay hay kéo gàu được gắn trên các giếng
nước. Tỷ kheo được phép dùng.
Kalābuka: Loại thắt lưng có nhiều cọng, tỷ kheo bị cấm dùng.
Kalimbaka: = Kalimbhaka: Bất cứ vật ǵ được dùng để làm dấu trên
mảnh vải đang may, đôi khi là một cọng lá dừa.
Kavāṭa: Cánh cửa.
Kasāvodaka: Chỉ chung các loại thuốc nước dùng rữa vết thương.
Kasāvabhesajja: Thuốc giúp se mặt vết thương, thường làm từ cây
cỏ.
Kasāhata: Người bị h́nh phạt đánh đ̣n (person has been flogged),
không được thọ đại giới.
Kākuḍḍepaka: Khu Ô Sa Di, cậu bé xuất gia ở lứa tuổi đủ khôn có
thể xua đuổi được một bầy quạ.
Kāṇa: Người bị chột mắt, không thể thọ đại giới.
Kāyūra: = Keyūra: Loại ṿng trang sức được đeo bên trên cùi chỏ.
Kāyabandhana: Dây thắt lưng của tỷ kheo, để giữ chặt y nội. Theo
luật định, thắt lưng này chỉ được đơn giản là một sợi dây buộc, nh́n như
đuôi con heo (sūkarantaka), không được cầu kỳ hay màu mè.
Kārabhedaka(cora): Tội nhân vượt ngục, không được thọ đại giới.
Kālacīvara: Y hay vải may y nhận được trong mùa tăng y Kaṭhina,
suốt một tháng sau ngày Tự Tứ.
Kāsāya: = Kāsāva: Nghĩa đen là tấm vải màu dà, một màu phổ biến
được các du sĩ khất thực ở Ấn Độ xưa sử dụng. Về sau đức Phật đă dùng
chữ này để gọi chung y áo của tăng ni đệ tử Ngài. Đây là chữ gốc để
phiên âm ra chữ Ca-sa.
Kiccādhikaraṇa: Xem chữ Adhikaraṇa.
Kiṇṇa: Dầu để bôi trơn kim may và cũng để chống sét gỉ.
Kiriyatosamuṭṭhitā-āpatti: Tội Tức Phạm. Chỉ các tội bị xem là
phạm lập tức ngay lúc hành động hoàn tất, không thông qua một giai đoạn
nào khác. Như tội Ba La Di.
Kiriyākiriyatosamuṭṭhitā-āpatti: Từ chỉ chung các tội trong Luật
tạng.
Kukkusa: Cám gạo đỏ. Ni chúng được dùng trong lúc tắm rữa.
Kuṭī: Ni am, tăng liêu, tịnh thất nói chung. Tăng ni muốn làm trú
xứ phải thỉnh ư tập thể, không được tùy tiện.
Kuṭhārī: Búa, ŕu nói chung.
Kuṇī: Người bị dị tật ở chân tay (Theo Samantapās. trang 1085:
Kuṇīti hattha-kuṇī và pādakuṇī và aṅgu-likuṇī và. Yassa etesu
hat-thādīsu yaṃ kiñci vaṅkaṃ paññāyati so kuṇī nāma), không được thọ đại
giới. Nếu đă dĩ lỡ th́ giới phẩm vẫn thành tựu nhưng thầy tế độ và
yết-ma sư phạm tội Tác Ác.
Kuttaka: Thảm hay khăn trải cỡ lớn được làm bằng len. Tăng ni
không được dùng. Chữ này cũng có nghĩa là kẻ dối trá, giả hiệu, đội lốt.
Kudāla: = Kuddāla: Cây cuốc (nông cụ).
Kumbhakārikakuṭikā: Kiểu nhà đúc bằng đất nung liền khối (trước
hết được đắp bằng đất thó rồi sau đó chất củi nung chín theo cách làm đồ
gốm). Tăng ni không được sử dụng am thất loại này. Tội Tác Ác.
Kuruvindakasuttī: Loại bột tắm làm từ đá xay nát và được đánh sợi
để dùng kỳ cọ lúc tắm. Tăng ni không được dùng.
Kulaṇkapādaka: Cột chống tường, tăng ni được phép dùng.
Kuladūsaka: Từ gọi những tăng ni có hành vi khiến cư sĩ mất niềm
tin.
Kuladūsana: Chỉ chung những việc tà mạng để kiếm sống, bằng các
h́nh thức không hợp luật, khiến cư sĩ mất niềm tin nơi Tam Bảo. Nếu được
tăng ni khuyên can qua ba lần vẫn không sửa đổi, đương sự phạm tội Tăng
Tàn.
Kuḷīrapādakapītha, mañca: Ghế hay giường bằng gỗ có chạm trổ bên
dưới. tỷ kheo được phép sử dụng.
Kulūpaka: Từ gọi vị tỷ kheo thân thiết của một gia đ́nh nào đó, ở
möùc độ hợp luật.
Kulūpikā: Tỷ kheo ni được sự ái kính đặc biệt của gia đ́nh cư sĩ
nào đó.
Kusacīra: Y áo làm bằng cỏ Kusa, ngoại đạo vẫn dùng, nhưng tỷ
kheo không được phép.
Kusapāta: Việc rút thăm để xem tỷ kheo nào sẽ được nhận món cúng
dường, trong trường hợp người đông vật ít hay giá trị các món chênh lệch
nhau.
Kusi: Đường biên ngoài cùng trên lá y.
Kesakambala: Chăn mền làm bằng tóc người, tỷ kheo không được sử
dụng.
Koccha: Ghế ngồi làm bằng cọng thảo mộc, h́nh dáng như cái trống.
Tỷ kheo được dùng. Chữ này cũng chỉ chung cho loại lược hay bàn chải làm
bằng cỏ sắc. Tỷ kheo không được dùng.
Kojava: Tấm trải hay thảm có lông dài, tỷ kheo được phép dùng.
Koṭṭhaka: Cánh cổng có mái ṿm bên trên, chùa Kỳ Viên của ông Cấp
Cô Độc xưa đă xây cổng này.
Chữ này cũng để gọi kho chứa đồ trong chùa.
Koseyya: Thảm hay tấm trải bằng lụa có thêu chỉ vàng. Tăng ni
không được sử dụng. Chữ này c̣n nghĩa thứ hai là vải lụa (silken cloth),
tăng ni được phép dùng.
Koseyyapavara: Một loại áo khoát bằng lụa, tỷ kheo được phép
dùng.
Khajja: = Khādanīya.
Khajjabhājaka: Vị tỷ kheo có trách nhiệm phân phối thức ăn trong
tăng chúng, phải được đề cử bằng hai bận tuyên ngôn.
Khañja: Người què chân, không được phép thọ đại giới. Nhưng nếu
đă dĩ lỡ, th́ giới phẩm của đương sự vẫn thành tựu, có điều thầy tổ phải
bị Tác Ác.
Khandharajana: Thuốc nhuộm y làm từ vỏ cây.
Khamāpanā: Lời sám hối, sự xin lỗi.
Khambhataka: Thế đứng hay ngồi chống nạnh. Tăng ni không được như
vậy khi vào khu dân cư. Tội Tác Ác.
Khādanīya: Chỉ chung mười hai loại thực phẩm sau: Mūlakhādanīya
(làm từ gốc cây), Kandakhāda-nīya (từ củ thảo mộc), Mulālakhādanīya (từ
rễ thảo mộc), Matthakakhādanīya (từ đọt non), Khandhakhādanīya (từ thân
thảo mộc, như mía), tacakhādanīya (từ cọng, nhành thảo mộc),
Pattakhādanīya (từ lá cây), Pupphakhādanīya (từ bông hoa),
Phalakhādanīya (từ trái), Atthikhādanīya (từ hột), Piṭṭhakhādanīya (từ
bột thực vật), Niyyāsa-khādanīya (từ nhựa cây). Xem thêm chữ Bhojana hay
Bhojanīya.
Khiyyanaka: Lối nói sĩ nhục hay mỉa mai một cách bóng gió. Tăng
ni mỉa mai bóng gió bạn tu th́ phạm tội Ba Dật Đề.
Khujja: Người gù, người bị tật kḥm lưng. Hạng này không được thọ
đại giới, nhưng trong trường hợp dĩ lỡ th́ giới phẩm vẫn thành tựu, chỉ
riêng thầy tổ th́ phạm Tác Ác.
Khurasilā: Đá mài dao, tỷ kheo được phép dùng.
Khurasipāṭikā: Hộp hay túi đựng dao cạo, tỷ kheo đưọc dùng.
Kheḷamallaka: Cái ống nhổ, tỷ kheo được phép dùng.
Khoma: Loại vải làm từ vỏ cây, như vải gai chẳng hạn. Tỷ kheo
dùng được.
Gaṇa: Thuật ngữ chỉ số lượng tỷ kheo dưới bốn vị, trừ trường hợp
trong lễ Tự Tứ (v́ nếu trừ ra vị tuyên ngôn số c̣n lại cũng chỉ có 3).
Chữ này có lúc mang nghĩa Hội Đồng, Cộng Đồng, Đại Chúng, Xă Hội. Giáo
hội ni bộ thỉnh thoảng cũng được gọi bằng chữ này.
Gaṇa-uposatha: Lễ Bố Tát chỉ có hai hoặc ba tỷ kheo.
Gaṇa-pavāraṇā: Lễ Tự Tứ có bốn vị trở xuống, năm vi trở lên phải
dùng chữ Sangha thay thế Gaṇa.
Gaṇabhojana: Bữa cơm cúng dường có được từ sự gợi ư hay kêu gọi
của tỷ kheo nào đó cho một nhóm kể luôn ḿnh. Kiểu trai đàn này không
đúng luật. Đức Phật chỉ cho phép trong một số trường hợp như lúc bệnh
(gilāna-samaya), mùa dâng y (cīvaradāna-samaya), lúc may y
(cīvarakāra-samaya), trên những chuyến du hành xa
(addhā-nagamana-samaya), lúc đi đường thủy (nāvābhirulha-samaya), lúc
tăng chúng có việc tụ hội đông đảo và gặp khó khăn về thực phẩm
(mahā-samaya), lúc được các tu sĩ ngoại giáo mời thỉnh
(samaṇabhatta-samaya).
Ganthika: = Ganthī: Nút gài nằm ở góc y vai trái hay Tăng Già Lê,
để giữ y không sút tuột. Có thể nh́n thấy loại nút này trên y áo được
may từ các xứ Thái Lan và Miến Điện.
Ganthiphalaka: Chỗ cài nút trên y, xem chữ trên.
Gandhabbahatthaka: Loại bàn chải có h́nh dáng bàn tay, dùng trong
lúc tắm rữa. Tỷ kheo không được phép dùng.
Gamikavatta: Những bổn phận của một tỷ kheo sắp rời trú xứ để đi
xa. Đại để gồm các việc an bày ổn thỏa những vật dụng vào chỗ an toàn,
để ư những chỗ cần sửa chữa trong trú xá, báo tin cho huynh đệ biết ḿnh
sắp rời khỏi,..
Garukāpatti: Chỉ cho hai tội Ba La Di và Tăng Tàn, hai loại tội
nghiêm trọng nhất của tỷ kheo.
Galagaṇḍī: Người bị buớu cổ, không được thọ đại giới. Nếu đă dĩ
lỡ, giới phẩm vẫn thành tựu, nhưng người tế độ bị tội Tác Ác.
Gahapatikappiyabhūmi-kuṭi: Một trong bốn loại nhà kho được Phật
cho phép để cất giữ vật dụng của chư tăng.
Gāmantarakappa: Thặng Lộc, một trong các quan điểm giới luật do
nhóm tỷ kheo Vajjī chủ trương, cho phép tỷ kheo sau khi dùng bữa xong có
thể nhận thêm thực phẩm mới nếu được dâng cúng ở chỗ khác, ngoài địa
điểm (làng, phố) vừa thọ thực xong.
Gāmasīmā: Loại Sīmā lấy làng hay phố làm ranh giới tạm thời, có
thể dùng cho các loại tăng sự như Bố Tát, không cần đá làm mốc hay hai
bận tuyên ngôn, nên được xếp vào Abaddhasīmā (chỉ chung những sīmā không
cần đủ nghi thức).
Giraggasamajjā: Một loại lễ hội dă ngoại, có ăn uống ca múa tập
thể, thường được tổ chức ngoài trời, đặc biệt tận dụng địa thế núi đồi.
Tăng ni không được tham dự, Tỷ kheo tội Tác Ác, tỷ kheo ni tội Ba Dật
Đề.
Gilānupatthaka: Tỷ kheo nuôi bệnh bạn tu. Đức Phật từng tán thán
những tấm ḷng như vậy: Yo bhikkhave gilānaṃ upaṭ-ṭhaheyya so maṃ
upaṭṭhaheyya (này các tỷ kheo, vị nào chăm sóc bạn tu bị bệnh cũng là
đang chăm sóc ta vậy)- Mahāvagga trang 317.
Gihinivattha: Các loại thế phục thuộc hạ y nói chung (như quần,
váy, xà-rông), tỷ kheo không được sử dụng.
Gihipāruta: Các loại thế phục thuộc thượng y nói chung, như các
thứ áo choàng khoát phổ biến trong xă hội. Tỷ kheo không được dùng.
Gīveyyaka: Trong lá y vai trái của tỳ kheo có một chỗ khi đắp y
luôn nằm sau cổ, từ này dùng gọi điểm ấy.
Guṇaka: Chỗ vải được may dậm nhiều lớp chồng nhau cho cứng, chẳng
hạn trên dây thắt lưng của tỷ kheo.
Guḷa: Loại bọt sệt nổi lên trên mặt nồi nấu đường mía, tỷ kheo
dùng được. Nếu pha loăng với nước có thể uống buổi chiều.
Guḷodaka: Loại nước uống pha bằng bọt đường mía.
Guhā: Hang động nói chung, một trong các loại trú xứ hợp luật của
tỷ kheo.
Gūḷhakasalākaggāho: Phép bỏ thăm kín, trong trường hợp một hội
chúng có ác tăng nhiều hơn chơn tăng. (Alajjisaññāya parisā-ya gūlhako
salākaggāho kātabbo Samantapās. Trang 1278, Cul. Trang 184).
Gerukaparikamma: Việc sơn đỏ vách nhà bằng vôi đỏ, hợp luật.
Goghaṃsikā: Thanh tre hay gỗ dùng làm trục lăn lúc may y.
Gonaka: Thảm lông dài, tỷ kheo có thể ngồi nhưng không thể nằm
lên.
Gonisīdaka-kappiyabhūmi-kuti: Một trong bốn loại nhà kho hợp luật
trong tự viện, không có rào che quanh.
Gorasa: Chỉ chung các sản phẩm chế biến từ sữa, như bơ hay sữa
đông, sữa chua …
Golomika: Cách để râu mọc rậm dưới cằm, vẫn gọi là râu cḥm. Tỷ
kheo dĩ nhiên không được phép.
Ghaṭika: Bầu hay b́nh nhỏ.
Ghaṭikā: Chốt gài hay then cửa bằng gỗ, tỷ kheo được phép dùng.
Ghaṭikaṭāha: Tô chén bằng đất nung thường được dùng để ăn cơm hay
uống nước, tỷ kheo không được dùng thay b́nh bát.
Gharadinnakābādha: Chứng bệnh sinh ra từ việc uống nhầm thuốc
kích dục, bộ Sớ Giải Samantapāsādikā giải thích là
Vasīkaraṇapānakasamuṭṭhitaroga, bệnh sinh từ thức uống tăng lực của đàn
ông. Trong trường hợp này, Luật Tạng (Mv.p.225) dạy tỷ kheo nên uống
nước bùn giữa các luống cày để kềm chế sự phát tác. Xem chữ Sitāloḷi.
Cakkabheda: Một chữ thỉnh thoảng được dùng chung với từ
Saṅghabheda để chỉ việc ly gián hay lũng đoạn tăng chúng, nghĩa đen là
làm găy vỡ Pháp Luân hay bánh xe Chánh Pháp.
Cakkavaṭṭaka: Đồ quay giếng, được lắp đặt trên miệng giếng để thả
gàu lấy nước.
Caṅkama: Lối đi hay nền đất dùng cho việc thiền hành, kinh hành.
Ngoài ư nghĩa tu tập,Thế Tôn c̣n đặc biệt lưu ư đến công phu kinh hành
đối với các tỷ kheo bệnh hoạn cần vận động cơ thể (Cullavag. 208-209).
Cũng theo Cullavagga, lối kinh hành nên có một đường biên hay gờ nổi để
thêm an toàn (Pāli gọi là Caṅkama-vedikā). Lối kinh hành cũng nên có mái
che bên trên để thích nghi trong mọi lúc nắng mưa, đêm ngày (Pāli gọi là
Caṅkamasālā). Ta có thể tạm thời h́nh dung mô h́nh này qua các hành lang
có mái ở Tô Châu, Hàng Châu (Trung Quốc).
Caṅkamavedikā: Xem chữ Caṅkama.
Cankamasālā: Xem chữ Cankama.
Catukaṇṇaka: Bất cứ loại trang phục nào sau khi mặc vào tươm tất
lại để lộ các chéo góc (chẳng hạn các vạt áo, chéo quần), đều không hợp
luật.
Catumahāpadesa: Xưa nay vẫn được gọi là bốn pháp Dung Ḥa, chữ
dịch sát nên là Đại Cứ Pháp, tức những điểm y cứ mà tỷ kheo cần đối
chiếu để hành xử trong những t́nh huống không được nhắc đến trong Luật
Tạng:
– Những điều chưa bị luật cấm nhưng xét ra không thuận ứng tinh thần
Phật Pháp, tỷ kheo không nên làm.
– Những điều chưa bị ngăn cấm và cũng không chống trái tinh thần Phật
Pháp, tỷ kheo được phép tùy duyên linh động.
– Những điều chưa được cho phép và xét ra cũng không thuận ứng tinh thần
Phật Pháp, tỷ kheo nên tránh.
– Những điều chưa được cho phép, nhưng không chống trái tinh thần Phật
Pháp, tỷ kheo có thể tùy duyên linh động. (Mv.263-4).
Caturassaka: Lối để râu hai cḥm, trông vào như có bốn cạnh
vuông.
Candanikā: Hồ nước để tắm rữa, tỷ kheo có thể xây bờ đá và làm
thềm chung quanh.
Cammakhaṇḍa: Gàu nước làm bằng da, tỷ kheo được dùng. Chữ này
cũng để gọi một loại thảm bằng da mănh thú, tỷ kheo không được dùng.
Thảm da dê hay da huơu nai th́ tỷ kheo sống ở Nam Ấn (Majjhimā-desa)
được dùng. Địa danh này phải chăng cũng chỉ chung cho những địa phương
có nền kinh tế phát triển?
Cāmarivījanī: Loại quạt làm bằng lông đuôi của ḅ Yak (một loại
ḅ trong vùng Hi Mă Lạp Sơn, nay có thể gặp ở Tây Tạng). Tỷ kheo không
được dùng loại quạt này.
Cārikā: Các cuộc du hành hay bộ hành của tăng ni, kể cả Đức Phật,
vào chín tháng ngoài mùa an cư trú mưa.
Cittaka: Thảm len có thêu thùa và trang trí hoa văn. Tăng ni
không dùng được.
Cimilikā: = Cilimikā: Một loại thảm hoặc chiếu dùng trải trên sàn
nhà, đôi khi chỉ kết bằng những giẻ rách. Tăng ni dùng được.
Cīvara: Từ gọi chung chín loại y trang của tăng ni Phật giáo theo
Luật Tạng Pāli, có thể được làm từ các loại vải như bông (khoma), đay
(sāna), lụa (bhaṅga) do thí chủ dâng cúng hoặc được tỷ kheo tận dụng từ
những mảnh vải bị quăng bỏ. Chín loại y trang đó là: Tăng Già Lê
(saṅghāṭi) có thể có đến 4 lớp, thượng y hay y vai trái (uttarasanga)
cùng với hạ y hay y nội (anta-ravāsaka) đều có thể may hai lớp, y tắm
mưa (vassika-sāṭika), y rịt ghẻ (kaṇḍupaticchādi), tọa cụ (nisīdana),
khăn trải giường hay bọc ghế (paccattharana), khăn lau gồm khăn tay và
khăn tắm nói chung (mukhapuñchana), khăn lọc nước (parikkhāracoḷaka).
Y của tăng ni không được lớn hơn y đức Phật (vốn bề ngang sáu gang tay
của Ngài và dài chín gang). Trong Khuddakasikkhā cũng có quy định về
kích thước tối thiểu của Tăng-già-lê và y vai trái mà tăng ni được phép
sử dụng. Xin xem chữ Saṅghāṭi.
Về h́nh thức giống miếng ruộng của lá y, kinh ghi duyên sự bắt đầu từ
một lần nh́n thấy miếng ruộng ở Dakkhiṇagiri (thuộc xứ Magadha), đức
Phật đă gợi ư cho ngài Ānanda theo đó may một lá y làm mẫu cho chư tăng
về sau. Số điều (tức ô vuông hay chữ nhật nằm dọc theo chiều dài lá y)
tối thiểu là năm và tối đa có thể lên đến chín, tùy điều kiện.
Trong Luật Tạng có đủ thuật ngữ gọi tên từng vị trí khác nhau trên lá y
của tăng ni như sau: Đường biên ngoài cùng bao quanh lá y gọi là Kusi,
cặp điều giữa y là Vivaṭṭa, hai cặp điều hai bên là Anuvivaṭṭa, hai cặp
điều ngoài cùng là Bāhanta. Ở mỗi cặp điều có 2 ô nhỏ: Ô chữ nhật là
Maṇḍala, ô vuông là Aḍḍhamaṇḍala. Những đường đê ngang của lá y gọi là
Aḍḍhakusi. Gaṇṭhi và Pāsaka là nút gài và lổ gài nút nằm ở bốn góc y.
Riêng phần đường biên Kusi nằm ngay trên ô vuông giữa y có tên gọi là
Gīveyyaka (chỗ ngang cổ), và phần đường biên Kusi ngay bên dưới ô chữ
nhật giữa y gọi là Jaṅgheyyaka (chỗ ngang ống chân).
Do phải tự tay làm hết các việc may vá, tỷ kheo được phép giữ riêng một
vài vật dụng cần thiết như dao kéo, kim chỉ và đồ đựng chúng. Y của tỷ
kheo có thể được nhuộm bằng các loại màu làm từ cây cỏ, đặc biệt từ lơi
cây mít. Các vật dụng được dùng trong việc nhuộm y là ḷ nấu (culli),
vạc hay nồi lớn (rajanakumbh́), thau chậu loại lớn (uttarālumpa), vá to
(rajanaluṅka), máng chảy (rajanadoṇi), sào tre (cīvaravaṃsa) hay dây
phơi y (cīvararajju). Y mới cần được làm hoại sắc (dubbaṇṇakaraṇa) bằng
một vết lem lấm ở góc trước khi mặc.
C̣n một số vấn đề khác liên quan đến y áo, xin xem ở các mục từ liên
quan.
Cīvara-adhiṭṭhāna: Việc chú nguyện một lá y mới trước khi dùng.
Việc này chỉ có thể thực hiện trong những thời điểm hợp luật: Đối với
tam y th́ trong mùa tăng y hoặc lúc y cũ đă rách nát và có được y mới
trong số lượng được phép (trường hợp này có thể xảy ra bất cứ lúc nào
trong năm), đối với y tắm mưa th́ chỉ có thể làm việc chú nguyện trong
bốn tháng mưa, vải rịt ghẻ th́ trong thời điểm bị bệnh. Sau khi đă qua
khỏi thời điểm được phép, y tắm hay vải rịt ghẻ phải được hợp thức hóa
(vikappana) bằng phép xả (paccuddharana).
Cīvarakāla (samaya): Thời điểm được phép nhận y mới. Đối với tỷ
kheo thọ y Kaṭhina th́ hạn định trong năm tháng sau ngày Tự Tứ. các vị
khác chỉ có một tháng sau ngày Tự Tứ. Trong thời gian này, các tỷ kheo
được phép cất giữ hơn ba y và không cần chú nguyện hay làm hợp thức hóa
(vikappanā) bằng phép nguyện xả. Xem chữ Paccuddharana.
Cīvarakuṭikā: Mùng che muỗi. Hợp luật.
Cīvaracetāpana: Thuật ngữ chỉ phần tịnh tài được thí chủ chuẩn bị
cho việc mua sắm y hay vải may y cho tỷ kheo.
Cīvaradānasamaya: = Cīvarakālasamaya.
Cīvaranidahaka: Vị tỷ kheo được tăng chúng chỉ định là người bảo
quản y dư của tập thể.
Cīvarapatiggahaka: Vị tỷ kheo được tăng chúng đề cử làm người thọ
y Kaṭhina.
Cīvarabhājaka: Vị tỷ kheo có trách nhiệm phân phối y áo cho chư
tăng.
Cīvararajju: Dây sào phơi y.
Cīvaravaṃsa: Cây sào phơi y, thường là một thân tre dài.
Cīvarasaṅkamanīya: Từ gọi vị tỷ kheo ni tự tiện dùng y của bạn tu
mà không xin phép trước. Tội Ba Dật Đề.
Cuṇṇa: Xà bông bột dùng để tắm rữa, gọi theo cách xưa là bột tắm.
tăng ni được phép dùng.
Cuṇṇacālinī: Cái sàng hay giần. Tăng ni được dùng, chẳng hạn để
sàng bột làm thuốc.
Cuṇṇabhesajja: Thuốc tán, thuốc bột.
Culla: = Cuḷḷa = Culli: Ḷ nấu. Tỷ kheo được phép dùng để nhuộm
y.
Celappatikā: Giải lụa trắng dùng trải trên lối đi để đón thượng
khách (như ông hoàng Bodhi đă làm vậy để đón rước đức Phật, nhưng Ngài
từ chối không dẫm lên). Tăng ni không được phép đi trên giải lụa được
trải nhằm vinh danh khách quư, trừ trường hợp thí chủ làm vậy trong ư
nghĩa ǵ đó cho họ hơn là cho tăng ni.
Cocapāna: Nước chuối ép.
Codaka: (bhikkhu) = Saṅgāmavacara: Vị tỷ kheo đảm nhiệm vai tṛ
giải tŕnh tội trạng một bạn tu để tăng chúng giải quyết. Đương sự trước
hết phải là một người không có vấn đề về hạnh kiểm, có từ tâm, giỏi kinh
luật, biết thời vụ và khéo ăn nói.
Trong trường hợp chọn nhầm người bất xứng, chư tăng nên an ủi bị cáo.
Nếu bị cáo quả thật có tội, tuyệt không nên oán trách bất cứ ai, kể cả
người đă buộc tội ḿnh.
Codanā: Sự cáo buộc hay việc giải tŕnh tội trạng của tăng ni nào
đó một cách minh chính, hợp luật. Việc giải quyết một tăng sự như vậy
chỉ thành tựu khi có một tội trạng hẳn hoi và bị cáo phải được thông báo
trước.
Chatta: Dù che. Tăng ni vô bệnh không được xài dù. Trong
Samantapāsādikā có nhắc đến việc cho phép tỷ kheo dùng dù với mục đích
tự vệ (vāḷamigacorabhayesu ca attaguttattham pi vattati).
Chadana: Mái che, nóc nhà. Các loại vật liệu hợp luật là cỏ, lá,
đá dát mỏng, ngói,…
Chanda: Sự đồng thuận, sự nhất trí. Trong trường hợp tỷ kheo
không thể trực tiếp đến họp mặt trong một tăng sự, có thể thông qua một
bạn tu gửi đến tăng chúng lời đồng thuận.
Chandasa: Một tên gọi khác của tiếng Sanskrit (Theo Samantapas:
Chandaso āropemāti sakkatabhāsāya vācanamaggam āropema). Đức Phật cấm
các đệ tử tŕnh bày Phật ngôn bằng ngôn ngữ này, tội Tác Ác (theo
Cullavagga). Xem chữ Sakāyanirutti.
Chandahāraka: Vị tỷ kheo mang lời nhắn đồng thuận của bạn tu đến
tăng chúng.
Chavakuṭikā: Nhà kho trong nghĩa trang, nơi cất giữ những vật
dụng dùng cho tang nghi. Tỷ kheo không được chọn nơi đây làm nơi nhập
hạ.
Chinnaka (cīvara): H́nh thức cắt vụn ra từng mảnh của một tấm vải
lớn trước khi được may thành y áo cho tăng ni.
Chinna-iriyāpatha: Người què chân, không được thọ đại giới. Nhưng
nếu chuyện đă xong, giới phẩm vẫn thành tựu, chỉ thầy tổ phạm tội Tác
Ác.
Jangheyyaka: Chỗ ngang ống chân, một vị trí trên lá y tăng ni.
Xem chữ Ćvara.
Jatubhesajja: Thuốc dán.
Jantāghara: Nam Truyền ĐTK dịch Dục Đường hay Ôn Dục Đường. Nghĩa
gốc là pḥng tắm nước nóng. Kỳ thực, các tỷ kheo xưa khi điều trị vài
chứng bệnh nào đó, đă trát bùn vào thân ḿnh rồi hơ lửa, sau đó vào đây
tắm lại cho sạch sẽ. Tỷ kheo ni không được dùng loại nhà tắm này.
Jantāgharapītha: Chiếc ghế dùng trong nhà tắm nước nóng.
Jantāgharavatta: Những phận sự của tỷ kheo trong nhà tắm nước
nóng.
Jantāgharasālā: Chái nhỏ bên cạnh nhà tắm nước nóng, nơi máng y
của tỷ kheo lúc mưa gió.
Jambupāna: Nước ép từ táo đỏ (rose apple), một trong tám thứ nước
uống tỷ kheo được phép dùng buổi chiều.
Jarādubbala: Người đă già khụ, sinh hoạt khó khăn. Không được thọ
đại giới, nhưng nếu đă dĩ lỡ, giới phẩm vẫn thành tựu.
Jaloghī: Nói chung các thứ nước chưng cất sắp lên men, chưa đủ
nồng độ để gây say. Tỷ kheo không được dùng. Nhóm tỷ kheo Vajjī từng đề
nghị chuyện này, nhưng dĩ nhiên không hợp luật.
Jālavātapāna: Cửa sổ có lưới, tỷ kheo được phép sử dụng.
Ñatti: Tuyên ngôn bắt đầu một tăng sự, có thể là Kammavāca hoặc
không, thường bắt đầu và kết thúc với mẩu câu: Sunātu me bhante
sangho…Esā ñatti.
Ñattikamma: Tăng sự đ̣i hỏi tuyên ngôn Ñatti, như Phát Lộ, Tự Tứ,
Sammutidāna, Osāranā, Dānakamma, Pa-tiggahakamma, Nissarana,
Paccukkaddhāna, Kamma-lakkhana.
Ñatticatutthakamma: Tứ Tác Bạch Tuyên Ngôn. Tăng sự cần đến một
lần tuyên ngôn Ñatti và ba bận Kammavācā (tức Anussāvanā), gồm có
Tajjanīya, Niyassa, Patisāranīya, Pabbājanīya, Āpattiyā Adassane
Ukkhepanīyā, Āpattiyā opatikkamme Ukkhe-pańyā, Pāpikāya ditthiyā
appatinissagge ukkhepanīya, Osāranā của bảy tăng sự trên,
Bhikkhunī-ovāda-kasammuti, Parivāsadāna, Mānattadāna, Mūlāya
patikassanā, Ukkhittānuvattikā, Atthayāvatatiyakā, Upasampadā và
Abbhānakamma. Xem ở các mục từ này.
Kết thúc (nigamana) của các tuyên ngôn Kammavācā là Khamati saṅghassa
tasmā tuṇhī evametaṃ dhārayāmi (nếu tăng chúng chấp nhận sự việc này th́
xin giữ im lặng, tôi sẽ theo đó mà ghi nhận sự đồng thuận của tăng).
Trường hợp chỉ một bận Ñatti và một bận Kam-mavācā được gọi là
Ñattidutiyakamma (Nhị tác bạch tuyên ngôn). Không có trường hợp Tam Tác
Bạch., tức một Ñatti và hai Kammavācā.
Ñattidutiyakamma:
Xem định nghĩa trên. Bao gồm các tăng sự Osāraṇā, Nissaraṇā,
Sammutidāna, Uddharanā, Desanā, Kammalakkhanā.
Ḍāka: Rau cải nói chung, c̣n tươi hay đă được nấu chín.
Tacarajana: Thuốc nhuộm làm từ vỏ cây, da cây.
Tajjanīyakamma: H́nh thức xử phạt đối với vị tỷ kheo phạm một
trong các lỗi như gây tranh cải trong tập thể hay thiếu tế hạnh
(ajjhācāra) do không thông kinh luật. Cần được giải quyết bằng Tứ Tác
Bạch Tuyên Ngôn. Đương sự phải đến trước tăng (sammukhākata) để được cật
vấn (paṭipucchā) và sau đó tự ḿnh nhận lỗi trước tập thể (patiññakata).
Tăng sự này giải quyết bằng Tứ Tác Bạch Tuyên Ngôn. Tỷ kheo trong lúc
chịu phạt bị mất một số đặc quyền như không được làm thầy tế độ cho ai,
không được tiếp tục giáo giới tăng ni, không được đề xuất ư kiến trong
các tăng hội như kết tội ai hay phản đối việc ǵ,… Đó là nội dung đại
lược của 18 điều chi tiết.
Taṭṭikā: Một loại chiếu làm bằng lá cọ và vỏ cây.
Tassapāpiyyasikā: H́nh thức xử phạt một tỷ kheo phạm các trọng
tội như tà kiến hay Ba La Di bằng cách tuyên ngôn xác định giữa tăng
chúng về t́nh trạng của đương sự qua Tứ Tác Bạch tuyên ngôn. Nếu là tội
có thể giải trừ th́ trong thời gian chịu phạt, đương sự cũng phải bị mất
toàn bộ các đặc quyền (gồm 18 điều kề ở mục từ trước).
Tāḷacchidda: Lỗ tra ch́a khóa.
Tāḷavaṇṭaka: Kiểu quấn y nội trông như một xấp lá cọ, không hợp
luật, tội Tác Ác.
Tikabhojana: Bữa ăn chỉ gồm ba tỷ kheo tại nhà cư sĩ.
Tikoṭiparisuddha (macchamaṃsa): T́nh trạng Tam Tịnh Nhục của các
món ăn có nguồn gốc từ động vật. Gồm Không Thấy (adiṭṭham) con vật đang
bị giết cho ḿnh ăn, Không Nghe (assutam) ai đó nói cho biết con vật bị
giết ấy là cho ḿnh ăn, Không Biết (aparisaṅkitam) là người ta giết con
vật ấy cho ḿnh ăn. Tỷ kheo cố ư thọ thực một món ăn ngoài tiêu chuẩn
Tam Tịnh này bị phạm tội Tác Ác. (Mahāvag 253, Culvag 298).
Ticīvarenāvippavāsa (sammuti): Một ngoại lệ của tăng chúng cho
phép tỷ kheo bệnh được phép không giữ đủ Tam Y khi rời trú xứ
(samānasaṃvāsasīmā). Phải dùng Nhị Tác Bạch tuyên ngôn cho trường hợp
này.
Tiṇavitthāraka: Phép Thảo Phú hay lơ là cho qua. Trường hợp trong
các tỷ kheo xảy ra những tranh căi mang tính cá nhân (không phải trọng
giới) và mang tính nội bộ (không liên hệ đến cư sĩ) th́ tăng chúng có
thể dùng Nhị Tác Bạch tuyên ngôn để đề nghị mọi người bỏ qua sự vụ bằng
cách không ai được nhắc đến chuyện ấy nữa, giống như việc lấy cỏ phủ kín
một vật không đáng nh́n.
Tiṇasanthāraka: Chiếu dệt bằng cỏ khô, hợp luật.
Titthiyadhaja: Nghĩa đen là Lá Cờ Ngoại Đạo, ám chỉ những thứ y
phục làm từ các vật liệu không hợp luật như cỏ khô, tóc người, da thú,
lông chim,… tỷ kheo sử dụng phạm Trọng Tội.
Titthiyapakkantaka: Chỉ hạng tỷ kheo cải đạo theo ngoại giáo.
Người như vậy không được phép tái thọ đại giới. Dù có vị nào đứng ra bảo
lănh cho tu th́ tăng chúng phải vô hiệu hóa giới đàn, và giới phẩm của
đương sự cũng không thành tựu (Samantapās. 1074).
Timaṇḍalapaṭicchādana: Cách mặc hạ y (y nội) đúng luật, trên phải
kín rún và thắt lưng, dưới phải qua khỏi đầu gối tối thiểu tám ngón tay.
Hai bàn tay khép lại, ngón cái nằm riêng, kể là tám ngón.
Tiracchānagata: Chỉ chung tất cả những chủng loại chúng sanh
không thuộc loài người, từ bàng sanh đến cả thiên vương Đế Thích
(Samantapās. 1076: Nāgo và hotu supaṇṇamānava-kādīnaṃ và aññataro
antamaso sakkadevarājānaṃ upādā-ya yo koci amanussajātiyo sabbova
imasmiṃ at the tirac-chānagatoti veditabbo). Nghĩa đen của chữ
Tiracchāna là Bị Ngăn Trở, ở đây ám chỉ việc các hạng chúng sinh ngoài
nhân loại không thể được phép thọ đại giới. Nếu cưỡng cầu, giới phẩm
cũng không thành tựu.
Tiracchānavijjā: Chỉ chung tất cả các học thuật nằm ngoài lư
tưởng tu hành của người xuất gia. Tỷ kheo không được học hay dạy những
chuyên môn này. Xem trong kinh Phạm Vơng (Brahmajālasutta của Trường Bộ
Kinh).
Tirīṭaka: Y phục làm từ vỏ cây, không hợp luật, tội Tác Ác.
Tilakakka: Một loại thuốc trị thương, dạng dầu bôi, làm từ mè.
Tunna: Chỉ chung việc may vá.
Tumba: Chỉ chung các loại chai lọ, bằng bất cứ chất liệu nào,
dùng để đựng thuốc trị bệnh dạng lỏng. Hợp luật.
Tumabakaṭāha: Vỏ bầu khô, kiểu hồ-lô của Trung Hoa, tỷ kheo không
được dùng thay thế b́nh bát để khất thực. Tội Tác Ác.
Tulā: Vật nặng treo ở đầu cây sào kéo giếng (giúp bớt nặng khi
kéo gàu khỏi giếng), hợp luật.
Tūlikā: Loại nệm làm bằng bông vải (cotton), không hợp luật v́
thuộc vật dụng cao sang.
Tela: Chỉ chung các loại dầu thực vật hay mỡ động vật. Tỷ kheo có
thể dùng làm thuốc trị bệnh (có thể cất giữ trong bảy ngày), nhưng không
được xin để dùng như một thứ thực phẩm phụ gia. Tội Ba Dật Đề.
Toraṇa: Cổng vào một trú xứ, hợp luật.
Thullakumārī: Gái già, gái lỡ th́, phụ nữ lớn tuổi vẫn chưa
chồng. Tỷ kheo nên xem đây là một trong những hạng đặc biệt nên tránh.
Thullaccaya: Loại trọng giới được xem chỉ sau hai tội Ba La Di và
Tăng Tàn về mức nghiêm trọng. Lư do của tên gọi này là trong những
trường hợp tơ tóc, không rơi vào hai tội kia, tỷ kheo thường mắc tội
này. Chẳng hạn việc trộm cướp một vật có giá trị dưới năm Māsaka, hay
tiếp xúc thân xác phụ nữ qua một vật ngăn cách da thịt.
Thullavajjāpatti: Các tội thuộc trọng giới, như Ba La Di hay Tăng
Tàn.
Theyyasaṃvāsaka: Thường được dịch là Người Trộm Tăng Tướng, ám
chỉ người có ư đồ bất chính tự ư đắp y mang bát không thông qua một giới
đàn có tăng chúng chứng minh và mạo nhận tỷ kheo. Tăng chúng không được
cho người từng có sở hành như vậy được thọ đại giới. Nếu cưỡng cầu, giới
phẩm của đương sự cũng không thành tựu.
Thera(bhikkhu): Từ gọi vị tỷ kheo có tối thiểu mười hạ tỷ kheo,
tính từ ngày thọ đại giới. Tiêu chuẩn ít nhất có thể cho người khác thọ
đại giới. Tăng gọi Thera, Ni gọi Therī. Đối với vị trên hai mươi hạ,
ghép thêm chữ Mahā phía trước.
Daṇḍakaṭhina: Khung gỗ nhỏ nằm bên trong khung gỗ may y Kaṭhina.
Daṇḍakathālaka: Môi hay vá to có cán dài, dùng cho các nồi lớn.
Tỷ kheo được dùng lúc nhuộm y.
Daṇḍakamma: Thuật ngữ này thường dùng để gọi một lối xử phạt đối
với một Sa-di phạm lỗi, có nhiều h́nh thức, nhưng phổ biến vẫn là cấm
vào trú xá của tăng trong thời gian chịu phạt. Từ này đôi lúc cũng được
dùng dể chỉ h́nh thức xử phạt tương tự đối với một tỷ kheo hay tỷ kheo
ni khi đương sự phạm lỗi (xem thêm Culv). Chẳng hạn khi một tỷ kheo có
thái độ bất nhă với tỷ kheo ni, ni chúng có quyền không chào hỏi
(avandiya).
Daṇḍasatthaka: Loại dao nhỏ dùng trong các việc tiểu thủ công,
như may vá. Tỷ kheo được sử dụng nhưng phải tránh dùng cán dao làm từ
các chất liệu không hợp luật như ngà, sừng hay quư kim.
Daṇḍasammuti: Tuyên ngôn (Nhị Tác Bạch) cho phép một tỷ kheo bệnh
được phép dùng gậy, một vật không hợp luật đối với các tỷ kheo trong
hoàn cảnh b́nh thường.
Daṇḍasikkā: Túi lưới, tỷ kheo không được dùng để đeo b́nh bát. Tỷ
kheo bịnh có thể dùng, nhưng phải tŕnh tăng.
Dantakaṭṭha: Cây que dùng để chà răng, không được dài quá tám
ngón tay.
Dantakāsāva: Y nhuộm màu trắng ngà, không hợp luật.
Daḷhīkamma: Miếng vải may dặm cho y thêm chắc, tỷ kheo được dùng
trong trường hợp cần thiết.
Dārubhaṇḍa: Từ gọi chung các vật dụng bằng gỗ trong tự viện, từ
bàn ghế đến kèo cột. Tỷ kheo chỉ được phép dùng những vật dụng bằng gỗ
không thuộc loại cao sang. Xem chữ Uccāsayanamahāsayana.
Dāruvāraka: Gàu hay thùng gỗ dùng để kéo nước từ giếng.
Dāsa: Nô lệ. Có thể gồm cả tù binh khổ sai, nhưng quan trọng là
bất cứ loại nô lệ nào cũng phải được tự do một cách hợp pháp (Pāli gọi
là Bhujissa) trước khi thọ đại giới.
Diṭṭhivipatti: Chỉ chung việc mắc phải những dị kiến đi ngược lại
Phật pháp.
Dīghadasa(cīvara): Lá y có đường biên quá rộng, không hợp luật.
Tội Tác Ác.
Dukkaṭa: Tội Tác Ác, nghĩa rộng chỉ chung những hành động bất
xứng của một tỷ kheo, gồm tám trường hợp (theo Samantapāsādikā):
– Pubbayogadukkaṭa: Những động thái mang tính tiền đề cho các tội khác
(như Ba La Di, Tăng Tàn, Ba Dật Đề).
– Sahapayogadukkaṭa: Những t́nh tiết đính kèm trong lúc vi phạm các tội
khác.
– Anāmāsadukkaṭa: Tội Tác Ác chỉ do sự chạm tay vào các vật không hợp
luật, như vàng ngọc hay ngũ cốc, thực phẩm (trong trường hợp không được
phép).
– Ñātadukkaṭa: Tác Ác do không tŕnh tội với tỷ kheo khác.
– Vinayadukkaṭa: Tội có liên quan vấn đề khất thực.
– Durupaciṇṇadukkaṭa: Tội do chạm tay hay lay lắc một cội cây đang có
trái.
– Ñattidukkaṭa: Tác Ác liên hệ một tuyên ngôn.
-Patissavadukkaṭa: Tác Ác do thất hứa.
Tuy không được kể ra trong Giới Bổn, nhưng trường hợp được kể thành tội
Tác Ác th́ rất nhiều, chẳng hạn việc vi phạm một trong các điều Ưng Học
Pháp.
Dutthullāpatti: Các tội thuộc trọng giới, như Ba La Di và Tăng
Tàn.
Dutthullavācā: Câu nói mang tính cách gợi dục, mời gọi xác thịt.
Tỷ kheo nói với phụ nữ những câu nói loại này, phạm tội Tăng Tàn.
Dubbaṇṇakaraṇa: Việc hoại sắc, làm xấu đi một lá y mới trước khi
dùng, có thể bằng việc vá vào một miếng vải cũ to bằng gang tay đức
Phật. Nếu không làm vậy, phạm tội Ba Dật Đề.
Dubbhāsita: Tội Ác Ngữ, có thể là một câu nói bất kính đối với
Tam Bảo hay một cá nhân nào đó. Samantapā-sādikā giải thích: Yam
durābhatthaṃ taṃ dubbhāsitaṃ (ác khẩu chính là tội Ác Ngữ vậy).
Dussacālinī: Cái sàng, cái giần dùng để rây bột. Tỷ kheo có thể
dùng lúc chế biến thuốc trị bệnh.
Dussapalatthikā: Cách ngồi bó gối, lấy y phủ quanh, tăng ni không
được ngồi tư thế này trước mắt cư sĩ. Xem chữ Palattha, Palatthika.
Deḍḍubhakam: Thắt lưng với một đầu luồn nh́n giống con rắn. Tỷ
kheo không được phép dùng.
Desanāgāminī-āpatti: Các tội nhẹ hơn Ba La Di và Tăng Tàn. Nghĩa
đen là những tội có thể giải trừ bằng lời phát lộ và sám hối.
Dvaṅgulakappa: Một trong mười chủ trương của nhóm tỷ kheo Vajjī,
cho phép tỷ kheo có thể thọ thực khi mặt trời đă chinh bóng quá hai ngón
tay. Điều này không hợp luật.
Dhajabandhacora: Kẻ trộm đă bị định tội danh rơ ràng. Hạng này
không được phép thọ đại giới.
Dhammakāraka: Đồ lọc nước.
Dhurabhatta: = Dhuvabhatta: Gọi chung những bữa ăn được cúng
dường dài hạn và cố định, gồm hai trường hợp cá nhân (puggalika) và tập
thể (sanghika).
Dhūmanetta: Ống khói thông hơi từ pḥng tắm nước nóng
(dhūmanikhamanachidda). Chữ này cũng dùng để gọi chiếc ống xông hơi dùng
trị bệnh nhức đầu theo y học cổ truyền ở Ấn Độ thời xưa, tỷ kheo dùng
được.
Dhotapādaka: Tấm chiếu hay thảm chùi chân đặt ngay cửa.
Natthukamma: Liệu pháp thông mũi để trị bệnh nhức đầu bằng một
cái ống chứa thuốc.
Natthukaraṇī: Ống thuốc dùng thông mũi để trị bệnh nhức đầu.
Namataka: Túi vải dùng để đựng dao cạo hay dao cắt. Tỷ kheo dùng
được. Từ này cũng ám chỉ một loại chiếu dệt bằng len, hợp luật.
Navakamma: Việc xây cất nói chung. Luật định thời gian xây cất
một am thất không được kéo dài quá năm-sáu năm, đối với một tăng xá
(aḍḍhayoga) không quá bảy – tám năm và một tự viện (mahāvihāra và
pasāda) không được quá mười hai năm. Tội tác Ác.
Navakammika: Tỷ kheo được tăng chúng dùng Nhị Tác Bạch tuyên ngôn
để giao phó trách nhiệm trông coi công tŕnh xây cất. Khi việc chưa hoàn
tất, đương sự không được đi xa. Đặc ân dành cho vị này lúc đang thi công
là trong mùa an cư được sống trong chỗ đàng hoàng (varaseyya) hơn các
bạn tu.
Navanīta: Bơ (làm từ sữa ḅ), một trong năm loại dược phẩm phổ
biến của chư tăng thời đức Phật. Tỷ kheo không được xin bơ để dùng như
thực phẩm phụ gia.
Navabhikkhu: Tỷ kheo dưới năm hạ, tức chưa được 5 năm tính từ
ngày thọ đại giới.
Nāḷikāgabbha: Pḥng ở với kích thước lớn.
Nāsacchinna: Người đă bị xẻo mũi, không được thọ đại giới. Trường
hợp dĩ lỡ, giới phẩm vẫn thành tựu.
Nāsanā: Sự tẩn xuất, trục xuất một sa-di hay tỷ kheo ni bất xứng.
Gồm ba trường hợp: Liṅganāsanā (bằng cách lột y), Saṃvāsanāsana (không
cho sống chung nữa), Daṇḍakammanāsana (xua đuổi tạm thời).
Nāsanantikā: Chữ dùng để gọi trường hợp một tỷ kheo sau khi thọ y
Kaṭhina đă rời trú xứ để t́m thêm y và không có ư quay về, lúc đó lá y
Kaṭhina kia bị xem là mất hết ư nghĩa tăng y. Trường hợp này gọi là
Nāsanantikā.
Nikhādana: Cây đục, cái chàng để làm mộc. Theo Luật, đến một vật
hèn mọn như vậy nếu đă được dâng đến tăng chúng th́ cũng được xem là thứ
giáo sản không được dùng tùy tiện.
Nitthānantikā: Một trong tám trường hợp y Kaṭhina bị mất ư nghĩa.
Xem chữ Kaṭhina.
Nimantana: Lời mời thỉnh thọ thực. Cũng gồm hai trường hợp Biệt
thỉnh (puggalika) và Phổ thỉnh (saṅ-ghika). Hợp luật.
Niyassakamma: Xem chữ Nissayakamma.
Nillekhajantāghara: Một kiểu buồng tắm nước nóng có một phần mái
che được để hở cho hơi khói có chỗ thoát ra. Hợp luật.
Nisada: Một loại đá mài, tỷ kheo được dùng trong lúc chế biến
dược phẩm.
Nisadapotaka: Cũng một loại đá mài.
Nisīdana: Tọa cụ, tấm trải để ngồi, một trong chín loại y trang
của tỳ kheo, cũng cần được chú nguyện và làm hoại sắc trước khi sử dụng.
Nissaggiyapācittiya: Loại tội Ba Dật Đề bị phạm v́ cất giữ hay sử
dụng các thứ vật chất không hợp luật như thực phẩm quá hạn, y bát dư hay
tài bảo, chỉ được giải trừ khi tỷ kheo xả bỏ trước bạn tu rồi sám hối.
Nissaya: Thường được gọi là Phép Nương, chữ dịch đề nghị là Tứ Sở
Y tức bốn thứ nhu yếu tối thiểu của tỷ kheo. Gồm thức ăn khất thực
(piṇḍiyālopabhojana), y may từ vải lượm (paṃsukūlacīvara), trú xứ dưới
gốc cây (rukkhamūlasenāsana) và nước tiểu làm thuốc (pūtimuttabhesajja).
Dĩ nhiên trong trường hợp có điều kiện, th́ tỷ kheo có thể sử dụng những
thứ nhu yếu trên đây với chất lượng tốt hơn. Chẳng hạn sống trong nhà có
mái che, mặc y áo đă được cư sĩ may sẳn, dùng thức ăn tại các tư gia và
uống các loại dược phẩm tinh chế.
Chữ Nissaya c̣n có nghĩa là sự nương náu tinh thần của một tỷ kheo dưới
sự hướng dẫn, giáo hối thường xuyên của một trưởng lăo nào đó có thể là
thầy tổ của ḿnh hay người tương đương (lúc thầy cùa đương sự không thể
tiếp tục trách nhiệm v́ từ trần, hoàn tục, phải đi xa, cải đạo, hay đang
trong lúc chịu phạt).
Nissayakammam: = Niyassakamma: Loại tăng sự được thực hiện để
giáo hối vị tỷ kheo phạm vào các tội như Tăng Tàn v́ khiến cư sĩ mất
niềm tin, hoặc có vấn đề trong cách hiểu giới luật hay có lời báng bổ
Tam Bảo. Vẫn theo nghi thức chung của các tăng sự loại này, đương sự
phải đến tŕnh diện trước tăng chúng để trả lời các câu cật vấn, sau đó
là phần tuyên ngôn. Trong thời gian chịu phạt, đương sự cũng mất hết tất
cả đặc quyền sinh hoạt của một tỷ kheo đối với chư tăng.
Nissayapaṭipassaddhi: Trường hợp sự y-chỉ (nương náu tinh thần)
của một tỷ kheo bị gián đoạn, khi thầy tế độ và thầy yết ma v́ lư do nào
đó không thể tiếp tục hướng dẫn đương sự.
Nissayamuccana: Giai đoạn tự quyết của vị tỷ kheo khi đă trải qua
năm năm sau ngày thọ đại giới và tinh thông kinh luật, có thể sống xa
thầy tổ để sống độc cư, độc hành.
Nissāraṇā: Phép xử phạt cách ly đối với tỷ kheo phạm tội bằng một
trong các tăng sự Pabbajanīya, Ukkhepanīya, Niyassa, Patisāraṇīya.
Paṃsukūla: Y Phấn Tảo. Nghĩa đen là những mảnh vải dơ cũ nhặt
được trên đường hay trong mộ địa có thể dùng để may y. Trong 4 phép Sở Y
(Nissaya) của vị tỷ kheo, được thầy tế độ lưu ư trong buổi thọ đại giới,
cũng gồm sự sẳn sàng mặc y Phấn Tảo khi không có người dâng cúng.
Việc sử dụng loại y làm từ vải lượm này cũng nằm trong 13 hạnh Đầu Đà
(dhutaṅga) của những vị tỷ kheo chuyên hạnh tri túc.
Paṃsukūlika: Phấn Tảo Sư, từ gọi vị tỷ kheo chỉ mặc loại y may từ
vải lượm.
Pakāsanīyakamma: Loại tăng sự xử phạt vị tỷ kheo có hành động
báng bổ Tam Bảo. Phải cần Tứ Tác Bạch tuyên ngôn giữa tăng chúng và sau
đó thông báo rộng răi đến quần chúng để tăng đoàn không c̣n chịu trách
nhiệm về đương sự nữa. Chẳng hạn trường hợp tỷ kheo Đề Bà Đạt Đa, ngài
Xá Lợi Phất là vị đầu tiên thực hiện tăng sự này.
Pakuṭṭa: Hành lang hay hiên trong của một tịnh thất.
Pakkamanantikākaṭhina-uddhāra: Một trong tám trường hợp tỷ kheo
làm mất quả báo tăng y do rời khỏi nơi vừa thọ y và không trở về nữa.
Pakkhahata: Người bị bại liệt một bộ phận nào đó trong cơ thể,
không được thọ đại giới. Nếu chuyện dĩ lỡ, giới phẩm vẫn thành tựu, chỉ
riêng thầy tổ phạm tội Tác Ác.
Pakkhikabhatta: Từ gọi các bữa ăn do cư sĩ cúng dường vào bốn
ngày Bát Quan truyền thống là 14, 15, mùng năm và mùng tám –
(Cullavagga).
Paghana: Lối đi nối liền các hành lang, trong một quần thể kiến
trúc lớn rộng.
Paccattharaṇa: Khăn trải giường. Tỷ kheo chỉ được dùng với chất
liệu vải, đồ da bị cấm.
Pacchābhatta: Lúc quá ngọ, thời điểm tỷ kheo không được phép thọ
thực cho đến sáng hôm sau.
Pacchimikāvassūpanāyikā: Nghĩa đen là vị an cư mùa sau, tức vị tỷ
kheo nhập hạ vào rằm tháng bảy thay v́ rằm tháng sáu (Phật giáo Bắc
Truyền chủ trương nhập hạ rằm tháng tư và Tự Tứ rằm tháng bảy). Vị nhập
hạ vào rằm tháng sáu được gọi là Purimikā (an cư mùa trước), có thể thọ
y Kaṭhina. Vị nhập hạ rằm tháng bảy được gọi là Pacchimikā (an cư mùa
sau), không được phép thọ y Kaṭhina.
Pajja: Loại dầu bôi dùng trị bệnh nứt nẻ ở chân.
Pañca-ābādha: Năm loại bệnh khi mắc phải không được thọ đại giới:
Phong cùi (kuttha), bướu độc (ganda), chốc lở (kilāsa), ho lao (soso) và
động kinh (apamāro). Theo Mahāvagga 76-77 và Samantapāsādikā 1046.
Pañcapatika: Các loại tranh ảnh trang trí trong nhà ở, tỷ kheo
được phép.
Paññatti: Từ này dùng gọi chung các học giới và sự cấm chế các
học giới. Có chín trường hợp cấm chế hay học giới: Mūlapaññatti (lần cấm
chế đầu tiên ngay sau khi xảy ra duyên sự), Anupaññatti (những cấm chế
bổ sung hay một thay đổi nào đó cần thiết), Anuppan-napaññatti (việc cấm
chế mang tính cách đề pḥng khi duyên sự chưa xảy ra, như trường hợp Bát
Kỉnh Pháp của tỷ kheo ni), Sabbatthapaññatti (những học giới cần được áp
dụng mọi nơi chốn), Padesapañ-ñatti (những học giới chỉ nên áp dụng ở
một số địa phương), Sādhāraṇapaññatti (các học giới được ban hành cho cả
hai phái tăng ni, c̣n được gọi là Ubhatopaññatti), Asādhāraṇapaññatti
(những học giới chỉ được ban hành cho riêng tăng chúng hay ni chúng, c̣n
được gọi là Ekatopaññatti).
Paṭaggi: Chỗ giữ lửa trong tự viện thời xưa, nhằm tránh việc đốt
lửa bừa băi.
Paṭalika: Tấm trải giường bằng len trắng, tỷ kheo không được sử
dụng. Bất đắc dĩ có thể ngồi nhưng không nên nằm. Tội Tác Ác.
Paṭiggaha: Thùng rác để chứa thức ăn thừa hay rác, tỷ kheo được
phép sử dụng. Từ này cũng để gọi cái đê chụp lên ngón tay lúc may vá. Tỷ
kheo được phép dùng, nhưng tránh dùng các chất liệu quư kim hay ngà,
sừng, xương thú.
Paṭiggahathavikā: Túi đựng cái đê (và kim chỉ).
Paṭicchanna-abbhāna: Xem chữ Abbhāna.
Paṭicchanna-mānatta: Xem chữ Mānatta.
Paṭicchādanīya: Nuớc cốt nấu từ thịt động vật (Saman-tapāsādikā
giải thích bằng chữ Maṃsarasa), tỷ kheo có thể dùng như một loại thuốc
trị bệnh.
Patiññātakaraṇa: Nghi thức nhận tội của tỷ kheo, bắt buộc phải có
trước khi tăng chúng thực hiện tăng sự giải tội (Tajjanīya, Niyassa,
Patisāraṇīya và Ukkhepanīyakamma). Thiếu phần này, các tỷ kheo phạm Tác
Ác. Trong bảy pháp Tịnh Tranh, phép này chỉ áp dụng cho trường hợp
Āpattādhikaraṇa.
Paṭinivāsana: Khi ở trong tự viện, không có cư sĩ chung quanh, vị
tỷ kheo có quyền mặc một y, thường là hạ y tức y nội (antaravāsaka)-
Theo Đại Phẩm và Tiểu Phẩm. Trong trường hợp này, y nội được gọi là
Paṭinivāsana (Nội xứ y). Bổn phận của tỷ kheo đệ tử là chuẩn bị sẵn Nội
Xứ Y cho thầy tổ khi các vị đi xa mới về.
Paṭibala: Người có năng lực, chữ gọi vị tỷ kheo hiểu biết rành rẽ
các loại tăng sự.
Paṭisāraṇīyakamma: Tăng sự xử phạt vị tỷ kheo sách nhiễu cư sĩ
hay có lời phỉ báng Tam Bảo ở mức độ nghiêm trọng. Nếu sau tăng sự, vị
ấy không hối cải th́ phạm tội Tăng Tàn. Tăng sự cũng bắt đầu với các
bước triệu tập đương sự, cật vấn, lắng nghe thú nhận,… như các tăng sự
xử phạt khác. Và trong thời gian chịu phạt, đương sự cũng mất hết các
đặc quyền của một ỷ kheo trong sạch (gồm 18 điều)
Paṭṭikā: Một loại thắt lưng chỉ gồm một sợi dây vải và có móc
khóa ở một đầu. Tỷ kheo được phép dùng. Chữ này cũng c̣n có nghĩa là
chiếc lá tre hay lá cọ được dùng làm lá thăm để chọn lựa nhân tuyển cho
công việc ǵ đó.
Paṇāmanā: H́nh thức xử phạt đệ tử bằng cách từ chối khi được phục
vụ y bát hay tắm rữa: Ông cứ để mặc tôi! Đừng đụng đến y bát của tôi!
Đừng về đây nữa! … Khi cố ư phạt oan một đệ tử, tỷ kheo trưởng lăo phạm
Tác Ác.
Paṇītabhojana: Chữ gọi các món ăn được xem là thượng vị thời xưa
như thịt, cá, bơ, sữa, dầu ăn, mật ong. Tỷ kheo vô bệnh không được đề
nghị người khác cúng dường những món này. Tội Ba Dật Đề cho tỷ kheo, tội
Ưng Phát Lộ đối với tỷ kheo ni.
Paṇḍaka: Người bị hoạn (thiến), không được thọ đại giới. Nếu
cưỡng cầu, giới phẩm cũng không thành tựu.
Paṇḍaka:
Thuật ngữ được dùng để gọi chung năm hạng người biến thái không được thọ
đại giới. Nếu cưỡng cầu, giới phẩm cũng không thành tựu.
1) Asittakapandaka: Loại đàn ông chỉ thoả măn t́nh dục bằng cách khẩu
dâm với người đồng giới.
2) Ussuyapandaka: Loại đàn ông chỉ thỏa măn t́nh dục bằng cách thị dâm,
tức nh́n ngắm người khác làm t́nh.
3) Opakkamikapandaka (c̣n gọi là Lunapandaka): Loại đàn ông bị thiến.
4) Pakkhapandaka: Loại đàn ông chỉ phát dục vào những ngày thượng tuần
(junhapakkha) hay hạ tuần (kālapakkha), tức chỉ có ham muốn nhiều lắm là
hai tuần trong mỗi tháng.
5) Napumsakapandaka: Loại người vô tính, không có bộ phận sinh dục rơ
ràng.
Paṇṇabhesajja: Thuốc trị bệnh làm từ các loại lá cây. Tỷ kheo có
thể cất giữ để sử dụng đến hết, không hạn định thời gian.
Paṇṇasanthāra: Chiếu làm từ lá cây.
Patta: B́nh bát khất thực của tăng ni Phật giáo, một trong tám
món pháp cụ căn bản của người xuất gia. Tăng ni không nên có ḷng cất
giữ thêm b́nh bát thứ hai khi b́nh bát đang dùng vẫn c̣n tốt. Vật liệu
hợp luật để làm bát thường là bằng sắt thép hay đất nung. Các vật liệu
không hợp luật đại khái gồm các thứ quư kim, bảo thạch, đồng, ch́, thủy
tinh. B́nh bát không thể là một vật đựng nào đó tùy tiện dùng thay,
chẳng hạn bầu nước (Tumbakaṭāha) hay hũ lọ (Ghaṭikaṭāha).
Theo Samantapāsādika và Khuddasikkhā, có ba cỡ b́nh bát hợp luật: Bát
lớn (Ukkaṭṭha) có dung lượng hai cân Ma Kiệt Đà (magadhanālī), bát cỡ
trung (Majjhimapatta) có dung lượng một nửa b́nh bát cỡ lớn, và bát cỡ
nhỏ (omakapatta) có dung lượng bằng một nửa loại bát cỡ trung. Chi tiết
có đến chín loại (mỗi cỡ lại có ba dung lượng khác nhau), nhưng đại khái
cách kể trên đây cũng là đầy đủ.
Trước khi sử dụng một b́nh bát mới, tăng ni phải chú nguyện trước, bằng
một câu nguyện hay một cử chỉ. Hiệu lực của phép chú nguyện sẽ không c̣n
nữa khi tăng ni qua đời, hoàn tục, phạm tội Ba La Di, chú nguyện xả bỏ,
đem cho người khác, bị trộm lấy mất, chuyển đổi giới tính.
Patta-ukkujjana: Khi cư sĩ có những lỗi lầm bất xứng đối với Tam
Bảo, chư tăng nên áp dụng h́nh thức Úp Bát (pattanikujjana) để tẩy chay,
là không nhận của cúng dường từ họ nữa. Sau khi đương sự biết lỗi và đến
sám hối chân thành, th́ tăng chúng nên thu hồi phép phạt, nghĩa là tiếp
tục Mở Bát (Patta-ukkujjana) như trước.
Pattakalla: Thời điểm thích đáng cho một tăng sự, chẳng hạn thời
khắc cho một lễ Phát Lộ phải gồm đủ bốn tiêu chuẩn: Đúng là ngày Bố Tát,
có ít nhất bốn tỷ kheo cùng họp mặt, giữa các vị không có việc phạm
trùng tội và trong chỗ hành lễ không có người chẳng phải tỷ kheo.
Pattakuṇḍolikā: Áo bát, túi đựng b́nh bát. Tỷ kheo được phép
dùng.
Pattaggāhāpaka: Vị tỷ kheo được chư tăng cử đi nhận bát từ cư sĩ
hay từ vị phạm tội Xả Ba Dật Đề.
Pattathavikā: Áo bát, túi đựng b́nh bát.
Pattadhāraka: Chân bát, đế nâng b́nh bát, có thể bằng gỗ, mây hay
dây đan.
Pattanikujjana: Xem chữ Patta-ukkujjana.
Pattapariyanta: Trường hợp tỷ kheo có thêm một b́nh bát mới khi
bát cũ vẫn chưa bị hư th́ vị này nên đem dâng lại cho tập thể tỷ kheo.
Nếu vị lớn nhất từ chối, th́ b́nh bát đến tay vị thứ hai, thứ ba… các vị
có hai lựa chọn: hoặc từ chối hoặc đổi bát cũ bằng bát mới rồi đưa bát
cũ của ḿnh cho vị kế tiếp. Cứ thế, khi chuyện sang tay kết thúc, b́nh
bát đến được vị tỷ kheo cuối cùng có thể là b́nh bát tệ nhất, được gọi
tên Pàli là Pattapariyanta (b́nh bát hạng bét).
Pattamaṇḍala: Lớp gia cố ở đáy b́nh bát cho thêm chắc chắn, có
thể bằng chút ch́ hay thiếc, nhưng không được vẽ vời cầu kỳ.
Pattamāḷaka: Bục gạch hay bệ gỗ để bảo quản b́nh bát. Bát bị để
lăn lóc sẽ dễ hư hao, thủng móp.
Pattarajana: Thuốc nhuộm y làm từ lá cây.
Pattarasa: Nước cốt ép từ lá cây (chẳng hạn lá sương sâm), tỷ
kheo có thể dùng buổi chiều.
Padaso-dhammavacana: Phép dạy học bằng cách kềm cặp từng câu
trong Tam Tạng. Tỷ kheo chỉ được dùng cách dạy thân mật này đối với bạn
tu, không thể với người chưa thọ đại giới. Tội Ba Dật Đề.
Padesapaññatti: Chữ gọi chung những học giới được đức Phật cấm
chế giới hạn trong vài địa phương nào đó, không cần áp dụng mọi nơi
(chẳng hạn việc tỷ kheo chỉ nên tắm rữa mỗi nửa tháng một lần).
Pabbajjā: Nghi thức thọ giới của tăng ni nói chung. Đối với Sa-di
th́ đơn giản, chỉ việc cạo bỏ râu tóc và t́m được y áo hợp luật th́ có
thể được thọ quy giới. Số lượng tỷ kheo chứng minh không quan trọng.
Riêng trường hợp đại giới th́ ngoài số tăng chúng chứng minh không dưới
4 vị, đương sự muốn thọ đại giới phải chứng minh nhân thân không nằm
trong số những đối tượng trái luật và sau đó là bốn bận tuyên ngôn của
thầy Yết-Ma trước tăng chúng chứng minh. Xem thêm ở chữ Upasampadā.
Pabbājanīyakamma: Loại tăng sự dùng để xử phạt những tỷ kheo có
thái độ báng bổ Tam Bảo, hoặc có sở hành bất xứng với cư sĩ hay thiếu tế
hạnh nghiêm trọng (như ca hát, nhảy múa công khai). Nhị vị thượng thủ
thinh văn là người đầu tiên đă dùng tăng sự này để xử phạt hai tỷ kheo
Asssaji và Punabbasuka.
Nghi thức cũng giống hệt các loại tăng sự xử phạt khác, và trong thời
gian chịu phạt, đương sự cũng tạm thời mất hết mọi đặc quyền của một tỷ
kheo trong sạch.
Paramparabhojana: Nghĩa đen là bữa ăn của người thỉnh sau. Tỷ
kheo không được phép cùng lúc nhận lời mời ăn cả hai nơi, rồi sau đó cố
lờ lời hứa với người thỉnh trước để đến thọ thực nơi người thỉnh sau. Có
hai trường hợp không phạm tội là tỳ kheo hữu sự (bệnh hoạn hoặc trong
lúc đang làm y Kaṭhina) và nếu món ăn trong chỗ thọ thực không thuộc
những món thượng vị (Luật kể rơ là cơm, bánh, cá, thịt). Tội Ba Dật Đề.
Parammukhavikappanā: Một kiểu tác tịnh đối với y bát dư. Tỷ kheo
có y hay bát dư, muốn để dành, th́ nên đến một tỷ kheo biết luật để gửi
bằng câu chú xả: Tôi cho sư vật này để làm tác tịnh (imaṃ cīvaraṃ /
pattaṃ vikappa-natthāya dammi). Bạn tu nghe vậy nên hỏi xem đương sự có
tỷ kheo nào là bạn thân rồi bảo đương sự từ nay khi muốn sử dụng y hay
bát này cứ đến hỏi vị ấy. Đây chỉ là việc làm có tính h́nh thức, nhưng
tỷ kheo theo cách này có thể giữ y bát dư mà không phạm tội. Dĩ nhiên
các tỳ kheo thiểu dục th́ không vận dụng chi những chỗ linh động này của
Luật Tạng.
Parikkhāra: Vật dụng tùy thân, c̣n gọi là các món pháp cụ tối
thiểu của một tỷ kheo. Gồm tam y, b́nh bát, dao cạo, kim chỉ, dây lưng
để buộc y và tấm vải lược nước. Bộ Khuddasikkhā c̣n kể thêm vài món hợp
luật khác như dù, gậy, bật lửa , ,…
Parikkhāracoḷaka: Miếng vải dự pḥng, có mục đích đa dụng, như
gói đồ hay lọc nước trong trường hợp khẩn cấp. Tỷ kheo được phép sử
dụng.
Paribbājaka: Du sĩ ngoại đạo sống rày đây mai đó. Tăng ni không
được đích thân (tự tay) đem cho thực phẩm đến các du sĩ ngoại đạo. Tội
Ba Dật Đề. Nếu muốn đem cho, cũng phải nhờ người chưa thọ đại giới. Nữ
du sĩ ngoại đạo được gọi là Paribbājikā, cũng phải được cư xử như vậy.
Paribhaṇḍa: Miếng vải may dằn trên chiều ngang của lá y để thêm
chắc chắn. Hợp luật. Chữ này cũng để gọi phần đà xây dư ra của một bức
tường. Thường gọi là gờ tường.
Parimaṇḍalanivāsana: Phép mặc y nội (hạ y) hợp luật, từ đầu gối
trở xuống khoảng 4 ngón tay và phía trên phải kín rốn.
Parimaṇḍalapārupana: Phép mặc y vai trái (thượng y) hợp luật,
phải che hết thân ḿnh và không để lộ cùi chỏ.
Parimukha: Việc nhổ lông ngực. Không hợp luật. Tội Tác Ác.
Parivāsa (1) Nghĩa đen là sự cách ly hay cô lập, chữ thường dùng là Cấm
Pḥng. Khi một tỷ kheo phạm tội Tăng Tàn và tŕnh tội lập tức với bạn tu
th́ thời gian chịu phạt Sống Cách Ly (parivāsa) được kể chung với 6 đêm
Khiêm Hạnh (mānatta). Thời gian tŕnh tội càng trễ th́ thời gian xử phạt
càng lâu. Trễ bao lâu th́ phạt bấy lâu, cộng thêm 6 đêm Khiêm Hạnh,
Khuất Hạnh đôi khi trong nhiều năm. Suốt thời gian chịu phạt, đương sự
bị mất tất cả quyền lợi của một tỷ kheo (được kể ít nhất 94 điều), chẳng
hạn không được sống chung mái nhà với bạn tu, không được đi đến nơi nào
không có tỷ kheo, phải tŕnh tội với tăng khách, trong mọi sinh hoạt lớn
nhỏ phải luôn chọn phần thiệt tḥi.
Trong lúc đang chịu phạt, tỷ kheo phạm thêm tội Tăng Tàn khác th́ thời
gian cách ly trước đó phải được tính lại từ đầu, như chưa trải qua ngày
nào. Pàli gọi đây là trường hợp Mūlāyapatikassanā (Hồi tố).
Trong trường hợp tỷ kheo phạm từ hai tội Tăng Tàn trở lên th́ thời gian
chịu phạt cách ly sẽ dựa trên thời gian che dấu của tội nào lâu nhất.
Thuật ngữ gọi là trường hợp Agghasamodhānaparivāsa (Chiết trọng cấm
pḥng).
Trường hợp tỷ kheo không nhớ được số tội Tăng Tàn đă phạm là bao nhiêu
hay thời gian đă che dấu là bao lâu th́ chư tăng nên đề nghị đương sự
đưa ra con số phỏng định mà ḿnh có thể nhớ chừng để chịu phạt. Luật gọi
đây là trường hợp Suddhantaparivāsa, nôm na là thời gian cấm pḥng tính
từ trí nhớ phút cuối (Chung lượng cấm pḥng).
Khi tỷ kheo hoàn tục hay bị mất trí, bị trọng bệnh lúc chưa hết hạn chịu
phạt cấm pḥng th́ sau đó thời gian cấm pḥng sẽ được tái tục từ khoảng
thời gian c̣n sót lại, không phải tính lại từ đầu.
Sau khi trải qua thời gian cấm pḥng, tỷ kheo chịu thêm 6 đêm Khiêm Hạnh
(mānatta) rồi mới được tăng chúng phục hồi phẩm vị thông qua một tăng sự
với bốn bận tuyên ngôn, và tăng chúng chứng minh tuyệt đối không thể
dưới hai mươi vị.
Parivāsa (2): Giai đoạn cấm túc (tối thiểu bốn tháng) dành cho
một tu sĩ ngoại giáo muốn thọ đại giới. Trong thời gian này, đương sự
không được đi sớm về khuya trong làng xóm, đi đứng luôn minh bạch và có
tŕnh báo, không lui tới với các đối tượng nhạy cảm như ni chúng, gái
già, góa phụ hay người vô căn. Cộng thêm vào đó là thái độ tha thiết tu
học, đương sự mới được tăng chúng cùng cứu xét cho thọ đại giới. Đối với
tu sĩ phái lơa thể, trước khi cho cấm túc, phải buộc mặc lại y phục kín
đáo. Với người để nhiều râu tóc, cũng nên cho cạo sạch.
Theo Mahāvagga, chỉ có hai trường hợp ngoại lệ được đức Phật đặc cách bỏ
qua bốn tháng cấm túc là những người xuất thân Thích Tộc và những du sĩ
bện tóc (jaṭila) tin theo nghiệp lư (kammavādī).
Pariveṇa: Nội đ́nh, sân trong của một khu nhà (như nhà tắm hay
nhà cầu), chung quanh có tường vây bọc. Luật định tỷ kheo phải giữ sạch
khu vực này.
Paridūsaka: Người dị dạng, có ngoại h́nh dễ khiến người khác sợ
hăi hay có dị cảm (Theo Samantapāsādikā: Yo attano virūpatāya parisaṃ
dūseti). Hạng này không được thọ đại giới.
Parissāvana: Tấm vải lọc nước loại lớn, có thể đi chung một khung
gọng.
Palālapītha: Loại ghế lót bằng rơm, tỷ kheo có thể dùng.
Paligha: Cây song hồng để gài cửa.
Palibodha: Xem chữ Kaṭhina.
Pallanka: Loại ghế có chạm khắc h́nh thú vật, không hợp luật. Chữ
này cũng dùng để gọi thế ngồi kiết già. Tỷ kheo ni không được phép,
nhưng lúc bệnh có thể ngồi thế bán già (aḍḍhapallaṅka).
Palattha, Palatthikā: Cách ngồi bó gối, hai tay ṿng lấy đầu gối,
gọi là Hatthapalattha. Nếu cũng cách ngồi tương tự nhưng lấy y quấn kín
toàn thân, gọi là Dussapalattha. Tăng ni không được ngồi cách ngồi trong
chỗ dân cư. Tội Tác Ác.
Pavattinī: Vị ni sư làm thầy tế độ cho người khác thọ đại giới.
Pavāraṇā: Thường được dịch là Tự Tứ, một tăng sự thực hiện ngay
sau ngày ra hạ của tỷ kheo, để từng vị nói lên lời yêu cầu (pavāreti)
tập thể chỉ ra những lầm lỗi của ḿnh trong suốt mùa an cư, bắt đầu từ
vị lớn nhất dần đến vị nhỏ nhất (tính theo năm tu). Luật định tất cả tỷ
kheo trong tăng sự này phải ngồi chồm hổm (ukkutikā), trừ trường hợp cá
biệt do già yếu hay bệnh hoạn.
Có hai ngày để làm Tự Tứ là Cātuddasikāpavāraṇā (Tự Tứ Ngày Mười Bốn
Tháng Chín) và Paṇṇarasikāpavāraṇā (Tự Tứ Ngày Rằm Tháng Chín). Phật
Giáo Bắc Truyền th́ nhập hạ hay Tự Tứ đều làm trước hai tháng.
Những tỷ kheo ṭng hạ chung một địa điểm th́ phải làm lễ Tự Tứ chung một
nơi, không được chia nhóm. Khi mắc trọng sự không thể đến họp mặt cùng
tập thể, tỷ kheo nên gửi lời Tự Tứ qua một bạn tu. Từng có trường hợp tỷ
kheo bệnh nặng được khiêng đến trước tăng chúng để dự lễ Tự Tứ, khi
đương sự yêu cầu.
Ngoài trường hợp Saṅghapavāraṇā (Tăng Tự Tứ) gồm từ năm tỷ kheo trở lên,
c̣n có Gaṇapavāraṇā (Chúng Tự Tứ) gồm từ bốn vị trở xuống và
Puggala-pavāraṇā (Cá nhân Tự Tứ) chỉ có một tỷ kheo tự làm một ḿnh bằng
câu nguyện Ajja me pavāraṇā (hôm nay là ngày Tự Tứ của mỗi ḿnh ta).
Tỷ kheo chưa sám hối hết các tội đă phạm, không được dự lễ Tự Tứ. Luật
gọi đây là trường hợp Pavāra-ṇāṭhapana (Thất Cơ Tự Tứ). Và bên cạnh đó
c̣n có một số đối tượng khác, kể gọn là không phải tỷ kheo, đều không
đuợc dự lễ Tự Tứ. Lời Tự Tứ phải được lập lại ba lần mới hợp luật, nhưng
trong trường hợp khẩn cấp như có sự biến bất trắc nào đó, th́ một lần
cũng đủ. Ngay sau lễ Tự Tứ, tỷ kheo có quyền đi đâu cũng được, không
giới hạn xa gần.
Riêng các tỷ kheo ni th́ không được dự lễ Tự Tứ của tăng chúng nhưng
trong lễ Tự Tứ của họ th́ phải thỉnh tội nơi tỷ kheo tăng để được nghe
chỉ lỗi. Sau lễ Tự Tứ, tỷ kheo ni không được đi xa quá 6 Do-Tuần. Tội Ba
Dật Đề.
Trong trường hợp có rắc rối trong tăng chúng khiến không thể tiến hành
lễ Tự Tứ trong hai ngày 14 hoặc rằm tháng chín được, th́ khi mọi sự đă
ổn thỏa, lễ Tự Tứ có thể dời lại bất cứ ngày nào trước rằm tháng mười.
Luật gọi lễ Tự Tứ này là Samaggīpavāraṇā (Tăng Hoà Tự Tứ).
Trong cả Nam Truyền ĐTK cũng dùng chữ Tự Tứ, đó có thể là cách dung hợp
chữ dịch xưa. Theo thiển ư của người dịch tập từ vựng này (GN), nếu xét
nghĩa chữ Pavāraṇā trong trường hợp này là sự yêu cầu người khác chỉ lỗi
cho (từ động từ Pavāreti: Yêu cầu) th́ chữ Thỉnh Tội có lẽ cũng là một
chọn lựa không đến nổi xoàng. Một lẽ nữa, chữ Tứ (gồm Thứ trên Tâm dưới)
trong Tự Tứ dường như không nói ra được cái nghĩa cần có ở đây.
Pavāraṇādāna: Khi tỷ kheo mắc trọng sự không thể đến dự lễ Tự Tứ
th́ có thể nhắn lời Thỉnh Lỗi (pavāraṇā) với chư tăng qua trung gian một
bạn tu. Luật gọi đây là trường hợp Gián Tiếp Tự Tứ (pavāraṇādāna).
Pavāraṇāsaṅgaha: Trong trường hợp các tỷ kheo cảm thấy hoan hỷ
với nơi chốn an cư hay đạo t́nh ở đó và muốn kéo dài thời gian cộng trú
với nhau th́ có thể dùng Nhị Tác Bạch tuyên ngôn để cùng nhất trí dời
lại ngày Tự Tứ trễ một tháng. Trong một lễ Tự Tứ triển hạn như vậy, tất
cả tỷ kheo ṭng hạ đều phải có mặt, không được phép nhắn gửi trung gian.
Lễ Tự Tứ này được kết hợp chung với tăng sự Bố Tát, tức phải có mục
trùng thuật Giới Bổn. Do đó Luật gọi trường hợp Tự Tứ này là
Pavāraṇāsangaha, Nhị Dụng Tự Tứ hay Lưỡng Nghi Tự Tứ, tức lễ Tự Tứ hai
trong một.
Pavāranahāraka: Tự Tứ Sứ Giả, từ gọi vị tỷ kheo mang lời nhắn của
bạn tu bị bệnh đến tŕnh tăng trong ngày Tự Tứ. Sơ thất trong trách
nhiệm, tội Tác Ác.
Pavārita: Thuật ngữ dùng gọi thời điểm vị tỷ kheo không được tiếp
tục nhận thêm thực phẩm: Lúc đang thọ thực (āsanaṃ paññāyati), đồ trong
bát thuộc về thức ăn loại cứng như cơm, bánh, thịt, cá (bhojanam
pannāyati), thí chủ trước c̣n đang hiện diện trong khoảng cách dưới ba
khuỷu tay (hatthapāse thito), thí chủ trước c̣n đang sẳn sàng để tiếp
thêm thức ăn (abhiharati) và khi tỷ kheo đă lên tiếng từ chối hoặc dùng
cử chỉ ra hiệu dừng lại (Patikkhepo paññāyati).
Tỷ kheo nhận thêm thức ăn trong năm truờng hợp trên sẽ bị tội Ba Dật Đề.
Chữ này cũng dùng gọi tỷ kheo vừa nói lời Tự Tứ giữa tăng chúng.
Passāvakumbhī: Bô đựng nước tiểu, hợp luật.
Passāvadoṇikā: Máng dẫn nước tiểu trong nhà xí, hợp luật.
Passāvapādukā: Ghế để chân trong nhà cầu, hợp luật.
Pākāra: Rào hay vách tường bao quanh một trú xứ, có thể bằng gỗ
hay gạch đá. Hợp luật.
Pācittiya: Một trong các loại học giới của tỷ kheo, Hán âm là Ba
Dật Đề. Bộ Parivàra giải thích là loại tội trạng vừa đủ khiến tâm người
bị bất an (cittasa-mohanaṭṭhānam tenetam iti vuccati). Có đến 92 học
giới Ba Dật Đề, và có thể được giải trừ bằng một trong ba phép Diện Tiền
(sammukhavinaya) tức đối mặt chư tăng để tập thể cùng giải quyết, Xưng
tội (patiññātakaraṇa) tức nói ra chuyện bậy của ḿnh trước tập thể hay
một tỷ kheo nào đó rồi sám hối, Thảo Phú (tiṇavatthāraka) tức chư tăng
nhất trí bỏ qua chuyện đó như việc lấy cỏ khô phủ lên vật ǵ không đáng
nh́n.
Pāṭidesanīya: Tội Ưng Phát Lộ, gồm 4 điều bên tăng và tám điều
bên ni, liên quan đến việc yêu cầu cư sĩ dâng cúng thực phẩm cho ḿnh.
Đương sự chỉ cần đến xưng tội trước một tỷ kheo khác bằng câu nói ngắn
gọn: Gārayhaṃ āvuso (bhante) dhammaṃ āpajjaṃ asappāyaṃ pāṭidesanīyaṃ taṃ
paṭidesemi: Thưa hiền giả, tôi đă phạm phải một lầm lỗi đáng trách, bất
xứng, cần phải tự thú, nay tôi xin đối trước hiền giả mà phát lộ tội
này.
Pāṭipadika(bhatta): Bữa ăn được cúng dường sau ngày Bố Tát.
Pāṭimokkha: Thường được gọi là Giới Bổn hay Biệt Giải Thoát Giới,
chữ gọi chung 227 học giới của tỷ kheo hay 311 học giới của tỷ kheo ni.
Ngoài việc chấp tŕ các học giới, mỗi nửa tháng các tăng ni phải họp mặt
một lần để trùng thuật và lắng nghe Giới Bổn như một cách ôn tập và cũng
để duy tŕ đạo t́nh (samaggī).
Giới Bổn của tỷ kheo gồm tám phần: Ba La Di, Tăng Tàn, Bất Định, Xả Ba
Dật Đề, Ba Dật Đề, Ưng Phát Lộ, Ưng Học Pháp và Tịnh Tranh. Giới Bổn của
tỷ kheo ni chỉ có bảy phần, không có hai điều Bất Định.
Pāṭimokkha-uddesa: Việc trùng thuật Giới Bổn mỗi nửa tháng của
tăng ni. Nguyên lai c̣n có một loại Giới Bổn nữa cũng được tuyên thuật
trong buổi sơ thời Phật giáo là loạt Phật ngôn bắt đầu với câu
Sabbapāpassa akaranam… (Chư ác mạc tác…) và Khanti param tapo (Nhẫn nhục
đệ nhất hạnh) và kết thúc ở câu Buddhānasāsanam. Xem thêm trong Kinh
Tụng Pāli bài Ovādapāṭimokkhasankhepa. Trùng thuật loạt Phật ngôn này
được gọi là Ovādapāṭimokkha-uddesa (trùng thuật huấn từ giới bổn), và
trùng thuật các học giới vừa kể phần trên là Ānāpāṭimokkha-uddesa (trùng
thuật môn quy giới bổn).
Việc trùng thuật Môn Quy Giới Bổn đúng phép phải đầy đủ các học giới lớn
nhỏ, nhưng trong trường hợp gặp chuyện bất trắc như có một đe dọa nào đó
đối với cá nhân hay tập thể tỷ kheo về tính mạng hay phạm hạnh (Luật kể
rơ mười điều) th́ buổi trùng thuật Giới Bổn có thể chỉ là một hai phần
lược tụng tượng trưng.
Từ đó có năm cách trùng thuật Giới Bổn: 1) Giữ nguyên phần vấn đáp duyên
sự (nidāna) rồi lược tụng các phần sau; 2) Chỉ lược tụng từ 13 giới Tăng
Tàn trở về sau; 3) Luợc tụng từ hai điều Bất Định; 4) Chỉ lược tụng phần
Vitthāruddesa (quảng thuật); 5) Trùng thuật đầy đủ không bỏ lược bỏ bất
cứ phần nào.
Buổi đầu, việc trùng thuật Giới Bổn là việc của vị lớn nhất trong tăng
chúng (chẳng hạn có một thời gian dài chính đức Phật đảm trách việc
này), nhưng dần dần về sau và đến nay th́ việc này có thể giao cho một
tỷ kheo có khả năng.
Có một số việc phải làm (pubbakicca) trước khi trùng thuật Giới Bổn là
các tỷ kheo phải chuyển đạt đầy đủ lời nhắn nhất trí (chanda) của bạn tu
đồng trú không đến dự lễ được (chanda-akkhāna), Chuyển đạt lời tự nhận
thanh tịnh của bạn tu vắng mặt (pārisuddhi-akkhāna), xác định ngày tháng
và điều kiện thời tiết lúc sắp thực hiện tăng sự (utu-akkhāna), xác định
số luợng tỷ kheo tham dự tăng sự (bhikkhugana-akkhāna) và đề đạt thỉnh
nguyện nào đó của ni chúng (nếu có), như họ xin được giáo hối
(ovāda-akkhāna).
Cũng như hầu hết các tăng sự khác, buổi trùng thuật Giới Bổn chỉ gồm
toàn các tỷ kheo thanh tịnh. Tỷ kheo đang chịu phạt và những ai chẳng
phải tỷ kheo đều bị cấm ngặt.
Pāṭimokkha-Thapana: Việc hoăn lại nghi thức trùng thuật Giới Bổn
do các tỷ kheo phát hiện trong tăng chúng có người bất xứng, tức một cá
nhân không thanh tịnh. Ngay lúc đó phải có một đại diện lên tiếng tŕnh
báo (ñattikamma) với tập thể và việc trùng thuật Giới Bổn lập tức được
đ́nh chỉ, chờ cho nhân vật kia rời khỏi chỗ tăng sự.
Pātheyya: Thức ăn hay một ít tiền nong (hirañña) mang theo trong
những chuyến đi xa. Tỷ kheo được phép chuẩn bị vài món như vậy trước khi
đi qua những vùng hẻo lánh. Trường hợp có đệ tử (kappiyakāraka) là cư sĩ
đi chung th́ vẫn là tốt nhất. Theo Mahāvagga 258.
Pādakathalikā: Chậu hay thau đựng nước dùng để rửa chân, tỷ kheo
được phép dùng. Tăng chúng thời xưa thường đi chân trần nên đây là một
món vật dụng rất phổ biến.
Pādakhīlābādha: Chứng chai da ở chân.
Pādaghaṃsanī: Đồ chà chân nói chung, có thể là bàn chải hay một
miếng bọt biển.
Pādacchinna: Người cụt chân, không được thọ đại giới. Nhưng nếu
chuyện dĩ lỡ, giới phẩm vẫn thành tựu, chỉ thầy tổ phạm Tác Ác.
Pādapītha: Loại ghế thấp dùng để kê chân sau khi rửa. Lần đầu gặp
lại Thế Tôn ở Lộc Uyển, nhóm Kiều Trần Như sau khi lấy nước rửa chân cho
Ngài, cũng đă đem lại một chiếc ghế kiểu này để tỏ ḷng tôn kính. Ngày
nay, trên một đồng tiền vàng thời Gupta vừa được khai quật, người ta
cũng thấy h́nh ảnh nhà vua đang ngồi đặt chân lên một chiếc ghế giống
vậy.
Pādapuñchanī: Tấm thảm chùi chân, thường đặt ở cửa.
Pādabhañjana: Loại dầu dùng bôi ở chân để trị da khô.
Pādukā: Nói chung những loại dép cầu kỳ, lạ mắt hay đắt tiền của
người thế tục, có sử dụng các chất liệu như kim loại, bảo thạch, gỗ, cỏ
hay lá khô. Tỷ kheo không được phép xài.
Chữ này cũng được dùng để gọi loại bục gỗ kê chân thường đặt trong nhà
cầu, tỷ kheo được phép xài.
Pāna: Chữ gọi chung một số loại nước uống tỷ kheo có thể dùng
buổi chiều, như nước cốt trái cây ép tươi. Nhưng Luật chỉ cho uống
nguội, không được đun nóng. Nếu cần thiết, chỉ có thể đem phơi nắng
trước khi uống.
Pānīyamaṇḍapa: Pḥng uống nước, cũng có thể là lều chứa nước
trong tự viện.
Pānīyasaṅkha: Ca hay cốc đựng nước, tỷ kheo được phép dùng.
Pānīyasarāvaka: Chung hay chén nhỏ để uống nước. Hợp luật.
Pānīyasālā: Chỗ chứa nước uống hay tạm hiểu là trà thất bây giờ,
trong một tự viện.
Pāparogī: Người mắc một chứng nan y nào đó bất luận nhưng quanh
năm phải chịu cảnh dơ dáy, tanh hôi, khó nh́n. Hạng này không được thọ
đại giới. Nhưng chuyện dĩ lỡ, giới phẩm vẫn thành tựu, chỉ riêng thầy tổ
phạm Tác Ác.
Pāpasamācāra: Sở hành bất xứng trong Sa Môn hạnh, chẳng hạn việc
lập vườn trồng hoa để thu hút cư sĩ. Trường hợp nặng nhất (được tăng
chúng ngăn cản ba lần vẫn không nghe), phạm tội Tăng Tàn.
Pāmaṅga: Samantapāsādikā giải thích là Palambakasutta, gọi chung
những sợi chỉ được đeo, quấn, cột trên người nhằm để trang sức hay làm
dáng. Dĩ nhiên không hợp luật.
Pārājika: Loại trọng giới nặng nề nhất của tăng ni, phạm vào lập
tức trở thành cư sĩ và suốt đời không thể tái thọ đại giới. Sớ giải
Kaṅkhāvitaranī giải thích: Pārājiko hotīti parājito hoti parājayaṃ
āpanno (Ba-La-Di có nghĩa là bại trận, là thua trắng, là mất hết cho đối
phương). Từ Hán Việt có một chữ tuy chẳng tương đương nhưng có thể miễn
cưỡng tạm dùng để dịch chữ Pārājika là Hủ Bại. Trong Nam Truyền Đại Tạng
Kinh (cuốn số 1, các trang 61-100-125-264) chỉ dùng hai chữ Ba-La-Di và
Bất-Cộng-trụ, tức cũng hoặc âm hoặc giải, không phải là dịch.
Tỷ kheo có bốn điều Ba-La-Di là dâm dục, trộm cướp, sát nhân và mạo nhận
hiền thánh. Tỷ kheo ni có tám điều Ba-La-Di, là cộng thêm bốn chuyện:
Xúc chạm nam nhân từ cổ xuống đến đầu gối (ubbhajānu-maṇḍalikā), dấu tội
Ba-La-Di giùm tỷ kheo ni khác (Vajjapaticchādikā), kết bè cùng tỷ kheo
đang bị chư tăng phạt cách ly bằng tăng sự Ukkhepanīyakamma
(ukkhittānuvattikā), tiếp cận nam nhân với dâm tưởng (aṭṭhavatthukā).
Luật tạng mô tả tội cuối cùng này là một quá tŕnh tiếp cận thứ lớp qua
tám giai đoạn từ lúc hẹn ḥ chỗ khuất cho đến việc sờ mó. Mỗi giai đoạn
phạm một lần Trọng Tội, kết thúc giai đoạn thứ tám th́ phạm tội
Ba-La-Di.
Sớ Kankhāvitaranī có liệt kê những hạng người được gọi chung là Hủ Bại
(parājikapuggala), không thể đạt được bất cứ thành tựu nào đáng kể trong
Phật pháp nữa. Tổng cộng là 24 trường hợp, có thể nêu ra đại khái ở đây
một ít như tăng ni đă phạm tội Ba-La-Di, người có vấn đề về giới tính
(phi nam phi nữ), người đă từng bỏ Phật giáo để theo ngoại đạo, người
từng trộm tăng tướng bằng cách tự đắp y (theyyasaṃ-vāsaka), người phạm
vào một trong năm tội đại nghịch (giết chết cha mẹ hay La hán, làm thân
Phật chảy máu, chia rẽ tăng chúng), người từng sách nhiễu t́nh dục tỷ
kheo ni, người nữ từng khẩu dâm,…
Đức Phật đă so sánh t́nh trạng bất khả phục hồi của một tăng ni đă phạm
tội Ba-La-Di bằng h́nh ảnh một người đă bị chặt đầu, một chiếc lá đă ĺa
cành, một ḥn đá đă vỡ đôi hay một cây thốt nốt đă bị mất ngọn. Tăng ni
đă phạm tội Ba-La-Di trọn đời không bao giờ được đắp y trở lại.
Pārivāsika: Chữ gọi vị tỷ kheo đang trong thời gian chịu phạt cấm
pḥng v́ tội Tăng Tàn. Suốt thời điểm này đương sự mất hết mọi quyền lợi
của một tỷ kheo thanh tịnh, như không được tham dự hầu hết các tăng sự,
không được để Sa-di phục vụ, không được thuyết giảng hay giáo giới cho
ai, trong mọi sinh hoạt phải tự đặt ḿnh vào chỗ thiệt tḥi thua thiệt,
phải tŕnh tội với các tăng khách, phải nhắc lại tội trạng của ḿnh
trong ngày Bố tát hay Tự Tứ, không được sống chung một mái che với các
tỷ kheo khác, phải khiêm cung trước tất cả tỷ kheo thanh tịnh bất kể hạ
lạp. Sớ giải Samantapāsādikā kể đến bốn mươi chín chuyện thiệt tḥi của
một tỷ kheo đang bị cấm pḥng.
Tuy nhiên, các tỷ kheo thanh tịnh vẫn nên nhớ đến vấn đề hạ lạp để giữ
lại chút trân trọng đối với vị đang chịu cấm pḥng trong những trường
hợp như ở các tăng sự Phát Lộ, Tự Tứ, hoặc việc phân phát y áo, thực
phẩm.
Cullavagga có nói đến ba trường hợp thời gian cấm pḥng phải bị tính lại
từ đầu là cố ư sống chung mái che với tỷ kheo thanh tịnh, hoặc đến sống
một nơi không có tỷ kheo thanh tịnh và không chịu tŕnh tội với khách
tăng (Tayo kho parivāsikassa bhikkhuno ratticchedā sahavāso vippa-vāso
anārocanā).
Tỷ kheo đang bị cấm pḥng có quyền v́ hoàn cảnh đặc biệt nào đó mà trực
tiếp thông báo với tăng chúng hay một tỷ kheo để xin tạm ngưng chuyện
cấm pḥng, nhưng ngay khi có thể bắt đầu chịu phạt trở lại th́ không
được chậm trễ.
Chữ Parivāsika cũng được dùng để gọi một người xuất thân tu sĩ ngoại
giáo đang trải qua bốn tháng cấm túc thử thách trước khi được thọ giới
tỷ kheo.
Parivāsikachanda: Khi tỷ kheo mắc trọng sự không thể đến tham dự
một tăng sự với tập thể th́ có thể nhắn lời đồng t́nh hay nhất trí
(chanda) với chư tăng qua trung gian một tỷ kheo khác. Đôi khi lời nhắn
đó chưa được tŕnh tăng th́ tăng sự kia v́ lư do nào đó bị đ́nh chỉ th́
lời nhắn nọ lúc bấy giờ được gọi là Parivāsikachanda, tạm dịch là lời
nhắn bị bảo lưu và không c̣n giá trị nữa. Khi tăng sự được tái tục th́
vị tỷ kheo bận việc kia phải nhắn lại lần hai, nếu đến lúc này vẫn chưa
rảnh để phó hội.
Parivāsikapārisuddhi: Ở đây là trường hợp tăng sự Phát Lộ mỗi nửa
tháng. Nếu lời nhắn xác tịnh (pārisuddhi) của tỷ kheo chưa được tŕnh
tăng th́ lễ Phát Lộ bị hoăn, lúc tăng sự được tái tục, đương sự phải gửi
lại lời nhắn xác tịnh khác.
Pārisuddhi: Nghĩa đen là sự thanh tịnh. Nhưng có trường hợp mang
nghĩa đặc biệt, tạm dịch là lời Xác Tịnh. Khi tỷ kheo có việc không thể
cùng đến dự lễ Phát Lộ với tăng chúng, th́ có thể gửi lời xác tịnh qua
một tỷ kheo khác để xác định với chư tăng rằng ḿnh trong sạch. Đó cũng
là một cách Bố Tát của tỷ kheo. Không đến được nhưng cũng không gửi lời
Xác Tịnh, hay nhận chuyển lời Xác Tịnh của người khác nhưng không tŕnh
lại với tăng chúng, đều phạm tội Tác Ác.
Việc nhắn lời Xác Tịnh được gọi là Pārisuddhidāna, vị nhận chuyển lời
Xác Tịnh gọi là Pārisuddhihāraka (Tịnh Đàn Sứ Giả). Trường hợp vị tỷ
kheo sau khi nhận chuyển lời Xác Tịnh của bạn tu đến cho tăng chúng rồi
lại bàn giao cho người khác, cứ thế qua trung gian bốn vị trở lên, lời
Xác Tịnh kia bị xem như đă không được tŕnh tăng và được gọi là
Bilālasankhali-kāpārisuddhi, lời Xác Tịnh Chuyền Tay (như một xâu chuỗi
nhiều hạt). Theo Kankhāvitaranī.
Pārisuddhi-uposatha: Cũng gọi là Gaṇa-uposatha, tức lễ Phát Lộ
hay Bố Tát của một nhóm tỷ kheo dưới bốn vị. Gọi là Pārisuddhi-uposatha
(Xác Tịnh Bố Tát) v́ chỉ trong trường hợp này các tỷ kheo mới tuyên đọc
các lời Xác Tịnh.
Pārisuddhihāraka: Xem chữ Pārisuddhi.
Pāvāra: Khăn choàng, có thể bằng sợi bông vải (cotton), len
(wool) hay lụa (silk). Tỷ kheo được phép dùng.
Pāvurana: Áo khoát ngoài của tỷ kheo ni. Gồm hai loại: Áo dày
nặng (garupāvurana) cho mùa lạnh và áo mỏng nhẹ (lahu-pāvurana) cho mùa
nóng. Tỷ kheo ni có thể xin áo khoát ngoài để mặc, nhưng không được xin
loại đắt tiền. Áo khoát mùa lạnh không được đắt hơn mười sáu đồng
Kahāpana và áo khoát mùa nóng không được đắt hơn mười đồng Kahāpana,
đồng thời chất liệu chỉ quần quanh ba loại sợi bông, len, lụa. Áo khoát
không đúng những tiêu chuẩn hợp luật trên đây phải bị xả bỏ.
Pāsaka: Khâu gài nút ở góc y nội hay chéo y vai trái giúp giữ y
không bị tuột sút. Y may tại Việt Nam không có loại nút gài (gaṇṭhika)
này.
Nút gài phải cách góc vuông của y từ bốn đến tám ngón tay.
Pāsakaphalaka: Phần vải may dằn lên mép y để sau đó may chỗ gài
nút (nút gài nằm trên chỗ vải dày sẽ chắc chắn hơn trên chỗ mỏng).
Pāsāda: Kiểu nhà có nền cao, mái ṿm và cột xếp thành dăy. Tỷ
kheo được phép xây dựng và cư ngụ trong loại nhà này, nhưng nếu công
tŕnh do chính chư tăng xây cất th́ thời gian thi công không được kéo
dài quá mười hai năm.
Piṭṭhakhādanīya: Loại bánh ngọt làm bằng bột lúa mạch.
Piṭṭhakhali: = Piṭṭhamadda.
Piṭṭhamadda: Một loại bột làm bánh, đôi lúc vẫn được dùng để tô
tường.
Piṭṭhasanghāta: Khung đỡ bên trong cánh cửa, giúp vững chắc hơn.
Khi cửa quá mỏng yếu, tỷ kheo được phép gia cố thêm phần này.
Piṇḍa: Miếng hay vắt thực phẩm (thức ăn đặt bát thường chỉ chút
ít, gọn nhẹ, nên chữ Pāli này vẫn được dùng để gọi chung những thức ăn
cúng dường cho tỷ kheo khất thực).
Piṇḍacārikavatta: Những việc cần nhớ của một tỷ kheo sống bằng
hạnh khất thực. Chẳng hạn y áo chỉnh tề lúc khất thực, ư tứ lúc đứng lại
trước nhà ai, không nh́n mặt người đặt bát cùng những việc phải làm tại
trú xứ trước và sau khi đi khất thực về. Xem thêm trong Cullavagga.
Piṇḍapāta: Đồ ăn khất thực, bao gồm các món cơm-bánh-cá-thịt,
nghĩa là chay mặn đủ cả. Theo Pācit.98, Samantap. 861, Kankhavit.
220-281. Do chỉ được nhận trước giờ ngọ, nên cũng được gọi là
Yāvakālika. Tỷ kheo không được thọ thực món ăn khất thực do chính tay tỷ
kheo ni chuẩn bị. Tội Ba Dật Đề.
Pitughātaka: Người giết chết cha ruột của ḿnh, vĩnh viễn không
được thọ đại giới. Dù cưỡng cầu, cũng không thành tựu giới phẩm.
Pīṭha: Ghế ngồi loại đơn giản nói chung, tỷ kheo tránh dùng ghế
cao hơn tám ngón tay đức Phật (sugataṇgula), phần chân ghế quá quy định
phải được cắt bỏ. Ghế ngồi của tăng ni cũng không được nhồi bông. Trong
trường hợp tại nhà cư sĩ, có thể ngồi trên giường ghế nhồi bông, nhưng
không được nằm lên.
Luật Tạng có kể đến vài loại ghế mà tỷ kheo có thể dùng: Masārakapītha
(loại ghế có các chân chụm lại h́nh chữ V ngược), Buṇḍikābaddhapītha
(ghế được tiện ra từ một khối gỗ nguyên), Kulīrapādakapītha (ghế có các
chân khuỳnh ra như chân cua), Āhaccapādakapītha (ghế có các chân ghép
vào một mảnh ván phẳng bằng các lỗ mộng), Bhaddapītha (ghế để y trong
nhà tắm; chữ này cũng dùng gọi loại ghế làm bằng mây), Pīṭhikā (ghế bọc
vải), Eḷakapādakapītha (ghế gỗ có chân chạm khắc trông như cẳng thú),
Āmaḷakavaṭṭikapītha (ghế có nhiều hơn bốn chân), Palālapītha (ghế có
nhồi rơm), Onandhapītha (ghế nệm). Nếu là ghế được dâng chung cho chư
tăng, tỷ kheo phải biết ǵn giữ khi dùng, sử dụng phung phá sẽ bị tội Ba
Dật Đề.
Pīthikā: Ghế bọc vải.
Puggala-uposatha: C̣n gọi là Adhiṭṭhāna-uposatha, tức Bố Tát Cá
Nhân hay Phát lộ một ḿnh bằng một câu nguyện ngắn trong ngày Bố Tát
không có thêm tỷ kheo khác bên cạnh.
Pupphadasā-cīvara: Lá y có h́nh bông hoa ở mép viền, không hợp
luật, tội Tác Ác.
Puppharajana: Màu nhuộm làm từ bông hoa.
Puppharasa: Mật hoa, tỷ kheo có thể dùng buổi chiều.
Pubbakaraṇa: Những chuẩn bị trước khi thực hiện một tăng sự.
Chẳng hạn trước lễ Phát Lộ tỷ kheo phải hoàn tất một số chuẩn bị gồm các
việc sắp sẳn nước uống, tọa cụ, đèn đóm và lau quét sạch sẽ chỗ chư tăng
sẽ ngồi.
Pubbakicca: Xem chữ Pāṭimokkha.
Purimikāvassūpanāyika: Xem chữ Pacchimikā-vassū-panāyika.
Purebhattam: Thời gian trước bữa ăn trưa, tính từ lúc mặt trời
mọc đầu ngày (aruṇuggamanaṃ upādāya yāva majjhantikā), thời điểm tỷ kheo
có thể thọ thực lúc nào cũng được.
Pūga: Theo Sớ Samantapāsādikā và Vimativinodanītīkā th́ chữ này
được giải thích bằng từ Dhammagaṇa (với định nghĩa là Sāsane loke và
anekappakārapuñña-kārakagaṇo) tạm hiểu là một cộng đoàn hay ủy ban
chuyên trách các vấn đề xă hội mà thời nào và ở đâu cũng có, với nhiệm
vụ tương đương nhau, nhưng có tên gọi khác nhau. Ni chúng trước khi
truyền đại giới một phụ nữ phải xét kỹ nhân thân của đương sự xem có vấn
đề chi không rồi báo cho bộ phận chuyên trách kia biết qua. Nếu tỷ kheo
ni cố t́nh dấu diếm gốc tích của một phụ nữ có vấn đề pháp lư rồi cho
thọ giới th́ phạm tội Tăng Tàn.
Pokkharaṇī: Hồ ao chứa nước dùng mỗi ngày. Chữ này cũng dùng để
gọi loại bồn nước đặt trên bờ. Có người cúng dường, tỷ kheo được phép
dùng.
Potthaka: Loại vải thô dày làm từ xơ cây Makaci, tăng ni không
được phép dùng.
Phaṇaka: Lược chải tóc, tăng ni dĩ nhiên không có quyền sử dụng,
tội Tác Ác.
Phaṇadasācīvara: Lá y có đường viền nh́n như da rắn. Không hợp
luật, tội Tác Ác.
Phaṇahatthaka: Người có những ngón tay dính vào nhau nh́n như
cánh dơi (Samantapāsādikā giải thích: Yassa vaggulipakkhakā viya
aṇguliyo sambaddhā honti). Hạng này không được thọ đại giới. Nhưng nếu
dĩ lỡ, giới phẩm vẫn thành tựu, chỉ thầy tổ phạm Tác Ác. Người có bàn
tay dư ngón cũng nên cắt bỏ bớt và chờ lành lặn mới thọ đại giới
(Adhikangulim chinditvā phāsukam katvā pabbājetabbo).
Phalakacīra: Y áo ghép từ nhiều nhiều mảnh vỏ cây, thường được tu
sĩ ngoại giáo thời xưa sử dụng. Tỷ kheo không được dùng, Trọng Tội. Loại
y phục này cũng nằm trong số y phục bị gọi là Titthiyadhaja (lá cờ ngoại
đạo).
Phalakhādanīya: Từ gọi chung những loại trái cây được dùng như
thực phẩm (không phải thuốc trị bệnh). Luật kể rất nhiều, ta thấy trong
đó có nhiều thứ trái quen thuộc như mít (panasa), dừa (nālikera), xoài
(amba),..
Phalabhājaka: Vị tỷ kheo có trách nhiệm phân phát trái cây trong
tăng chúng.
Phalabhesajja: Từ gọi chung những loại trái cây làm thuốc trị
bệnh, tỷ kheo có thể cất giữ bao lâu cũng được.
Phalarajana: Thuốc nhuộm y làm từ trái cây.
Phalarasa: Nước trái cây, có thể uống buổi chiều. Nhưng nước
chiết xuất từ ngũ cốc (dhaññarasa) như sữa bột từ nếp, đậu, gạo rang,
hay nước cơm, nước cháo th́ không thể dùng sau giờ ngọ.
Phānita: Mật mía tươi (Samantapāsādikā: ucchurasaṃ upādā-ya…
phānitaṃ ti vuccati). Tỷ kheo có thể dùng làm thuốc và được quyền cất
giữ trong bảy ngày. V́ được xem là thứ phụ gia cho các thức ăn đắt tiền,
tăng ni không được xin mật mía tươi để dùng như thực phẩm.
Phātikamma: Nghĩa đen là sự bù giá. Khi tỷ kheo trao đổi một vật
có giá trị như chăn, thảm đắt tiền từ bạn tu th́ nên đưa lại một món có
giá trị tối thiểu cũng tương đương, không nên kém cạnh. Việc đền bù này
được gọi là Phātikamma.
Phārusapāna: Nước ép từ trái Phārusa, tỷ kheo có thể dùng buổi
chiều.
Baddhasīmā: Khu vực kiết giới có dùng vật mốc (nimitta), chẳng
hạn bốn ḥn đá đặt ở bốn góc. Có tám thứ có thể dùng làm vật mốc cho khu
vực Sīmā: Núi non, đá tảng, rừng cây, đường đi, ao hồ, g̣ mối, gốc cây.
Badhira: Người điếc, không được thọ đại giới. Nhưng nếu dĩ lỡ,
giới phẩm vẫn thành tựu, chỉ riêng thầy tổ phạm Tác Ác.
Bāhanta: Xem chữ Cīvara.
Bāhiralomī-uṇṇī: Một loại thảm có viền lông thú, không hợp luật.
Bidalaka: Cây xiên bằng tre đặt dưới khung gỗ may y (kaṭhina), để
nâng lá y lúc đang may.
Bidalamañca: Tấm vạt bằng tre hay lau sậy, dùng thay giường. Tỷ
kheo có thể sử dụng.
Bimbohana: Gối kê đầu. Kích thước của gối chỉ nên vừa đủ
(sīsappamāṇa). Luật cấm tỷ kheo dùng gối lớn quá mức cần thiết, tội Tác
Ác. Theo Cullavagga, chiều rộng của gối không quá một gang cộng bốn ngón
tay của tỷ kheo. Tỷ kheo phải biết giữ ǵn khi dùng gối kê đă được dâng
chung cho tăng chúng. Bê bối, bừa băi phạm tội Tác Ác.
Bilālasankhalikāchanda: Khi tỷ kheo mắc trọng sự không thể đến dự
tăng sự nào đó th́ có quyền gửi lời Nhất Trí (chanda) đến chư tăng thông
qua một bạn tu. Đôi lúc tỷ kheo nhận chuyển lời Nhất Trí này lại bàn
giao cho một vị khác, cứ thế qua trung gian từ bốn vị trở lên. Lời Nhất
Trí lúc này được gọi là Lời Nhắn Trôi Nổi hay Chuyền Tay như một xâu
chuỗi, và không c̣n giá trị nữa.
Bilālasankhalikapārisuddhi: Xem chữ Pārisuddhi.
Bundikābaddhapītha: Chiếc ghế được làm từ một khối gỗ nguyên,
không qua ghép nối.
Bundikābaddhamañca: Chiếc giường làm từ một khối gỗ nguyên, không
phải lắp ráp. Hợp luật.
Byatta: Vị tỷ kheo tinh thông giới luật.
Brahmadaṇḍa: Từ thường gọi là phép phạt Phạm Đàn, một h́nh thức
xử phạt giống như tẩy chay đối với tỷ kheo có thái độ phạm thượng hay
xúc phạm bạn tu ở mức nghiêm trọng. Nghi thức xử phạt được thực hiện với
tăng sự Apalokanakamma và sau đó tăng chúng không giao tiếp với đương sự
bằng bất cứ h́nh thức nào, đại khái bỏ rơi không nhắc nhở đến nữa.
Người đầu tiên bị xử phạt Phạm Đàn là tỷ kheo Channa (người từng hầu hạ
thái tử Tất Đạt và đưa ngài bỏ ngôi đi tu). Chuyện xảy ra ngay sau khi
Thế Tôn viên tịch, theo lời đề nghị của chính Ngài trước đó không lâu,
nhằm giúp vị này bỏ ư cậy công với Phật và tinh tấn tu học. Nhờ vậy, sau
đó tỷ kheo Channa (Sa-Nặc) đă chứng quả La Hán.
Bhaṅga: Một loại vải thô làm từ xơ cây Bhaṅga. Đây là một trong
sáu loại vải tỷ kheo được dùng làm y (năm loại vải kia là Khoma,
Kambala, Koseyya, Sāna và Kappāsika). Xem ở các mục từ này.
Bhaṅgodaka: Một loại thuốc nước dùng trị bệnh thống phong
(aṅgavatā), làm từ các loại lá cây nấu chung nhau. Có lẽ gần giống với
nồi xông của Việt Nam. Hợp luật.
Bhaṇḍāgāra: Kho chứa y áo hay vật dụng của tăng chúng ở một tự
viện qua một quyết định chung của các tỷ kheo với một Nhị Tác Bạch tuyên
ngôn.
Bhaṇḍāgārika(bhikkhu): Từ gọi vị tỷ kheo được tăng chúng tín
nhiệm giao cho trách nhiệm chăm sóc nhà kho của tập thể.
Bhaṇḍukamma: Việc thí phát (cạo tóc). Khi có người đến xin xuất
gia, tỷ kheo không được tùy tiện cạo tóc đương sự, phải tŕnh tăng
trước.
Bhattagga: Trai đường, pḥng ăn của các tỷ kheo trong một trú xứ.
Bhattaggavatta: Những việc tỷ kheo phải làm ở một trai đường.
Chẳng hạn việc vào ra trước sau phải theo hạ lạp, mọi sự vị nhỏ phải chờ
vị lớn và vị lớn chỉ nên bắt đầu thọ thực sau khi biết chắc tất cả mọi
người đă nhận được phần ăn. Ngay cả lúc chỉ có tăng chúng với nhau, mọi
cử chỉ sinh hoạt vẫn phải nghiêm túc, tề chỉnh, hợp nghi. Trong trường
hợp cần thiết, các tỷ kheo phải biết tùy thời chúc phúc (anumodanā) cho
thí chủ bằng một thời kinh hay pháp thoại.
Bhattuddesaka: Tỷ kheo tri phạn, người được tăng chúng giao trách
nhiệm (bằng tuyên ngôn) sắp xếp nhân sự trong các dịp trai đàn (vị nào
sẽ đi, vị nào ở lại).
Bhaddapītha: Ghế làm từ cọng thực vật (như mây, sậy, lau lách).
Bhikkhu: Thường được phiên âm là Tỷ Kheo (hay Tỳ Khiêu, Tỳ Khâu,
Tỷ Khưu, Bật-Xô), nghĩa đen là người khất thực để sống. Ở nghĩa chuyên
môn, đây là giới phẩm cao nhất trong Phật giáo. Người muốn thọ giới tỷ
kheo (gồm 227 điều) phải ít nhất hai mươi tuổi đời và không có vấn đề về
nhân thân. Sau khi tu được năm năm, nếu thông thuộc kinh luật, có thể
sống riêng một ḿnh. Khi được mười năm tu, có thể làm thầy truyền giới
cho người khác xuất gia hay làm Y-Chỉ-Sư cho người khác nương cậy về
tinh thần.
Bhikkhugatika: Người thiện nam sống gần các tỷ kheo trong một trú
xứ để gánh vác thay những việc bất tiện. Tỷ kheo nên cư xử với họ bằng
ḷng thương tưởng như thầy tṛ. Kể cả trong mùa an cư, nếu họ bệnh hoạn,
tỷ kheo cũng có thể v́ họ mà nguyện rời trú xứ, dĩ nhiên không thể quá
một tuần.
Bhikkhunī: Thường gọi Tỷ-Kheo-Ni, giới phẩm cao nhất dành cho nữ
giới trong Phật giáo. Nữ nhân muốn thọ giới Tỷ-Kheo-Ni phải ít nhất hai
mươi tuổi đời và không có vấn đề về nhân thân. Đồng thời phải trải qua
hai giai đoạn giới phẩm bắt buộc là Sa-Di-Ni (bất định lâu mau) và hai
năm Học-Nữ hay Thất-Xoa-Ma-Na (sikkhāmānā). Một Tỷ-Kheo-Ni phải giữ 311
học giới và hiện nay trong truyền thống Phật Giáo Nam Tông đă không c̣n
hệ thống ni chúng nữa (vốn đă tự biến mất từ sau thời vua A-Dục, khoảng
hơn ba trăm năm sau ngày Phật Tịch).
Bhikkhinīdūsaka: Thuật ngữ để gọi người từng sách nhiễu t́nh dục
tỷ kheo ni qua một trong ba bộ phận cơ thể của nàng (Samantapāsādikā: Yo
pakatattaṃ bhikkhunīnaṃ tinnaṃ maggānaṃ annatarasmiṃ dūseti ayam
bhikkhunīdūsako nāma). Hạng người này tuyệt đối không được thọ đại giới.
Dù cưỡng cầu, giới phẩm cũng không thành tựu.
Bhikkhunovādaka: Từ gọi vị tỷ kheo được tăng chúng (thông qua
tuyên ngôn) giao trách nhiệm giáo giới ni chúng. Đương sự phải hội đủ
tám tiêu chuẩn trước khi nhận trách vụ này, chẳng hạn phải là người được
công nhận thanh tịnh, tinh thông giáo lư và đặc biệt giới luật của cả
hai phái tăng ni, có khả năng khéo nói, chưa từng có vấn đề với bất cứ
ai trong ni chúng và tối thiểu đă qua hai mươi năm tu, tính từ ngày thọ
đại giới.
Chỗ ngồi dành cho tỷ kheo này phải được chuẩn bị nghiêm túc. Đương sự
phải ngồi chung một tỷ kheo khác, lúc cần thiết có quyền triệu tập hay
xua đuổi bất cứ tỷ kheo ni nào ra khỏi hội chúng, có quyền cật vấn giới
luật với mỗi cá nhân trong số đó rồi tùy thời thuyết giảng giáo lư cho
họ.
Ngoại trừ tỷ kheo được tăng chúng giao trách nhiệm trên đây, vị khác
không được tùy tiện đề cập Bát Kỉnh Pháp trước ni chúng, tội Ba-Dật-Đề.
Và việc giáo giới ni chúng không được tổ chức ngay tại trú xá của tỷ
kheo ni, trừ trường hợp tỷ kheo ni trọng bệnh. Cũng tội Ba-Dật-Đề.
Bhikkhusammuti: Nôm na là phép đặc cách. Có những trường hợp đặc
biệt, tăng chúng cho phép tỷ kheo nào đó được linh động chút ít trong
một chuyện vốn không hợp luật, như cho phép tỷ kheo bị bệnh được ăn
chiều hay giữ y dư.
Bhittikhila: Cái móc bằng gỗ, dùng để treo máng vật dụng. Hợp
luật.
Bhīsi: Loại nệm (cho giường ngũ) làm bằng các chất liệu có nguồn
gốc thực vật như bông vải, vỏ cây hay lá cây. Tấm trải (bọc) ngoài của
nệm có thể bằng vải hay da. Đều hợp luật.
Bhujissa: Chữ gọi người nô lệ đă được tự do một cách hợp pháp, có
thể thọ đại giới. Nô lệ chưa được tự do, gọi là Dāsa, không thể thọ đại
giới.
Bhummattharana: Thứ chiếu mỏng bằng cỏ tranh hay sậy thường được
trải chồng trên loại thảm Cimilikā. Đôi khi vẫn được trải trực tiếp trên
đất (trường hợp này mới đúng với tên gọi Pāli của nó).
Bhūtagāma: Thực vật nói chung, bao gồm tất cả những cây cỏ lớn
nhỏ, bất kể chủng loại. Tăng ni không được hủy hại thảo mộc, tội
Ba-Dật-Đề.
Bhedānuvattaka(bhikkhu): Chữ gọi vị tỷ kheo cố t́nh đứng về phe
của một bạn tu đang làm việc chia rẽ tăng chúng. Khi được chư tăng
khuyên răn ba lần (bằng tuyên ngôn), đương sự vẫn không thay đổi thái độ
th́ phạm tội Tăng Tàn. Nếu chỉ là sự vô tư không có dụng ư chia rẽ tăng,
th́ chỉ phạm Trọng Tội.
Bhesajja: Thuốc trị bệnh nói chung. Ngoại trừ các thứ được xem là
dược phẩm đắt tiền như (Luật kể rơ là mật ong, mật mía, bơ, dầu), các
thứ thuốc khác được làm từ rễ, vỏ cây, lá cây đều có thể cất giữ lâu hơn
bảy ngày, thậm chí đến khi xài hết th́ thôi.
Bhesajjathavikā: Túi đựng thuốc trị bệnh, hợp luật.
Bhojana: = Bhojanīya: Các loại thực phẩm căn bản tỷ kheo có thể
dùng hàng ngày, gồm cơm, bánh, cá, thịt, mật ong, sữa chua, bơ, dầu cùng
các thứ tương đương. Luật Tạng có kể riêng những món được xem là thượng
vị (vài thứ trong số vừa kể), nhưng đó là theo tiêu chuẩn của xă hội Ấn
Độ ngày xưa.
Bhojjayāgu: Chữ dùng để gọi món cháo được nấu đặc đến mức có thể
dùng tay để bóc, như với cơm nhăo.
Maṃsa: Thịt cầm thú. Tỷ kheo được phép ăn hầu hết các loại thịt
với điều kiện các món thịt ấy không phạm vào một trong ba điều cấm kỵ
(Hán dịch Tam Tịnh Nhục, từ chữ Pāli là Tikoṭiparisuddha): Tỷ kheo không
nh́n thấy con vật đang bị giết nhằm mục đích cúng dường cho ḿnh
(adiṭṭhaṃ), Không nghe ai nói cho biết chuyện sát sanh đó (asutaṃ) và
ḷng không nghi ngờ hay ngầm hiểu người ta sát sanh để cúng dường cho
ḿnh (aparisankitaṃ). Tỷ kheo cố t́nh thọ thực món thịt không hợp luật
th́ phạm tội Tác Ác.
Ngoài ra, dầu với tiêu chuẩn Tam Tịnh, tỷ kheo cũng không được ăn mười
thứ thịt sau đây: thịt người, sư tử, cọp, beo, gấu, ngựa, voi, rắn, chó
nhà, chó rừng. Riêng với thịt người, dù vô t́nh hay cố ư ăn đều phạm
Trọng Tội. Do đó Luật buộc tỷ kheo phải cẩn trọng trước khi thọ thực một
món thịt.
Makasakuṭikā: Mùng chống muỗi, hợp luật.
Maccha: Con cá. Tỷ kheo có thể ăn cá trong tiêu chuẩn Tam Tịnh.
Xem chữ Maṃsa.
Macchavāḷaka: Cách quấn y nội để tḥng hai chéo góc ra hai bên,
như đuôi cá. Tội Tác Ác.
Majjhima(bhikkhu): Chữ gọi tỷ kheo đă trên năm hạ kể từ ngày thọ
đại giới, nhưng chưa đến mười hạ (Samantapāsādikā: Atirekapancavassatāya
majjhimo).
Mañca: Giường nằm. Luật định giường nằm của tỷ kheo không được
cao quá tám ngón tay đức Phật (sugataṅguli). Tội Ba-Dật-Đề. Có nhiều
loại giường tỷ kheo có thể dùng, tên gọi và những chi tiết của chúng
cũng giống như một số loại ghế. Người tra cứu có thể t́m đọc thêm ở chữ
Pītha.
Mañcapatipādaka: Chân giường.
Maṇḍala: Xem chữ Cīvara.
Matakacīvara: Y áo của tỷ kheo đă chết. Trên nguyên tắc, y áo
trong trường hợp này phải được tăng chúng định liệu, thường th́ giao lại
cho vị tỷ kheo hữu ân (chẳng hạn người nuôi bệnh) của tỷ kheo vừa qua
đời. Nếu không có nhân tuyển đặc biệt, phần y áo đó được chia cho vị nào
đang thiếu thốn hoặc cả tập thể rút thăm, và việc này nên được thực hiện
sớm nhất một tuần lễ sau khi tỷ kheo qua đời.
Trong trường hợp tỷ kheo trước khi qua đời có nhờ cậy bạn tu cất giữ y
áo, vật dụng của ḿnh th́ sau đó những món gửi gắm kia thuộc về người
cất giữ. Nhưng việc này phải được thông qua trước tăng chúng.
Mattikā: Chữ gọi chung đất sét hay bùn non được dùng trong nhà
tắm nước nóng (jantāghara) như một thứ dược liệu. Tỷ kheo được quyền sử
dụng, nhưng không được xài loại bùn non hay đất sét có pha trộn hương
liệu.
Chữ Mattikā cũng có nghĩa là loại đất sét dùng trong việc xây cất, đôi
khi có pha màu. Hợp luật. Và dù chỉ một miếng đất sét hay bùn loại nào
bất luận, một khi đă là của chung tăng chúng th́ tỷ kheo không được tùy
tiện sử dụng trái luật như hoang phí hay biếu tặng cho ai.
Mattikābhaṇḍa: Chữ gọi chung tất cả sản vật làm từ đất sét (gạch
ngói, b́nh lọ, lu hủ,..). Tỷ kheo không được tùy tiện sử dụng bừa băi
nhửng ǵ được xem là của tập thể.
Maddavīnam: Loại dây nịt có nhiều cọng kết lại, tỷ kheo không
được dùng. Nịt lưng hợp luật phải là một giải lụa hay sợi vải đơn nhất.
Madhu: Mật ong. V́ mật ong là thứ đắt tiền (trong bối cảnh Ấn Độ
xưa), nên tăng ni không được đi xin mật ong để ăn hay uống. Trong trường
hợp dùng mật ong làm thuốc trị bệnh, th́ tỷ kheo cũng không được cất giữ
quá bảy ngày.
Madhugoḷaka: Mật mía được vón lại thành viên, ṿ thành cục, gần
giống đường thẻ hay đường tán của Việt Nam. Chư tăng xưa vẫn dùng cháo
trắng với loại mật mía ṿ viên này (Mahāvagga).
Madhupāna: = Madhūkapāna: Nước ép từ trái Madhūka, tỷ kheo có thể
uống buổi chiều.
Maḷorikā: Chân bát, hay cũng là cái giá gỗ để tỷ kheo giữ b́nh
bát không lăn lóc.
Mallaka: Một loại bàn chải làm bằng gốm. Tỷ kheo không được dùng,
tội Tác Ác.
Masakavījanī: Loại quạt dùng để đuổi muỗi, hợp luật.
Masārakapītha: Xem chữ Pītha.
Masāraka-mañca: Xem chữ Pītha.
Mahallaka-vihāra: Trú xá loại lớn, to hơn liêu thất cá nhân
(kuṭi). Tỷ kheo tự ḿnh xây cất pḥng ốc cá nhân lớn hơn quy định (trong
Giới Bổn) và không hỏi ư tăng chúng, phạm Tăng Tàn.
Mahājaṅikā: Một nhóm nhỏ tỷ kheo ni từ bốn vị trở xuống (theo bộ
Kaṅkhāvitaraṇī).
Mahāpadesa: = Catumahāpadesa.
Mahāvīkaṭāni: Thuật ngữ gọi chung bốn món thuốc rắn tỷ kheo có
thể lấy ngay không cần xin, để chữa vết rắn cắn: Phân người (gūtha),
nước tiểu (mutta), tro (chārika), đất sét (mattikā). Trường hợp tỷ kheo
ngộ độc thực phẩm, nước pha loăng với phân người có thể giúp nôn mửa
nhanh chóng.
Mahāsamaya: Tạm dịch là Quế Châu Pháp Nạn, một chữ dịch không sít
sao nhưng đắc cách, để gọi những lúc nạn đói nghiêm trọng đến mức tăng
chúng phải rời bỏ tự viện để lưu lạc kiếm sống trong dân gian. Thậm chí
có lúc phải nhất trí nhau tận dụng tất cả những trường hợp đặc cách
trong Luật Tạng, cố lờ một số học giới, để có thể tự ḿnh nấu nướng và
cất giữ thức ăn vô thời hạn. Theo Samantapāsādikā và Kaṅkhāvi-taraṇī.
Mahāseda: Huân Hăn Liệu Pháp, một phép trị bệnh thống phong
(gout) bằng cách chất đống các dược liệu cùng than hồng rồi lấy cát phủ
lên một lớp mỏng để có khói và hơi nóng cho tỷ kheo bệnh ngồi xông nhằm
đổ mồ hôi càng nhiều càng tốt. Xem thêm trong Samanta-pāsādikā.
Mātughātaka: Kẻ giết chết mẹ ruột, không được thọ đại giới. Dẫu
cưỡng cầu, cũng không thành tựu giới phẩm.
Mānatta: Sau khi phạm tội Tăng-Tàn, tỷ kheo phải đến tŕnh tội
trước tăng chúng hay một bạn tu trong thời gian sớm nhất. Nếu tội được
tuyên xưng lập tức, th́ đương sự chỉ phải trải qua sáu đêm Khiêm Hạnh
hay Ma-Na-Đóa (chữ phiên âm trong Nam Truyền Đại Tạng Kinh cuốn 1, cuốn
3). Sau đó đến trước một tăng hội tối thiểu hai mươi tỷ kheo thanh tịnh
để thọ lễ tăng sự Abbhānakamma (phục hồi giới phẩm). Nếu tỷ kheo tŕnh
tội muộn màng, từ một ngày cho đến nhiều năm, th́ trước sáu đêm Khiêm
Hạnh phải là thời gian chịu phạt cấm pḥng (parivāsa), lâu mau tùy theo
thời gian dấu tội. Xin xem ở chữ Parivāsa.
Kaṅkhā. Mahāṭīkā giải thích rằng Mānanaṃ mānaṃ mānassa bhāvo mānattaṃ,
đại ư Ma-Na-Đóa là phép hành xử tôn kính, khiêm hạ trước các tỷ kheo
thanh tịnh mà người đang chịu phạt cấm pḥng phải thực hiện trong thời
gian sáu đêm. Từ đó, thuật ngữ Mānatta có thể dịch là Khiêm Hạnh, Khuất
Hạnh.
Trong trường hợp tỷ kheo tŕnh tội Tăng-Tàn ngay sau khi phạm th́ sáu
đêm Khiêm-Hạnh được gọi là Appaticcha-nnamānatta (sáu đêm Khiêm-Hạnh cho
tội Tăng Tàn không bị dấu). Nếu tỷ kheo sau khi phạm tội không tŕnh báo
ngay th́ sáu đêm Khiêm-Hạnh sau đó được gọi là Paticchannamānatta (sáu
đêm Khiêm-Hạnh cho tội Tăng-Tàn bị che dấu).
Đúng như tên gọi, trong thời gian sáu đêm Khiêm-Hạnh tỷ kheo phải chịu
mọi thiệt tḥi trong sinh hoạt. Chẳng hạn không được sống chung mái che
với các tỷ kheo thanh tịnh, không được sống nơi không có tỷ kheo thanh
tịnh, không được đề xuất ư kiến trong các tăng sự, không được làm thầy
tế độ hay giáo thọ cho ai, phải luôn nằm ngồi ở chỗ thấp kém trong tự
viện, nếu là một đầu-đà-sư th́ lúc này tạm xả nguyện để sống trong sự
kiểm soát của tăng chúng. Đại khái c̣n có vô số thiệt tḥi tương tự.
Sáu đêm Khiêm-Hạnh có thể bị tính lại từ đầu (rattic-cheda) trong các
trường hợp sau: Đương sự sống chung mái che với tỷ kheo thanh tịnh
(sahavāsa), sống nơi không có tỷ kheo thanh tịnh (vippavāsa), không
tŕnh báo từng đêm với chư tăng (anārocana), trải qua một đêm Khiêm-Hạnh
nào đó ở chỗ không có đến bốn tỷ kheo thanh tịnh (Ūne gane caranam).
Nếu tỷ kheo phạm thêm một tội Tăng-Tàn khác trong thời gian Khiêm-Hạnh
th́ nên lập tức tŕnh tội và sáu đêm Khiêm-Hạnh sẽ được tính lại từ đầu.
Nếu tỷ kheo dấu tội không tŕnh ngay, th́ thời gian dấu này được cộng
thêm vào thời gian cấm pḥng, nghĩa là đến lúc này vị ấy được xem như
chưa trải qua đêm Khiêm-Hạnh nào và chờ khi qua hết thời gian cấm pḥng
(parivāsa) mới bắt đầu trở lại đêm Khiêm-Hạnh đầu tiên. Thuật ngữ gọi
trường hợp này là Mānattamūlàya-patikassanā (tạm dịch là Tái Thụ Khiêm
Hạnh)
Mānattacārika: Chữ gọi tỷ kheo đang trải qua sáu đêm Khiêm-Hạnh.
Mānattāraha: Từ gọi vị tỷ kheo đă trăi qua thời gian cấm pḥng
(parivāsa) nhưng chưa bắt đầu sáu đêm Khiêm-Hạnh. Trong thời điểm này
đương sự tiếp tục chịu mọi thiệt tḥi trong sinh hoạt và chấp nhận các
áp đặt từ tăng chúng như trong thời gian cấm túc, chỉ được miễn trừ một
chuyện duy nhất là không cần xưng tội với tăng khách (ārocana).
Nếu ngay trong thời gian chờ đợi sáu đêm Khiêm-Hạnh tỷ kheo lại phạm
thêm tội Tăng-Tàn th́ toàn bộ thời gian cấm pḥng (parivāsa) trước đó
xem như hoàn không, đương sự phải chịu phạt cấm pḥng từ đầu với thời
gian cộng lại từ hai tội mới và cũ. Thuật ngữ gọi trường hợp này là
Mānattārahamūlāyapatikassanā (Điệp Tội Khiêm-Hạnh)
Miḍḍha: Phần thềm trước hành lang am thất. Tỷ kheo không nên để
b́nh bát ở đây.
Miḍḍhi: Bục nằm (bằng gạch hay đất, đá), dùng như giường ngủ.
Mukhacuṇṇa: Bột phấn thoa mặt. Tăng ni không được xài, tội Tác
Ác.
Mukhapuñchanacoḷaka: Khăn lau mặt. Tăng ni phải chú nguyện trước
khi dùng.
Muttaharītikā: Loại thuốc trị bệnh vàng da làm từ cây Haritaka
ngâm với nước tiểu của con ḅ.
Muddhanitelaka: Một loại dầu bôi trị bệnh nhức đầu.
Muddikapāna: Bồ Đào Trấp, nước ép từ trái nho tươi, tỷ kheo có
thể uống buổi chiều.
Murajam: Loại dây nịt nh́n giống dây cột trống Muraja, tăng ni
không được dùng.
Mūga: Người câm, không được thọ đại giới. Chuyện dĩ lỡ, giới phẩm
vẫn thành tựu, riêng thầy tổ phạm Tác Ác (theo Samantapāsādikā).
Mūgabadhira: Người vừa câm vừa điếc, không được thọ đại giới.
Chuyện dĩ lỡ, giới phẩm vẫn thành tựu, riêng thầy tổ phạm Tác Ác (theo
Samantapāsādikā).
Mūlabhesajja: Từ gọi chung những loại thuốc trị bệnh làm từ củ
hay rễ thảo mộc (như gừng, riềng, nghệ, sâm, hà-thủ-ô,…).
Mūlarajana: Thuốc nhuộm làm từ củ hay rễ cây. Đặc biệt Luật cấm
dùng củ nghệ (haliddi) để nhuộm y v́ màu không đúng luật.
Mūlāyapatikassanā: Thuật ngữ chỉ cho sự xử phạt vị tỳ kheo phạm
tội qui về tội gốc do lúc đang bị phạt biệt trú lại phạm thêm tội tăng
tàn khác, trường hợp này gọi là “hồi tố”. Xem chữ Parivāsa và Mānatta.
Mūlāyapatikassanāraha: Chữ gọi trường hợp tỷ kheo phạm thêm một
tội Tăng Tàn khác ngay trong lúc đang bị cấm pḥng và chưa tŕnh tăng để
chịu thêm thời gian cấm pḥng. Trường hợp tỷ kheo đă qua hết thời gian
cấm pḥng, nhưng chưa trải qua một đêm Khiêm Hạnh (mānatta) nào lại phạm
thêm tội Tăng Tàn khác, vị ấy được gọi là
Mānattārahamūlāyapatikassanāraha. Trường hợp đang trải qua thời gian sáu
đêm Khiêm-Hạnh lại phạm thêm tội th́ thời điểm này gọi là
Mānattacarikamūlāyapatikassanārahakāla. Trường hợp tỷ kheo đă trải qua
cả sáu đêm Khiêm-Hạnh nhưng chưa được tăng chúng làm tăng sự Phục Hồi
Giới Phẩm (abbhānakamma) th́ bị phạm tội Tăng Tàn khác, nhưng chưa xin
chịu cấm pḥng cho tội mới này th́ đương sự được gọi là
Abbhānārahamūlāyapatikassanāraha. Để hiểu thêm các thuật ngữ Pāli này
xin xem lại các mục từ Parivāsa và Mānatta.
Trong các trường hợp vừa kể trên, tỷ kheo vẫn luôn chịu mọi thiệt tḥi
dành cho người đang chịu phạt cấm pḥng, chỉ được miễn trừ một việc là
không cần tŕnh tội với tăng khách.
Mūsala: Cái chày giă thuốc, hợp luật.
Meraya: Tên gọi chung các thứ rượu men (bằng cách ủ nhiều ngày),
phân biệt với rượu nấu (rượu cất- Surā). Tứ chúng trong Phật giáo đều
không được uống bất cứ thứ ǵ gây say.
Moghasuttaka: Sợi chỉ lấy mực của thợ may, giúp tạo đường thẳng.
Thời xưa dùng sợi chỉ nhúng mực hay phẩm màu, ngày nay thợ may đă có
loại mực sáp tiện lợi hơn và dễ tẩy xóa.
Mocapāna: Nước ép từ loại chuối không hột (moca), tỷ kheo có thể
uống buổi chiều. Pāli gọi chuối có hột là Coca.
Yantaka: Một loại ổ khóa thời xưa.
Yāgu: Các loại cháo nói chung, cháo trắng hay nấu chung với các
phụ gia. Cháo đặc có thể cầm ăn từng miếng, gần giống cơm nhăo, gọi là
Bhojjayāgu.
Yāgubhājaka: Tỷ kheo được giao trách nhiệm phân phát cháo cho chư
tăng.
Yāna: Các loại xe cộ nói chung. Tăng ni vô bệnh không được đi xe,
và tỷ kheo bệnh cũng chỉ ngồi xe do đàn ông điều khiển. Về những thắc
mắc liên quan, xin xem thêm chữ Catumahāpadesa.
Yāmakālika: Chữ gọi chung những thứ nước uống tỷ kheo được phép
dùng sau giờ ngọ (theo cách nói của Phật tử Việt Nam).
Yāvakālika: Chữ gọi tất cả các loại thực phẩm, những thứ tỷ kheo
chỉ được phép thọ thực trước ngọ.
Yāvajīvika: Chữ gọi chung các thứ thuốc trị bệnh (nằm ngoài năm
thứ đặc biệt là bơ đặc (butter), bơ lỏng (ghee), dầu ăn, mật mía, mật
ong). Tỷ kheo có thể cất giữ các loại thuốc này để dùng vô thời hạn.
Yāvadatthacīvara: Sau khi thọ y Kaṭhina th́ tỷ kheo có quyền cất
giữ bao nhiêu y áo cũng được và không cần chú nguyện hay gửi ai cất hộ
(vikappana). Trường hợp này được gọi là Yāvadatthacīvara, quyền giữ y
tùy thích.
Yebhuyyasikāvinaya: H́nh thức giải quyết chuyện tranh căi
(vivādādhikaraṇa) trong tăng chúng bằng cách trưng cầu ư kiến tập thể để
sau đó sự vụ được giàn xếp theo ư kiến nào được chọn nhiều nhất. Cách
này chỉ nên được thực hiện khi không thể t́m ra một cá nhân hay một nhóm
giám luật có thể liệu sự. Có ba cách trưng cầu: Bỏ phiếu kín (gūḷhaka),
bỏ thăm công khai (vivaṭaka) hoặc rỉ tai nhau (kaṇṇajappaka). Theo
Cullavagga và Samantapāsā-dikā.
Tỷ kheo được giao nhiệm vụ thu gom các lá phiếu gọi theo Luật tạng là
Salākagāhāpaka (người gom thăm).
Rajana: Thuốc nhuộm màu y phục. Tỷ kheo có thể dùng thuốc nhuộm y
làm từ hoa trái, củ rễ, cây lá, nhưng tránh dùng đất sét đỏ và củ nghệ
cùng một số hoa trái, củ rễ đặc biệt, xin miễn kể ở đây v́ không thể t́m
ra chữ dịch tương đương trong tiếng Việt.
Rajanuḷunka: Loại vá lớn không cán, tỷ kheo xưa dùng trong lúc
nhuộm y.
Rajanakumbhī: Vạc hay nồi lớn để nhuộm y.
Rajanakolamba: B́nh hay bầu nước loại lớn, tỷ kheo xưa dùng trong
lúc nhuộm y.
Rajanaghaṭa: Cũng một loại b́nh nước dùng trong lúc nhuộm y.
Rajanadoṇī: Cái máng dẫn nước được dùng lúc nhuộm y.
Rathattharana: Thảm trải trên xe.
Rājabhaṭa: Người đang mắc việc công, gọi theo bây giờ là quan
chức nhà nước hay nhân viên chính phủ. Kẻ đương nhiệm không được thọ
giới tỷ kheo, muốn ǵ phải từ quan hay bỏ việc mới ổn.
Rūpiyachaḍḍaka: Chữ gọi vị tỷ kheo được tăng chúng giao trách
nhiệm quăng bỏ tiền bạc châu báu của bạn tu vừa bị tội Xả Đọa v́ cất giữ
tài bảo.
Romanthana: Tật nhơi lại. Đức Phật không chế luật nghiêm khắc cho
thói quen này, nhưng dạy tỷ kheo phải tự biết kín đáo. Cullavagga
222-223.
Lakkhaṇāhata: Người bị đóng dấu tù tội trên thân thể (như h́nh
hoa huệ trên ḿnh tù nhân bên Pháp trước thế kỷ 19, hay một số nước Châu
Á xưa lại thích chữ vào mặt trọng phạm), không được thọ đại giới.
Lajjī: Chữ gọi vị tỷ kheo có tàm quư ngay trong những lỗi nhỏ,
hay tỷ kheo không vướng kẹt các pháp thiên vị.
Lasuṇa: Củ tỏi. Tăng ni vô bệnh không được ăn tỏi. Tỷ kheo phạm
Tác Ác, tỷ kheo ni tội Ba Dật Đề.
Lahukāpatti: Tội nhẹ, chữ gọi việc vi phạm các nhóm học giới nằm
ngoài Ba La Di và Tăng Tàn. Cũng gọi là các tội Aduṭṭhulla (khinh thiểu)
hay Desanīyagāma-nīyāpatti (những tội có thể giải trừ bằng một lời phát
lộ hay sám hối).
Lakhitakacora: Tử tù khiếm diện. Chữ gọi kẻ trọng phạm đă bị xử
tử h́nh khiếm diện và đang có lệnh truy nă toàn quốc cho phép mọi người
được giết chết khi gặp mặt. Hạng này không được thọ đại giới.
Lokāyata: Chữ dịch xưa là phái Thuận Thế, một học thuyết duy vật
cực đoan chủ trương vạn vật ngẫu nhiên mà có (theo bộ Samantapāsādikā:
Lokāyataṃ nāma sabbaṃ ucchitthaṃ sabbaṃ anucchiṭṭhaṃ seto kāko kālo
bako, iminā ca kāranenāti niratthakāraṇaṃ pati-samyuttaṃ
titthiyasatthaṃ: Đại ư chủ thuyết này cho rằng mọi sự trên đời không hề
có một luật tắc biện chứng nào cả, sẵn sàng vô lư đến mức như quạ trắng
c̣ đen. Đây được xem là tư tưởng ngoại đạo). Tăng ni không được nghiên
cứu học hỏi thứ triết luận này, tội Tác Ác.
Loṇabhesajja: Chỉ chung tất cả các loại thuốc làm từ muối. Tăng
ni chỉ được phép cất giữ muối với mục đích làm thuốc, không thể cất giữ
muối ăn.
Loṇasakkharikā: Muối hột.
Loṇasovīraka: Dấm mặn, tức dấm có pha muối, xưa dùng để trị bệnh.
Lohakaṭāha: Cái chảo, xưa thường làm bằng đồng nên mới gọi thế.
Lohabhaṇḍa: Chữ gọi chung các vật dụng kim loại tỷ kheo được sử
dụng, trừ vũ khí. Bất luận vật lớn nhỏ, khi đă thuộc giáo sản, tỷ kheo
không được hoang phí hay biếu tặng ai.
Lohabhāṇaka: Chậu, hũ bằng kim loại.
Lohavāraka: B́nh, lọ bằng kim loại.
Lohituppādaka: Thuật ngữ gọi người cố ư làm báu thân Thế Tôn bị
chảy máu (dù không ai có thể khiến Ngài bị trọng thương hay tử thương).
Hạng này tuyệt đối không thể thọ đại giới, có cưỡng cầu cũng không thành
tựu giới phẩm. Xưa nay chỉ có mỗi ḿnh tỷ kheo Devadatta là người duy
nhất phạm vào trọng tội này. Lần đó, ông đă cố t́nh xô ngă một tảng đá
lớn từ núi cao để ám toán đức Phật, nhưng Ngài chỉ bị trầy chân và chảy
nhiều máu.
Vaccakuṭī: Nhà xí, pḥng vệ sinh có đầy đủ cửa nẻo. Luật buộc tỷ
kheo phải luôn giữ nhà cầu được sạch sẽ, ráo nước (không để đọng vũng),
nếu cố ư để dơ dáy phạm tội Tác Ác. Tỷ kheo trước khi vào nhà xí phải
hắng giọng, không nên lặng lẽ mà vào, cũng không được xồng xộc giấn liều
và phải t́m chỗ mắc y đàng hoàng, không để bừa băi. Lúc ngồi cầu không
nên rên rặn lớn tiếng. Các thứ vải hay giấy vệ sinh phải được bỏ đúng
chỗ. Nếu rửa bằng nước cũng nên nhẹ tay để tránh tiếng động. Đồ múc nước
dùng xong phải được lật úp để tránh ướt nhớt. Trước khi ra khỏi nhà xí
nên quan sát xem có ǵ cần làm, chẳng hạn đổ đầy các chỗ chứa nước sạch
và quét dọn. Không nên bàn đến hạ lạp trong nhà cầu, ai vào trước th́
được ưu tiên. Tăng ni không được xài chung nhà xí. Theo Cullavagga.
Vaccakūpa: Hố xí hay hầm cầu, có thể bằng gỗ, đá hay gạch nung.
Vaccaghaṭa: Chậu nước đặt trong nhà xí dùng cho việc rửa ráy.
Vaccapādukā: Bục ngồi trong nhà xí, có thể bằng gỗ, gạch hay đá.
Vaja: Cḥi hay lều tạm của những người chăn thú. Tỷ kheo có thể ở
tạm nơi đây trong mùa an cư sau khi đă xin phép trước.
Vajjanīyapuggala: Chữ gọi chung những người bất xứng ‘cần được
xua đuổi” khỏi các tăng sự Phát Lộ và Tự Tứ. Kể chi tiết gồm 21 hạng,
nhưng tóm tắt chỉ là bất cứ ai không phải tỷ kheo thanh tịnh, kể cả tỷ
kheo ni và vị đă phạm tội Ba-La-Di hay tỷ kheo đang chịu phạt bằng tăng
sự Ukkhepanīyakamma. Tỷ kheo cố ư tụng giới bổn trước sự hiện diện của
một trong những đối tượng này th́ phạm Tác Ác, riêng trước mặt tỷ kheo
đang chịu phạt (ukkhittaka) th́ phạm Ba Dật Đề.
Vaṇatela: Dầu để bôi xức vết thương, tỷ kheo có thể dùng một cây
que hay vải băng.
Vaṇabandhacola: Vải băng vết thương.
Vatthikamma: Một cách trị bệnh ṛ (fistula) ở bộ phận sinh dục
bằng cách treo nó bên ngoài bằng một sợi chỉ hay dây da. Tỷ kheo không
được dùng cách này để trị bệnh.
Vatthu-avalokanā: Thuật ngữ gọi việc xem đất, coi đất do chư tăng
cùng thực hiện trước khi chỉ định vị trí thích hợp cho một tỷ kheo xây
dựng am thất. Tỷ kheo tự ư chọn đất rồi xây cất tùy tiện trên một mảnh
đất không hợp luật th́ phạm tội Tăng Tàn.
Vandiya: Ba đối tượng tỷ kheo nên đảnh lễ tức quỳ lạy gồm đức
Phật, tỷ kheo tu trước ḿnh, và tỷ kheo thánh hạnh (dhammika) sống khác
trú xứ với ḿnh. Các trường hợp ngoài ra (dĩ nhiên vẫn với bậc cao
trọng) có thể chỉ xá dài đă đủ. Xem thêm chữ Avandiya.
Vallikā: Bông tai.
Vasā: Mỡ động vật, tỷ kheo có thể dùng làm thuốc.
Vassa: Mùa an cư, ba tháng kiết hạ mùa mưa. Xem chữ Vassāvāsa.
Vassaccheda: Chư tăng Việt Nam thường gọi là Đứt Hạ. Tức trong
mùa an cư tỷ kheo v́ chuyện không đâu mà ngũ tối thiểu một đêm ngoài chỗ
nhập hạ, hoặc có lư do hợp luật (sattāhakaranīya) để rời trú xứ nhưng
lại đi quá bảy ngày, hay trường hợp chưa quá hạn định nhưng trước khi đi
không chú nguyện sẽ trở về trước ngày thứ bảy, đều bị xem là đă làm hỏng
mùa an cư, tức đă bị Đứt Hạ.
Nếu đứt hạ v́ chuyện hợp lư th́ tỷ kheo chỉ bị mất hạ mà không phạm tội
ǵ, chỉ bị gạt ra ngoài số nhân tuyển thọ y Kaṭhina. Lư do chính đáng để
tỷ kheo rời khỏi chỗ nhập hạ có thể gồm độc trùng ác thú bách hại, thiên
tai nhân họa nghiêm trọng, tứ sự khan hiếm, người ơn gặp nạn, phạm hạnh
nguy khốn, chúng tăng hữu sự,…
Tỷ kheo đứt hạ có thể ngồi trong tăng sự Tự Tứ nhưng chỉ để làm Bố Tát,
v́ lễ Tự Tứ chỉ dành cho vị giữ vẹn mùa an cư.
Vassāvāsa: Chữ gọi ba tháng kiết hạ mùa mưa của tăng ni Phật
giáo. Suốt 90 ngày này, tăng ni không được ra khỏi trụ xứ cách đêm mà
không có lư do chính đáng. Việc cấm túc mấy tháng mưa này thực ra đă trở
thành truyền thống trong một số giáo phái ngoại đạo trước ngày đức Phật
ra đời, và sau này Ngài cũng tiếp tục giữ lại cổ lệ này cho tăng chúng
dựa trên ư nghĩa tích cực của nó.
Trên nguyên tắc, ba tháng kiết hạ phải được bắt đầu từ ngày rằm tháng
sáu âm lịch, nhưng đôi lúc do duyên sự đặc biệt nào đó, có tỷ kheo phải
dời lại việc nguyện hạ vào rằm tháng bảy. Vị nhập hạ rằm tháng sáu được
gọi là Purimikavassūpanāyika (người an cư mùa trước), vị nhập hạ rằm
tháng bảy gọi là Pacchimikavassūpanāyika (người an cư mùa sau).
Tỷ kheo có thể trải qua ba tháng an cư trong hầu hết các loại trú xứ, từ
tự viện đến hang động, lều cỏ, thậm chí trên một xác thuyền, nhưng phải
là chỗ ở cố định. Chỗ nhập hạ không thể là một nơi tạm bợ như bộng cây,
băi đất trống không mái che hay dưới một tấm bạt che tạm ngoài trời
trống.
Xin xem thêm về việc nhập hạ ở các mục từ Kaṭhina, Vassaccheda, Purimika
và Pacchimikavassūpanāyika.
Vassikasāṭika: Y tắm mưa, một trong mười một loại y tỷ kheo được
phép sử dụng. Thời gian t́m kiếm y tắm mưa hợp luật (pariyesanakāla) gồm
một tháng trước ngày nhập hạ cộng với ba tháng an cư. Kích thước căn bản
của một lá y tắm mưa là chiều dài sáu gang tay đức Phật (sugatavidatthi)
và bề ngang hai gang rưỡi của Ngài. Sau mùa an cư, tỷ kheo không được
phép sử dụng hay cất giữ y tắm mưa nữa, tội Xả Đọa.
Vassukkaḍḍhanā: Mùa an cư triển hạn, chữ gọi trường hợp năm nhuận
có đến hai tháng sáu th́ việc nhập hạ sẽ được dời lại vào tháng sáu thứ
hai.
Vassūpanāyikā: Xem chữ Vassāvāsa.
Vākacīra: Y phục làm bằng vỏ cây kết lại, không hợp luật.
Vāṭa: Hàng rào bên ngoài am thất, có thể bằng tre hay các loại
dây gai.
Vātapāna: Các loại cửa sổ nói chung, có thể có lưới
(jālavātapāna) hay chấn song (salākāvātapāna), hợp luật.
Vatapāna-cakkalikā: Loại song cửa khít khao có thể ngăn được chim
hay dơi, hợp luật.
Vatapāna-bhisikā: Màn che cửa sổ, hợp luật.
Vāmana: Người lùn, thấp bé một cách dị dạng, không được thọ đại
giới. Nhưng chuyện dĩ lỡ, vẫn thành tựu giới phẩm. Riêng thầy tổ phạm
Tác Ác.
Vāraka: Thùng, xô múc nước.
Vāḷakambala: Loại mền làm từ lông đuôi con ngựa, tỷ kheo không
được sử dụng.
Vāsī: Ŕu nhỏ.
Vikaṇṇa: Chỉ chung việc chằm vá y áo bị hư rách.
Vikatika: Thảm len có h́nh thú vật, tỷ kheo không được dùng.
Vikappanā: Việc hợp thức hóa những y bát bị xem là vượt quá số
lượng hợp luật bằng cách đem đến một bạn tu để làm việc Kư Thác bằng câu
Pàli có nội dung là xin giao quyền quyết định cho bạn tu muốn xử sao
cũng được. Khi đó tỷ kheo biết luật sẽ có một câu lấp lững đại ư cho
phép bạn tu của ḿnh có thể tùy ư sử dụng những y bát dư đó.
Trường hợp này được gọi là Kư Thác Trực Diện (Sammukhavikappanā), tức
người nhận tạm y bát dư kia đang ngồi trước mặt tỷ kheo đem y bát dư đến
kư thác. Trường hợp thứ hai là Kư Thác Khiếm Diện (Parammukhavikappanā)
là người nhận kư thác sẽ hỏi bạn tu ḿnh có ai là người thân thiết hay
không rồi nói lời ủy quyền cho vị đó, đại ư từ nay đương sự muốn dùng
những y bát dư này hăy báo cho người kia một tiếng.
Những cách liệu sự này dĩ nhiên chỉ là h́nh thức, nhưng là chút linh
động của Luật Tạng cho tỷ kheo có lối thoát trong một hệ thống giáo luật
nghiêm khắc. Có điều là các tỷ kheo thiểu dục sẽ không tận dụng chi
những kẻ hở này.
Vikalaka: Tạm dịch là sự bù đắp. Khi y áo không đủ để chia đều
mọi người, tỷ kheo giữ trách nhiệm phân phát sẽ bù đắp cho người bị
thiệt một món ǵ đó cho thỏa đáng.
Vikāla: Tạm dịch là lúc Phi Thời (vigato kālo), thuật ngữ để gọi
thời gian sau bữa ăn trưa của tăng ni kéo dài đến sáng hôm sau. Trong
thời gian này tăng ni không được ăn thêm bất cứ thực phẩm ǵ. Thậm chí
tăng ni cũng không được tùy tiện đi vào khu dân cư sau giờ ngọ khi chưa
báo trước cho bạn tu hay biết. Tội Ba Dật Đề.
Vikāsika: Vải băng vết thương.
Viggayha-parikamma: Chữ gọi cách kỳ cọ thân thể lúc tắm rửa bằng
cách cọ xát hai thân người vào nhau. Tỷ kheo không được dùng cách này,
tội Tác Ác.
Vidhā: Móc khóa của dây nịt. Tỷ kheo được phép dùng, nhưng phải
tránh các chất liệu quư kim, bảo thạch hay ngà, sừng, xương thú.
Vidhūpana: Một loại quạt tay, hợp luật.
Vinandhanarajju: Dây ràng trên khung vải may y (kaṭhina).
Vinītavatthu: Nam Truyền Đại Tạng cuốn 5 (các trang 148, 149,
205, 219) dịch là Tu Tập Sự. Giáo sư C.S. Upasak giải thích là những
minh họa nhằm giải thích các vấn đề trong Luật Tạng.
Vipatti: Nghĩa đen là sự hư hỏng hay tổn thất. Trong cuộc tu của
tỷ kheo có bốn trường hợp bị xem là tổn thất: Giới Tổn Thất
(sīlavipatti) là phạm vào 17 trọng giới đầu của giới bổn, Hạnh Tổn Thất
(ācāravipatti) là sự vi phạm các học giới c̣n lại, Kiến Tổn Thất
(ditthivipatti) là sự hiểu sai kinh luật và Sinh Phong Tổn Thất
(ājīvavipatti) là lối kiếm sống không hợp cách với đời xuất gia.
Vivaṭaka-salākaggāha: Cách bỏ phiếu công khai vào một thùng phiếu
không nắp đậy, khác với phiếu kín. Xem chữ Yebhuyyasikavinaya.
Vivaṭṭa: Xem chữ Cīvara.
Vivādādhikaraṇa: Chữ gọi những cuộc tranh căi giữa các tỷ kheo về
kinh luật nói chung (chẳng hạn đó có phải Phật ngôn hay không, việc đó
có phạm tội hay không và nặng hay nhẹ). Có hai cách giải quyết là phép
Diện Tiền (sammukha-vinaya), triệu tập đôi bên lại để cùng giải quyết
trước tăng chúng và phép Trưng Cầu (yebhuyyasika-vinaya) là giải quyết
sự vụ theo ư kiến của phần đông thông qua một trong ba cách trưng cầu đă
nói ở trước. Xem chữ Yebhuyyasika-vinaya.
Vissāsagahana: Nghĩa bóng là sự Lấy Trước Nói Sau, chỉ việc tỷ
kheo đôi khi lấy đi một món đồ của bạn tu khi chưa hỏi trước chỉ v́ một
trong vài lư do như đó là chỗ thân thiết. Nhưng điều quan trọng là khi
lấy đi món đồ ấy tỷ kheo không có ư trộm cắp và trong ḷng sẳn sàng để
chủ nhân hay biết ngay khi có dịp.
Vihāra: Tự viện hay tinh xá, trú xá của các tỷ kheo. Nghĩa đen
của chữ này là chỗ ở (trụ xứ). Trú xá của tập thể tỷ kheo có thể lớn
hoặc nhỏ bất định, với các pḥng ốc chuyên dụng như trai đường, dược
pḥng, giới đường, hội trường bằng các loại vật liệu gần như không giới
hạn. Vị trí lư tưởng cho một tự viện là không quá xa hay quá gần khu dân
cư để có thể tiện việc khất thực mà cũng không bị ồn ào phồn tạp.
Trú xứ của tỷ kheo có thể được làm cho cá nhân sử dụng (puggalika) hay
cho tập thể (saṅghika). Trong trường hợp cá nhân (có thí chủ riêng) th́
vị trí xây dựng phải được sự chỉ định (vatthudesanā) của chư tăng, tỷ
kheo tùy tiện có thể phạm tội Tăng Tàn.
Tất cả vật dụng lớn nhỏ, quí tiện trong một trú xá của tập thể đều thuộc
giáo sản, nghĩa là không một cá nhân nào được quyền tùy tiện sử dụng như
hoang phí hay biếu tặng cho ai.
Vījanī: Cái quạt. Tỷ kheo có thể xài quạt làm bằng vỏ cây, lá cây
hay lông chim. Thời nay chất liệu làm quạt hợp luật có thể phong phú
hơn, như vải, giấy hay nhựa.
Vīsatimaṭṭha: Chữ gọi chung việc làm đẹp móng tay, móng chân bằng
các việc sơn vẽ hay mài giũa cầu kỳ. Tăng ni dĩ nhiên không được phép
làm vậy, chỉ có thể cắt ngắn các móng dài trong mục đích vệ sinh mà
thôi.
Vuṭṭhānasammati: Quyền Thượng Lộ (lệnh xuất hành). Đó là trường
hợp ni chúng dùng hai lần tuyên ngôn để cho phép một Học Nữ (sikkhāmānā)
được thọ giới tỷ kheo ni. Việc này được gọi là trao quyền Thượng Lộ, tức
cho phép đương sự bắt đầu một hành tŕnh mới thiêng liêng hơn.
Vuṭṭhāpanasammati: Quyền Xuất Sư (hiểu theo nghĩa Ra Nghề, không
phải Ra Quân). Khi tỷ kheo ni hội đủ các tiêu chuẩn làm thầy tế độ cho
người khác xuất gia, như tối thiểu đă đủ mười hai hạ, th́ ni chúng dùng
hai lần tuyên ngôn để xác định chuyện này, và đó được gọi là trao quyền
Xuất Sư.
Veṭhana: Khăn đội đầu, tăng ni không được phép sử dụng.
Vedikāvātapāna: Loại cửa sổ nh́n như lổ thông gió.
Vehāsakuṭī: Gác lửng hoặc cũng có nghĩa là pḥng nhỏ chứa đồ nằm
trong một pḥng lớn. Do chỉ là phần ghép thêm, chính nó không có trần
riêng nên được gọi là Vehāsakuti (gian thông thiên, pḥng không nóc,
nghĩa đen là lấy trời làm mái).
Sa-uttaracchada: Kiểu giường ngủ có treo mùng màu đỏ son. Tăng ni
không được phép sử dụng.
Saṃvāsa: Sự cộng trú, sự sống chung giữa các tỷ kheo. Có ba
trường hợp được gọi là cộng trú: Ekakamma-saṃvāsa (cùng tham dự chung
một tăng sự nào đó), Ekuddesa-saṃvāsa (cùng làm Bố Tát với nhau), và
Samasikkhatā-saṃvāsa (sống chung trú xứ mỗi ngày, do đồng giới phẩm).
Người không phải tỷ kheo hay tỷ kheo đang lúc chịu phạt cách ly đều được
gọi chung là Asaṃvāsika (người ngoài hay kẻ lạ của tăng chúng).
Samvelliya: Kiểu xắn y nội (hạ y) lên sát háng, như cách ăn vận
của các vơ sĩ đô vật. Tỷ kheo không được xắn hạ y kiểu này. Tội Tác Ác.
Chữ này cũng có nghĩa là tấm y lót trong của ni chúng trong những ngày
có kinh nguyệt.
Sakaṇṇajappaka (salākaggāha): Lối bày tỏ ư kiến bằng cách rỉ tai
người bên cạnh. Đây được xem là một trong ba cách trưng cầu ư kiến tập
thể được đức Phật cho phép. Xem chữ Yebhuyyasikavinaya.
Sakāyanirutti: Nghĩa đen là Bản Ngữ, chữ để gọi ngôn ngữ
Ma-Kiệt-Đà (māgadhībhāsā), như trong bộ Samantapāsādikā giải thích:
Sakāya nirutti nāma sam-māsambuddhena vuttappakārena māgadhiko vohāro
(Bản ngữ ở đây chỉ cho thứ tiếng Ma-Kiệt-Đà mà chính Thế Tôn đă sử
dụng). Sở dĩ có chỗ chú thích này v́ trong Cullavagga của Luật tạng Pàli
đức Phật đă nghiêm cấm chư tăng không được dùng tiếng Sanskrit (chữ
trong nguyên tác Pāli là Chandaso, Luật Sớ giải thích là Sakkatabhāsā)
để tŕnh bày Phật ngôn, và ngài dạy chỉ nên dùng thứ tiếng Bản Ngữ (chữ
Pāli trong Luật Tạng chỗ này là Sakāyanirutti) và bộ Chánh Sớ
Samantapāsādikā đă giải thích như trên. Nên hiểu thêm rằng ngôn ngữ
Ma-Kiệt-Đà là thứ tiếng chung của dân chúng sống trong xứ Ma-Kiệt-Đà
thời đó, không phải ngôn ngữ riêng của đức Phật hay người của Phật giáo.
Một số học giả Tây Phương hôm nay đă vận dụng cách hiểu nguyên nghĩa
Pāli để cho rằng Sakāyanirutti phải được hiểu là bản ngữ hay tiếng mẹ đẻ
của mỗi người (rơ ràng Saka là Của Chính Ḿnh và Nirutti là Ngôn Ngữ),
tức Phật tử xứ nào th́ dùng ngôn ngữ xứ đó mà diễn đạt Phật Pháp. Ư kiến
này nghe qua rất suông tai, nhưng xét kỹ vẫn có chỗ bất cập. Ở đây ta có
ít nhất hai chỗ cần lưu ư là ư nghĩa cũa chữ Tŕnh Bày và lư do của điều
cấm chế kia.
Trước hết, đúng là Phật giáo không buộc ai phải học tiếng Ma-Kiệt-Đà
(tạm cho là tiếng Pāli) khi nghiên cứu Tam Tạng hay thuyết giảng giáo lư
nhưng từ bao đời nay các xứ Phật giáo Nam Phương vẫn xem Tam Tạng tiếng
Pāli là mẩu mực cho giáo nghĩa. Tức là ai cũng có thể nói chuyện Phật
Pháp bằng tiếng mẹ đẻ, nhưng cơ sở tham chiếu tối hậu vẫn luôn là kinh
điển tiếng Pāli, tuyệt không một bản dịch nào có thẩm quyền tương đương.
Điều thứ hai là ta hăy trở lại với điều luật cấm tỷ kheo không được dùng
tiếng Sanskrit để tŕnh bày Phật ngôn. Nếu thuật ngữ Sakanirutti quả
thật ám chỉ tất cả ngôn ngữ mẹ đẻ (bản ngữ) th́ tiếng Sanskrit có ǵ nên
nổi phải bị cấm chỉ. Trong khi ai cũng hiểu rằng tiếng Sanskrit là một
trong số không nhiều những Ngôn Ngữ Mẹ của thế giới và đă là phương tiện
chuyên chở bao thứ tuyệt phẩm văn hóa với những ưu điểm khó phủ nhận.
Nên chăng một gợi ư về lư do khó hiểu kia rằng đó là ǵ nếu không phải
mục đích bảo lưu một giáo nghĩa tinh tuyền, nghiêm mật vốn rất khó duy
tŕ trên những hành tŕnh mù mịt qua các ngôn ngữ diễn đạt khi không có
một cứ điểm căn bản. Bởi mỗi ngôn ngữ thường tự mang theo ḿnh những
khái niệm văn hóa đặc hữu, đặc biệt những ngôn ngữ thành văn. Bất cứ sự
bàn giao nào cũng làm mất đi không ít chất tinh khôi của cái đem kư
thác. Sanskrit là ngôn ngữ bác học hàng đầu tại Ấn Độ thời đức Phật, đă
là công cụ cho bao nền văn hóa học thuật trước đó. Nó cao sang, hấp dẫn,
nhưng không c̣n trong trắng nữa. Tiếng Ma-Kiệt-Đà ngược lại, tuy là
tiếng nói của đông đảo quần chúng, nhưng lúc đó vẫn thuần khiết, v́ chưa
có chữ viết nên chưa kịp có riêng những ngữ nghĩa đặc hữu thường phát
sinh trong những ngôn ngữ thành văn. Sau khi được chỉnh trang đúng mức
để dùng làm dụng ngữ cho một nền văn hóa lớn như giáo nghĩa cũa đạo Phật
nguyên thủy, tiếng Ma-Kiệt-Đà lập tức có ngay vị trí một ngôn ngữ hoàn
chỉnh, giản phác mà vẫn minh bạch tóc tơ.
Nói vậy có nghĩa là việc tiếng Pāli đă được chọn làm dụng ngữ căn bản để
bảo lưu Phật Pháp nguyên thủy chỉ để tránh chuyện phồn tạp lai căn. Và
tiếng Sanskrit bị nghiêm cấm chính thức chỉ v́ cái tiền sử của nó. Nó
được kể tên chỉ v́ lúc đó nó là số một. Và có thể nói nó đă đại diện cho
tất cả ngôn ngữ thành văn khác cũng có tiền sử tương tự, bất kể thời kỳ
nào.
Trên đây chỉ là vài ư kiến, có thể mang tính chủ quan, nhằm biện giải v́
sao tiếng Sanskrit bị cấm dùng để tŕnh bày Tam Tạng (theo quan điểm
Phật Giáo Nam Truyền) và cũng để từ chối cách hiểu chữ Sakanirutti là
tất cả ngôn ngữ mẹ đẻ của mọi người. Về vấn đề tiếng Pāli có phải ngôn
ngữ duy nhất đức Phật đă dùng để thuyết pháp, hay chữ Sakanirutti có
phải chỉ cho tiếng Pāli hay không, vẫn là những vấn đề tồn nghi quan
trọng. Bởi không ít học giả hiện đại vẫn cho rằng các bộ kinh Phật xưa
nhất hiện nay đều có thể xuất phát từ một nguồn gốc cổ xưa hơn, nguyên
thủy hơn. Thậm chí c̣n có thuyết cho rằng đức Phật đă sử dụng nhiều thứ
tiếng khác nhau để hoằng pháp trên một xứ sở đa ngôn ngữ như Ấn Độ.
Saṅkacchidā: = Saṅkaccikā: Áo lót của phụ nữ. Tỷ kheo ni phải mặc
áo lót khi đi vào khu dân cư, nếu không sẽ phạm tội Ba Dật Đề.
Saṅgāmavacara: = Codaka (bhikkhu).
Saṅgīti: Chữ gọi các cuộc kiết tập Phật ngôn bằng tiếng Pāli để
phối kiểm sự chuẩn xác trong khả năng truyền thừa của các thế hệ
Tăng-già. Cuộc kiết tập đầu tiên do ngài Ca-Diếp chủ tŕ, kéo dài ba
tháng, có 500 vị La-Hán tham dự. Cuộc kiết tập kỳ sáu (gần đây nhất),
kéo dài hai năm (1954-1956) tại Miến Điện có 2500 vị tỷ kheo tham dự.
Từ sau các cuộc Kiết Tập đầu tiên chỉ trùng thuật và hiệu chính toàn bộ
Tam Tạng Pali bằng h́nh thức khẩu truyền không dùng văn bản,các vị Kiết
Tập Sư trong cuộc Kiết Tập kỳ IV tại Tích Lan đă bắt đầu sử dụng đến các
ấn bản Tam Tạng, song song với việc trùng thuật của các vị Pháp sư Tam
Tạng theo lối đọc thuộc ḷng. Và truyền thống này đă được vận dụng trong
cuộc Kiết Tập Tam Tạng kỳ VI tại Miến Điện từ năm 1954 đến năm 1956.
Được biết chính phủ Miến Điện đă dành ra một ngân khoản mười triệu Kyat
tiền Miến, tương đương 750.000 bảng Anh (thời giá lúc đó) để chuẩn bị
tất cả điều kiện làm việc (gồm các ban in ấn, truyền thông,địa điểm Kiết
Tập ) và sinh hoạt (ăn ở, đi lại, an ninh, y tế)cho cuộc Kiết Tập với sự
góp mặt của 2500 vị Kiết Tập Sư chủ yếu thuộc Phật giáo Nam Tông các xứ
Tích Lan, Cambodge, Ai Lao, Miến Điện và Thái Lan (với các công việc
trùng thuật, phiên dịch, kiểm định Tam Tạng) và hàng ngàn quan khách
tham dự trong tư cách quan sát viên đến từ toàn cầu.
Toàn bộ thời gian làm việc trong suốt hai năm Kiết Tập được chia thành
năm pháp hội:
Pháp hội thứ nhất
Sau buổi lễ khai mạc kéo dài hai ngày từ 17/5 đến 19/5/54, tất cả tăng
chúng nhất trí suy cử đại lăo ḥa thượng Abhidhaja Maha Ratthaguru
Bhaddanta Revata Nyaungyan Sayadaw làm chủ toạ đại hội Kiết Tập. Sau đó
ban Kiết Tập Sư bắt đầu trùng thuật (đọc thuộc ḷng) toàn bộ Luật Tạng
(gồm 5 bộ trong tám cuốn, 2260 trang) qua h́nh thức vấn đáp.
Pháp hội thứ hai
Từ ngày 15/11/54 đến ngày 29/1/55, không kể vài ngày lễ lạc, chư Kiết
Tập Sư đă dành trọn 65 (sáu mươi lăm)ngày để trùng thuật toàn bộ Trường
Bộ Kinh (gồm 779 trang Pali), Trung Bộ Kinh (gồm 1206 trang Pali), và
Tương Ưng Bộ Kinh (gồm 1454 trang Pali). Ngài Nyaungyan Sayadaw trực
tiếp điều động và theo dơi 500 vị Kiết Tập Sư thực hiện công đoạn này.
Pháp hội thứ ba
Từ ngày 28/4/55, ban Kiết Tập Sư đă dành ra hai mươi bảy ngày để trùng
thuật trọn vẹn Tăng Chi Bộ Kinh (gồm 1651 bài kinh trong 9557 trang
Pali). Được biết chư thánh tăng trong cuộc Kiết Tập đầu tiên do ngài
Mahàkassapa chủ toạ đă chia Tăng Chi Bộ Kinh thành 120 phần để trùng
thuật. Nhưng do điều kiện hiện tại, chư Kiết Tập Sư trong cuộc Kiết Tập
kỳ VI sau nhiều bàn soạn đă chia nhỏ bộ này ra thành 210 phân đoạn.
Từ ngày 30/5/55 đến 2/7/55 ban Kiết Tập Sư đă tiếp tục trùng thuật sáu
bộ đầu tiên của Thắng Pháp Tạng (A Tỳ Đàm) gồm 2302 trang Pali. Như vậy
trong pháp hội thứ ba này, chư tăng đă trùng thuật và hiệu chính được
tất cả 11.859 trang Pali. Người được đề cử giám sát và chủ toạ suốt thời
gian thực hiện pháp hội thứ ba là ngài Tăng Vương Cao Miên Jotanano
Choun Nath cùng với Tăng Vương Ai Lao Prabuddhajinoros.
Pháp hội thứ tư
Cũng c̣n gọi là Pháp Hội Thái Lan, v́ chính ngài Tăng Vương Thái Lan
Vanarat Kittisobhana được mời làm chủ tọa để giám sát trên 600 vị Kiết
Tập Sư trùng thuật và hiệu chính trọn bộ Patthana(gồm 2686 trang Pali)
của Thắng Pháp Tạng cùng hầu hết Tiểu Bộ Kinh (Tiểu Tụng, Pháp Cú, Như
Thị Thuyết, Thiên Cung Sự, Ngạ Quỷ Sự, Tăng Kệ, Ni Kệ, Tăng Bản Hạnh, Ni
Bản Hạnh, Phật Tông, Hạnh Tạng cùng hai bộ Đại Tiểu Xiển Minh, không có
Bổn Sanh và Vô Ngại Giải Đạo). Phần Tiểu Bộ này gồm đến 2299 trang Pali.
Như vậy trong Pháp Hội thứ ba chư tăng đă trùng thuật được tổng cộng
4985 trang Pali. Toàn bộ công việc kéo dài trong suốt 54 ngày, từ
16/12/55 đến 16/2/56, không tính mấy ngày lễ.
Pháp hội thứ năm
Cũng c̣n gọi là Pháp Hội Tích Lan, được bắt đầu từ ngày 23/4/56 đến ngày
24/5/56 và vị chủ tŕ là ngài Welivita Dharmakirti, tăng trưởng bộ phái
Syamanikaya ở Kandy (Tích Lan). Trong thời gian này chư Kiết Tập Sư đă
trùng thuật và hiệu chính các bộ Patha, Milindapanha, Netti,
Petakopadesa và Patisambhidamagga.
Sau khi đại hội Kiết Tập Tam Tạng kỳ VI hoàn măn, tất cả cơ sở hạ tầng
được sử dụng trong đại hội đă lập tức được đổi dạng thành những trung
tâm văn hoá quan trọng của Phật Giáo bao gồm một trường đại học, một thư
viện quốc gia và các thư quán (nhà xuất bản), ấn quán.
Saṅgha: Thuật ngữ này có nhiều nghĩa:
1) Sāvakasaṅgha: Chỉ cho tám tầng thánh trí của hàng Thanh Văn, từ Sơ
Đạo đến Tứ Quả. Tức đôi lúc Tăng Bảo phải được hiểu là các vị thánh đệ
tử của đức Phật.
2) Sammutisaṅgha: Chỉ cho một nhóm tỷ kheo hay tỷ kheo ni có ít nhất bốn
vị. Nhưng số lượng này không đủ cho ba loại tăng sự Giới Đàn, Tự Tứ,
Phục Vị (abbhānakamma). Năm vị th́ có thể làm thêm tăng sự Tự Tứ. Mười
vị có thể đủ cho hầu hết tăng sự, trừ Phục Vị. Hai mươi vị là con số tối
thiểu để thực hiện tất cả tăng sự. Luật Tạng gọi nhóm tỷ kheo hai hoặc
ba vị là Gaṇa (chúng), một vị là Puggala (cá nhân). Các tăng sự sau đây
luôn phải do tăng chúng (saṅgha) thực hiện, dưới 4 vị không thể làm
được: Apalokanakamma, Ñattikamma, Ñattidutiyakamma, Ñattidutiyakamma.
Saṅghabhatta: Bữa ăn được cúng dường cho tăng chúng tại một trú
xứ nào đó.
Saṅghabheda: Sự chia rẽ trong tăng chúng. Cullavagga giải thích
rơ ràng rằng khi có một nhóm tỷ kheo tách nhau ra thành hai phe, chỉ cần
bên chơn tăng (dhammavādī) có số lượng tối thiểu bốn vị và bên gian tăng
(adhammavādī) có số lượng tối thiểu năm vị, th́ đó mới được gọi là một
cuộc chia rẽ Tăng-già. Nếu dưới hai con số tối thiểu trên đây, th́
trường hợp xích mích này chỉ được gọi là Saṅgharāji (tăng chúng tranh
sự).
Điều đặc biệt là chỉ trường hợp chia rẽ do chính các tỷ kheo thực hiện
mới gọi là Saṅghabheda, chuyện xảy ra do các đối tượng ngoài ra (kể cả
tỷ kheo ni) không kể là Saṅghabheda, v́ họ đều là người ngoài cuộc. Và
sự chia rẽ tăng chúng chỉ h́nh thành khi vấn đề tranh căi giữa các tỷ
kheo thuộc về lĩnh vực kinh luật giáo nghĩa, như căi nhau cái ǵ là Phật
ngôn hay không phải Phật ngôn, việc đó hợp luật hay sái luật. Chuyện bất
đồng mang tính cá nhân không thể xem là lư do đáng kể.
Tỷ kheo cố ư chia rẽ tăng chúng bất chấp sự khuyên răn của tăng chúng
(ba lần), th́ phạm tội Tăng Tàn.
Saṅghabhedaka: Chữ gọi vị tỷ kheo cố ư đem vấn đề kinh luật ra
làm cớ để chia rẽ tăng chúng. Chỉ có tỷ kheo mới có thể làm việc này. Và
sau ba lần từ chối lời cảnh tỉnh của tăng chúng, đương sự phạm tội Tăng
Tàn.
Saṅgharāji: Xem chữ Saṅghabheda.
Saṅghasāmaggī: Sơn Môn Đạo T́nh. Ngay sau khi trong tăng chúng có
xảy ra chuyện bất hoà nghiêm trọng, các tỷ kheo nên nhân một tăng sự nào
đó hay tranh thủ ngày Bố Tát sớm nhất để triệu tập tất cả tăng chúng, kể
cả tỷ kheo đang bệnh, để dùng Nhị Tác Bạch tuyên ngôn kêu gọi sự đoàn
kết và sau đó cùng nhau làm Phát Lộ (có tụng giới bổn). trường hợp này
được gọi là tăng sự khôi phục Sơn Môn Đạo T́nh.
Saṅghāṭi: Tức y Tăng-Già-Lê của tỷ kheo, thường được may hai lớp.
Trong trường hợp dùng vải Phấn Tảo, y này có thể nhiều lớp hơn. Kích
thước y Tăng-Già-Lê của tỷ kheo không được lớn hơn Tăng-Già-Lê của đức
Phật, tức là chiều dài phải dưới chín gang tay đức Phật và chiều ngang
phải dưới sáu gang của Ngài (Sugatacīvarappamāṇa). Khuddakasikkhā giải
thích thượng y (y vai trái) phải có cùng kích thước với y Tăng-Già-Lê.
Hạ y (y nội) phải có kích thước nhất định là chiều dài bốn khuỷu tay
(hắc tay) cộng với một nắm tay (muṭṭhi) của tỷ kheo (người sở hữu y) và
chiều ngang hai khuỷu tay cộng thêm một nắm tay, cũng của người mặc.
Theo luật, tỷ kheo không được xa rời tam y một đêm nào cả, ngay cả lúc
vào khu dân cư cũng phải có đủ ba y, trừ trường hợp đặc biệt như lúc
bệnh hoạn hay trong thời gian năm tháng sau ngày thọ y Kaṭhina.
Do y Tăng-Già-Lê quá nặng nề, nên ngoài mùa lạnh tỷ kheo có thể không
cần đem đắp lên người (pāru-pana) như y vai trái, chỉ việc vắt lên vai
cũng được. Tỷ kheo không được lạm dụng Tăng-Già-Lê vào những việc bất
xứng, như trải để ngồi hay dùng để lau phủi chỗ dơ. Tội Tác Ác.
Saṅghāṇi: Một loại trang sức đeo ở thắt lưng.
Saṅghādisesa: Các bản Hán dịch đều gọi là Tăng Tàn. Đây là tên
gọi loại trọng giới có mức nghiêm trọng chỉ đứng sau tội Ba-La-Di. Tỷ
kheo phạm tội này tối thiểu phải qua sáu đêm khổ nhục và một tăng hội ít
nhất hai mươi vị mới đủ để giải trừ tội trạng.
Theo bộ Kaṅkhā-vitaraṇī, sở dĩ gọi là Saṅghādisesa (Tăng Tàn) v́ từ ngày
đầu tiên tỷ kheo xưng tội đến khi tội được giải trừ, giai đoạn nào cũng
phải do tập thể tăng chúng đứng ra, không thể do một cá nhân lo liệu
được (Saṅgho ādimhi ceva sese ca icchitabbo assāti saṅghādiseso).
Giới Tăng Tàn của tỷ kheo có mười ba điều. Chín điều đầu gọi là Tức Phạm
(paṭhamāpattikā), nghĩa là tỷ kheo vừa làm xong chuyện cấm th́ phạm tội
ngay. Bốn điều Tăng Tàn sau gọi là Tiệm Phạm (Yāvatatiyakā), những tội
chỉ bị xem là vi phạm sau ba lần tuyên ngôn khuyên răn bất thành của
tăng chúng.
Xem thêm các chữ Mānatta, Parivāsa.
Saññāvimokkā-āpatti: Chữ gọi những tội bị phạm do sự cố ư (v́
cũng có trường hợp dù vô t́nh cũng là phạm tội).
Satavalika: Kiểu quấn y nội thành quá nhiều nếp khi mặc, không
đúng luật, tội Tác Ác.
Sativinaya: Ức Niệm Diệt Tránh. Chữ gọi trường hợp chư tăng dùng
bốn bận tuyên ngôn để xác định một tỷ kheo là bậc La-Hán để đương sự
được quyền miễn trừ trước một cáo buộc nào đó.
Theo Samantapāsādikā, tăng sự này đ̣i hỏi năm điều kiện: Tỷ kheo bị cáo
buộc kia đúng là người vô tội (suddhassa anāpattikassa dānaṃ ekaṃ), có
người cáo buộc (anuvāditassa dānaṃ ekaṃ), tỷ kheo bị cáo buộc có lời yêu
cầu tăng chúng xác định t́nh trạng vô nhiễm của ḿnh (yācitassa dānaṃ),
lời xác định kia phải do tập thể tăng, không thể là một cá nhân nào
(saṅghena dānaṃ ekaṃ), lời xác định kia đúng với sự thật (dhammena
samaggena).
Sattabbhantara-sīmā: Khi các tỷ kheo muốn làm Bố Tát trong một
khu rừng mênh mông th́ khu vực bán kính bảy Abbhantara chung quanh chỗ
tăng hội lúc đó trở thành một khu vực Sīmā tạm thời, không cần tuyên
ngôn kiết giới hay vật mốc làm dấu ranh. Mỗi Abbhantara được xác định
tương đương với hai mươi tám khuỷu tay của người trung b́nh. Vậy bảy
Abbhan-tara là 196 khuỷu tay (gọi theo chữ cũ là hắc tay).
Sattāhakaraṇīya: Nghĩa bóng là duyên sự chính đáng. Khi tỷ kheo
đă nguyện kiết hạ ba tháng mùa mưa ở nới nào đó, nếu không có một lư do
hợp luật (xin xem chữ Vassāvāsa) th́ không thể rời khỏi chỗ nhập hạ quá
một đêm dù ban ngày có thể đi đâu đó để làm các Phật sự như tụng kinh,
nghe pháp, thăm hỏi trưởng lăo. Thuật ngữ trên đây được dùng gọi chung
những công việc quan trọng không thể làm ngơ, phải nguyện rời trú xứ
cách đêm, để hoàn tất công việc trong ṿng bảy ngày. Nghĩa đen của chữ
Pāli này là những việc phải làm xong trong bảy hôm, và trước lúc ra đi
tỷ kheo phải chú nguyện sẽ trở về đúng hạn, không lâu quá bảy ngày.
Sattāhakālika: Châu Hạn Dược. Chữ gọi chung năm thứ được xem là
dược phẩm như bơ đặc (navanīta), bơ lỏng (Sappi), mật ong (madhu), mật
mía (phānita) và dầu ăn. Tỷ kheo bệnh chỉ được giữ năm món này trong bảy
ngày, lâu hơn sẽ phạm tội Xả Đọa.
Sattu: Bánh làm bằng bột ngũ cốc. Chữ này cũng để gọi một thứ bột
có trộn nghệ dùng để giữ kim may khỏi rỉ sét.
Satthaka: Loại dao nhỏ dùng trong việc may vá.
Satthakamma: Sự mổ xẻ hay phẩu thuật. Tỷ kheo có thể để người
khác mổ xẻ để trị bệnh, nhưng nên tránh để thầy thuốc làm việc nhiều ở
chỗ kín. Theo Mahāvagga.
Satthakadaṇḍa: Cán dao. Tỷ kheo nên tránh các chất liệu quư kim,
bảo thạch.
Satthalūkha(cīvara): Một tên gọi khác của y áo tăng ni nói chung.
V́ đức Phật cấm chế y áo tăng ni không được là một tấm vải nguyên, vốn
dễ gợi ḷng tham cho người khác (và bản thân ḿnh), nên y phải được may
lại bằng nhiều miếng vải rời theo h́nh thức một miếng ruộng với các ô
vuông và chữ nhật liền nhau (xem chữ Cīvara). Xin đừng nhầm lẫn với kiểu
y bá nạp có hàng trăm mảnh ghép nối cầu kỳ và lập dị hơn là đơn giản,
thanh bần. Nghĩa đen của thuật ngữ này là thứ y phục được làm xấu đi
bằng những đường cắt của dao kéo.
Saddhādeyyavinipātanā: Thất Cách Thọ Dụng. Nghĩa bóng của chữ này
là trường hợp tỷ kheo đem tài vật cá nhân biếu tặng những đối tượng nằm
ngoài tăng chúng hay cha mẹ. Đó cũng là một cách cô phụ tấm ḷng những
thí chủ dâng cúng cho ḿnh với ư nghĩa hộ tŕ phạm hạnh khi sử dụng lễ
phẩm không đúng chỗ. Theo Mahāvagga.
Saddhivihārika: Chữ gọi vị tỷ kheo hay sa-di đệ tử, người được
ḿnh tế độ cho thọ giới xuất gia (trao truyền giới phẩm) và theo luật
th́ thầy tṛ phải sống gần nhau ít nhất năm năm. Từ đó mới có chữ
Saddhivihārika tức người đệ tử đồng trú.
Theo Luật Tạng, t́nh nghĩa thầy tṛ trong tăng chúng không khác ǵ quan
hệ phụ tử. Khi thầy hay tṛ hữu sự (lâm nạn hay bị xử phạt) th́ người
kia không nên bỏ mặc. Trong mọi sự, người đệ tử không nên hành xử theo ư
riêng mà không xin phép thầy tế độ. Nếu thầy tế độ hoàn tục, qua đời,
hoặc không c̣n điều kiện sống gần nữa, đệ tử phải t́m đến y chỉ nơi một
tỷ kheo trưởng lăo mà ḿnh nghĩ là xứng đáng.
Saddhivihārī: = Saddhivihārika.
Santaruttara: T́nh trạng không giữ đủ tam y. Nếu dịch sát, chữ
này nghĩa là chỉ có hạ y tức y nội (antaravā-saka) và thượng y tức y vai
trái (uttarasanga) mà không có thêm Tăng-Già-Lê. Tỷ kheo không được vào
khu dân cư trong t́nh trạng không có đủ tam y. Chỉ trường hợp đặc biệt
như khi tỷ kheo bệnh, lúc đi sông suối vào các tháng mưa, hay trong thời
gian năm tháng sau ngày thọ tăng y.
Santhata: Loại chiếu hay thảm len được dán keo, không phải do đan
hay dệt. Tỷ kheo không được dùng loại thảm có pha trộn tơ tằm hay lông
cừu. Tội Xả-Đọa. Thảm len hợp luật phải có ít nhất một nửa diện tích là
màu đen và đă đươc ai đó sử dụng tối thiểu sáu năm trước khi đến tay tỷ
kheo.
Sanniṭṭhānantika: Một trong tám lư do khiến tỷ kheo làm hỏng ư
nghĩa tăng y (làm mất năm tháng đặc quyền) là ư định ra đi không trở lại
trú xứ vừa thọ y.
Sannidhikāraka: Thuật ngöơ gọi sự cất giữ, tích lũy thức ăn. Tăng
ni không được giữ lại thức ăn cách đêm. Thậm chí có những món được xem
là thuốc trị bệnh (gồm mật ong, mật mía, bơ đặc, bơ lỏng và dầu ăn) cũng
chỉ được cất giữ không quá bảy ngày. Các món thuốc men ngoài ra có thể
giữ bao lâu tùy thích, dĩ nhiên tránh việc chất đống với số lượng quá
mức cần thiết.
Sapadānacārikā: Tuần tự hóa duyên, chữ gọi phép đi khất thực
không bỏ sót nhà nào với ư lựa chọn. Đồng thời cũng có nghĩa là hạnh
khất thực mỗi ngày không gián đoạn của tỷ kheo tŕ hạnh Đầu-Đà
(sapadāna-carika).
Saparikkamana: Sự quảng khoát cần có ở một miếng đất được tỷ kheo
chọn làm nơi xây dựng trú xứ. Tính từ vách nhà phải đủ chỗ cho một con
ḅ kéo cày hay có thể bắt thang. Tỷ kheo phải luôn có được sự chỉ định
của chư tăng về vị trí xây cất (vatthudesanā) trước khi xây cất am thất
riêng cho ḿnh.
Sappaṭikamma-āpatti: Chữ gọi tất cả các tội có thể giải trừ sau
khi vi phạm, nghĩa là chỉ trừ ra tội Ba-La-Di.
Sappi: Bơ lỏng (ghee), một trong năm thứ dược phẩm mà tăng ni có
quyền cất giữ trong bảy ngày. V́ thời xưa bơ lỏng là thứ đắt đỏ, tăng ni
không được xin về để dùng như thực phẩm.
Sabbakaṇha-cīvara: Hắc y, y thuần một màu đen. Tăng ni không được
dùng.
Sabbatthapaññatti: Từ gọi chung những học giới được cấm chế không
hạn chế địa phương, nghĩa là ở đâu cũng phải tuân hành như vậy.
Sabbanīlaka-cīvara: Thanh y, y thuần một màu xanh. Tăng ni không
được dùng.
Sabbapītaka-cīvara: Y được nhuộm chỉ bằng màu vàng, không pha
thêm màu khác. Tăng ni không được dùng.
Sabbamañjitthaka: Y nhuộm màu đỏ thẩm. Tăng ni không được dùng.
Sabbamattikamayakuṭikā: Loại am thất làm từ đất nung nguyên khối,
bằng cách đắp đất sét thành h́nh dạng nhà ở rồi chất than hay củi nung
chín như cách người ta làm đồ gốm. Không hợp luật.
Sabbamahāraṅgaratta-cīvara: Loại y có màu đỏ rực như lưng rết,
không hợp luật.
Sabbamahānāmaratta-cīvara: Y có màu nhuộm vằn đốm như một chiếc
lá sắp khô. Không hợp luật.
Sabbalohitaka-cīvara: Y nhuộm tuyền một màu đỏ máu, không hợp
luật.
Sabhāgāpatti: Đồng tội. Chữ gọi trường hợp từ hai tỷ kheo trở lên
phạm cùng một học giới giống nhau, như cùng ăn chiều mà chưa sám hối.
Những vị như vậy không thể sám tội với nhau được, cả hai phải t́m vị
khác hoặc một trong hai sau khi được trong sạch quay lại cho người kia
sám tội với ḿnh.
Samaṇuddesa: = Sāmaṇera.
Samaṇakappa: Chữ gọi chung những thứ vật chất hay thực phẩm đă
được hợp thức hoá để tỷ kheo có thể sử dụng. Chẳng hạn trái cây phải
được lấy hột ra tỷ kheo mới có thể thọ thực. Có nhiều cách hợp thức hóa:
Dùng lửa (aggiparicita), dùng dao hay vật nhọn (satthaparicita) và dùng
móng tay (nakhaparicita). Đôi lúc chỉ một dấu cắt sơ sài hay một vết
móng cào nhẹ cũng có thể xem là hợp luật.
Samaṇakuttaka: Sa-môn giả hiệu, chữ gọi người tự đắp giáo phục để
dễ dàng kiếm sống.
Samaṇabhatta-samaya: Lời mời ăn dành cho tu sĩ các tông phái nói
chung, kể cả với tỷ kheo Phật giáo.
Samatha: Phép Diệt Tránh hay Tịnh Tranh, chữ gọi bày phương thức
giàn xếp rắc rối tranh căi trong tăng chúng. Chẳng hạn triệu tập các
đương sự để cùng giải quyết trước mặt nhau, hay trưng cầu ư kiến tập
thể, hoặc chư tăng cùng nhất trí lờ luôn chuyện đó không nhắc đến nữa.
Đặc biệt nhất là trường hợp dùng tăng lệnh xác định một bị cáo nào đó là
bậc La-Hán được miễn trừ hoàn toàn các cáo buộc. Dĩ nhiên ngày nay không
c̣n cơ hội để áp dụng cả bảy phương thức này. Xin xem thêm trong Giới
Bổn tỷ kheo về bảy phép Tịnh Tranh.
Samānasaṃvāsasīmā: Từ gọi một khu vực cương giới đă được chư tăng
dùng tuyên ngôn và các vật mốc để xác định là địa điểm thực hiện các
tăng sự. Xem chữ Sīmā.
Samānāsanika: Bạn đồng tọa, chữ gọi chung các tỷ kheo chỉ chênh
lệch nhau từ ba hạ trở xuống có thể ngồi ngang nhau. Có nghĩa là một tỷ
kheo năm hạ có thể ngồi chung với tỷ kheo ba hạ. Đó là nói trường hợp
chỗ ngồi là một chiếc giường hay ghế có thể chứa nhiều người. Đặc biệt
tỷ kheo phải tránh ngồi gần phụ nữ, hay bán nam bán nữ trong những chỗ
ngồi có vẻ gần gũi, dễ chung đụng như vậy.
Samuṭṭhāna: Tội căn, hay điều kiện căn bản để cấu thành một tội
trong Luật Tạng, ở đây nói đến ba nghiệp môn (thân, khẩu, ư). Trong bộ
Parivāra có kể chi tiết mười ba trường hợp, nhưng đại lược là có những
tội chỉ do thân môn hay khẩu môn cộng với ư môn đă đủ thành tội, có
trường hợp phải hội đủ cả ba nghiệp môn mới kể là phạm tội, có trường
hợp chỉ h́nh thành từ một nghiệp môn.
Samodhānaparivāsa: Huân Tội Cấm Pḥng, chữ gọi trường hợp tỷ kheo
phải chịu thêm ngày cấm pḥng khi chưa giải trừ xong tội một Tăng Tàn.
Tức phạm thêm tội Tăng Tàn khác trong lúc đang thụ phạt cấm pḥng
(parivāsa) hay trong thời gian sáu đêm Khiêm Hạnh. Xem chữ Parivāsa.
Sambādha: Chữ gọi tất cả những chỗ kín trong thân thể tỷ kheo,
như nách, háng, hậu môn và bộ phận sinh dục. Tỷ kheo nên đặc biệt tránh
việc phơi bày những chỗ này cho người khác nh́n thấy, kể cả lúc chữa
bệnh. Tăng ni cũng không được cạo bỏ lông chỗ kín, trừ lúc trị thương.
Sambhāraseda: Cách trị bệnh thống phong (gout) bằng việc dùng các
loại lá thuốc để xông hơi.
Sammajjanī: Cây chổi quét nhà.
Sammukhavikappanā: Xem chữ Parammukhavikappanā.
Sammukha-vinaya: Diện Tiền Tịnh Tranh. Một trong bảy phép Tịnh
Tranh, giải quyết tranh căi trong tăng chúng bằng cách triệu tập các
đương sự đến trước tập thể để cùng giàn xếp. Có bốn tiêu chuẩn để làm
nên một tăng sự loại này: Phải có sự hiện diện của tăng chúng
(saṅghasammukhatā), phải có vấn đề tranh căi cụ thể (dhammasammukhatā),
giải pháp phải hợp luật (vinayasammukhatā), và cả hai phe tranh căi phải
cùng có mặt (puggalasammukhatā).
Phép Tịnh Tranh này được áp dụng cho một trong bốn trường hợp
Vivādādhikaraṇa, Anuvādādhikaraṇa, Āpattādhikaraṇa, Kiccādhikaraṇa. Đôi
lúc sự vụ được giao cho một nhóm hay một cá nhân tỷ kheo nào đó giải
quyết (cách ủy nhiệm-Ubbāhika), cũng được gọi là Diện Tiền Tịnh Tranh.
Sammutikappiyabhūmi: Nhà kho hay chỗ cất giữ vật dụng hay lễ phẩm
của chung tăng chúng một trú xứ, do chính chư tăng chỉ định vị trí và đề
cử người chịu trách nhiệm trông coi.
Sarabhañña: Lối tụng kinh cao giọng, hợp luật, nhưng tỷ kheo
không được tụng kinh như hát, trái luật.
Saritaka: Chữ gọi chung bột đá hay cát nhuyễn dùng giữ kim may
khỏi bị sét.
Saritakasipāṭikā: Chữ gọi chung các loại giấy nhám hay vải có bôi
sáp hoặc cát mịn để giữ kim may không bị sét.
Salākaggāha: Sự bỏ phiếu hay việc bỏ thăm. Một trong những cách
trưng cầu ư kiến tăng chúng hay t́m nhân tuyển cho một sự vụ nào đó. Xem
chữ Yebhuyyasika-vinaya.
Salākaggāhāpaka: Chữ gọi vị tỷ kheo có trách nhiệm đi gom lại các
lá thăm (phiếu) sau một cuộc bỏ thăm của tăng chúng cho vấn đề ǵ đó.
Xem chữ Yebhuyyasika-vinaya.
Salāka-vātapāna: Loại cửa sổ có các chấn song.
Salāka: Lá phiếu, lá thăm dùng trong các buổi trưng cầu hay thăm
ḍ ư kiến hoặc t́m nhân tuyển. Chữ này cũng để gọi thanh gỗ được chèn
giữa hai lớp vải trong lúc may y, không để đường chỉ xuyên qua cả hai
lớp vải.
Salākabhatta: Đầu Phiếu Trai Phạn. Bữa ăn được cúng dường cho chư
tăng qua cách rút thăm xem vị nào được đi. Đó là trường hợp có cùng lúc
nhiều thí chủ mời thỉnh hay tổng số tỷ kheo đông hơn con số được thí chủ
nêu ra.
Salākodhāniya: Cái giá để gác cây que chấm thuốc nhỏ mắt. Xem chữ
añjanīsalāka.
Saddhivihārinī: = Sahajīvinī: Nữ đồ hay nữ đệ tử hay người nữ
được tỷ kheo ni truyền giới cho xuất gia. T́nh thầy tṛ bên ni chúng
cũng phải được trân trọng như t́nh mẫu tử.
Sahubbhāra: Một trong tám trường hợp tỷ kheo làm hỏng mất các đặc
quyền sau ngày thọ tăng y do rời khỏi trú xứ để t́m y với ư sẽ trở về,
nhưng sau đó lại đổi ư và nhường lại cho vị khác thọ y Kaṭhina.
Sajīva: Điều huyết mạch hay vấn đề cốt tử. Đây là chữ đồng nghĩa
với từ Học Giới (sikkhā) của tăng ni. Nghĩa đen của chữ này là những
điều mà tăng ni phải suốt đời giữ lấy, chúng chính là sinh mạng của đời
sống phạm hạnh, danh xưng tăng ni chỉ tồn tại qua các học giới. Đây cũng
là lời giải thích v́ sao trong Tương Ưng Bộ đức Phật đă gọi vị tỷ kheo
hoàn tục là người tự sát.
Sāṭiyaggāhāpaka: Chữ gọi tỷ kheo thay mặt tăng chúng nhận y hay
vải may y từ thí chủ.
Sāṇa: Một loại vải thô xấu dệt từ xơ cây, hợp luật.
Sādhāraṇapaññatti: Phổ Chế (chữ Biến Chế rất đắc cách nhưng dễ bị
hiểu lầm). Từ gọi những học giới được cấm chế chung cho cả hai phía tăng
ni.
Sāmaṃ-pakkaṃ-piṇḍaṃ: Chữ gọi chung những món ăn không cần nấu
nướng, đă chín sẵn hoặc có thể ăn ngay. Theo luật, tỷ kheo không được tự
tay nấu ăn nên khi khất thực chỉ nên nhận các món ăn loại này.
Sāmaggī-uposatha: Tăng Ḥa Bố Tát. Chữ gọi lễ Bố Tát được thực
hiện ngay khi tăng chúng đang cần có cơ hội để tái hiện sự đoàn kết từ
một cuộc xích mích vừa xảy ra. Xem chữ Saṅgha-samaggī.
Sāmaṇera: Sa-di, giới phẩm chuẩn bị cho một người nam trước khi
thọ đại giới để trở thành tỷ kheo. Hạn tuổi tối thiểu của Sa-di có thể
chỉ là bảy tuổi, đủ trí khôn để xua đuổi một bầy quạ. Và một Sa-di phải
giữ tṛn Thập giới (tính hẹp) hay 105 giới (tính rộng). Trong đó có mười
điều sau khi vi phạm coi như phải hoàn tục hay tái thọ Sa-di giới: Đó là
năm điều giống hệt ngũ giới của cư sĩ, cộng thêm ba tội phỉ báng Tam Bảo
và sách nhiễu t́nh dục tỷ kheo ni (xem chữ Bhik-khunīdūsaka). Đặc biệt
điều cuối cùng này bị xem là tương đương với tội Ba-La-Di của tỷ kheo,
nghĩa là suốt đời không được đắp y trở lại, dù ở giới phẩm nào. Khi vi
phạm các học giới c̣n lại, Sa-di chỉ bị xử phạt tượng trưng.
Cũng giống trường hợp tỷ kheo, người muốn thọ giới Sa-di cũng không thể
là người có các vấn đề về pháp luật, xă hội hay sức khỏe như dị dạng hay
nan y tuyệt chứng.
Chữ Sāmaṇera nghĩa đen là con của Sa-Môn (tỷ kheo) có chữ đồng nghĩa là
Samaṇuddesa, người tháp tùng tỷ kheo hay Sa Môn thứ phẩm.
Sāmaṇerapesaka: Chữ gọi vị tỷ kheo có trách nhiệm giao việc cho
Sa-di.
Sāmaṇerī: Sa-Di-Ni, giới phẩm thấp nhất trong ni chúng, giai đoạn
chuẩn bị cho hai năm Học Nữ (sikkhāmānā) trước khi thọ giới tỷ kheo ni.
Sālūkapāna: Nước ép từ rễ sen hay súng, tỷ kheo có thể dùng buổi
chiều.
Sāvajjapaññatti: Chế Ác học giới. Chữ gọi những học giới có nội
dung ngăn cấm những điều bất thiện trong cách nh́n của cả ngoài đời
trong đạo. Chẳng hạn các học giới giống với ngũ giới, đạo đời đều nhận
là chuyện không nên.
Sāvanantikā: Một trong tám trường hợp tỷ kheo làm hỏng các đặc
quyền sau ngày thọ y Kaṭhina. Xem chữ Kaṭhina-uddhāra.
Sāvasesā-āpatti: Tội Khả Phục. Chữ gọi sáu loại tội sau của giới
bổn, trừ ra tội Ba-La-Di (tội bị gọi là Anavasesāpatti, tội tuyệt hậu).
Sáu tội trên đây được gọi thế v́ tăng ni sau khi vi phạm vẫn c̣n phương
tái phục.
Sikkāsammuti: Theo luật th́ tỷ kheo vô bệnh không được đeo b́nh
bát bằng dây (sikkā), và phải ôm bát bằng hai tay. Nhưng trường hợp tỷ
kheo bệnh th́ được đặc cách xài được. Chuyện đặc cách này được gọi là
Sikkā-sammuti, lệnh tăng cho đeo dây bát!
Sikkhāmānā: Học nữ hay Thất Xoa Ma Na, giới phẩm trên Sa di ni và
dưới tỷ kheo ni. Giai đoạn Học Nữ chỉ kéo dài hai năm, không thể nhiều
hay ít hơn và đây là giới phẩm bắt buộc phải trải qua trước khi thọ giới
tỷ kheo ni. Học Nữ chỉ giữ sáu học giới (giống hệt Đạo sĩ giới) là ngũ
giới cộng thêm giới cấm ăn sau ngọ.
Phụ nữ đă có chồng rồi xuất gia làm Học Nữ (sau khi là Sa-di ni) th́ gọi
là Gihīgatā-sikkhāmānā (Bán thế học nữ). Gái chưa chồng đă đi xuất gia
làm Học Nữ th́ gọi Kumāribhūtasikkhāmānā (Đồng Xử Học nữ) hay
Mahā-sikkhāmānā (Đại Học nữ). V́ thời xưa có tục tảo hôn, nên luật có
quy định Bán thế học nữ phải trên mười tuổi (có chỗ nói cụ thể là từ
mười hai tuổi), nhưng gái chưa chồng th́ phải tối thiểu mười tám tuổi
mới được tu lên Đồng Xử Học Nữ. Phải chăng việc từng trải cũng giúp
người ta vững vàng hơn!
Sikkhā: Đây là một chữ đa nghĩa trong Phật giáo. Có lúc chữ này
có nghĩa là các học giới được đức Phật cấm chế cho tăng ni và cư sĩ nói
chung. Đôi khi chữ này chỉ chung cho Tam Học. Theo giáo nghĩa Nam
Truyền, Giới Học là tất cả giới luật, Định Học là pháp môn Chỉ Tịnh
(samatha) và Tuệ học là pháp môn Tuệ Quán (vipassanā).
Sikkhāpaccakkhāna: Sự xả giới hay hoàn tục bằng một lời xác nhận
trong t́nh trạng tâm trí tỉnh táo, đầy đủ ư thức. Có vậy tăng ni mới
không c̣n là tăng ni nữa. Bộ Kankhāvitaranī giải thích rằng phải có đủ
sáu yếu tố mới khiến ư xả giới có hiệu lực: Ḷng quả không c̣n tha thiết
đời phạm hạnh (citta), ư nguyện đó phải biểu tỏ bằng lời cho người khác
nghe, không thể bằng chữ viết hay điệu bộ (payoga), lời tuyên bố xả giới
phải nhắm ngay thời điểm hiện tại, như không thể báo trước ngày thọ giới
(kāla), cả người nói lời xả giới lẫn người làm chứng đều phải trong t́nh
trạng tỉnh táo hoàn toàn (puggala), và tăng ni phải ư thức rơ là ḿnh
đang nói lời xả giới (vijānana). Theo Cullavagga, tỷ kheo ni đă hoàn tục
không thể xuất gia trở lại.
Sikkhāpaccakkhātaka: Người vừa nói lời xả giới một cách hợp luật,
được kể vào các đối tượng bị khai trừ (vajjanīyapuggala) đối với tất cả
tăng sự.
Sikkhāpada: Nghĩa rộng là tất cả giới luật của tăng tục. Nghĩa
hẹp là hầu hết giới bổn tăng ni, trừ ra bảy phép Tịnh Tranh.
Sikkhāsammuti: Chữ gọi tăng sự của ni chúng cho phép sa-di-ni thọ
giới Học nữ.
Siṅgiloṇakappa: Một trong các quan điểm của nhóm tỷ kheo
Vajjīputta cho phép tỷ kheo được dùng ống đựng muối làm bằng sừng thú.
Dĩ nhiên trái luật.
Sitthakatela: Một loại dầu bôi mỹ phẩm, không hợp luật.
Sitāloḷi: Thứ nước bùn lấy từ các luống cày, được dùng để hóa
giải cơn phấn khích sau khi tỷ kheo uống nhầm thuốc kích dục. Xem chữ
Gharadinnakābādha.
Sīpādī: Người bị bệnh phù chân voi, không được thọ đại giới.
Sīmā: Khu cương giới hay kiết giới được chư tăng ấn định ở địa
điểm nào đó để làm chỗ họp chúng thực hiện các tăng sự. Có hai loại
cương giới Sīmā:
1) Baddhasīmā (c̣n gọi Khaṇḍasīmā, Samānasaṃvāsasīmā hay
Avippavāsasīmā): Tức khu vực được ấn định là cương giới sau hai lần
tuyên ngôn và đ̣i hỏi phải có các vật mốc làm dấu ranh đất. Ngoài ư
nghĩa là chỗ làm tăng sự, cũng có thể là chỗ cư ngụ của tăng chúng.
2) Abaddhasīmā: Khu cương giới được chư tăng giả định tạm thời giữa rừng
núi, không cần tuyên ngôn và vật mốc, chỉ để thực hiện các tăng sự.
Vật mốc làm dấu ranh cho khu vực Sīmā có thể là núi non, cây cối, đường
lộ, sông rạch, rừng rậm, ao hồ, thậm chí một g̣ mối hay bốn ḥn đá tảng.
Ư nghĩa tinh thần hay tác dụng của một khu vực Sīmā là để tăng chúng
không bị manh mún, rời rạc. Làm ǵ cũng phải đoàn kết, hợp quần, tập
trung.
Khu vực Sīmā có thể là một cây cầu lớn ngang sông hay một chiếc thuyền
to, miễn là đủ kiên cố để chịu đựng sức nặng của tối thiểu hai mươi tỷ
kheo và có thể tồn tại lâu ngày, tức không phải vật tạm bợ nhất thời.
Luật định trước khi tuyên ngôn kiết giới một cương giới mới, để tránh
chồng chéo lên một khu Sīmā cũ, chư tăng phải thực hiện một việc mang
tính thủ tục là tuyên ngôn xả bỏ giá trị của một Sīmā được giả định hay
xác định là đă có sẳn ở đó. Thuật ngữ gọi đây là phép Sīmāsamūhana (giải
thể cương giới cố hữu).
Khu đất Sīmā phải hoàn toàn biệt lập và liền lạc liên lũy, không thể rời
rạc bằng một sự đan xen, chen kẻ bởi một không gian trung gián. Chu vi
tối đa của khu Sīmā không được vượt quá ba Do-Tuần (mỗi Do-Tuần là bảy
dặm Anh, một dặm Anh là 1.6 cây số). Và chỗ Sīmā hẹp nhất cũng phải đủ
chỗ cho hai mươi mốt tỷ kheo ngồi thoải mái.
Từ những chi tiết trên, có đến mười một trường hợp Sīmā không hợp luật,
tức không thể là nơi thực hiện các tăng sự: Sīmā quá hẹp
(atikhuddā-sīmā), Sīmā quá rộng (atimahatī-sīmā), Sīmā có vật mốc không
nguyên vẹn như lúc đầu (Khaṇḍanimitta-sīmā), Sīmā không có vật mốc do bị
mất hay lúc tuyên ngôn vốn đă không có (animitta-sīmā), Sīmā lấy bóng
che của cái ǵ đó làm vật mốc (chāyānimitta-sīmā), Sīmā mới nằm bên cạnh
khu Sīmā cũ (bahisīme thitasammatā-sīmā), Sīmā nằm trên sông
(nadiyā-sīmā), Sīmā nằm trên biển (samudde-sammatāsīmā), Sīmā nằm trên
hồ thiên nhiên (jātassara-sīmā), Sīmā này giáp mí với sīmā kia (Sīmāya
sīmaṃ sambhindantā sīmā), Sīmā này nằm giữa Sīmā kia (Sīmāya sīmaṃ
ajjhottharantā sīmā). Theo Samantapāsādikā.
Sīmātikkantā: Một trong tám trường hợp tỷ kheo làm hỏng đặc quyền
thọ tăng y khi đương sự rời khỏi trú xứ để t́m y và sau đó trở về sau
khi thời hạn t́m y đă qua mất. Xem chữ Kaṭhina-uddhāra.
Sīmā-samūhana: Tăng sự giải thể sīmā cũ được giả định hay xác
định là đă có sẵn nơi sắp kiết giới (khi chư tăng muốn làm lại một Sīmā
mới rộng hay hẹp hơn chẳng hạn). Theo Samantapāsādikā.
Khi một Avippavāsasīmā (nơi có thể xa tam y) được xả bỏ th́ ư nghĩa đồng
trú của Samānasaṃvāsasīmā (nơi tăng chúng hợp quần làm các tăng sự) cũng
lập tức không c̣n nữa.
Sīlavipatti: Giới tổn thất. Chữ gọi trường hợp tăng ni phạm vào
một rong hai loại trọng giới nặng nhất trong giới bổn (Ba-La-Di và Tăng
Tàn).
Sugataṅgula: “Ngón tay của đức Phật”, một đơn vị đo chiều dài đặc
hữu trong Luật Tạng Pāli, tương đương 2.5 cm.
Sugatavidatthi: Gang tay của đức Phật, một đơn vị đo chiều dài
được xem là đặc hữu của Luật Tạng Pāli khi nói về kích thước y áo hay
liêu thất của tỷ kheo. Theo Samantapāsādikā và Kaṅkhāyojanāmahāṭīkā th́
một gang tay của đức Phật dài bằng ba gang tay người trung b́nh
(majjhimapurisa) hay một khuỷu rưỡi, tính theo đơn vị Vaddhakī-hattha
(khuỷu tay thợ mộc!).
Suttuddesa-uposatha: = Saṅgha-uposatha.
Chữ Sutta trong hợp từ trên đây được hiểu là Pāṭimokkha. Xem chữ
Uposatha.
Suttalūkha: Lối mạng y bằng những đường chỉ nh́n như tấm lưới, để
vá chỗ rách hoặc để làm hoại sắc (dubbaṇṇakaraṇa) cho y bớt đẹp mắt!
Suddhantaparivāsa: Xem chữ Parivāsa.
Supaṭicchanna: Nghĩa đen là sự khéo che đậy, nghĩa bóng là sự kín
đáo dễ nh́n của tăng ni khi mặc y áo: Trên phải kín cổ, kín cùi chỏ và
dưới th́ quá gối một cách hợp luật.
Surā: Rượu nói chung. Luật kể có bốn loại: Rượu lúa mạch
(piṭṭhasurā), rượu nếp (pūvasurā), rượu gạo (odanasurā) và rượu pha hỗn
hợp (kiṇṇapakkhittā). Những liệt kê đó chỉ mang tính tượng trưng, tứ
chúng Phật giáo tuyệt không được ăn uống bất cứ thứ ǵ gây say.
Sūkarantaka: Loại dây nịt đơn giản như đuôi con heo, có móc khóa
ở một đầu. Tỷ kheo được phép dùng.
Sūci: Kim may y phục, tăng ni dùng được.
Sūcikā: Chốt, then gài cửa (bolt). Chữ này cũng có nghĩa là cái
ch́a khóa (key).
Sūcighara: = Sūcināḷikā: Hộp đựng kim chỉ. Tỷ kheo nên tránh các
chất liệu quư kim, bảo thạch hay ngà, sừng, xương thú.
Sekhiyā: Ưng học pháp. Chữ gọi chung các tế hạnh được kể trong
giới bổn, nội dung xây dựng nếp sinh hoạt trang nghiêm trong chuyện ăn
mặc, đi đứng, nói năng. Tỷ kheo không giữ đúng sẽ phạm Tác Ác, tỷ kheo
ni bị Ba Dật Đề.
Sekkhasammuti: Tên gọi một loại tăng lệnh đặc biệt nhằm đề nghị
tăng ni không tiếp tục khất thực trước nhà một cư sĩ đă tận hiến gia sản
cho Tam Bảo đến mức bị khánh kiệt nghiêm trọng. Dĩ nhiên nếu đương sự
chủ động lên tiếng mời thỉnh hay khi lâm bệnh cần thấy chư tăng th́ lại
là chuyện ngoại lệ. Tỷ kheo cố ư ghé nhà người cư sĩ như vậy khi không
có lư do chính đáng sẽ phạm tội Ưng Phát Lộ.
Thuật ngữ trên đây nghĩa đen là lệnh vinh danh hiền sĩ, xem cư sĩ kia
giống hệt một thánh cư sĩ (sekha).
Seṇī: Chữ gọi một dạng nghiệp đoàn bao gồm các thành phần mặt mũi
trong xă hội thời xưa, như thương gia và cả giới quan viên. Tuy việc ai
nấy làm nhưng khi cần giải quyết chuyện công th́ người nào trong đó cũng
có tiếng nói. Ni chúng trước khi tế độ cho ai xuất gia phải báo cho
nghiệp đoàn này biết để tránh trường hợp người xin tu kia có vấn đề về
nhân thân, như gái trốn chồng hay tù vượt ngục.
Tỷ kheo ni độ kẻ xấu xuất gia mà không báo qua các tổ chức xă hội có
thẩm quyền th́ phạm tội Tăng Tàn.
Sedakamma: Cách xông hơi để trị bệnh thống phong.
Senāsana: Hán dịch là sàng tọa, nghĩa đen là chỗ nằm ngồi nói
chung. Nhưng thuật ngữ này phải được hiểu là gồm luôn cả nơi cư ngụ. Bởi
tỷ kheo xưa phần lớn đều thường xuyên sống ngoài rừng núi, vườn cây, nói
chung là bên ngoài pḥng ốc, nên chỗ ngồi và chỗ nằm thường chỉ là một.
Và chỗ có thể nằm ngồi cũng chính là trú xứ của vị đó vậy.
Senāsanagāhā: Việc bố xứ. Chữ chỉ việc sắp xếp chỗ ở cho các tỷ
kheo trong một trú xứ, đặc biệt lúc sắp vào mùa an cư.
Senāsanagāhāpaka: Vị tri xứ. Chữ gọi vị tỷ kheo có trách nhiệm
sắp xếp, an bày chỗ ở cho tăng chúng trong một trú xứ.
Senāsanapaññapaka: Vị tri khách. Chữ gọi vị tỷ kheo chuyên trách
an bày trú xứ cho khách tăng.
Senāsanavatta: Chữ gọi chung các bổn phận của tỷ kheo khi thường
trụ tại trú xứ nào đó. Chẳng hạn các việc giữ sạch chỗ ở, coi sóc ghế
giường chăn đệm, mùng mền của tập thể. Đặc biệt đối với tăng khách, tỷ
kheo thường trú nên cư xử hợp lẽ và ḥa ái như đối với thầy bạn hay
huynh đệ thân thiết của ḿnh.
Seyyā: Do nếp sống giản ước của tỷ kheo nguyên thủy, chữ này chỉ
chung cho các thứ giường, chơng, nệm, chiếu bằng các thứ chất liệu hợp
luật như lá, cỏ, rơm, vải,… V́ các vị có thể chỉ được một trong các thứ
này để làm chỗ ngủ.
Sopāna: Cầu thang.
Sobhaṇa: Viền, mép, biên ngoài của y phục hay nói chung những thứ
được may bằng kim chỉ.
Hattha: Cánh tay. Chữ này c̣n có nghĩa là một khuỷu tay, chữ cũ
chư tăng Nam Tông Việt Nam vẫn gọi là hắc tay, tức chiều dài từ cùi chỏ
ra đến đầu ngón tay giữa. Đây là một trong những đơn vị đo chiều dài
thường thấy trong Luật Tạng Pāli.
Hatthacchinna: Người cụt tay, bất luận là cụt đến đâu. Hạng này
không được thọ đại giới, nhưng chuyện dĩ lỡ, giới phẩm vẫn thành tựu,
chỉ riêng thầy tổ phạm Tác Ác.
Hatthattharana: Thảm trải trên lưng voi. Tỷ kheo có thể bất đắc
dĩ ngồi được, nhưng không thể nằm trên đó.
Hatthapallatthikā: Cách ngồi bó gối, hai tay ṿng lấy đầu gối.
Hatthapādacchinna: Người cụt hết tay chân, không thể thọ đại
giới. Nhưng nếu chuyện dĩ lỡ, giới phẩm vẫn thành tựu, chỉ thầy tổ bị
tội Tác Ác.
Hatthābharaṇa: Gọi chung đồ trang sức đeo tay.
Hatthisoṇḍaka: Cách quấn y nội cuộn tṛn phía trước, nh́n như ṿi
voi, không đúng luật.
Hammiya: Kiểu nhà nhiều pḥng và tầng trên có một pḥng lớn thay
cho mái ṿm. Tăng chúng có quyền xây cất và cư ngụ tập thể.
Hammiyagabbha: Gian pḥng chính ở tầng trên của kiểu kiến trúc
Hammiya. Xem chữ Hammiya.