THERAVADA
PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY
PHẬT SỬ DIỄN CA
TK GIÁC CHÁNH
MỤC LỤC
TẬP 2
Lời nói đầu
Tiểu dẫn gia phổ Thích
Ca
01. Đức Phật thuyết Abhidhamma
01. Đức Phật thuyết Abhidhamma
02. Đức Phật thuyết Tỷ dụ pháp
03. Thu phục Phạm thiên
04. Đức Phật độ Dạ xoa
05. Đức Phật độ Vô Năo
06. Ông Jambuka
07. Ông Potaliya
08. Lương y Jīvaka
09. Thi Ca La Việt
10. Lư nghiệp báo
11. Người xứ Kālāma
12. Cách làm ruộng của Đức Phật
13. Cổ xe Chánh pháp
14. Nàng Visākhā
15. Phạm thiên Bakā
16. Thiện nam Sirigutta
17. Thiện nam Sandhāna
18. Ông Saggaka
19. Trưởng giả Upāli
20. Tướng quân Sīha
21. Gian nữ Cincā
22. Xảo nữ Sundāri
23. Nhà vua Thiện Giác
24. Giảng ḥa quyến thuộc
25. Ngài Losakatissa
26. Con cá màu vàng
27. Câu chuyện tiền kiếp
28. Sadi Sumana
29. Ngài Sīvali
30. Tỳ nữ Khujjuttārā
31. Vị Tỳ khưu có hiếu
32. Vua Kosala
33. Mười sáu điềm mộng
34. Ông Cấp Cô Độc từ trần
35. Đại đức Gothika niết-bàn
36. Vua Pasenadi thăng hà
37. Trưởng lăo Ni Gotami niết-bàn
38. Trưởng lăo Ni Yasodharā
39. Ngài Sāriputta niết-bàn
40. Ngài Moggallāna Niết-bàn
41. Pháp bất thối
42. Mùa an cư cuối cùng
43. Đức Phật khả hứa niết-bàn
44. Những lời di giáo
45. Bữa cơm cuối cùng
46. Du sĩ Pukkusa
47. Những di ngôn quan trọng
48. Người đệ tử cuối cùng
49. Giáo huấn chư tăng
50. Di huấn tối hậu
51. Đức Phật niết-bàn
52. Những bài kệ động tâm
53. Xá lợi báu thân
54. Xá lợi Pháp thân
|
LỜI NÓI ĐẦU
Mượn hoa tô
điểm Phật, đó cũng là một việc đáng nên làm, vậy mà tác giả không muốn
làm, măi đến khi đạo hữu Trần Bá Thế (một vị Phật tử Việt kiều ở Pháp)
về yêu cầu tác giả mới làm.
Để gợi cảm
xúc cho người đọc, người ta dùng thơ văn để mô tả trần thuật câu chuyện
hoặc một sự kiện. Thể thơ là lối văn độc đáo của văn học dân gian, dễ
thu hút người đọc nhưng không dễ sáng tác. Văn xuôi không bị giới hạn
nhiều về văn phong nên viết ra sao cũng được. C̣n văn vần bị g̣ bó trong
niêm luật, nên muốn viết để diễn đạt hết ư thật không đơn giản, nhất là
viết vớikhối lượng lớn.
Từ trước đến
nay, trong PG cũng có rất nhiều tập sử bằng văn xuôi kể về cuộc đời Đức
Phật, nhưng Phật sử viết bằng văn vần th́ hiếm thấy. Tại Ấn Độ có tập
Thánh Thi Phật hạnh, tại Tích Lan có bộ Sử Thi Phật Truyện, cận đại
chúng ta có quyển sách danh tiếng Light of Asia (Ánh sáng Á Châu)… tất
cả đều là những tập sử thi có giá trị. Âm điệu của thi kệ cho chúng ta
cái cảm xúc ngọt ngào mà văn xuôi khó so sánh được. Đặc điểm đó chính
là sắc thái của quyển sách này.
Tác giả là
người miền nam, tác phẩm viết tại miền Nam, quê hương của những câu ḥ
lục bát, những quyển sấm giảng truyền đời. Dùng thi kệ mà diễn cuộc đời
Đức Phật là đem tâm t́nh của người Việt Nam để nói với người Việt Nam,
và hẳn là một cống hiến quan trọng cho kho tàng Phật học và văn học nước
nhà.
Khi chúng
tôi được hân hạnh tiếp xúc với tác giả, tác giả đă tâm sự với chúng tôi
rằng: “Trong công việc thi hóa tập sử thi này, ngài đặt nặng hàng đầu là
lưpháp cho chuẩn xác, kế đến mới là văn ngữ và âm luật. Ngài c̣n nói
nguyên tắc sáng tác quyển sử thi này là nhất pháp, nh́ văn, tam từ, tứ
vận. Do đó đặc điểm của thi phẩm này là sự nghiêm túc đối với sử liệu và
Phật ngôn. Ngay cả cách dùng tên người, tên xứ sở cũng được cố gắng tối
đa để giữ nguyên Phạn ngữ, nếu phải uyển chuyển v́ âm vận th́ sẽ có chú
thích hẳn hoi. Người đọc sẽ sung sướng khi thấy rằng quyển sách này
không những là một tài liệu để học Phật pháp mà c̣n là một cẩm nang tóm
lược nội dung kinh điển, có thể giúp chúng ta không phải quá khổ sở để
vận dụng trí nhớ sưu tra tài liệu kinh điển. Tác giả đă làm công việc ấy
cho chúng ta rồi, dựa vào Tam Tạng Pāḷi và Sớ giải để soạn thảo tác
phẩm.
Nay được sự
cho phép của tác giả, Pháp sư Giác Chánh, chúng tôi giới thiệu và ấn
hành quyển Phật Sử Diễn Ca này sau hơn 10 năm bản thảo nằm trong kệ
sách.
Kính cảm
niệm và tri ân ngài Pháp Sư Giác Chánh, tác giả thi phẩm đă hoan hỷ cho
phép thực hiện. Chân thành cảm tạ Ban tu thư Siêu Lư đă có công sức hiệu
đính, xin giấy phép và ra kinh phí in ấn quyển sách này, nhất là tri ân
đạo hữu Trần Bá Thế đă thỉnh cầu gợi hứng cho tác giả mới có bộ Phật Sử
Diễn Ca này ra đời.
Mong cho tất
cả được an lành tu tập theo Phật hạnh và được giải thoát trong mai sau.
Mùa
Đông Canh Th́n
PL.
2544 – DL 2000
Tỳ
kheo GIÁC GIỚI.
TIỂU DẪN GIA PHỔ THÍCH CA
Thuở xưa,
Đức vua MahāSammatideva là vị vua đầu tiên trị v́ xứ Jampu. Con ngài là
thái tử Roja kế vị.
·
Vua Roja sau
truyền ngôi cho con là thái tử Vararoja
·
Vua Vararoja
truyền ngôi cho con là thái tử Kalyāṇa
·
Vua Kalyāṇa
sau truyền ngôi cho con là thái tử Mandhātu
·
Vua Mandhātu
sau truyền ngôi cho con là thái tử Sakamandhātu
·
Vua
Sakamandhātu sau truyền ngôi cho con là thái tử Uposatha
·
Vua Uposatha
sau truyền ngôi cho con là thái tử Vara
·
Vua Vara sau
truyền ngôi cho con là thái tử Upāvara
·
Vua Upāvara
sau truyền ngôi cho con là thái tử Maghade
Và cứ thế,
tiếp tục cha truyền con nối đến tám mươi bốn ngàn (84000) vị vua nữa mới
đến vua Okkāka đệ nhất.
·
Vua Okkāka
đệ nhất truyền ngôi cho hoàng tử làm vua Okkāka đệ nhị.
·
Vua Okkāka
đệ nhị truyền ngôi cho hoàng tử làm vua Okkāka đệ tam
Vua Okkāka
đệ tam có 5 bà vợ: Haṭṭha, Cintā, Jantu, Jālinī, Visākhā.
Hoàng hậu
Haṭṭha có 9 người con: 4 hoàng tử và 5 công chúa.
·
Bốn hoàng
tử là: Okkākamukha, Karaṇḍa, Haṭṭhinikesi, Nirupa.
·
Năm công
chúa là: Piyā, Supiyā, Amandā, Vijitā, Vijitasanā.
Sau khi
Hoàng hậu Haṭṭha từ trần, Thứ hậu Cintā lên làm hoàng hậu sinh được một
người con trai, yêu cầu đức vua Okkāka đệ tam truyền ngôi cho con bà.
Đức vua cho họp chín người con của cố Hoàng hậu Haṭṭha hỏi ư kiến. Các
vị Hoàng tử và Công chúa đều đồng ư. Rồi chín vị ra đi với đoàn binh sĩ
hùng hậu tiến về Hy Mă Lạp Sơn (Hymalaya) và lập quốc tại đây. Có vị đạo
sĩ Kapila ẩn tu nơi đây, khi các vị Hoàng tử đến, vị đạo sĩ này ra giúp
các Hoàng tử lập quốc, được xem là vị Quốc sư tối thắng nên các hoàng tử
lấy tên vị Quốc sư (đạo sĩ) đặt ên cho Tân quốc là Kapilavatthupuri.
Về sau, đức
vua cha là Okkāka đệ tam khi hay tin các hoàng tử và công chúa đă lập
được quốc gia và bảo vệ huyết thống Quân vương trong sạch, đức vua đă
thốt lên lời cảm hứng: “Sakya vata bho rāja kumāea” (Các hoàng tử này
thật dũng cảm phi thường). Rồi phái 8 vị Đại thần đến hỗ trợ cho các
hoàng tử. Các Hoàng tử lấy lời cảm hứng của Vua cha làm Quốc tộc “Sakya
rāja vamsa”. Họ Thích Ca bắt đầu có từ đó. Vị vua đầu tiên tại đây là
Okkākamahāsammata. Rồi phụ truyền tử kế, trải qua rất nhiều triều đại.
Đến đời vua
Siri đổi Quốc hiệu Kapilavatthu ra Jetuttara.
·
Vua Siri
truyền ngôi cho con là Thái tử Sanjaya
·
Vua Sanjaya
truyền ngôi cho con là Thái tử Vessantara
·
Vua
Vessantara truyền ngôi cho con là Thái tử Jāli
·
Vua Jāli
truyền ngôi cho con là Thái tử Sivivahana
·
Vua
Sivivahana truyền ngôi cho con là Thái tử Sihasara
Và cứ thế
nối tiếp cho đến một trăm sáu mươi mốt ngàn (161000) đời vua. Đến đời
vua Sihaham đổi quốc hiệu trở lại như cũ là Kapilavatthu (Ca Tỳ La Vệ)
Vua Sihaham
có 5người con là 3 hoàng tử và 2 công chúa:
Ba Hoàng tử:
Suddhodana, Sukkodana, Mitodana.
Hai Công
chúa: Amittā, Pamittā.
Vua Sihaham
truyền ngôi cho con là Thái tử Suddhodana. Vua Suddhodana cưới cả hai vị
công chúa con của Vua Jinādhipa, người chị là Công chúa Mahā Māyā làm
Hoàng hậu, người em là Công chúa Mahā Pajāpati Gotami làm Thứ hậu. Hoàng
hậu Mahā Māyā sinh ra được một người con trai duy nhất là Thái tử
Siddhattha, bảy ngày sau Hoàng hậu Mahā Māyā băng hà. Thứ hậu Gotami
cũng sinh được một người con trai là Hoàng tử Nanda (sinh sau vài ngày),
Thứ hậu lên làm Chánh hậu và lo nuôi dưỡng Thái tử Siddhattha Gotama.
C̣n Hoàng tử Nanda Kumāro th́ giao cho nhũ mẫu khác nuôi dưỡng. Thái tử
Siddhattha Gotama được 16 tuổi th́ Đức vua Suddhodana cho Thái tử
Siddhattha thành hôn cùng Công chúa Yasodharā (con vua Suppabuddha và
Hoàng hậu Pamitā) và truyền ngôi lại cho thái tử Siddhattha lên làm vua.
Đức vua Siddhattha và Hoàng hậu Bimbādevi (Yasodharā, Da-Du-Đà-La) sinh
được một người con trai là Thái tử Rāhula, lúc ấy Đức vua Siddhattha
Gotama được 29 tuổi, tức ngài làm vua được 13 năm.
Ngày rằm
tháng Sáu năm Ất Măo sinh ra Thái tử Rāhula, th́ ngay đêm ấy Đức Vua
Siddhatthatừ bỏ vương vị, đi xuất gia. Sáu năm sau, đúng 35 tuổi, ngài
giác ngộ chân lư và thành Phật hiệu Gotama dưới cội cây Bồ đề (Asattha)
trên bờ sông Neranjarā và ngày Rằm tháng Tư năm Canh Thân. Người đời sau
gọi ngài là Đức Phật Thích Ca, hoặc Đức Phật Cồ Đàm, Thích Ca là Tông
(ḍng), Sakya của cha Ngài, Cồ Đàm là Tộc (họ) Gotama của mẹ Ngài, Sĩ
Đạt Ta là danh hiệu Siddhattha của Ngài.
Theo Kinh
sử, sở dĩ ḍng Thích Ca làm vua lâu đời nhất từ cổ chí kim là do hành
theo Thập Pháp Vương: (1) Bố thí; (2) Tŕ giới; (3) Xả tài; (4) Trực
hạnh; (5) Nhu ḥa; (6) Phá ác; (7) Vô hận; (8) Bất lợi; (9) Kham nhẫn;
(10) Liêm chính.
Nhưng đến
đời Đức Phật th́ sự nghiệp đế vương của ḍng Thích Ca chấm dứt v́ các
Thích Tử và các Thích Nữ đều soi gương Ngài và từ bỏ địa vị cũng như sự
nghiệp Đế vương.
=================
PHẬT
SỬ DIỄN CA - TẬP 1
=================