ANGUTTARA NIKAYA – TĂNG CHI BỘ KINH
Chương III - Ba Pháp (Tikanipātapāḷi)
CHÁNH KINH PALI
|
CHÚ GIẢI PALI
|
BẢN DỊCH VIỆT
|
Aṅguttaranikāyo
|
Aṅguttaranikāye
|
Tăng Chi Bộ
|
2. Rathakāravaggo
|
2. Rathakāravaggo
|
II. Phẩm Người Đóng Xe
|
1. Ñātasuttaṃ
11.
‘‘Tīhi , bhikkhave,
dhammehi samannāgato ñāto bhikkhu bahujanaahitāya paṭipanno hoti
bahujanadukkhāya, bahuno janassa anatthāya ahitāya dukkhāya
devamanussānaṃ. Katamehi tīhi? Ananulomike kāyakamme samādapeti,
ananulomike vacīkamme samādapeti, ananulomikesu dhammesu samādapeti.
Imehi kho, bhikkhave, tīhi dhammehi samannāgato ñāto bhikkhu
bahujanaahitāya paṭipanno hoti bahujanadukkhāya, bahuno janassa
anatthāya ahitāya dukkhāya devamanussānaṃ.
‘‘Tīhi, bhikkhave, dhammehi samannāgato ñāto
bhikkhu bahujanahitāya paṭipanno hoti bahujanasukhāya, bahuno
janassa atthāya hitāya sukhāya devamanussānaṃ. Katamehi tīhi?
Anulomike kāyakamme samādapeti, anulomike vacīkamme samādapeti,
anulomikesu dhammesu samādapeti. Imehi kho, bhikkhave, tīhi dhammehi
samannāgato ñāto bhikkhu bahujanahitāya paṭipanno hoti
bahujanasukhāya, bahuno janassa atthāya hitāya sukhāya
devamanussāna’’nti. Paṭhamaṃ.
|
1. Ñātasuttavaṇṇanā
11. Dutiyassa
paṭhame ñātoti
paññāto pākaṭo. Ananulomiketi sāsanassa na
anulometīti ananulomikaṃ, tasmiṃ ananulomike.
Kāyakammeti pāṇātipātādimhi kāyaduccarite. Oḷārikaṃ vā etaṃ,
na evarūpe samādapetuṃ sakkoti. Disā namassituṃ vaṭṭati, bhūtabaliṃ
kātuṃ vaṭṭatīti evarūpe samādapeti gaṇhāpeti.
Vacīkammepi musāvādādīni oḷārikāni, attano santakaṃ parassa
adātukāmena ‘‘natthī’’ti ayaṃ vañcanamusāvādo nāma vattuṃ vaṭṭatīti
evarūpe samādapeti. Manokammepi
abhijjhādayo oḷārikā, kammaṭṭhānaṃ visaṃvādetvā kathento pana
ananulomikesu dhammesu samādapeti nāma dakkhiṇavihāravāsitthero
viya. Taṃ kira theraṃ eko upaṭṭhāko amaccaputto upasaṅkamitvā
‘‘mettāyantena paṭhamaṃ kīdise puggale mettāyitabba’’nti pucchi.
Thero sabhāgavisabhāgaṃ anācikkhitvā ‘‘piyapuggale’’ti āha. Tassa ca
bhariyā piyā hoti manāpā, so taṃ ārabbha mettāyanto ummādaṃ pāpuṇi.
Kathaṃ panesa bahujanaahitāya paṭipanno hotīti? Evarūpassa hi
saddhivihārikādayo ceva upaṭṭhākādayo ca tesaṃ ārakkhadevatā ādiṃ
katvā tāsaṃ tāsaṃ mittabhūtā yāva brahmalokā
sesadevatā ca ‘‘ayaṃ bhikkhu na ajānitvā karissatī’’ti
tena katameva karonti, evamesa bahujanaahitāya
paṭipanno hoti.
Sukkapakkhe pāṇātipātā veramaṇiādīnaṃyeva vasena
kāyakammavacīkammāni veditabbāni.
Kammaṭṭhānaṃ pana avisaṃvādetvā kathento anulomikesu dhammesu
samādapeti nāma koḷitavihāravāsī catunikāyikatissatthero viya. Tassa
kira jeṭṭhabhātā nandābhayatthero nāma potaliyavihāre vasanto
ekasmiṃ roge samuṭṭhite kaniṭṭhaṃ pakkosāpetvā āha – ‘‘āvuso, mayhaṃ
sallahukaṃ katvā ekaṃ kammaṭṭhānaṃ kathehī’’ti. Kiṃ, bhante, aññena
kammaṭṭhānena, kabaḷīkārāhāraṃ pariggaṇhituṃ vaṭṭatīti? Kimatthiko
esa, āvusoti? Bhante, kabaḷīkārāhāro upādārūpaṃ, ekasmiñca upādārūpe
diṭṭhe tevīsati upādārūpāni pākaṭāni hontīti .
So ‘‘vaṭṭissati, āvuso, ettaka’’nti taṃ uyyojetvā kabaḷīkārāhāraṃ
pariggaṇhitvā upādārūpaṃ sallakkhetvā vivaṭṭetvā arahattaṃ pāpuṇi.
Atha naṃ theraṃ bahivihārā anikkhantameva pakkositvā, ‘‘āvuso,
mahāavassayosi mayhaṃ jāto’’ti kaniṭṭhattherassa attanā
paṭiladdhaguṇaṃ ārocesi. Bahujanahitāyāti
etassapi hi saddhivihārikādayo ‘‘ayaṃ na ajānitvā karissatī’’ti tena
katameva karontīti bahujanahitāya paṭipanno nāma hotīti.
|
11. Ba Pháp
- Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có danh
tiếng, sống đem lại bất hạnh cho đa số, không an lạc cho đa số,
không lợi ích cho đa số, đem lại bất hạnh, đau khổ cho chư Thiên và
loài người. Thế nào là ba? Khuyến khích các thân nghiệp không tùy
thuận; khuyến khích các ngữ nghiệp không tuỳ thuận, khuyến khích các
pháp không tùy thuận. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo,
một Tỷ-kheo có danh tiếng sống ... cho chư Thiên và loài người.
- Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có danh
tiếng, sống đem lại hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích
cho đa số, đem lại hạnh phúc an lạc cho chư Thiên và loài người. Thế
nào là ba? Khuyến khích các thân nghiệp tùy thuận; khuyến khích các
ngữ nghiệp tuỳ thuận; khuyến khích các pháp tùy thuận. Thành tựu với
ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo có danh tiếng sống đem lại
hạnh phúc cho đa số, an lạc cho đa số, lợi ích cho đa số, đem lại
hạnh phúc, an lạc cho chư Thiên và loài người.
|
2. Sāraṇīyasuttaṃ
12.
‘‘Tīṇimāni , bhikkhave, rañño khattiyassa
muddhāvasittassa yāvajīvaṃ sāraṇīyāni [saraṇīyāni
(sī. syā. kaṃ. pī.)] bhavanti. Katamāni tīṇi? Yasmiṃ,
bhikkhave, padese rājā khattiyo muddhāvasitto jāto hoti. Idaṃ,
bhikkhave, paṭhamaṃ rañño khattiyassa muddhāvasittassa yāvajīvaṃ
sāraṇīyaṃ hoti.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave,
yasmiṃ padese rājā khattiyo muddhāvasitto hoti. Idaṃ, bhikkhave,
dutiyaṃ rañño khattiyassa muddhāvasittassa yāvajīvaṃ sāraṇīyaṃ hoti.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, yasmiṃ padese rājā
khattiyo muddhāvasitto saṅgāmaṃ abhivijinitvā vijitasaṅgāmo tameva
saṅgāmasīsaṃ ajjhāvasati. Idaṃ, bhikkhave, tatiyaṃ rañño khattiyassa
muddhāvasittassa yāvajīvaṃ sāraṇīyaṃ hoti. Imāni kho, bhikkhave,
tīṇi rañño khattiyassa muddhāvasittassa yāvajīvaṃ sāraṇīyāni
bhavanti.
‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhave,
tīṇimāni bhikkhussa yāvajīvaṃ sāraṇīyāni bhavanti. Katamāni tīṇi?
Yasmiṃ, bhikkhave, padese bhikkhu kesamassuṃ ohāretvā kāsāyāni
vatthāni acchādetvā agārasmā anagāriyaṃ
pabbajito hoti. Idaṃ, bhikkhave, paṭhamaṃ bhikkhussa yāvajīvaṃ
sāraṇīyaṃ hoti.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, yasmiṃ padese bhikkhu
‘idaṃ dukkha’nti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti
yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodho’ti yathābhūtaṃ pajānāti,
‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṃ pajānāti. Idaṃ,
bhikkhave, dutiyaṃ bhikkhussa yāvajīvaṃ sāraṇīyaṃ hoti.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, yasmiṃ padese bhikkhu
āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme
sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati. Idaṃ, bhikkhave,
tatiyaṃ bhikkhussa yāvajīvaṃ sāraṇīyaṃ hoti. Imāni kho, bhikkhave,
tīṇi bhikkhussa yāvajīvaṃ sāraṇīyāni bhavantī’’ti. Dutiyaṃ.
|
2. Sāraṇīyasuttavaṇṇanā
12. Dutiye
khattiyassāti jātiyā khattiyassa.
Muddhāvasittassāti rājābhisekena muddhani
abhisittassa. Sāraṇīyāni bhavantīti
saritabbāni asammussanīyāni honti. Jātoti
nibbatto. Yāvajīvaṃ sāraṇīyanti
daharakāle jānitumpi na sakkā, aparabhāge pana mātāpituādīhi
ñātakehi vā dāsādīhi vā ‘‘tvaṃ asukajanapade asukanagare asukadivase
asukanakkhatte jāto’’ti ācikkhite sutvā tato paṭṭhāya yāvajīvaṃ
sarati na sammussati. Tena vuttaṃ – ‘‘yāvajīvaṃ sāraṇīyaṃ hotī’’ti.
Idaṃ,
bhikkhave, dutiyanti abhisekaṭṭhānaṃ nāma
rañño balavatuṭṭhikaraṃ hoti, tenassa taṃ yāvajīvaṃ sāraṇīyaṃ.
Saṅgāmavijayaṭṭhānepi eseva nayo. Ettha pana
saṅgāmanti yuddhaṃ. Abhivijinitvāti
jinitvā sattumaddanaṃ katvā. Tameva saṅgāmasīsanti
tameva saṅgāmaṭṭhānaṃ. Ajjhāvasatīti
abhibhavitvā āvasati.
Idāni yasmā sammāsambuddhassa rañño
jātiṭṭhānādīhi kattabbakiccaṃ natthi, imasmiṃ pana sāsane
tappaṭibhāge tayo puggale dassetuṃ idaṃ kāraṇaṃ ābhataṃ, tasmā te
dassento evameva kho, bhikkhavetiādimāha.
Tattha anagāriyaṃ pabbajito hotīti ettha
catupārisuddhisīlampi pabbajjānissitamevāti veditabbaṃ.
Sāraṇīyaṃ hotīti ‘‘ahaṃ asukaraṭṭhe
asukajanapade asukavihāre asukamāḷake asukadivāṭṭhāne asukacaṅkame
asukarukkhamūle pabbajito’’ti evaṃ yāvajīvaṃ saritabbameva hoti na
sammussitabbaṃ.
Idaṃdukkhanti
ettakaṃ dukkhaṃ, na ito uddhaṃ dukkhaṃ atthi. Ayaṃ
dukkhasamudayoti ettako dukkhasamudayo, na ito uddhaṃ
dukkhasamudayo atthīti. Sesapadadvayepi eseva nayo. Evamettha catūhi
saccehi sotāpattimaggo kathito. Kasiṇaparikammavipassanāñāṇāni pana
maggasannissitāneva honti. Sāraṇīyaṃhotīti
‘‘ahaṃ asukaraṭṭhe…pe… asukarukkhamūle sotāpanno jāto’’ti yāvajīvaṃ
sāraṇīyaṃ hoti asammussanīyaṃ.
Āsavānaṃ khayāti
āsavānaṃ khayena. Cetovimuttinti
phalasamādhiṃ. Paññāvimuttinti phalapaññaṃ.
Sayaṃ abhiññā sacchikatvāti attanāva
abhivisiṭṭhāya paññāya paccakkhaṃ katvā.
Upasampajja viharatīti paṭilabhitvā viharati.
Sāraṇīyanti ‘‘mayā asukaraṭṭhe…pe…
asukarukkhamūle arahattaṃ patta’’nti attano arahattapattiṭṭhānaṃ
nāma yāvajīvaṃ sāraṇīyaṃ hoti asammussanīyanti yathānusandhināva
desanaṃ niṭṭhapesi.
|
12.- Ba Chỗ
- Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh cần phải trọn đời ghi nhớ. Thế nào là ba?
Tại chỗ nào, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh được sanh ra; đây là pháp thứ nhất, này các Tỷ-kheo, một vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh cần phải trọn đời ghi nhớ.
Lại nữa, tại chỗ nào, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ được làm
lễ quán đảnh, đây là pháp thứ hai, này các Tỷ-kheo, một vua
Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh cần phải trọn đời ghi nhớ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, tại chỗ nào, một vua Sát-đế-lỵ đă làm
lễ quán đảnh sau khi chiến thắng một trận, tại chỗ vị ấy chiếm như
là cầm đầu trong cuộc chiến thắng; đây là pháp thứ ba, này các
Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh cần phải trọn đời ghi
nhớ.
Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán
đảnh cần phải trọn đời ghi nhớ.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có ba pháp này, một Tỷ-kheo cần phải
trọn đời ghi nhớ. Thế nào là ba?
Tại chỗ nào, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cạo bỏ râu tóc, đắp áo
cà sa; xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh; đây là pháp
thứ nhất, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải trọn đời ghi nhớ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, tại chỗ nào, Tỷ-kheo như thật biết rơ:
"Đây là khổ", như thật rơ biết: "Đây là khổ tập", như thật rơ biết:
"Đây là khổ diệt", như thật rơ biết: "Đây là con đường đưa đến khổ
diệt"; đây là pháp thứ hai, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải
trọn đời ghi nhớ.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, tại chỗ nào, môt Tỷ-kheo, sau khi đoạn
tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự ḿnh với thắng trí chứng
ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải thoát; đây
là pháp thứ ba, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo cần phải trọn đời ghi nhớ.
Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo cần phải trọn đời ghi
nhớ.
|
3. Āsaṃsasuttaṃ
13.
‘‘Tayome , bhikkhave, puggalā santo
saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame tayo? Nirāso, āsaṃso, vigatāso. Katamo
ca, bhikkhave puggalo nirāso? Idha, bhikkhave, ekacco puggalo nīce
kule paccājāto hoti, caṇḍālakule vā venakule
[veṇakule (syā. kaṃ. pī.)] vā nesādakule vā
rathakārakule vā pukkusakule vā dalidde appannapānabhojane
kasiravuttike, yattha kasirena ghāsacchādo labbhati. So ca hoti
dubbaṇṇo duddasiko okoṭimako bavhābādho
[bahvābādho (syā. kaṃ. pī. ka.)] kāṇo vā kuṇī vā khañjo vā
pakkhahato vā, na lābhī annassa pānassa vatthassa yānassa
mālāgandhavilepanassa seyyāvasathapadīpeyyassa. So suṇāti –
‘itthannāmo kira khattiyo khattiyehi khattiyābhisekena abhisitto’ti.
Tassa na evaṃ hoti – ‘kudāssu nāma mampi
khattiyā khattiyābhisekena abhisiñcissantī’ti! Ayaṃ vuccati,
bhikkhave, puggalo nirāso.
‘‘Katamo ca, bhikkhave, puggalo āsaṃso? Idha
, bhikkhave, rañño khattiyassa
muddhāvasittassa jeṭṭho putto hoti ābhiseko anabhisitto acalappatto
[macalappatto (sī. pī.)]. So suṇāti –
‘itthannāmo kira khattiyo khattiyehi khattiyābhisekena abhisitto’ti.
Tassa evaṃ hoti – ‘kudāssu nāma mampi khattiyā khattiyābhisekena
abhisiñcissantī’ti! Ayaṃ vuccati, bhikkhave, puggalo āsaṃso.
‘‘Katamo ca, bhikkhave, puggalo vigatāso? Idha,
bhikkhave, rājā hoti khattiyo muddhāvasitto. So suṇāti – ‘itthannāmo
kira khattiyo khattiyehi khattiyābhisekena abhisitto’ti. Tassa na
evaṃ hoti – ‘kudāssu nāma mampi khattiyā khattiyābhisekena
abhisiñcissantī’ti! Taṃ kissa hetu? Yā hissa, bhikkhave, pubbe
anabhisittassa abhisekāsā sā [sāssa (sī. syā.
kaṃ. pī.)] paṭippassaddhā. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, puggalo
vigatāso. Ime kho, bhikkhave, tayo puggalā santo saṃvijjamānā
lokasmiṃ.
‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhave,
tayo puggalā santo saṃvijjamānā bhikkhūsu. Katame tayo? Nirāso,
āsaṃso, vigatāso. Katamo ca, bhikkhave, puggalo nirāso? Idha,
bhikkhave, ekacco puggalo dussīlo hoti pāpadhammo asuci
saṅkassarasamācāro paṭicchannakammanto assamaṇo samaṇapaṭiñño
abrahmacārī brahmacāripaṭiñño antopūti avassuto kasambujāto. So
suṇāti – ‘itthannāmo kira bhikkhu āsavānaṃ khayā anāsavaṃ
cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme
sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’ti. Tassa na evaṃ
hoti – ‘kudāssu nāma ahampi āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ
paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā
sacchikatvā upasampajja viharissāmī’ti! Ayaṃ vuccati, bhikkhave,
puggalo nirāso.
‘‘Katamo ca, bhikkhave, puggalo āsaṃso? Idha,
bhikkhave, bhikkhu sīlavā hoti kalyāṇadhammo. So suṇāti
āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ
paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
viharatī’ti. Tassa evaṃ hoti – ‘kudāssu nāma ahampi āsavānaṃ khayā
anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā
sacchikatvā upasampajja viharissāmī’ti! Ayaṃ vuccati, bhikkhave,
puggalo āsaṃso.
‘‘Katamo ca, bhikkhave, puggalo vigatāso? Idha,
bhikkhave, bhikkhu arahaṃ hoti khīṇāsavo. So suṇāti – ‘itthannāmo
kira bhikkhu āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ
diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharatī’ti.
Tassa na evaṃ hoti – ‘kudāssu nāma ahampi āsavānaṃ khayā…pe…
sacchikatvā upasampajja viharissāmī’ti! Taṃ kissa hetu? Yā hissa,
bhikkhave, pubbe avimuttassa vimuttāsā sā paṭippassaddhā. Ayaṃ
vuccati, bhikkhave, puggalo vigatāso. Ime kho, bhikkhave, tayo
puggalā santo saṃvijjamānā bhikkhūsū’’ti. Tatiyaṃ.
|
3. Āsaṃsasuttavaṇṇanā
13. Tatiye
santoti atthi upalabbhanti.
Saṃvijjamānāti tasseva vevacanaṃ.
Lokasminti sattaloke.
Nirāsoti anāso apatthano. Āsaṃsoti
āsaṃsamāno patthayamāno.
Vigatāsoti apagatāso. Caṇḍālakuleti
caṇḍālānaṃ kule. Venakuleti vilīvakārakule.
Nesādakuleti migaluddakānaṃ kule.
Rathakārakuleti cammakārakule.
Pukkusakuleti pupphacchaḍḍakakule.
Ettāvatā kulavipattiṃ dassetvā idāni yasmā
nīcakule jātopi ekacco aḍḍho hoti mahaddhano, ayaṃ pana na tādiso,
tasmāssa bhogavipattiṃ dassetuṃ daliddetiādimāha.
Tattha daliddeti dāliddiyena samannāgate.
Appannapānabhojaneti
parittakaannapānabhojane. Kasiravuttiketi
dukkhajīvike, yattha vāyāmena payogena
jīvitavuttiṃ sādhenti, tathārūpeti attho. Yattha
kasirena ghāsacchādo labbhatīti yasmiṃ kule dukkhena
yāgubhattaghāso ca kopīnamattaṃ acchādanañca labbhati.
Idāni yasmā ekacco nīcakule jātopi upadhisampanno
hoti attabhāvasamiddhiyaṃ ṭhito , ayañca na
tādiso, tasmāssa sarīravipattimpi dassetuṃ so ca
hoti dubbaṇṇotiādimāha. Tattha dubbaṇṇoti
paṃsupisācako viya jhāmakhāṇuvaṇṇo. Duddasikoti
vijātamātuyāpi amanāpadassano. Okoṭimakoti
lakuṇḍako. Kāṇoti ekakkhikāṇo vā
ubhayakkhikāṇo vā. Kuṇīti ekahatthakuṇī vā
ubhayahatthakuṇī vā. Khañjoti ekapādakhañjo
vā ubhayapādakhañjo vā. Pakkhahatoti
hatapakkho pīṭhasappī. Padīpeyyassāti
vaṭṭitelakapallakādino padīpaupakaraṇassa. Tassa
na evaṃ hotīti. Kasmā na hoti? Nīcakule jātattā.
Jeṭṭhoti aññasmiṃ jeṭṭhe
sati kaniṭṭho āsaṃ na karoti, tasmā jeṭṭhoti āha.
Ābhisekoti jeṭṭhopi na abhisekāraho āsaṃ na karoti, tasmā
ābhisekoti āha. Anabhisittoti
abhisekārahopi kāṇakuṇiādidosarahito sakiṃ abhisitto puna abhiseke
āsaṃ na karoti, tasmā anabhisittoti āha .
Acalappattoti jeṭṭhopi ābhiseko anabhisitto
mando uttānaseyyako, sopi abhiseke āsaṃ na karoti.
Soḷasavassuddesiko pana paññāyamānamassubhedo acalappatto nāma
hoti, mahantampi rajjaṃ vicāretuṃ samattho,
tasmā ‘‘acalappatto’’ti āha. Tassa evaṃ hotīti
kasmā hoti? Mahājātitāya.
Dussīloti nissīlo.
Pāpadhammoti lāmakadhammo.
Asucīti asucīhi kāyakammādīhi samannāgato.
Saṅkassarasamācāroti saṅkāhi
saritabbasamācāro, kiñcideva asāruppaṃ disvā ‘‘idaṃ iminā kataṃ
bhavissatī’’ti evaṃ paresaṃ āsaṅkanīyasamācāro, attanāyeva vā
saṅkāhi saritabbasamācāro, sāsaṅkasamācāroti attho. Tassa hi
divāṭṭhānādīsu sannipatitvā kiñcideva mantayante bhikkhū disvā ‘‘ime
ekato hutvā mantenti, kacci nu kho mayā katakammaṃ jānitvā
mantentī’’ti evaṃ sāsaṅkasamācāro hoti.
Paṭicchannakammantoti paṭicchādetabbayuttakena pāpakammena
samannāgato. Assamaṇo samaṇapaṭiññoti
assamaṇo hutvāva samaṇapatirūpakatāya ‘‘samaṇo aha’’nti evaṃ
paṭiñño. Abrahmacārī brahmacāripaṭiññoti
aññe brahmacārino sunivatthe supārute sumbhakapattadhare
gāmanigamarājadhānīsu piṇḍāya caritvā jīvikaṃ kappente disvā sayampi
tādisena ākārena tathā paṭipajjanato ‘‘ahaṃ brahmacārī’’ti paṭiññaṃ
dento viya hoti. ‘‘Ahaṃ bhikkhū’’ti vatvā uposathaggādīni pavisanto
pana brahmacāripaṭiñño hotiyeva, tathā saṅghikaṃ lābhaṃ gaṇhanto.
Antopūtīti pūtinā kammena anto
anupaviṭṭho. Avassutoti
rāgādīhi tinto. Kasambujātoti
sañjātarāgādikacavaro. Tassa na evaṃ hotīti.
Kasmā na hoti? Lokuttaradhammaupanissayassa natthitāya.
Tassaevaṃ hotīti.
Kasmā hoti? Mahāsīlasmiṃ paripūrakāritāya.
|
13.- Ba Hạng Người
- Có ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuất hiện, có mặt ở đời.
Thế nào là ba? Không hy vọng, có hy vọng, ly hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người không hy vọng?, Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có người được sanh trong một gia đ́nh thấp kém, gia
đ́nh một người đổ phân, hay gia đ́nh một người thợ săn hay gia đ́nh
một người đan tre, hay gia đ́nh người đóng xe, hay gia đ́nh người
quét rác, hay trong gia đ́nh một người nghèo khổ, khó t́m được đồ ăn
uống để sống, khó t́m cho được đồ ăn đồ mặc ... Và người ấy xấu xí,
khó ngó, lùn, thấp, nhiều bệnh hoạn, đui một mắt, c̣m, què, hay đi
khập khễnh, không có được đồ ăn, đồ uống đồ mặc, xe cộ, ṿng hoa,
hương, phấn sáp, chỗ nằm, chỗ ở hay đèn. Người ấy nghe nói như sau:
"Vị Sát-đế-lỵ tên như vậy đă được các Sát-đế-lỵ làm lễ quán đảnh
theo lễ quán đảnh của các Sát-đế-lỵ". Người ấy không nghĩ như sau:
"Không biết khi nào các Sát-đế-lỵ mới làm lễ quán đảnh cho ta theo
lễ quán đảnh của Sát-đế-lỵ?". Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được
gọi là người không hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người có hy vọng? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, trưởng nam của vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh, xứng đáng
để được làm lễ quán đảnh, nhưng chưa làm lễ quán đảnh và đạt đến địa
vị bất động (đă đến tuổi thành niên). Người ấy nghe nói như sau: "Vị
Sát-đế-lỵ tên như vậy đă được các Sát-đế-lỵ làm lễ quán đảnh theo lễ
quán đảnh của các Sát-đế-lỵ". Người ấy suy nghĩ như sau: "Không biết
khi nào các Sát-đế-lỵ mới làm lễ quán đảnh cho ta theo lễ quán đảnh
của Sát-đế-lỵ?". Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người
có hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người ly hy vọng? Ở đây này các
Tỷ-kheo, vua Sát-đế-lỵ đă làm lễ quán đảnh. Vị ấy nghe nói như sau:
"Vị Sát-đế-lỵ tên như vậy đă được các Sát-đế-lỵ làm lễ quán đảnh
theo lễ quán đảnh của các Sát-đế-lỵ". Người ấy không nghĩ như sau:
"Không biết khi nào các Sát-đế-lỵ mới làm lễ quán đảnh cho ta theo
lễ quán đảnh của Sát-đế-lỵ? "V́ cớ sao? Sự hy vọng được làm lễ quán
đảnh trước khi chưa làm lễ quán đảnh, hy vọng ấy được hoàn toàn chấm
dứt. Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người đă ly hy
vọng.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuất hiện, có mặt ở đời. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, có ba hạng người xuất hiện, có mặt giữa các
Tỷ-kheo. Thế nào là ba? Không hy vọng, có hy vọng, ly hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người không hy vọng? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, có người ác giới, tánh t́nh độc ác, sở hành bất tịnh,
có những hành vi che đậy, không phải là Sa-môn, nhưng hiện tướng là
Sa-môn, không sống Phạm hạnh, nhưng hiện tướng có Phạm hạnh, nội tâm
hôi hám, ứ đầy tham dục, tánh t́nh bất tịnh. Người này nghe:
"Tỷ-kheo có tên như vậy, do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện
tại, tự ḿnh với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu
tâm giải thoát, tuệ giải thoát". Người ấy không suy nghĩ như sau:
"Đến khi nào, do đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự ḿnh
với thắng trí, ta sẽ chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát?" Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là
người không hy vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người có hy vọng? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo giữ tánh t́nh hiền thiện. Vị ấy nghe: "Tỷ-kheo
có tên như vậy, đă đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự
ḿnh với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát". Người ấy suy nghĩ như sau: "Đến khi nào, do
đoạn tận các lậu hoặc ngay trong hiện tại, tự ḿnh với thắng trí, ta
sẽ chứng đạt, chứng ngộ và an trú vô lậu tâm giải thoát, tuệ giải
thoát?" Người như vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người có hy
vọng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người ly hy vọng? Ở đây này các
Tỷ-kheo, một vị A-la-hán, đă đoạn tận các lậu hoặc. Vị này nghe:
"Tỷ-kheo có tên như vậy ... tuệ giải thoát". Vị ấy không suy nghĩ
như sau : "Đến khi nào, do đoạn tận ... tuệ giải thoát?" V́ cớ sao?
Hy vọng được giải thoát trước khi chưa giải thoát, này các Tỷ-kheo,
hy vọng ấy đă được hoàn toàn chấm dứt. Người như vậy, này các
Tỷ-kheo, là người ly hy vọng.
Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, xuất hiện, có mặt giữa các vị
Tỷ-kheo.
|
4. Cakkavattisuttaṃ
14.
‘‘Yopi so, bhikkhave, rājā cakkavattī dhammiko
dhammarājā sopi na arājakaṃ cakkaṃ vattetī’’ti. Evaṃ vutte aññataro
bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘ko pana,
bhante, rañño cakkavattissa dhammikassa dhammarañño rājā’’ti
[cakkanti (ka.)]? ‘‘Dhammo, bhikkhū’’ti
bhagavā avoca – ‘‘idha, bhikkhu, rājā cakkavattī dhammiko dhammarājā
dhammaṃyeva nissāya [garukaronto (sī. syā. kaṃ.
pī.)] dhammaṃ sakkaronto dhammaṃ garuṃ karonto dhammaṃ
apacāyamāno dhammaddhajo dhammaketu dhammādhipateyyo dhammikaṃ
rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahati antojanasmiṃ’’.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhu, rājā cakkavattī dhammiko
dhammarājā dhammaṃyeva nissāya dhammaṃ sakkaronto dhammaṃ garuṃ
karonto dhammaṃ apacāyamāno dhammaddhajo dhammaketu dhammādhipateyyo
dhammikaṃ rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahati
khattiyesu, anuyantesu [anuyuttesu (sī. syā. kaṃ.
pī.)], balakāyasmiṃ, brāhmaṇagahapatikesu
, negamajānapadesu, samaṇabrāhmaṇesu, migapakkhīsu. Sa kho so
bhikkhu rājā cakkavattī dhammiko dhammarājā dhammaṃyeva nissāya
dhammaṃ sakkaronto dhammaṃ garuṃ karonto dhammaṃ apacāyamāno
dhammaddhajo dhammaketu dhammādhipateyyo dhammikaṃ
rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahitvā antojanasmiṃ, dhammikaṃ
rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahitvā khattiyesu, anuyantesu,
balakāyasmiṃ, brāhmaṇagahapatikesu, negamajānapadesu,
samaṇabrāhmaṇesu, migapakkhīsu, dhammeneva cakkaṃ vatteti. Taṃ hoti
cakkaṃ appaṭivattiyaṃ kenaci manussabhūtena paccatthikena pāṇinā.
‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhu
[bhikkhave (ka.)], tathāgato arahaṃ sammāsambuddho dhammiko
dhammarājā dhammaṃyeva nissāya dhammaṃ sakkaronto dhammaṃ garuṃ
karonto dhammaṃ apacāyamāno dhammaddhajo dhammaketu dhammādhipateyyo
dhammikaṃ rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahati
kāyakammasmiṃ – ‘evarūpaṃ kāyakammaṃ sevitabbaṃ, evarūpaṃ kāyakammaṃ
na sevitabba’’’nti.
‘‘Puna caparaṃ, bhikkhu, tathāgato arahaṃ
sammāsambuddho dhammiko dhammarājā dhammaṃyeva nissāya dhammaṃ
sakkaronto dhammaṃ garuṃ karonto dhammaṃ apacāyamāno dhammaddhajo
dhammaketu dhammādhipateyyo dhammikaṃ rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahati
vacīkammasmiṃ – ‘evarūpaṃ vacīkammaṃ sevitabbaṃ, evarūpaṃ vacīkammaṃ
na sevitabba’nti…pe… manokammasmiṃ – ‘evarūpaṃ manokammaṃ
sevitabbaṃ, evarūpaṃ manokammaṃ na sevitabba’’’nti.
‘‘Sa kho so, bhikkhu,
tathāgato arahaṃ sammāsambuddho dhammiko dhammarājā dhammaṃyeva
nissāya dhammaṃ sakkaronto dhammaṃ garuṃ karonto dhammaṃ apacāyamāno
dhammaddhajo dhammaketu dhammādhipateyyo dhammikaṃ
rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahitvā kāyakammasmiṃ, dhammikaṃ
rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahitvā vacīkammasmiṃ, dhammikaṃ
rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahitvā manokammasmiṃ, dhammeneva anuttaraṃ
dhammacakkaṃ pavatteti. Taṃ hoti cakkaṃ appaṭivattiyaṃ samaṇena vā
brāhmaṇena vā devena vā mārena vā brahmunā vā kenaci vā
lokasmi’’nti. Catutthaṃ.
|
4. Cakkavattisuttavaṇṇanā
14. Catutthe catūhi
saṅgahavatthūhi janaṃ rañjetīti rājā.
Cakkaṃ vattetīti cakkavattī. Vattitaṃ vā
anena cakkanti cakkavattī. Dhammo assa atthīti
dhammiko. Dhammeneva dasavidhena
cakkavattivattena rājā jātoti dhammarājā. Sopi na
arājakanti sopi aññaṃ nissayarājānaṃ alabhitvā cakkaṃ nāma
vattetuṃ na sakkotīti attho. Iti satthā desanaṃ paṭṭhapetvā
yathānusandhiṃ apāpetvāva tuṇhī ahosi. Kasmā? Anusandhikusalā
uṭṭhahitvā anusandhiṃ pucchissanti, bahū hi imasmiṃ ṭhāne tathārūpā
bhikkhū, athāhaṃ tehi puṭṭho desanaṃ vaḍḍhessāmīti. Atheko
anusandhikusalo bhikkhu bhagavantaṃ pucchanto ko
pana, bhantetiādimāha. Bhagavāpissa byākaronto
dhammo bhikkhūtiādimāha.
Tattha dhammoti
dasakusalakammapathadhammo. Dhammanti
tameva vuttappakāraṃ dhammaṃ. Nissāyāti
tadadhiṭṭhānena cetasā tameva nissayaṃ katvā.
Dhammaṃ sakkarontoti yathā kato so dhammo suṭṭhu kato hoti,
evametaṃ karonto. Dhammaṃ garuṃ karontoti
tasmiṃ gāravuppattiyā taṃ garukaronto. Dhammaṃ
apacāyamānoti tasseva dhammassa añjalikaraṇādīhi nīcavuttitaṃ
karonto. Dhammaddhajo dhammaketūti taṃ
dhammaṃ dhajamiva purakkhatvā ketumiva ukkhipitvā pavattiyā
dhammaddhajo dhammaketu ca hutvāti attho.
Dhammādhipateyyoti dhammādhipatibhūtāgatabhāvena
dhammavaseneva ca sabbakiriyānaṃ karaṇena dhammādhipateyyo hutvā.
Dhammikaṃ rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahatīti
dhammo assā atthīti dhammikā, rakkhā ca
āvaraṇañca gutti ca rakkhāvaraṇagutti. Tattha ‘‘paraṃ rakkhanto
attānaṃ rakkhatī’’ti vacanato khantiādayo rakkhā.
Vuttañhetaṃ – ‘‘kathañca, bhikkhave, paraṃ rakkhanto attānaṃ
rakkhati. Khantiyā avihiṃsāya mettacittatāya anuddayāyā’’ti (saṃ.
ni. 5.385). Nivāsanapārupanagehādīni āvaraṇaṃ.
Corādiupaddavanivāraṇatthaṃ gopāyanā gutti.
Taṃ sabbampi suṭṭhu vidahati pavatteti ṭhapetīti attho.
Idāni yattha sā
saṃvidahitabbā, taṃ dassento antojanasmintiādimāha.
Tatrāyaṃ saṅkhepattho – antojanasaṅkhātaṃ puttadāraṃ sīlasaṃvare
patiṭṭhāpento vatthagandhamālādīni cassa dadamāno sabbopaddave cassa
nivārayamāno dhammikaṃ rakkhāvaraṇaguttiṃ saṃvidahati nāma.
Khattiyādīsupi eseva nayo. Ayaṃ pana viseso – abhisittakhattiyā
bhadraassājānīyādiratanasampadānenapi
upagaṇhitabbā, anuyantā khattiyā tesaṃ
anurūpayānavāhanasampadānenapi paritosetabbā, balakāyo kālaṃ
anatikkametvā bhattavetanasampadānenapi anuggahetabbo, brāhmaṇā
annapānavatthādinā deyyadhammena, gahapatikā
bhattabījanaṅgalabalibaddādisampadānena, tathā nigamavāsino
negamā janapadavāsino ca
jānapadā. Samitapāpabāhitapāpā pana
samaṇabrāhmaṇā samaṇaparikkhārasampadānena sakkātabbā,
migapakkhino abhayadānena samassāsetabbā.
Dhammeneva cakkaṃ vattetīti
dasakusalakammapathadhammeneva cakkaṃ pavatteti.
Taṃ hoti cakkaṃ appaṭivattiyanti taṃ tena evaṃ pavattitaṃ
āṇācakkaṃ appaṭivattiyaṃ hoti. Kenacimanussabhūtenāti
devatā nāma attanā icchiticchitameva karonti, tasmā tā aggaṇhitvā
‘‘manussabhūtenā’’ti vuttaṃ. Paccatthikenāti
paṭiatthikena, paṭisattunāti attho. Dhammikoti
cakkavattī dasakusalakammapathavasena dhammiko, tathāgato pana
navalokuttaradhammavasena. Dhammarājāti
navahi lokuttaradhammehi mahājanaṃ rañjetīti dhammarājā.
Dhammaṃyevāti navalokuttaradhammameva
nissāya tameva sakkaronto taṃ garukaronto taṃ apacāyamāno. Sovassa
dhammo abbhuggataṭṭhena dhajoti dhammaddhajo.
Sovassa ketūti dhammaketu. Tameva adhipatiṃ
jeṭṭhakaṃ katvā viharatīti dhammādhipateyyo.
Dhammikaṃ rakkhāvaraṇaguttinti
lokiyalokuttaradhammadāyikarakkhañca āvaraṇañca guttiñca.
Saṃvidahatīti ṭhapeti paññapeti.
Evarūpanti tividhaṃ kāyaduccaritaṃ na
sevitabbaṃ, sucaritaṃ sevitabbanti evaṃ sabbattha attho veditabbo.
Saṃvidahitvāti ṭhapetvā kathetvā.
Dhammeneva anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattetīti
navalokuttaradhammeneva asadisaṃ dhammacakkaṃ pavatteti.
Taṃ hoti cakkaṃ appaṭivattiyanti taṃ evaṃ
pavattitaṃ dhammacakkaṃ etesu samaṇādīsu ekenapi paṭivattetuṃ
paṭibāhituṃ na sakkā. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.
|
14.- Pháp
- Phàm vua Chuyển Luân nào, đúng pháp, pháp vương, vị ấy cũng
chuyển bánh xe (cai trị), không phải không có vua.
Được nghe nói vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:
- Bạch Thế Tôn, ai là vua cho vua Chuyển Luân đúng pháp, pháp
vương?
- Đó là pháp, này Tỷ-kheo.
Thế Tôn nói:
- Ở đây, này Tỷ-kheo, vị Chuyển Luân, đúng pháp, pháp vương, y cứ
pháp, cung kính pháp, kính trọng pháp, tôn kính pháp, lấy pháp làm
tràng phan, lấy pháp làm cờ xí, lấy pháp làm tối thắng, ra lệnh hộ
tŕ, che chở, ủng hộ đúng pháp đối với quần chúng.
Lại nữa, này Tỷ-kheo, vua Chuyển Luân, đúng pháp, pháp vương ...
ra lệnh hộ tŕ, che chở, ủng hộ đúng pháp đối với các Sát-đế-lỵ, đối
với các tùy tùng, đối với quân đội, đối với các Bà-la-môn và gia
chủ, đối với các thị trấn và quốc độ, đối với các Sa-môn, Bà-la-môn,
đối với các loài thú và các loài chim.
Vua Chuyển Luân ấy, này các Tỷ-kheo, đúng pháp ... sau khi ra
lệnh hộ tŕ, che chở ... đối với các loài thú và các loài chim,
chuyển bánh xe đúng pháp. Bánh xe ấy không bị ngăn cản sự chuyển
vận, bởi bất cứ người nào, hay bởi loài hữu t́nh thù nghịch nào.
Cũng vậy, này Tỷ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán, Chánh Đẳng Giác,
đúng pháp, vị Pháp Vương, y cứ pháp, cung kính pháp, kính trọng
pháp, tôn kính pháp, lấy pháp làm tràng phan, lấy pháp làm cờ xí,
lấy pháp làm tối thắng, ra lệnh hộ tŕ, che chở, ủng hộ đúng pháp
đối với thân nghiệp, nghĩ rằng: "Thân nghiệp như vậy cần phải hành
tŕ, thân nghiệp như vậy không được hành tŕ".
Lại nữa, này Tỷ-kheo, Như Lai, bậc A-la-hán ... ủng hộ đúng pháp
đối với khẩu nghiệp, nghĩ rằng: "Khẩu nghiệp như vậy cần phải hành
tŕ, Khẩu nghiệp như vậy không được hành tŕ, đối với ư nghiệp",
nghĩ rằng "Ư nghiệp như vậy cần phải hành tŕ, Ư nghiệp như vậy
không được hành tŕ".
Như Lai ấy, này Tỷ-kheo, bậc A-la-hán ... đúng pháp, sau khi ra
lệnh hộ tŕ che chở ... đối với thân nghiệp ... đối với khẩu nghiệp
... đối với ư nghiệp ... chuyển bánh xe đúng pháp. Bánh xe ấy không
bị ngăn chặn sự chuyển vận, bởi Sa-môn, Bà-la-môn, chư Thiên, Ác ma,
Phạm thiên, hay bất cứ một ai ở đời.
|
5. Sacetanasuttaṃ
15.
Ekaṃ samayaṃ bhagavā bārāṇasiyaṃ viharati
isipatane migadāye. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi –
‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te
bhikkhū bhagavato paccassosuṃ. Bhagavā
etadavoca –
‘‘Bhūtapubbaṃ, bhikkhave, rājā ahosi sacetano
[pacetano (sī. syā. kaṃ. pī.)] nāma. Atha
kho, bhikkhave, rājā sacetano rathakāraṃ āmantesi – ‘ito me, samma
rathakāra, channaṃ māsānaṃ accayena saṅgāmo bhavissati. Sakkhissasi
[sakkhasi (syā. kaṃ. pī.)] me, samma
rathakāra, navaṃ cakkayugaṃ kātu’nti? ‘Sakkomi devā’ti kho,
bhikkhave, rathakāro rañño sacetanassa paccassosi. Atha kho,
bhikkhave, rathakāro chahi māsehi chārattūnehi ekaṃ cakkaṃ
niṭṭhāpesi. Atha kho, bhikkhave, rājā sacetano rathakāraṃ āmantesi –
‘ito me, samma rathakāra, channaṃ divasānaṃ accayena saṅgāmo
bhavissati, niṭṭhitaṃ navaṃ cakkayuga’nti? ‘Imehi kho, deva, chahi
māsehi chārattūnehi ekaṃ cakkaṃ niṭṭhita’nti. ‘Sakkhissasi pana me,
samma rathakāra, imehi chahi divasehi dutiyaṃ cakkaṃ niṭṭhāpetu’nti?
‘Sakkomi devā’ti kho, bhikkhave, rathakāro chahi divasehi dutiyaṃ
cakkaṃ niṭṭhāpetvā navaṃ cakkayugaṃ ādāya yena rājā sacetano
tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā rājānaṃ sacetanaṃ etadavoca – ‘idaṃ te,
deva, navaṃ cakkayugaṃ niṭṭhita’nti. ‘Yañca te idaṃ, samma
rathakāra, cakkaṃ chahi māsehi niṭṭhitaṃ chārattūnehi yañca te idaṃ
cakkaṃ chahi divasehi niṭṭhitaṃ, imesaṃ kiṃ nānākaraṇaṃ? Nesāhaṃ
kiñci nānākaraṇaṃ passāmī’ti. ‘Atthesaṃ, deva, nānākaraṇaṃ. Passatu
devo nānākaraṇa’’’nti.
‘‘Atha kho, bhikkhave,
rathakāro yaṃ taṃ cakkaṃ chahi divasehi niṭṭhitaṃ taṃ pavattesi. Taṃ
pavattitaṃ samānaṃ yāvatikā abhisaṅkhārassa gati tāvatikaṃ gantvā
ciṅgulāyitvā bhūmiyaṃ papati. Yaṃ pana taṃ
cakkaṃ chahi māsehi niṭṭhitaṃ chārattūnehi taṃ
pavattesi. Taṃ pavattitaṃ samānaṃ yāvatikā abhisaṅkhārassa gati
tāvatikaṃ gantvā akkhāhataṃ maññe aṭṭhāsi.
‘‘‘Ko nu kho, samma rathakāra, hetu ko paccayo
yamidaṃ [yadidaṃ (ka.)] cakkaṃ chahi
divasehi niṭṭhitaṃ taṃ pavattitaṃ samānaṃ yāvatikā abhisaṅkhārassa
gati tāvatikaṃ gantvā ciṅgulāyitvā bhūmiyaṃ
papati? Ko pana, samma rathakāra, hetu ko paccayo yamidaṃ cakkaṃ
chahi māsehi niṭṭhitaṃ chārattūnehi taṃ pavattitaṃ samānaṃ yāvatikā
abhisaṅkhārassa gati tāvatikaṃ gantvā akkhāhataṃ maññe aṭṭhāsī’ti?
‘Yamidaṃ, deva, cakkaṃ chahi divasehi niṭṭhitaṃ tassa nemipi savaṅkā
sadosā sakasāvā, arāpi savaṅkā sadosā sakasāvā, nābhipi savaṅkā
sadosā sakasāvā. Taṃ nemiyāpi savaṅkattā sadosattā sakasāvattā,
arānampi savaṅkattā sadosattā sakasāvattā, nābhiyāpi savaṅkattā
sadosattā sakasāvattā pavattitaṃ samānaṃ yāvatikā abhisaṅkhārassa
gati tāvatikaṃ gantvā ciṅgulāyitvā bhūmiyaṃ papati. Yaṃ pana taṃ,
deva, cakkaṃ chahi māsehi niṭṭhitaṃ chārattūnehi tassa nemipi avaṅkā
adosā akasāvā, arāpi avaṅkā adosā akasāvā, nābhipi avaṅkā adosā
akasāvā. Taṃ nemiyāpi avaṅkattā adosattā akasāvattā, arānampi
avaṅkattā adosattā akasāvattā, nābhiyāpi avaṅkattā adosattā
akasāvattā pavattitaṃ samānaṃ yāvatikā abhisaṅkhārassa gati
tāvatikaṃ gantvā akkhāhataṃ maññe aṭṭhāsī’’’ti.
‘‘Siyā kho pana, bhikkhave, tumhākaṃ evamassa –
‘añño nūna tena samayena so rathakāro
ahosī’ti! Na kho panetaṃ, bhikkhave, evaṃ daṭṭhabbaṃ. Ahaṃ tena
samayena so rathakāro ahosiṃ. Tadāhaṃ, bhikkhave, kusalo
dāruvaṅkānaṃ dārudosānaṃ dārukasāvānaṃ. Etarahi kho panāhaṃ,
bhikkhave, arahaṃ sammāsambuddho kusalo kāyavaṅkānaṃ kāyadosānaṃ
kāyakasāvānaṃ, kusalo vacīvaṅkānaṃ vacīdosānaṃ
vacīkasāvānaṃ, kusalo manovaṅkānaṃ manodosānaṃ manokasāvānaṃ. Yassa
kassaci, bhikkhave, bhikkhussa vā bhikkhuniyā vā kāyavaṅko appahīno
kāyadoso kāyakasāvo, vacīvaṅko appahīno vacīdoso vacīkasāvo,
manovaṅko appahīno manodoso manokasāvo, evaṃ papatitā te, bhikkhave,
imasmā dhammavinayā, seyyathāpi taṃ cakkaṃ chahi divasehi niṭṭhitaṃ.
‘‘Yassa kassaci, bhikkhave, bhikkhussa vā
bhikkhuniyā vā kāyavaṅko pahīno kāyadoso kāyakasāvo, vacīvaṅko
pahīno vacīdoso vacīkasāvo, manovaṅko pahīno manodoso manokasāvo
, evaṃ patiṭṭhitā te, bhikkhave, imasmiṃ
dhammavinaye, seyyathāpi taṃ cakkaṃ chahi māsehi niṭṭhitaṃ
chārattūnehi.
‘‘Tasmātiha , bhikkhave,
evaṃ sikkhitabbaṃ – ‘kāyavaṅkaṃ pajahissāma kāyadosaṃ kāyakasāvaṃ,
vacīvaṅkaṃ pajahissāma vacīdosaṃ vacīkasāvaṃ, manovaṅkaṃ pajahissāma
manodosaṃ manokasāva’nti. Evañhi vo, bhikkhave, sikkhitabba’’nti.
Pañcamaṃ.
|
5. Sacetanasuttavaṇṇanā
15. Pañcame
isipataneti buddhapaccekabuddhasaṅkhātānaṃ
isīnaṃ dhammacakkappavattanatthāya ceva uposathakaraṇatthāya
ca āgantvā patane, sannipātaṭṭhāneti attho.
Padanetipi pāṭho, ayameva attho. Migadāyeti
migānaṃ abhayatthāya dinne.
Chahi māsehi chārattūnehīti so kira raññā āṇattadivaseyeva
sabbūpakaraṇāni sajjetvā antevāsikehi saddhiṃ
araññaṃ pavisitvā gāmadvāragāmamajjhadevakulasusānādīsu ṭhitarukkhe
ceva jhāmapatitasukkharukkhe ca vivajjetvā sampannapadese ṭhite
sabbadosavivajjite nābhiaranemīnaṃ anurūpe rukkhe gahetvā taṃ cakkaṃ
akāsi. Tassa rukkhe vicinitvā gaṇhantassa ceva karontassa ca ettako
kālo vītivatto. Tena vuttaṃ – ‘‘chahi māsehi chārattūnehī’’ti.
Nānākaraṇanti nānattaṃ.
Nesanti na esaṃ. Atthesanti atthi
esaṃ. Abhisaṅkhārassa gatīti payogassa
gamanaṃ. Ciṅgulāyitvāti paribbhamitvā.
Akkhāhataṃ maññeti akkhe pavesetvā
ṭhapitamiva.
Sadosāti sagaṇḍā
uṇṇatoṇataṭṭhānayuttā. Sakasāvāti
pūtisārena ceva pheggunā ca yuttā. Kāyavaṅkātiādīni
kāyaduccaritādīnaṃ nāmāni. Evaṃ papatitāti
evaṃ guṇapatanena patitā. Evaṃ patiṭṭhitāti
evaṃ guṇehi patiṭṭhitā. Tattha lokiyamahājanā papatitā nāma,
sotāpannādayo patiṭṭhitā nāma. Tesupi purimā tayo kilesānaṃ
samudācārakkhaṇe papatitā nāma, khīṇāsavā pana ekanteneva patiṭṭhitā
nāma. Tasmāti yasmā appahīnakāyavaṅkādayo
papatanti, pahīnakāyavaṅkādayo patiṭṭhahanti, tasmā. Kāyavaṅkādīnaṃ
pana evaṃ pahānaṃ veditabbaṃ – pāṇātipāto adinnādānaṃ micchācāro
musāvādo pisuṇāvācā micchādiṭṭhīti ime tāva cha sotāpattimaggena
pahīyanti, pharusāvācā byāpādoti dve anāgāmimaggena, abhijjhā
samphappalāpoti dve arahattamaggenāti.
|
15.- Người Đóng Xe Hay
Pacetana.
1. Một thời Thế Tôn ở tại Bàranàsi, Isipatana, chỗ Vườn Nai, tại
đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:
- Này các Tỷ-kheo.
- Bạch Thế Tôn.
Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn. Thế Tôn nói như sau:
- Thuở xưa, này các Tỷ-kheo, có vị vua tên là Pacetana. Rồi, này
các Tỷ-kheo, vua Pacetana cho gọi người thợ đóng xe:
- "Này người đóng xe, sau sáu tháng, sẽ có trận chiến. Này người
đóng xe, ông có thể làm cho ta một cặp bánh xe mới được không?"
- "Thưa Đại Vương, có thể được".
Người đóng xe trả lời cho vua Pacetana.
Rồi này các Tỷ-kheo, người đóng xe, sau sáu tháng trừ sáu ngày,
làm xong một bánh xe. Rồi vua Pacetana bảo người đóng xe:
- "Sau sáu ngày, này người đóng xe, sẽ có trận chiến. Đôi bánh xe
mới có thể làm xong được không?"
- "Thưa Đại vương, sau sáu tháng trừ sáu ngày, một bánh xe đă làm
xong".
- "Này người đóng xe, Ông có thể, với sáu ngày (c̣n lại) này, làm
xong bánh xe thứ hai?"
- "Thưa Đại vương, con có thể làm được".
Người đóng xe trả lời cho vua Pacetana.
2.- Rồi này các Tỷ-kheo, người đóng xe trong sáu ngày, sau khi
làm xong bánh xe thứ hai, cầm cặp bánh xe mới, đi đến vua Pacetana;
sau khi đến, thưa với vua Pacetana:
- "Thưa Đại vương, cặp bánh xe mới này đă làm xong cho Ngài".
- "Này người đóng xe, cái bánh xe này làm xong trong sáu tháng
trừ sáu ngày và cái bánh xe này làm xong trong sáu ngày, có cái ǵ
sai khác giữa hai cái này, ta không thấy có cái ǵ sai khác hết".
- "Có sự sai khác giữa hai cái này, thưa Đại vương. Thưa Đại
vương, hăy nh́n sự sai khác".
Rồi, này các Tỷ-kheo, người đóng xe đẩy cho chạy bánh xe được làm
xong trong sáu ngày. Bánh xe ấy tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy
(ban đầu) c̣n tồn tại rồi xoay quanh vài ṿng và rơi xuống đất. Rồi
nó đẩy cho chạy bánh được làm xong trong sáu tháng trừ sáu ngày.
Bánh xe ấy tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy (ban đầu) c̣n tồn tại,
rồi nó đứng lại như đang mắc vào trong trục xe.
3- "Do nhân ǵ, này người đóng xe, do duyên ǵ cái bánh xe được
làm trong sáu ngày, tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy (ban đầu) c̣n
tồn tại, rồi xoay quanh vài ṿng và rơi xuống đất. Do nhân ǵ, này
Người đóng xe, do duyên ǵ cái bánh xe được làm trong sáu tháng trừ
sáu ngày, tiếp tục chạy cho đến khi sức đẩy (ban đầu) c̣n tồn tại,
rồi nó đứng lại như mắc vào trục xe?"
- "Thưa Đại vương, cái bánh xe này được làm xong sau sáu ngày,
vành xe bị cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm; các căm xe bị cong, có
chỗ hỏng, có khuyết điểm, trục xe bị cong, có chỗ hỏng, có khuyết
điểm. V́ rằng vành xe bị cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm; v́ rằng
các căm xe bị cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm, v́ rằng trục xe bị
cong, có chỗ hỏng, có khuyết điểm nên bánh xe ấy tiếp tục chạy cho
đến khi sức đẩy (ban đầu) c̣n tồn tại, rồi xoay quanh vài ṿng rồi
rơi xuống đất. C̣n bánh kia, thưa Đại Vương, được làm xong sau sáu
tháng trừ sáu ngày, bánh xe ấy không bị cong, không có chỗ hỏng,
không có khuyết điểm; trục xe ấy không bị cong, không có chỗ hỏng,
không có khuyết điểm. V́ rằng vành xe không bị cong, không có chỗ
hỏng, không có khuyết điểm; v́ rằng các căm xe không bị cong, không
có chỗ hỏng, không có khuyết điểm, v́ rằng trục xe không bị cong,
không có chỗ hỏng, không có khuyết điểm nên bánh xe ấy tiếp tục chạy
cho đến khi sức đẩy (ban đầu) c̣n tồn tại, nó đứng lại như đang mắc
vào ở trong trục xe.
4.- Rất có thể, này các Tỷ-kheo, các thầy nghĩ rằng trong thời
ấy, người đóng xe ấy là một người khác. Này các Tỷ-kheo, chớ có nghĩ
như vậy. Trong thời ấy, ta chính là người đóng xe. Lúc bấy giờ, này
các Tỷ-kheo, ta khéo léo về chỗ cong của gỗ, về chỗ hỏng của gỗ, về
khuyết điểm của gỗ. Nay, này các Tỷ-kheo, ta là bậc A-la-hán, Chánh
Đẳng Giác, khéo léo về chỗ cong của thân, về chỗ hỏng của thân, về
khuyết điểm của thân; khéo léo về chỗ cong của lời nói, về chỗ hỏng
của lời nói, về khuyết điểm của lời nói; khéo léo về chỗ cong của ư,
về chỗ hỏng của ư, về khuyết điểm của ư.
5.-Đối với các Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo ni nào, thân cong không có
đoạn tận, thân hư hỏng, thân khuyết điểm (không có đoạn tận), lời
nói cong không có đoạn tận, lời nói hư hỏng, lời nói khuyết điểm
(không có đoạn tận), ư cong không có đoạn tận, ư hư hỏng, ư khuyết
điểm (không có đoạn tận), như vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy rời khỏi
pháp luật này, ví như bánh xe ấy được làm xong sau sáu ngày.
Đối với các Tỷ-kheo hay Tỷ-kheo ni nào, thân cong được đoạn tận,
thân hư hỏng, thân khuyết điểm (được đoạn tận), lời nói cong ... ư
cong được đoạn tận, ư hư hỏng, ư khuyết điểm (được đoạn tận), như
vậy, này các Tỷ-kheo, vị ấy an trú trong pháp luật này, ví như bánh
xe ấy được làm xong sau sáu tháng trừ sáu ngày.
Do vậy, này các Tỷ-kheo, hăy học tập như sau: "Chúng tôi sẽ đoạn
tận thân cong, thân hư hỏng, thân khuyết điểm, chúng tôi sẽ đoạn tận
lời nói cong, lời nói hư hỏng, lời nói khuyết điểm, chúng tôi sẽ
đoạn tận ư cong, ư hư hỏng, ư khuyết điểm". Như vậy, này các
Tỷ-kheo, các Thầy cần phải học tập.
|
6. Apaṇṇakasuttaṃ
16.
‘‘Tīhi, bhikkhave, dhammehi samannāgato bhikkhu apaṇṇakapaṭipadaṃ
[apaṇṇakataṃ paṭipadaṃ (sī. pī.) ṭīkāya pana
sameti] paṭipanno hoti, yoni cassa āraddhā hoti āsavānaṃ
khayāya. Katamehi tīhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu indriyesu
guttadvāro hoti, bhojane mattaññū hoti, jāgariyaṃ anuyutto hoti.
‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu
indriyesu guttadvāro hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhu cakkhunā
rūpaṃ disvā na nimittaggāhī hoti nānubyañjanaggāhī.
Yatvādhikaraṇamenaṃ [yatvādhikaraṇametaṃ (sī.)]
cakkhundriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā
dhammā anvāssaveyyuṃ tassa saṃvarāya paṭipajjati, rakkhati
cakkhundriyaṃ, cakkhundriye saṃvaraṃ āpajjati. Sotena saddaṃ sutvā…
ghānena gandhaṃ ghāyitvā… jivhāya rasaṃ sāyitvā… kāyena phoṭṭhabbaṃ
phusitvā… manasā dhammaṃ viññāya na nimittaggāhī hoti
nānubyañjanaggāhī. Yatvādhikaraṇamenaṃ
manindriyaṃ asaṃvutaṃ viharantaṃ abhijjhādomanassā pāpakā akusalā
dhammā anvāssaveyyuṃ tassa saṃvarāya paṭipajjati, rakkhati
manindriyaṃ, manindriye saṃvaraṃ āpajjati. Evaṃ kho, bhikkhave,
bhikkhu indriyesu guttadvāro hoti.
‘‘Kathañca , bhikkhave,
bhikkhu bhojane mattaññū hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhu paṭisaṅkhā
yoniso āhāraṃ āhāreti – ‘neva davāya na madāya na maṇḍanāya na
vibhūsanāya, yāvadeva imassa kāyassa ṭhitiyā yāpanāya
vihiṃsūparatiyā brahmacariyānuggahāya, iti purāṇañca vedanaṃ
paṭihaṅkhāmi, navañca vedanaṃ na uppādessāmi, yātrā ca me bhavissati
anavajjatā ca phāsuvihāro cā’ti. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu
bhojane mattaññū hoti.
‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu jāgariyaṃ anuyutto
hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhu divasaṃ caṅkamena nisajjāya
āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ parisodheti, rattiyā paṭhamaṃ yāmaṃ
caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi
cittaṃ parisodheti, rattiyā majjhimaṃ yāmaṃ
dakkhiṇena passena sīhaseyyaṃ kappeti pāde pādaṃ accādhāya sato
sampajāno uṭṭhānasaññaṃ manasi karitvā, rattiyā pacchimaṃ yāmaṃ
paccuṭṭhāya caṅkamena nisajjāya āvaraṇīyehi dhammehi cittaṃ
parisodheti. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu jāgariyaṃ anuyutto hoti.
Imehi kho, bhikkhave, tīhi dhammehi samannāgato bhikkhu
apaṇṇakapaṭipadaṃ paṭipanno hoti, yoni cassa āraddhā hoti āsavānaṃ
khayāyā’’ti. Chaṭṭhaṃ.
|
6. Apaṇṇakasuttavaṇṇanā
16. Chaṭṭhe
apaṇṇakapaṭipadanti aviraddhapaṭipadaṃ
ekaṃsapaṭipadaṃ niyyānikapaṭipadaṃ kāraṇapaṭipadaṃ sārapaṭipadaṃ
maṇḍapaṭipadaṃ apaccanīkapaṭipadaṃ anulomapaṭipadaṃ
dhammānudhammapaṭipadaṃ paṭipanno hoti, na
takkaggāhena vā nayaggāhena vā. Evaṃ gahetvā paṭipanno hi bhikkhu vā
bhikkhunī vā upāsako vā upāsikā vā manussadevanibbānasampattīhi
hāyati parihāyati, apaṇṇakapaṭipadaṃ paṭipanno
pana tāhi sampattīhi na parihāyati. Atīte kantāraddhānamaggaṃ
paṭipannesu dvīsu satthavāhesu yakkhassa vacanaṃ gahetvā
bālasatthavāho saddhiṃ satthena anayabyasanaṃ
patto, yakkhassa vacanaṃ aggahetvā ‘‘udakadiṭṭhaṭṭhāne udakaṃ
chaḍḍessāmā’’ti satthake saññāpetvā maggaṃ paṭipanno
paṇḍitasatthavāho viya. Yaṃ sandhāya vuttaṃ –
‘‘Apaṇṇakaṃ ṭhānameke, dutiyaṃ āhu takkikā;
Etadaññāya medhāvī, taṃ gaṇhe yadapaṇṇaka’’nti.
(jā. 1.1.1);
Yoni cassa āraddhā hotīti
ettha yonīti khandhakoṭṭhāsassapi
kāraṇassapi passāvamaggassapi nāmaṃ. ‘‘Catasso kho imā, sāriputta,
yoniyo’’tiādīsu (ma. ni. 1.152) hi khandhakoṭṭhāso yoni nāma. ‘‘Yoni
hesā bhūmija phalassa adhigamāyā’’tiādīsu (ma. ni. 3.226) kāraṇaṃ.
‘‘Na cāhaṃ brāhmaṇaṃ brūmi, yonijaṃ mattisambhava’’nti (ma. ni.
2.457; dha. pa. 396) ca ‘‘tamenaṃ kammajavātā nivattitvā uddhaṃpādaṃ
adhosiraṃ samparivattetvā mātu yonimukhe sampaṭipādentī’’ti ca ādīsu
passāvamaggo. Idha pana kāraṇaṃ adhippetaṃ.
Āraddhāti paggahitā paripuṇṇā.
Āsavānaṃ khayāyāti ettha
āsavantīti āsavā, cakkhutopi…pe… manatopi
sandanti pavattantīti vuttaṃ hoti. Dhammato yāva gotrabhu, okāsato
yāva bhavaggā savantīti vā
āsavā, ete dhamme etañca okāsaṃ antokaritvā pavattantīti
attho. Antokaraṇattho hi ayaṃ ākāro. Cirapārivāsiyaṭṭhena madirādayo
āsavā, āsavā viyātipi āsavā. Lokasmimpi hi
cirapārivāsikā madirādayo āsavāti vuccanti, yadi ca
cirapārivāsiyaṭṭhena āsavā, eteyeva bhavitumarahanti. Vuttañhetaṃ –
‘‘purimā, bhikkhave, koṭi na paññāyati avijjāya, ito pubbe avijjā
nāhosī’’tiādi (a. ni. 10.61). Āyataṃ vā saṃsāradukkhaṃ savanti
pasavantītipi āsavā. Purimāni cettha
nibbacanāni yattha kilesā āsavāti āgacchanti, tattha yujjanti,
pacchimaṃ kammepi. Na kevalañca kammakilesāyeva āsavā, apica kho
nānappakārā upaddavāpi. Suttesu hi ‘‘nāhaṃ, cunda,
diṭṭhadhammikānaṃyeva āsavānaṃ saṃvarāya dhammaṃ
desemī’’ti (dī. ni. 3.182) ettha vivādamūlabhūtā kilesā āsavāti
āgatā.
‘‘Yena devūpapatyassa,
gandhabbo vā vihaṅgamo;
Yakkhattaṃ yena gaccheyyaṃ, manussattañca abbaje;
Te mayhaṃ āsavā khīṇā, viddhastā vinaḷīkatā’’ti.
(a. ni. 4.36) –
Ettha tebhūmakaṃ ca kammaṃ avasesā ca akusalā
dhammā. ‘‘Diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ saṃvarāya samparāyikānaṃ
āsavānaṃ paṭighātāyā’’ti (pārā. 39; a. ni. 2.202-230) ettha
parūpavādavippaṭisāravadhabandhādayo ceva apāyadukkhabhūtā ca
nānappakārā upaddavā.
Te panete āsavā yattha yathā āgatā, tattha tathā
veditabbā. Ete hi vinaye tāva ‘‘diṭṭhadhammikānaṃ āsavānaṃ
saṃvarāya, samparāyikānaṃ āsavānaṃ paṭighātāyā’’ti (pārā. 39; a. ni.
2.202-230) dvedhā āgatā. Saḷāyatane ‘‘tayo me, āvuso, āsavā kāmāsavo
bhavāsavo avijjāsavo’’ti (saṃ. ni. 4.321) tidhā āgatā. Aññesu ca
suttantesu (cūḷani. jatukaṇṇimāṇavapucchāniddeso 69; paṭi. ma.
1.107) abhidhamme (dha. sa. 1102-1106; vibha. 937) ca teyeva
diṭṭhāsavena saha catudhā āgatā. Nibbedhikapariyāyena ‘‘atthi,
bhikkhave, āsavā nirayagāminiyā , atthi āsavā
tiracchānayonigāminiyā, atthi āsavā pettivisayagāminiyā, atthi āsavā
manussalokagāminiyā, atthi āsavā devalokagāminiyā’’ti (a. ni. 6.63)
pañcadhā āgatā. Kammameva cettha āsavāti vuttaṃ. Chakkanipāte
‘‘atthi, bhikkhave, āsavā saṃvarāpahātabbā’’tiādinā (a. ni. 6.58)
nayena chadhā āgatā. Sabbāsavapariyāye (ma. ni. 1.14 ādayo) teyeva
dassanena pahātabbehi saddhiṃ sattadhā āgatā. Idha pana
abhidhammanayena cattāro āsavā adhippetāti veditabbā.
Khayāyāti ettha pana
āsavānaṃ sarasabhedopi khīṇākāropi maggaphalanibbānānipi
‘‘āsavakkhayo’’ti vuccati. ‘‘Yo āsavānaṃ khayo vayo bhedo paribhedo
aniccatā antaradhāna’’nti ettha hi āsavānaṃ sarasabhedo
‘‘āsavakkhayo’’ti vutto. ‘‘Jānato ahaṃ, bhikkhave, passato
āsavānaṃ khayaṃ vadāmī’’ti (ma. ni. 1.15; saṃ.
ni. 2.23; itivu. 102) ettha āsavappahānaṃ
āsavānaṃ accantakkhayo asamuppādo khīṇākāro natthibhāvo
‘‘āsavakkhayo’’ti vutto.
‘‘Sekhassa sikkhamānassa, ujumaggānusārino;
Khayasmiṃ paṭhamaṃ ñāṇaṃ, tato aññā anantarā’’ti.
(itivu. 62) –
Ettha maggo ‘‘āsavakkhayo’’ti vutto. ‘‘Āsavānaṃ
khayā samaṇo hotī’’ti (ma. ni. 1.438) ettha phalaṃ.
‘‘Paravajjānupassissa, niccaṃ ujjhānasaññino;
Āsavā tassa vaḍḍhanti, ārā so āsavakkhayā’’ti.
(dha. pa. 253) –
Ettha nibbānaṃ. Imasmiṃ pana sutte phalaṃ
sandhāya ‘‘āsavānaṃ khayāyā’’ti āha, arahattaphalatthāyāti attho.
Indriyesu guttadvāroti
manacchaṭṭhesu indriyesu pihitadvāro. Bhojane
mattaññūti bhojanasmiṃ pamāṇaññū,
paṭiggahaṇaparibhogapaccavekkhaṇamattaṃ jānāti pajānātīti attho.
Jāgariyaṃanuyuttoti
rattindivaṃ cha koṭṭhāse katvā pañcasu koṭṭhāsesu jāgaraṇabhāvaṃ
anuyutto, jāgaraṇeyeva yuttappayuttoti attho.
Evaṃ mātikaṃ ṭhapetvā idāni tameva
ṭhapitapaṭipāṭiyā vibhajanto kathañca, bhikkhave,
bhikkhūtiādimāha. Tattha cakkhunā rūpaṃ
disvātiādīnaṃ attho visuddhimagge (visuddhi. 1.15)
vitthārito, tathā paṭisaṅkhā yoniso āhāraṃ āhāreti
neva davāyātiādīnaṃ (visuddhi. 1.18).
Āvaraṇīyehi dhammehīti pañcahi nīvaraṇehi dhammehi.
Nīvaraṇāni hi cittaṃ āvaritvā tiṭṭhanti, tasmā āvaraṇīyā dhammāti
vuccanti. Sīhaseyyaṃ kappetīti sīho viya
seyyaṃ kappeti. Pāde pādaṃ accādhāyāti
vāmapādaṃ dakkhiṇapāde atiādhāya. Samaṃ ṭhapite hi pāde jāṇukena
jāṇukaṃ gopphakena ca gopphakaṃ ghaṭīyati, tato vedanā uṭṭhahanti.
Tasmā tassa dosassa parivajjanatthaṃ thokaṃ
atikkamitvā esa pādaṃ ṭhapeti. Tena vuttaṃ – ‘‘pāde pādaṃ
accādhāyā’’ti.
Satosampajānoti
satiyā ceva sampajaññena ca samannāgato. Kathaṃ panesa niddāyanto
sato sampajāno nāma hotīti? Purimappavattivasena. Ayaṃ hi caṅkame
caṅkamanto niddāya okkamanabhāvaṃ ñatvā pavattamānaṃ kammaṭṭhānaṃ
ṭhapetvā mañce vā phalake vā nipanno niddaṃ upagantvā puna
pabujjhamāno kammaṭṭhānaṃ ṭhitaṭṭhāne gaṇhantoyeva pabujjhati. Tasmā
niddāyantopi sato sampajāno nāma hoti. Ayaṃ tāva mūlakammaṭṭhāne
nayova. Pariggahakammaṭṭhānavasenāpi panesa sato sampajāno nāma
hoti. Kathaṃ? Ayaṃ hi caṅkamanto niddāya okkamanabhāvaṃ ñatvā
pāsāṇaphalake vā mañce vā dakkhiṇena passena nipajjitvā
paccavekkhati – ‘‘acetano kāyo acetane mañce
patiṭṭhito, acetano mañco acetanāya pathaviyā, acetanā pathavī
acetane udake, acetanaṃ udakaṃ acetane vāte, acetano vāto acetane
ākāse patiṭṭhito. Tattha ākāsampi ‘ahaṃ vātaṃ ukkhipitvā ṭhita’nti
na jānāti, vātopi ‘ahaṃ ākāse patiṭṭhito’ti na jānāti. Tathā vāto na
jānāti. ‘Ahaṃ udakaṃ ukkhipitvā ṭhito’ti…pe… mañco na jānāti, ‘ahaṃ
kāyaṃ ukkhipitvā ṭhito’ti, kāyo na jānāti ‘ahaṃ mañce patiṭṭhito’ti.
Na hi tesaṃ aññamaññaṃ ābhogo vā samannāhāro vā manasikāro vā cetanā
vā patthanā vā atthī’’ti. Tassa evaṃ paccavekkhato taṃ
paccavekkhaṇacittaṃ bhavaṅge otarati. Evaṃ niddāyantopi sato
sampajāno nāma hotīti.
Uṭṭhānasaññaṃ manasikaritvāti
‘‘ettakaṃ ṭhānaṃ gate cande vā tārakāya vā uṭṭhahissāmī’’ti
uṭṭhānakālaparicchedikaṃ saññaṃ manasikaritvā, citte ṭhapetvāti
attho. Evaṃ karitvā sayito hi yathāparicchinneyeva kāle uṭṭhahati.
|
16.- Con Đường Không Có
Lỗi Lầm
- Thành tựu ba pháp, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thực hành con đường
không có lầm lỗi, và có những căn bản thắng tấn để đoạn diệt các lậu
hoặc. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo hộ tŕ các căn,
tiết độ trong ăn uống và chú tâm cảnh giác.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo hộ tŕ các căn?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi mắt thấy sắc, không nắm giữ
tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân ǵ, v́
nhăn căn không được bảo vệ, khiến tham ưu, các ác bất thiện pháp
khởi lên, Tỷ-kheo tự bảo vệ nguyên nhân ấy, pḥng hộ nhăn căn, thực
hành pḥng hộ nhăn căn. Khi tai nghe tiếng ... mũi ngửi hương ...
lưỡi nếm vị ... thân cảm xúc ... ư nhận thức các pháp, vị ấy không
nắm giữ tướng chung, không nắm giữ tướng riêng. Những nguyên nhân
ǵ, ví ư căn không được bảo vệ, khiến tham ưu, các ác bất thiện pháp
khởi lên, Tỷ-kheo tự bảo vệ nguyên nhân ấy, pḥng hộ ư căn, thực
hành pḥng hộ ư căn. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo hộ tŕ các
căn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo tiết độ trong ăn uống?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như lư giác sát thọ dụng các món
ăn, không phải để vui đùa, không phải để đam mê, không phải để trang
sức, không phải để tự làm đẹp ḿnh, mà chỉ để thân này được an trú
và được bảo dưỡng, để (thân này) khỏi bị thương hại, để hộ trợ Phạm
hạnh, nghĩ rằng: ", Như vậy, ta diệt trừ các cảm thọ cũ, và không
cho khởi lên các cảm thọ mới, và ta sẽ không có lỗi lầm, sống được
an ổn". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo tiết độ trong ăn uống.
Và này các Tỷ-kheo, như thế nào là Tỷ-kheo chú tâm cảnh giác?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ban ngày trong khi đi kinh hành
và ngồi, gột sạch tâm khỏi các triền cái, ban đêm trong canh một,
trong khi đi kinh hành và ngồi,, gột sạch tâm khỏi các triền cái,
ban đêm trong canh giữa, nằm xuống như con sư tử về phía hông bên
phải, hai chân gác lên nhau, chánh niệm tỉnh giác, tác ư tưởng thức
dậy, ban đêm trong canh cuối, sau khi thức dậy trong khi đi kinh
hành và ngồi, gột sạch tâm khỏi các triền cái. Như vậy, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo chú tâm cảnh giác.
Thành tựu ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo thực hành con
đường không có lỗi lầm, và có những căn bản thắng tấn để đoạn diệt
các lậu hoặc.
|
7. Attabyābādhasuttaṃ
17.
‘‘Tayome, bhikkhave, dhammā attabyābādhāyapi saṃvattanti,
parabyābādhāyapi saṃvattanti, ubhayabyābādhāyapi saṃvattanti. Katame
tayo? Kāyaduccaritaṃ, vacīduccaritaṃ, manoduccaritaṃ. Ime kho,
bhikkhave, tayo dhammā attabyābādhāyapi saṃvattanti,
parabyābādhāyapi saṃvattanti, ubhayabyābādhāyapi saṃvattanti.
‘‘Tayome, bhikkhave, dhammā nevattabyābādhāyapi
saṃvattanti, na parabyābādhāyapi saṃvattanti, na ubhayabyābādhāyapi
saṃvattanti. Katame tayo? Kāyasucaritaṃ, vacīsucaritaṃ,
manosucaritaṃ. Ime kho, bhikkhave, tayo dhammā
nevattabyābādhāyapi saṃvattanti, na parabyābādhāyapi saṃvattanti, na
ubhayabyābādhāyapi saṃvattantī’’ti. Sattamaṃ.
|
7. Attabyābādhasuttavaṇṇanā
17. Sattame
attabyābādhāyāti attadukkhāya.
Parabyābādhāyāti paradukkhāya.
Kāyasucaritantiādīni pubbabhāge
dasakusalakammapathavasena āgatāni, upari pana yāva arahattā
avāritāneva.
|
17.- Ba Pháp
- Có ba pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến hại ḿnh, đưa đến hại
người, đưa đến hại cả hai. Thế nào là ba? Thân làm ác, miệng nói ác,
ư nghĩ ác. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, đưa đến hại ḿnh, đưa đến
hại người, đưa đến hại cả hai.
Có ba pháp này, này các Tỷ-kheo, không đưa đến hại ḿnh, không
đưa đến hại người, không đưa đến hại cả hai. Thế nào là ba? Thân làm
thiện, miệng nói thiện, ư nghĩ thiện. Có ba pháp này, này các
Tỷ-kheo, không đưa đến hại ḿnh, không đưa đến hại người, không đưa
đến hại cả hai.
|
8. Devalokasuttaṃ
18.
‘‘Sace vo, bhikkhave, aññatitthiyā paribbājakā
evaṃ puccheyyuṃ – ‘devalokūpapattiyā, āvuso, samaṇe gotame
brahmacariyaṃ vussathā’ti? Nanu tumhe, bhikkhave, evaṃ puṭṭhā
aṭṭīyeyyātha harāyeyyātha jiguccheyyāthā’’ti? ‘‘Evaṃ, bhante’’.
‘‘Iti kira tumhe, bhikkhave, dibbena āyunā aṭṭīyatha harāyatha
jigucchatha, dibbena vaṇṇena dibbena sukhena
dibbena yasena dibbenādhipateyyena aṭṭīyatha harāyatha jigucchatha;
pageva kho pana, bhikkhave, tumhehi kāyaduccaritena aṭṭīyitabbaṃ
harāyitabbaṃ jigucchitabbaṃ, vacīduccaritena… manoduccaritena
aṭṭīyitabbaṃ harāyitabbaṃ jigucchitabba’’nti. Aṭṭhamaṃ.
|
8. Devalokasuttavaṇṇanā
18. Aṭṭhame
aṭṭīyeyyāthāti aṭṭā pīḷitā bhaveyyātha.
Harāyeyyāthāti lajjeyyātha. Jiguccheyyāthāti
gūthe viya tasmiṃ vacane sañjātajigucchā bhaveyyātha.
Iti kirāti ettha itīti
padasandhibyañjanasiliṭṭhatā, kirāti
anussavatthe nipāto. Dibbena kira āyunā aṭṭīyathāti evamassa
sambandho veditabbo. Pageva kho panāti
paṭhamataraṃyeva.
|
18.- Thiên Giới
- Nếu các du sĩ ngoại đạo hỏi các thầy như sau: "Chư Hiền, có
phải Sa-môn Gotama sống Phạm hạnh để được sanh lên cơi Trời? "Này
các Tỷ-kheo, được hỏi vậy, các Thầy có bực phiền, tủi nhục, chán
ngấy hay không ?
- Thưa có , bạch Thế Tôn.
- Như vậy, này các Tỷ Kheo, các Thầy bực phiền, tủi nhục, chán
ngấy đối với thiên thọ mạng; các Thầy bực phiền , tủi nhục, chán
ngấy đối với thiên sắc, thiên lạc, thiên danh vọng, thiên thù thắng,
c̣n nói ǵ, này các Tỷ Kheo, đối vói thân làm ác, các Thầy bực
phiền, tủi nhục, chán ngấy như thế nào, đối với miệng nói ác.... đối
với ư nghĩ ác, các Thầy cảm thấy bực phiền, tủi nhục, chán ngấy như
thế nào.
|
9. Paṭhamapāpaṇikasuttaṃ
19.
‘‘Tīhi , bhikkhave, aṅgehi samannāgato
pāpaṇiko abhabbo anadhigataṃ vā bhogaṃ adhigantuṃ, adhigataṃ vā
bhogaṃ phātiṃ kātuṃ. Katamehi tīhi? Idha, bhikkhave, pāpaṇiko
pubbaṇhasamayaṃ [majjhantikasamayaṃ (sī. syā.
kaṃ. pī.)] na sakkaccaṃ kammantaṃ adhiṭṭhāti,
majjhanhikasamayaṃ na sakkaccaṃ kammantaṃ adhiṭṭhāti, sāyanhasamayaṃ
na sakkaccaṃ kammantaṃ adhiṭṭhāti. Imehi kho, bhikkhave, tīhi aṅgehi
samannāgato pāpaṇiko abhabbo anadhigataṃ vā bhogaṃ adhigantuṃ,
adhigataṃ vā bhogaṃ phātiṃ kātuṃ [phātikattuṃ
(sī.), phātikātuṃ (syā. kaṃ. pī.)].
‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhave, tīhi dhammehi
samannāgato bhikkhu abhabbo anadhigataṃ vā kusalaṃ dhammaṃ
adhigantuṃ, adhigataṃ vā kusalaṃ dhammaṃ phātiṃ kātuṃ. Katamehi
tīhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu pubbaṇhasamayaṃ na sakkaccaṃ
samādhinimittaṃ adhiṭṭhāti, majjhanhikasamayaṃ na sakkaccaṃ
samādhinimittaṃ adhiṭṭhāti, sāyanhasamayaṃ na sakkaccaṃ
samādhinimittaṃ adhiṭṭhāti. Imehi kho, bhikkhave, tīhi dhammehi
samannāgato bhikkhu abhabbo anadhigataṃ vā kusalaṃ dhammaṃ
adhigantuṃ, adhigataṃ vā kusalaṃ dhammaṃ phātiṃ kātuṃ.
‘‘Tīhi
, bhikkhave, aṅgehi samannāgato pāpaṇiko bhabbo anadhigataṃ vā
bhogaṃ adhigantuṃ, adhigataṃ vā bhogaṃ phātiṃ kātuṃ. Katamehi tīhi?
Idha , bhikkhave, pāpaṇiko pubbaṇhasamayaṃ
sakkaccaṃ kammantaṃ adhiṭṭhāti, majjhanhikasamayaṃ…pe…
sāyanhasamayaṃ sakkaccaṃ kammantaṃ adhiṭṭhāti. Imehi kho, bhikkhave,
tīhi aṅgehi samannāgato pāpaṇiko bhabbo anadhigataṃ vā bhogaṃ
adhigantuṃ, adhigataṃ vā bhogaṃ phātiṃ kātuṃ.
‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhave, tīhi dhammehi
samannāgato bhikkhu bhabbo anadhigataṃ vā kusalaṃ dhammaṃ
adhigantuṃ, adhigataṃ vā kusalaṃ dhammaṃ phātiṃ kātuṃ. Katamehi
tīhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu pubbaṇhasamayaṃ sakkaccaṃ
samādhinimittaṃ adhiṭṭhāti, majjhanhikasamayaṃ…pe… sāyanhasamayaṃ
sakkaccaṃ samādhinimittaṃ adhiṭṭhāti. Imehi kho, bhikkhave, tīhi
dhammehi samannāgato bhikkhu bhabbo anadhigataṃ vā kusalaṃ dhammaṃ
adhigantuṃ, adhigataṃ vā kusalaṃ dhammaṃ phātiṃ kātu’’nti. Navamaṃ.
|
9. Paṭhamapāpaṇikasuttavaṇṇanā
19. Navame
pāpaṇikoti āpaṇiko, āpaṇaṃ ugghāṭetvā
bhaṇḍavikkāyakassa vāṇijassetaṃ adhivacanaṃ.
Abhabboti abhājanabhūto. Nasakkaccaṃ
kammantaṃ adhiṭṭhātīti yathā adhiṭṭhitaṃ suadhiṭṭhitaṃ hoti,
evaṃ sayaṃ attapaccakkhaṃ karonto nādhiṭṭhāti. Tattha paccūsakāle
padasaddena uṭṭhāya dīpaṃ jāletvā bhaṇḍaṃ pasāretvā anisīdanto
pubbaṇhasamayaṃ na sakkaccaṃ kammantaṃ adhiṭṭhāti nāma. Ayaṃ hi yaṃ
corā rattiṃ bhaṇḍaṃ haritvā ‘‘idaṃ amhākaṃ hatthato
vissajjessāmā’’ti āpaṇaṃ gantvā appena agghena denti, yampi
bahuverino manussā rattiṃ nagare vasitvā pātova āpaṇaṃ gantvā
bhaṇḍaṃ gaṇhanti, yaṃ vā pana janapadaṃ gantukāmā manussā pātova
āpaṇaṃ gantvā bhaṇḍaṃ kiṇanti, tappaccayassa lābhassa assāmiko hoti.
Aññesaṃ bhojanavelāya pana bhuñjituṃ āgantvā
pātova bhaṇḍaṃ paṭisāmetvā gharaṃ gantvā bhuñjitvā niddāyitvā sāyaṃ
puna āpaṇaṃ āgacchanto majjhanhikasamayaṃ na
sakkaccaṃ kammantaṃ adhiṭṭhāti nāma. So hi yaṃ corā pātova
vissajjetuṃ na sampāpuṇiṃsu, divākāle pana paresaṃ asañcārakkhaṇe
āpaṇaṃ gantvā appagghena denti, yañca bhojanavelāya puññavanto
issarā ‘‘āpaṇato idañcidañca laddhuṃ vaṭṭatī’’ti pahiṇitvā
āharāpenti, tappaccayassa lābhassa assāmiko hoti.
Yāva yāmabherinikkhamanā pana antoāpaṇe dīpaṃ
jālāpetvā anisīdanto sāyanhasamayaṃ na sakkaccaṃ
kammantaṃ adhiṭṭhāti nāma. So hi yaṃ
corā pātopi divāpi vissajjetuṃ na sampāpuṇiṃsu
, sāyaṃ pana āpaṇaṃ gantvā appagghena denti, tappaccayassa
lābhassa assāmiko hoti.
Na sakkaccaṃ samādhinimittaṃ
adhiṭṭhātīti sakkaccakiriyāya samādhiṃ na samāpajjati. Ettha
ca pātova cetiyaṅgaṇabodhiyaṅgaṇesu vattaṃ katvā senāsanaṃ pavisitvā
yāva bhikkhācāravelā, tāva samāpattiṃ appetvā anisīdanto
pubbaṇhasamayaṃ na sakkaccaṃ samādhinimittaṃ
adhiṭṭhāti nāma. Pacchābhattaṃ pana piṇḍapātapaṭikkanto
rattiṭṭhānadivāṭṭhānaṃ pavisitvā yāva
sāyanhasamayā samāpattiṃ appetvā anisīdanto
majjhanhikasamayaṃ na sakkaccaṃ samādhinimittaṃ adhiṭṭhāti
nāma. Sāyaṃ pana cetiyaṃ vanditvā therūpaṭṭhānaṃ katvā senāsanaṃ
pavisitvā paṭhamayāmaṃ samāpattiṃ samāpajjitvā anisīdanto
sāyanhasamayaṃ na sakkaccaṃ samādhinimittaṃ
adhiṭṭhāti nāma. Sukkapakkho vuttapaṭipakkhanayeneva
veditabbo. Apicettha ‘‘samāpattiṃ appetvā’’ti vuttaṭṭhāne
samāpattiyā asati vipassanāpi vaṭṭati, samādhinimittanti ca
samādhiārammaṇampi vaṭṭatiyeva. Vuttampi cetaṃ – ‘‘samādhipi
samādhinimittaṃ, samādhārammaṇampi samādhinimitta’’nti.
|
19.- Người Buôn Bán
- Thành tựu ba chi phần, này các Tỷ-kheo, một người buôn bán
không thâu nhận được tài sản chưa thâu nhận và không tăng trưởng tài
sản đă được thâu nhận. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người
buôn bán, vào buổi sáng không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc,
vào buổi trưa không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi
chiều không có nhiệt tâm chăm chú vào công việc. Thành tựu với ba
chi phần này, này các Tỷ-kheo, một người buôn bán không thâu nhận
được tài sản chưa được thâu nhận và không tăng trưởng tài sản đă
được thâu nhận.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo thành tựu ba chi phần,
không thâu nhận được thiện pháp chưa được thâu nhận, và không tăng
trưởng được thiện pháp đă được thâu nhận. Thế nào là ba? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, vào buổi sáng không có nhiệt tâm chăm chú vào định
tướng, vào buổi trưa không có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng, vào
buổi chiều không có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng. Thành tựu ba
pháp này, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo không thâu nhận được thiện
pháp chưa được thâu nhận, và không tăng trưởng thiện pháp đă được
thâu nhận.
Thành tựu ba chi phần, này các Tỷ-kheo, một người buôn bán thâu
nhận được tài sản chưa thâu nhận, tăng trưởng tài sản đă được thâu
nhận. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người buôn bán, vào
buổi sáng có nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi trưa có
nhiệt tâm chăm chú vào công việc, vào buổi chiều có nhiệt tâm chăm
chú vào công việc. Thành tựu với ba chi phần này, này các Tỷ-kheo,
một người buôn bán thâu nhận được tài sản chưa được thâu nhận, và
tăng trưởng tài sản đă được thâu nhận.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu ba pháp, Tỷ kheo thâu nhận
được thiện pháp chưa được thâu nhận, tăng trưởng thiện pháp đă được
thâu nhận. Thế nào là ba? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ kheo vào buổi
sáng có nhiệt tâm chăm chú vào định tướng, vào buổi trưa có nhiệt
tâm chăm chú vào định tướng, vào buổi chiều có nhiệt tâm chăm chú
vào định tướng. Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, một
Tỷ-kheo thâu nhận được thiện pháp chưa được thâu nhận, và tăng
trưởng thiện pháp đă được thâu nhận.
|
10. Dutiyapāpaṇikasuttaṃ
20.
‘‘Tīhi , bhikkhave, aṅgehi samannāgato
pāpaṇiko nacirasseva mahattaṃ vepullattaṃ
[mahantattaṃ vā vepullattaṃ vā (pī. ka.)] pāpuṇāti bhogesu.
Katamehi tīhi? Idha, bhikkhave, pāpaṇiko cakkhumā ca hoti vidhuro ca
nissayasampanno ca. Kathañca, bhikkhave, pāpaṇiko cakkhumā hoti?
Idha, bhikkhave, pāpaṇiko paṇiyaṃ jānāti – ‘idaṃ paṇiyaṃ evaṃ kītaṃ,
evaṃ vikkayamānaṃ [vikkīyamānaṃ (?)],
ettakaṃ mūlaṃ bhavissati, ettako udayo’ti
[uddayoti (sī.)]. Evaṃ kho, bhikkhave, pāpaṇiko cakkhumā
hoti.
‘‘Kathañca, bhikkhave, pāpaṇiko vidhuro hoti?
Idha, bhikkhave, pāpaṇiko kusalo hoti paṇiyaṃ ketuñca vikketuñca.
Evaṃ kho, bhikkhave, pāpaṇiko vidhuro hoti.
‘‘Kathañca, bhikkhave, pāpaṇiko nissayasampanno
hoti? Idha bhikkhave ,
pāpaṇikaṃ ye te gahapatī vā gahapatiputtā vā aḍḍhā mahaddhanā
mahābhogā te evaṃ jānanti – ‘ayaṃ kho bhavaṃ pāpaṇiko cakkhumā
vidhuro ca paṭibalo puttadārañca posetuṃ,
amhākañca kālena kālaṃ anuppadātu’nti. Te naṃ bhogehi nipatanti –
‘ito, samma pāpaṇika, bhoge karitvā [haritvā (sī.
syā. kaṃ.)] puttadārañca posehi, amhākañca kālena kālaṃ
anuppadehī’ti. Evaṃ kho, bhikkhave, pāpaṇiko nissayasampanno hoti.
Imehi kho, bhikkhave, tīhi aṅgehi samannāgato pāpaṇiko nacirasseva
mahattaṃ vepullattaṃ pāpuṇāti bhogesu.
‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhave, tīhi dhammehi
samannāgato bhikkhu nacirasseva mahattaṃ vepullattaṃ pāpuṇāti
kusalesu dhammesu. Katamehi tīhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu cakkhumā
ca hoti vidhuro ca nissayasampanno ca. Kathañca, bhikkhave, bhikkhu
cakkhumā hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhu ‘idaṃ dukkha’nti yathābhūtaṃ
pajānāti, ‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ
dukkhanirodho’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī
paṭipadā’ti yathābhūtaṃ pajānāti. Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu
cakkhumā hoti.
‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu vidhuro hoti?
Idha, bhikkhave, bhikkhu āraddhavīriyo viharati
akusalānaṃ dhammānaṃ pahānāya, kusalānaṃ dhammānaṃ upasampadāya,
thāmavā daḷhaparakkamo anikkhittadhuro kusalesu dhammesu. Evaṃ kho,
bhikkhave, bhikkhu vidhuro hoti.
‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu nissayasampanno
hoti? Idha, bhikkhave, bhikkhu ye te bhikkhū bahussutā āgatāgamā
dhammadharā vinayadharā mātikādharā te kālena kālaṃ upasaṅkamitvā
paripucchati paripañhati – ‘idaṃ, bhante,
kathaṃ, imassa ko attho’ti? Tassa te āyasmanto avivaṭañceva
vivaranti, anuttānīkatañca uttānīkaronti, anekavihitesu ca
kaṅkhāṭhāniyesu dhammesu kaṅkhaṃ paṭivinodenti. Evaṃ kho, bhikkhave,
bhikkhu nissayasampanno hoti. Imehi kho,
bhikkhave, tīhi dhammehi samannāgato bhikkhu nacirasseva mahattaṃ
vepullattaṃ pāpuṇāti kusalesu dhammesū’’ti. Dasamaṃ.
Rathakāravaggo dutiyo.
Paṭhamabhāṇavāro niṭṭhito.
Tassuddānaṃ –
Ñāto
[ñātako (syā. kaṃ.)] sāraṇīyo bhikkhu, cakkavattī sacetano;
Apaṇṇakattā devo ca, duve pāpaṇikena cāti.
|
10. Dutiyapāpaṇikasuttavaṇṇanā
20. Dasame
cakkhumāti paññācakkhunā cakkhumā hoti.
Vidhuroti visiṭṭhadhuro uttamadhuro
ñāṇasampayuttena vīriyena samannāgato.
Nissayasampannoti avassayasampanno patiṭṭhānasampanno.
Paṇiyanti vikkāyikabhaṇḍaṃ.
Ettakaṃ mūlaṃ bhavissati ettako udayoti
tasmiṃ ‘‘evaṃ kītaṃ evaṃ vikkāyamāna’’nti vuttapaṇiye yena kayena
taṃ kītaṃ, taṃ kayasaṅkhātaṃ mūlaṃ ettakaṃ bhavissati. Yo ca tasmiṃ
vikkayamāne vikkayo, tasmiṃ vikkaye ettako udayo bhavissati, ettikā
vaḍḍhīti attho.
Kusalo hoti paṇiyaṃ ketuñca
vikketuñcāti sulabhaṭṭhānaṃ gantvā kiṇanto dullabhaṭṭhānaṃ
gantvā vikkiṇanto ca ettha kusalo nāma hoti, dasaguṇampi
vīsatiguṇampi lābhaṃ labhati.
Aḍḍhāti
issarā bahunā nikkhittadhanena samannāgatā.
Mahaddhanāti vaḷañjanakavasena mahaddhanā
. Mahābhogāti
upabhogaparibhogabhaṇḍena mahābhogā.
Paṭibaloti kāyabalena ceva ñāṇabalena ca
samannāgatattā samattho. Amhākañca kālena kālaṃ
anuppadātunti amhākañca gahitadhanamūlikaṃ vaḍḍhiṃ kālena
kālaṃ anuppadātuṃ. Nipatantīti nimantenti.
Nipātentītipi pāṭho, ayameva attho.
Kusalānaṃ dhammānaṃ
upasampadāyāti kusaladhammānaṃ sampādanatthāya
paṭilābhatthāya. Thāmavāti ñāṇathāmena
samannāgato. Daḷhaparakkamoti thirena
ñāṇaparakkamena samannāgato. Anikkhittadhuroti
‘‘aggamaggaṃ apāpuṇitvā imaṃ vīriyadhuraṃ na ṭhapessāmī’’ti evaṃ
aṭṭhapitadhuro.
Bahussutāti
ekanikāyādivasena bahu buddhavacanaṃ sutaṃ etesanti bahussutā.
Āgatāgamāti eko nikāyo eko āgamo nāma, dve
nikāyā dve āgamā nāma, pañca nikāyā pañca āgamā nāma, etesu āgamesu
yesaṃ ekopi āgamo āgato paguṇo pavattito, te āgatāgamā nāma.
Dhammadharāti suttantapiṭakadharā.
Vinayadharāti vinayapiṭakadharā.
Mātikādharāti dvemātikādharā.
Paripucchatīti atthānatthaṃ kāraṇākāraṇaṃ
pucchati. Paripañhatīti ‘‘imaṃ nāma
pucchissāmī’’ti aññāti tuleti pariggaṇhāti. Sesamettha
uttānatthameva.
Imasmiṃ pana sutte paṭhamaṃ
paññā āgatā, pacchā vīriyañca kalyāṇamittasevanā ca. Tattha paṭhamaṃ
arahattaṃ patvā pacchā vīriyaṃ katvā kalyāṇamittā sevitabbāti na
evaṃ attho daṭṭhabbo, desanāya nāma heṭṭhimena vā paricchedo hoti
uparimena vā dvīhipi vā koṭīhi. Idha pana uparimena paricchedo
veditabbo. Tasmā kathentena paṭhamaṃ kalyāṇamittaupanissayaṃ
dassetvā majjhe vīriyaṃ dassetvā pacchā arahattaṃ kathetabbanti.
Rathakāravaggo dutiyo.
|
20.- Người Buôn Bán
- Thành tựu với ba chi phần, này các Tỷ-kheo, người buôn bán
không bao lâu đạt được về tài sản lớn mạnh và rộng lớn. Thế nào là
ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, người buôn bán có mắt, khéo phấn đấu và
xây dựng được cơ bản.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người buôn bán có mắt? Ở đây, này
các Tỷ-kheo, người buôn bán biết các thương phẩm. Vật này mua như
vậy, bán như vậy, sẽ đưa lại tiền như vậy, tiền lời như vậy. Như
vậy, này các Tỷ-kheo, là người buôn bán có mắt.
Như thế nào, này các Tỷ-kheo, là người buôn bán khéo phấn đấu? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, người thương gia khéo léo mua và bán các
thương phẩm. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người buôn bán khéo phấn
đấu.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là người thương gia xây dựng được căn
bản? Ở đây, này các Tỷ-kheo, người buôn bán được các gia chủ hay con
các gia chủ, được các nhà giàu, có tiền bạc lớn, có tài sản lớn biết
đến như sau: "Người buôn bán này là người có mắt, khéo phấn đấu, có
đủ sức cấp dưỡng vợ con, và thường trả tiền lời cho chúng ta. Chúng
ta trao hàng hóa cho người này: "Này bạn thương gia, hăy lấy tiền
này, xây dựng tài sản để nuôi dưỡng vợ con và thường thường trả tiền
lời cho chúng tôi". Như vậy, này các Tỷ-kheo, là người buôn bán xây
dựng được cơ bản.
Thành tựu với ba chi phần này, này các Tỷ kheo, người buôn bán,
không bao lâu đạt đến tài sản lớn mạnh và rộng lớn.
Cũng vậy, này các Tỷ kheo, thành tựu với ba pháp, vị Tỷ-kheo
không bao lâu, đạt đến lớn mạnh và rộng lớn về các Thiện pháp. Thế
nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo có mắt, khéo phấn đấu và xây dựng
được cơ bản.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo có mắt? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, Tỷ-kheo như thật biết rơ: "Đây là khổ" ... như thật rơ
biết: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Như vậy, này các Tỷ-kheo,
là Tỷ-kheo có mắt.
Và như thế nào, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo phấn đấu? Ở đây,
này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống tinh cần tinh tấn, đoạn tận các pháp
bất thiện, làm cho sanh khởi các pháp thiện, dơng mănh, kiên tŕ,
tinh tấn, không có từ bỏ gánh nặng đối với các thiện pháp. Như vậy,
này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo khéo phấn đấu.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo xây dựng được cơ bản? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các Tỷ-kheo nghe nhiều, thông
hiểu các tập Agàma (A-hàm), bậc tŕ Pháp, tŕ Luật, tŕ Toát yếu,
thường thường đến yết kiến, phỏng vấn, đặt các câu hỏi: "Thưa Tôn
giả, cái này là thế nào? Pháp này ư nghĩa ǵ? "Các Tôn giả ấy mở
rộng những ǵ chưa được mở rộng, phơi bày những ǵ chưa được phơi
bày, và đối với những đoạn sai khác c̣n có những chỗ nghi ngờ, các
vị ấy giải thích các sự nghi ngờ. Như vậy, này các Tỷ-kheo, là
Tỷ-kheo xây dựng được cơ bản.
Thành tựu với ba pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không bao
lâu, đạt đến sự lớn mạnh và rộng lớn về các thiện pháp.
|
Phân đoạn song ngữ:
Nga Tuyet
Updated 30-5-2019
Mục Lục Kinh Tăng Chi Bộ
Pali Việt
Aṅguttaranikāya
Aṅguttaranikāya (aṭṭhakathā)
Kinh Tăng Chi Bộ
|