ANGUTTARA NIKAYA – TĂNG CHI BỘ KINH
Chương III - Ba Pháp (Tikanipātapāḷi)
CHÁNH KINH PALI
|
CHÚ GIẢI PALI
|
BẢN DỊCH VIỆT
|
Aṅguttaranikāyo
|
Aṅguttaranikāye
|
Tăng Chi Bộ
|
3. Puggalavaggo
|
3. Puggalavaggo
|
III. Phẩm Người
|
1. Samiddhasuttaṃ
|
1.
Samiddhasuttavaṇṇanā
|
21.- Chứng
Thực Với Thân
|
21.
Evaṃ me sutaṃ – ekaṃ samayaṃ bhagavā
sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme. Atha kho
āyasmā ca samiddho [saviṭṭho (sī. syā. kaṃ. pī.)]
āyasmā ca mahākoṭṭhiko [mahākoṭṭhito (sī. syā.
kaṃ. pī.)] yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkamiṃsu;
upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodiṃsu. Sammodanīyaṃ
kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnaṃ
kho āyasmantaṃ samiddhaṃ āyasmā sāriputto etadavoca –
‘‘Tayome, āvuso
samiddha, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame tayo?
Kāyasakkhī, diṭṭhippatto [diṭṭhappatto (ka.)],
saddhāvimutto. Ime kho, āvuso, tayo puggalā santo
saṃvijjamānā lokasmiṃ. Imesaṃ, āvuso, tiṇṇaṃ puggalānaṃ katamo
te puggalo khamati abhikkantataro ca paṇītataro cā’’ti?
‘‘Tayome, āvuso
sāriputta, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame tayo?
Kāyasakkhī, diṭṭhippatto, saddhāvimutto. Ime kho, āvuso, tayo
puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Imesaṃ, āvuso, tiṇṇaṃ
puggalānaṃ yvāyaṃ [yoyaṃ (ka.)] puggalo
saddhāvimutto, ayaṃ me puggalo khamati imesaṃ tiṇṇaṃ puggalānaṃ
abhikkantataro ca paṇītataro ca. Taṃ kissa hetu? Imassa, āvuso,
puggalassa saddhindriyaṃ adhimatta’’nti.
Atha kho āyasmā
sāriputto āyasmantaṃ mahākoṭṭhikaṃ etadavoca – ‘‘tayome, āvuso
koṭṭhika, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ
. Katame tayo? Kāyasakkhī, diṭṭhippatto, saddhāvimutto. Ime kho,
āvuso, tayo puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Imesaṃ
, āvuso, tiṇṇaṃ puggalānaṃ katamo te puggalo
khamati abhikkantataro ca paṇītataro cā’’ti?
‘‘Tayome
, āvuso sāriputta, puggalā santo saṃvijjamānā
lokasmiṃ. Katame tayo? Kāyasakkhī, diṭṭhippatto, saddhāvimutto. Ime
kho, āvuso, tayo puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Imesaṃ, āvuso,
tiṇṇaṃ puggalānaṃ yvāyaṃ puggalo kāyasakkhī, ayaṃ me puggalo khamati
imesaṃ tiṇṇaṃ puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro ca. Taṃ kissa
hetu? Imassa, āvuso, puggalassa samādhindriyaṃ adhimatta’’nti.
Atha kho āyasmā
mahākoṭṭhiko āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca – ‘‘tayome, āvuso
sāriputta, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame tayo?
Kāyasakkhī , diṭṭhippatto, saddhāvimutto. Ime
kho, āvuso, tayo puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Imesaṃ, āvuso,
tiṇṇaṃ puggalānaṃ katamo te puggalo khamati abhikkantataro ca
paṇītataro cā’’ti?
‘‘Tayome, āvuso
koṭṭhika, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame tayo?
Kāyasakkhī, diṭṭhippatto, saddhāvimutto. Ime kho, āvuso, tayo
puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Imesaṃ, āvuso, tiṇṇaṃ
puggalānaṃ yvāyaṃ puggalo diṭṭhippatto, ayaṃ me puggalo khamati
imesaṃ tiṇṇaṃ puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro ca. Taṃ kissa
hetu? Imassa, āvuso, puggalassa paññindriyaṃ adhimatta’’nti.
Atha kho āyasmā
sāriputto āyasmantañca samiddhaṃ āyasmantañca mahākoṭṭhikaṃ
etadavoca – ‘‘byākataṃ kho, āvuso, amhehi sabbeheva yathāsakaṃ
paṭibhānaṃ. Āyāmāvuso, yena bhagavā tenupasaṅkamissāma;
upasaṅkamitvā bhagavato etamatthaṃ ārocessāma. Yathā no bhagavā
byākarissati tathā naṃ dhāressāmā’’ti. ‘‘Evamāvuso’’ti kho āyasmā ca
samiddho āyasmā ca mahākoṭṭhiko āyasmato sāriputtassa
paccassosuṃ. Atha kho āyasmā ca sāriputto
āyasmā ca samiddho āyasmā ca mahākoṭṭhiko yena bhagavā
tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ
nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā
sāriputto yāvatako ahosi āyasmatā ca samiddhena āyasmatā ca
mahākoṭṭhikena saddhiṃ kathāsallāpo taṃ sabbaṃ
bhagavato ārocesi.
‘‘Na
khvettha, sāriputta, sukaraṃ ekaṃsena byākātuṃ
– ‘ayaṃ imesaṃ tiṇṇaṃ puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro cā’ti.
Ṭhānañhetaṃ, sāriputta, vijjati yvāyaṃ puggalo saddhāvimutto svāssa
[svāyaṃ (syā. kaṃ. pī.), soyaṃ (ka.)]
arahattāya paṭipanno, yvāyaṃ puggalo kāyasakkhī svāssa sakadāgāmī vā
anāgāmī vā, yo cāyaṃ puggalo diṭṭhippatto sopassa
[soyaṃ (ka.)] sakadāgāmī vā anāgāmī vā.
‘‘Na khvettha,
sāriputta, sukaraṃ ekaṃsena byākātuṃ – ‘ayaṃ imesaṃ tiṇṇaṃ
puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro cā’ti. Ṭhānañhetaṃ,
sāriputta, vijjati yvāyaṃ puggalo kāyasakkhī svāssa arahattāya
paṭipanno, yvāyaṃ puggalo saddhāvimutto svāssa sakadāgāmī vā anāgāmī
vā, yo cāyaṃ puggalo diṭṭhippatto sopassa sakadāgāmī vā anāgāmī vā.
‘‘Na khvettha,
sāriputta, sukaraṃ ekaṃsena byākātuṃ – ‘ayaṃ imesaṃ tiṇṇaṃ
puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro cā’ti. Ṭhānañhetaṃ,
sāriputta, vijjati yvāyaṃ puggalo diṭṭhippatto svāssa arahattāya
paṭipanno, yvāyaṃ puggalo saddhāvimutto svāssa sakadāgāmī vā anāgāmī
vā, yo cāyaṃ puggalo kāyasakkhī sopassa sakadāgāmī vā anāgāmī vā.
‘‘Na khvettha,
sāriputta, sukaraṃ ekaṃsena byākātuṃ – ‘ayaṃ imesaṃ tiṇṇaṃ
puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro cā’’’ti. Paṭhamaṃ.
|
21.
Tatiyassa paṭhame
jhānaphassaṃ paṭhamaṃ phusati, pacchā nirodhaṃ nibbānaṃ
sacchikarotīti kāyasakkhi. Diṭṭhantaṃ
pattoti diṭṭhippatto. Saddahanto vimuttoti
saddhāvimutto. Khamatīti ruccati.
Abhikkantataroti atisundarataro.
Paṇītataroti atipaṇītataro.
Saddhindriyaṃ adhimattaṃ hotīti
samiddhattherassa kira arahattamaggakkhaṇe saddhindriyaṃ dhuraṃ
ahosi, sesāni cattāri sahajātindriyāni tasseva parivārāni ahesuṃ.
Iti thero attanā paṭividdhamaggaṃ kathento evamāha.
Mahākoṭṭhikattherassa pana arahattamaggakkhaṇe samādhindriyaṃ dhuraṃ
ahosi, sesāni cattāri indriyāni tasseva parivārāni ahesuṃ. Tasmā
sopi samādhindriyaṃ adhimattanti kathento attanā paṭividdhamaggameva
kathesi. Sāriputtattherassa pana arahattamaggakkhaṇe paññindriyaṃ
dhuraṃ ahosi. Sesāni cattāri indriyāni tasseva parivārāni ahesuṃ.
Tasmā sopi paññindriyaṃ adhimattanti kathento attanā
paṭividdhamaggameva kathesi.
Nakhvetthāti
na kho ettha. Ekaṃsena byākātunti ekantena
byākarituṃ. Arahattāya paṭipannoti
arahattamaggasamaṅgiṃ dasseti. Evametasmiṃ sutte tīhipi therehi
attanā paṭividdhamaggova kathito, sammāsambuddho pana
bhummantareneva kathesi.
|
Như vầy tôi nghe.
Một thời Thế Tôn trú ở Savatthi,
tại Jetanava, vườn ông Anàthapindika. Rồi Tôn giả Savittha, Tôn giả
Mahàkotthita đi đến Tôn giả Sàriputta; sau khi đến nói lên với Tôn
giả những lời chào đón hỏi thăm ... Tôn giả Sàriputta nói với Tôn
giả Savittha đang ngồi xuống một bên:
- Có ba hạng người này, này Hiền
giả Savittha, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Thân chứng,
kiến chí, tín giải. Ba hạng người này, này Hiền giả, có mặt, xuất
hiện ở đời. Trong ba hạng người này, này Hiền giả, hạng người nào
Hiền giả chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn?
- Có ba hạng người này, này Hiền
giả Sàriputta, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Thân chứng,
kiến chí, tín giải. Ba hạng người này, này Hiền giả, có mặt, xuất
hiện ở đời. Trong ba hạng người này, thưa Hiền giả, hạng người tín
giải, hạng người này, tôi chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn.
V́ cớ sao? V́ rằng, thưa Hiền giả, với hạng người này, tín căn được
tăng thượng.
Rồi Tôn giả Sàriputta nói với Tôn
giả Mahàkotthita:
- Có ba hạng người này, này Hiền
giả Kotthita, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Thân chứng,
kiến chí, tín giải. Ba hạng người này, thưa Hiền giả, có mặt, xuất
hiện ở đời. Trong ba hạng người này, này Hiền giả, hạng người nào
Hiền giả chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn?
- Có ba hạng người này, này Hiền
giả Sàriputta, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Thân chứng,
kiến chí, tín giải. Ba hạng người này, này Hiền giả, có mặt, xuất
hiện ở đời. Trong ba hạng người này, thưa Hiền giả, hạng người thân
chứng, hạng người này, tôi chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn.
V́ cớ sao? V́ rằng, thưa Hiền giả, với hạng người này, định căn được
tăng thượng.
Rồi Tôn giả Mahàkotthita thưa với
Tôn giả Sàriputta:
- Có ba hạng người này, thưa Hiền
giả Sàriputta, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Thân chứng,
kiến chí, tín giải. Ba hạng người này, thưa Hiền giả, có mặt, xuất
hiện ở đời. Trong ba hạng người này, này Hiền giả, hạng người nào
Hiền giả chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn?
- Có ba hạng người này, này Hiền
giả Kotthita, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Thân chứng,
kiến chí, tín giải. Ba hạng người này, thưa Hiền giả, có mặt, xuất
hiện ở đời. Trong ba hạng người này, thưa Hiền giả, hạng người kiến
chí, hạng người này, tôi chấp nhận là hy hữu hơn, là thù diệu hơn.
V́ cớ sao? V́ rằng, thưa Hiền giả, với hạng người này, tuệ căn được
tăng thượng.
Rồi Tôn giả Sàriputta nói với Tôn
giả Savittha và Tôn giả Mahàkotthita như sau:
- Thưa các Hiền giả, tất cả chúng
ta đă trả lời, tuỳ theo biện tài của ḿnh. Thưa các Hiền giả, chúng
ta hăy đi đến Thế Tôn, sau khi đến chúng ta sẽ hỏi Thế Tôn về ư
nghĩa này. Thế Tôn trả lời chúng ta như thế nào, chúng ta hăy như
vậy thọ tŕ.
- Vâng, thưa Hiền giả.
Tôn giả Savittha và Tôn giả
Mahàkotthita vâng đáp Tôn giả Sàriputta. Rồi Tôn giả Sàriputta, Tôn
giả Savittha và Tôn giả Mahàkotthita đi đến Thế Tôn; sau khi đến,
đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống, một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả
Sàriputta thuật lại với Thế Tôn tất cả câu chuyện đă xảy ra với Tôn
giả Savittha và Tôn giả Mahàkotthita.
- Ở đây, này Sàriputta, thật không
dễ ǵ để trả lời một chiều là hạng người này hy hữu hơn, thù diệu
hơn trong ba hạng người kia. Sự kiện này xảy ra, này Sàriputta, là
hạng người tín giải này là hạng người đang hướng đến A-la-hán, hạng
người thân chứng này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai, hạng người
kiến chí này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai.
Ở đây, này Sàriputta, thật không
dễ ǵ để trả lời một chiều là hạng người này hy hữu hơn, thù diệu
hơn trong ba hạng người kia. Sự kiện này xảy ra, này Sàriputta, là
hạng người thân chứng này là hạng người đang hướng đến A-la-hán, là
hạng người tín giải này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai, hạng
người kiến chí này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai.
Ở đây, này Sàriputta, thật không
dễ ǵ để trả lời một chiều là hạng người này hy hữu hơn, thù diệu
hơn trong ba hạng người kia. Sự kiện này xảy ra, này Sàriputta, là
hạng người kiến chí này là hạng người đang hướng đến A-la-hán, c̣n
hạng người tín giải này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai, và hạng
người thân chứng này là hạng người Nhất Lai hay Bất Lai.
Ở đây, này Sàriputta, thật không
dễ ǵ để trả lời một chiều rằng hạng người này là hy hữu hơn và thù
diệu hơn trong ba hạng người kia.
|
2. Gilānasuttaṃ
|
2.
Gilānasuttavaṇṇanā
|
22.-
Người Bệnh
|
22.[pu.
pa. 94] ‘‘Tayome, bhikkhave, gilānā santo saṃvijjamānā
lokasmiṃ. Katame tayo? Idha, bhikkhave, ekacco gilāno labhanto vā
sappāyāni bhojanāni alabhanto vā sappāyāni bhojanāni, labhanto vā
sappāyāni bhesajjāni alabhanto vā sappāyāni
bhesajjāni, labhanto vā
patirūpaṃ upaṭṭhākaṃ alabhanto vā patirūpaṃ upaṭṭhākaṃ neva vuṭṭhāti
tamhā ābādhā.
‘‘Idha pana,
bhikkhave, ekacco gilāno labhanto vā sappāyāni bhojanāni alabhanto
vā sappāyāni bhojanāni, labhanto vā sappāyāni bhesajjāni alabhanto
vā sappāyāni bhesajjāni , labhanto vā
patirūpaṃ upaṭṭhākaṃ alabhanto vā patirūpaṃ upaṭṭhākaṃ vuṭṭhāti
tamhā ābādhā.
‘‘Idha pana,
bhikkhave, ekacco gilāno labhantova sappāyāni bhojanāni no
alabhanto, labhantova sappāyāni bhesajjāni no alabhanto, labhantova
patirūpaṃ upaṭṭhākaṃ no alabhanto vuṭṭhāti tamhā ābādhā.
‘‘Tatra,
bhikkhave, yvāyaṃ gilāno labhantova sappāyāni bhojanāni no
alabhanto, labhantova sappāyāni bhesajjāni no alabhanto, labhantova
patirūpaṃ upaṭṭhākaṃ no alabhanto vuṭṭhāti tamhā ābādhā, imaṃ kho,
bhikkhave, gilānaṃ paṭicca gilānabhattaṃ anuññātaṃ gilānabhesajjaṃ
anuññātaṃ gilānupaṭṭhāko anuññāto. Imañca pana, bhikkhave, gilānaṃ
paṭicca aññepi gilānā upaṭṭhātabbā. Ime kho, bhikkhave, tayo gilānā
santo saṃvijjamānā lokasmiṃ.
‘‘Evamevaṃ kho,
bhikkhave, tayome gilānūpamā puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ.
Katame tayo? Idha, bhikkhave, ekacco puggalo labhanto vā tathāgataṃ
dassanāya alabhanto vā tathāgataṃ dassanāya, labhanto vā
tathāgatappaveditaṃ dhammavinayaṃ savanāya alabhanto vā
tathāgatappaveditaṃ dhammavinayaṃ savanāya
neva okkamati niyāmaṃ kusalesu dhammesu sammattaṃ.
‘‘Idha, pana,
bhikkhave, ekacco puggalo labhanto vā tathāgataṃ dassanāya alabhanto
vā tathāgataṃ dassanāya, labhanto vā tathāgatappaveditaṃ
dhammavinayaṃ savanāya alabhanto vā tathāgatappaveditaṃ
dhammavinayaṃ savanāya okkamati niyāmaṃ kusalesu dhammesu sammattaṃ.
‘‘Idha pana,
bhikkhave, ekacco puggalo labhantova tathāgataṃ dassanāya no
alabhanto, labhantova tathāgatappaveditaṃ dhammavinayaṃ savanāya no
alabhanto okkamati niyāmaṃ kusalesu dhammesu sammattaṃ.
‘‘Tatra
, bhikkhave, yvāyaṃ
puggalo labhantova tathāgataṃ dassanāya no alabhanto, labhantova
tathāgatappaveditaṃ dhammavinayaṃ savanāya no
alabhanto okkamati niyāmaṃ kusalesu dhammesu sammattaṃ, imaṃ kho
bhikkhave, puggalaṃ paṭicca dhammadesanā anuññātā. Imañca pana,
bhikkhave, puggalaṃ paṭicca aññesampi dhammo desetabbo. ‘‘Ime kho,
bhikkhave, tayo gilānūpamā puggalā santo saṃvijjamānā lokasmi’’nti.
Dutiyaṃ.
|
22.
Dutiye sappāyānīti hitāni vuddhikarāni.
Patirūpanti anucchavikaṃ.
Neva vuṭṭhāti tamhā ābādhāti iminā atekicchena vātāpamārādinā
rogena samannāgato niṭṭhāpattagilāno kathito.
Vuṭṭhāti tamhā ābādhāti iminā
khipitakakacchutiṇapupphakajarādibhedo appamattaābādho kathito.
Labhanto sappāyāni bhojanāni no alabhantoti
iminā pana yesaṃ paṭijagganena phāsukaṃ hoti, sabbepi te ābādhā
kathitā. Ettha ca patirūpo upaṭṭhāko nāma
gilānupaṭṭhākaaṅgehi samannāgato paṇḍito
dakkho analaso veditabbo. Gilānupaṭṭhāko anuññātoti
bhikkhusaṅghena dātabboti anuññāto. Tasmiñhi gilāne attano
dhammatāya yāpetuṃ asakkonte bhikkhusaṅghena
tassa bhikkhuno eko bhikkhu ca sāmaṇero ca ‘‘imaṃ paṭijaggathā’’ti
apaloketvā dātabbā. Yāva pana te taṃ paṭijagganti, tāva gilānassa ca
tesañca dvinnaṃ yenattho, sabbaṃ bhikkhusaṅghasseva bhāro.
Aññepi gilānā upaṭṭhātabbāti
itarepi dve gilānā upaṭṭhāpetabbā. Kiṃ kāraṇā? Yopi hi
niṭṭhapattagilāno, so anupaṭṭhiyamāno ‘‘sace maṃ paṭijaggeyyuṃ,
phāsukaṃ me bhaveyya. Na kho pana maṃ paṭijaggantī’’ti manopadosaṃ
katvā apāye nibbatteyya. Paṭijaggiyamānassa panassa evaṃ hoti
‘‘bhikkhusaṅghena yaṃ kātabbaṃ, taṃ kataṃ. Mayhaṃ pana kammavipāko
īdiso’’ti. So bhikkhusaṅghe mettaṃ
paccupaṭṭhāpetvā sagge nibbattissati. Yo pana appamattakena byādhinā
samannāgato labhantopi alabhantopi vuṭṭhātiyeva, tassa vināpi
bhesajjena vūpasamanabyādhi bhesajje kate khippataraṃ vūpasammati.
So tato buddhavacanaṃ vā uggaṇhituṃ sakkhissati, samaṇadhammaṃ vā
kātuṃ sakkhissati. Iminā kāraṇena ‘‘aññepi gilānā upaṭṭhātabbā’’ti
vuttaṃ.
Neva okkamatīti neva
pavisati. Niyāmaṃ kusalesu dhammesu sammattanti
kusalesu dhammesu magganiyāmasaṅkhātaṃ sammattaṃ. Iminā padaparamo
puggalo kathito. Dutiyavārena ugghaṭitaññū gahito sāsane
nālakattherasadiso buddhantare ekavāraṃ paccekabuddhānaṃ santike
ovādaṃ labhitvā paṭividdhapaccekabodhiñāṇo ca. Tatiyavārena
vipañcitaññū puggalo kathito, neyyo pana tannissitova hoti.
Dhammadesanā anuññātāti
māsassa aṭṭha vāre dhammakathā anuññātā. Aññesampi
dhammo desetabboti itaresampi dhammo kathetabbo. Kiṃ kāraṇā?
Padaparamassa hi imasmiṃ attabhāve dhammaṃ paṭivijjhituṃ
asakkontassāpi anāgate paccayo bhavissati. Yo pana tathāgatassa
rūpadassanaṃ labhantopi alabhantopi dhammavinayañca savanāya
labhantopi alabhantopi dhammaṃ abhisameti, so alabhanto tāva
abhisameti. Labhanto pana khippameva abhisamessatīti iminā kāraṇena
tesaṃ dhammo desetabbo. Tatiyassa pana
punappunaṃ desetabbova.
|
- Có ba hạng người bệnh này, này
các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, một hạng
người bệnh, dầu có được ăn các món thích hợp, hay không được các món
ăn thích hợp, dầu có được các thuốc men thích hợp hay không được các
thuốc men thích hợp, dầu có được sự chăm sóc thích đáng hay không
được sự chăm sóc thích đáng, không được b́nh phục từ chứng bệnh ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người bệnh, dầu có được ăn các món thích hợp, hay không được các món
ăn thích hợp, dầu có được các thuốc men thích hợp hay không được các
thuốc men thích hợp, dầu có được sự chăm sóc thích đáng hay không
được sự chăm sóc thích đáng, được b́nh phục từ chứng bệnh ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người bệnh, có được ăn các món thích hợp, không phải không được, có
các thuốc men thích hợp, không phải không được, có được sự chăm sóc
thích đáng, không phải không được, được b́nh phục từ chứng bệnh ấy.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, hạng người
bệnh này, có được các món ăn thích hợp, không phải không được, có
được các thuốc men thích hợp, không phải không được, có được sự chăm
sóc thích đáng, không phải không được, được b́nh phục khỏi chứng
bệnh ấy. Chính do duyên với hạng người bệnh này, này các Tỷ-kheo,
các món ăn thích hợp với người bệnh đă được chấp thuận, các thuốc
men thích hợp với người bệnh đă được chấp thuận., sự chăm sóc thích
đáng với người bệnh đă được chấp thuận. Chính do duyên với hạng
người bệnh này, này các Tỷ-kheo, các người bệnh khác cần phải được
chăm sóc như vậy.
Ba hạng người bệnh này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có ba
hạng người này, có mặt, xuất hiện ở đời, có thể so sánh với ba hạng
người bệnh này. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người được thấy Như Lai hay không được thấy Như Lai, được nghe Pháp
và Luật do Như Lai tŕnh bày, hay không được nghe Pháp và Luật do
Như Lai tŕnh bày, không có đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh
đối với các Thiện pháp.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người không được thấy Như Lai, được nghe Pháp và Luật do Như Lai
tŕnh bày, hay không được nghe Pháp và Luật do Như Lai tŕnh bày, đi
vào tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người được thấy Như Lai, không phải không được thấy, được nghe Pháp
và Luật do Như Lai tŕnh bày, không phải không được nghe Pháp và
Luật do Như Lai tŕnh bày, đi vào tánh quyết định, tánh chơn chánh
đối với các Thiện pháp.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người được thấy Như Lai, không phải không được thấy, được nghe Pháp
và Luật do Như Lai thuyết giảng, không phải không được nghe, đi vào
tánh quyết định, tánh chơn chánh đối với các Thiện pháp. Chính do
duyên hạng người này, này các Tỷ-kheo, thuyết pháp được chấp nhận,
và chính do duyên hạng người này, này các Tỷ-kheo, pháp được thuyết
giảng cho các người khác.
Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời được ví dụ với ba hạng người bệnh.
|
3. Saṅkhārasuttaṃ
|
3.
Saṅkhārasuttavaṇṇanā
|
23.-
Chất Chứa.
|
23.
‘‘Tayome, bhikkhave, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame
tayo? Idha, bhikkhave, ekacco puggalo sabyābajjhaṃ
[sabyāpajjhaṃ (sabbattha) evamuparipi]
kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti, sabyābajjhaṃ vacīsaṅkhāraṃ
abhisaṅkharoti, sabyābajjhaṃ manosaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti. So
sabyābajjhaṃ kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharitvā, sabyābajjhaṃ
vacīsaṅkhāraṃ abhisaṅkharitvā, sabyābajjhaṃ manosaṅkhāraṃ
abhisaṅkharitvā sabyābajjhaṃ lokaṃ upapajjati. Tamenaṃ sabyābajjhaṃ
lokaṃ upapannaṃ samānaṃ sabyābajjhā phassā
phusanti. So sabyābajjhehi phassehi phuṭṭho samāno sabyābajjhaṃ
vedanaṃ vedayati ekantadukkhaṃ, seyyathāpi sattā nerayikā.
‘‘Idha pana,
bhikkhave, ekacco puggalo abyābajjhaṃ kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti,
abyābajjhaṃ vacīsaṅkhāraṃ abhisaṅkharoti, abyābajjhaṃ manosaṅkhāraṃ
abhisaṅkharoti. So abyābajjhaṃ kāyasaṅkhāraṃ abhisaṅkharitvā,
abyābajjhaṃ vacīsaṅkhāraṃ abhisaṅkharitvā, abyābajjhaṃ manosaṅkhāraṃ
abhisaṅkharitvā abyābajjhaṃ lokaṃ upapajjati. Tamenaṃ abyābajjhaṃ
lokaṃ upapannaṃ samānaṃ abyābajjhā phassā phusanti. So abyābajjhehi
phassehi phuṭṭho samāno abyābajjhaṃ vedanaṃ vedayati ekantasukhaṃ,
seyyathāpi devā subhakiṇhā.
‘‘Idha pana,
bhikkhave, ekacco puggalo sabyābajjhampi abyābajjhampi kāyasaṅkhāraṃ
abhisaṅkharoti, sabyābajjhampi abyābajjhampi vacīsaṅkhāraṃ
abhisaṅkharoti, sabyābajjhampi abyābajjhampi manosaṅkhāraṃ
abhisaṅkharoti. So sabyābajjhampi abyābajjhampi kāyasaṅkhāraṃ
abhisaṅkharitvā, sabyābajjhampi abyābajjhampi vacīsaṅkhāraṃ
abhisaṅkharitvā, sabyābajjhampi abyābajjhampi
manosaṅkhāraṃ abhisaṅkharitvā sabyābajjhampi abyābajjhampi lokaṃ
upapajjati. Tamenaṃ sabyābajjhampi abyābajjhampi lokaṃ
upapannaṃ samānaṃ sabyābajjhāpi abyābajjhāpi
phassā phusanti. So sabyābajjhehipi
abyābajjhehipi phassehi phuṭṭho samāno sabyābajjhampi abyābajjhampi
vedanaṃ vedayati vokiṇṇasukhadukkhaṃ, seyyathāpi manussā ekacce ca
devā ekacce ca vinipātikā. Ime kho, bhikkhave, tayo puggalā santo
saṃvijjamānā lokasmi’’nti. Tatiyaṃ.
|
23.
Tatiye sabyābajjhanti
sadukkhaṃ. Kāyasaṅkhāranti kāyadvāre
cetanārāsiṃ. Abhisaṅkharotīti āyūhati rāsiṃ
karoti piṇḍaṃ karoti. Vacīmanodvāresupi
eseva nayo. Sabyābajjhaṃ lokanti sadukkhaṃ
lokaṃ. Sabyābajjhā phassā phusantīti
sadukkhā vipākaphassā phusanti. Sabyābajjhaṃvedanaṃ
vediyatīti sadukkhaṃ vipākavedanaṃ vediyati, sābādhaṃ
nirassādanti attho. Seyyathāpi sattā nerayikāti
yathā niraye nibbattasattā ekantadukkhaṃ vedanaṃ vediyanti, evaṃ
vediyatīti attho. Kiṃ pana tattha upekkhāvedanā natthīti? Atthi,
dukkhavedanāya pana balavabhāvena sā abbohārikaṭṭhāne ṭhitā. Iti
nirayova nirayassa upamaṃ katvā āhaṭo. Tatra paṭibhāgaupamā nāma
kira esā.
Seyyathāpi devā subhakiṇhāti
idhāpi devalokova devalokassa upamaṃ katvā āhaṭo. Yasmā pana
heṭṭhimesu brahmalokesu sappītikajjhānavipāko vattati, subhakiṇhesu
nippītiko ekantasukhova, tasmā te aggahetvā subhakiṇhāva kathitā.
Iti ayampi tatra paṭibhāgaupamā nāmāti veditabbā.
Vokiṇṇasukhadukkhanti
vomissakasukhadukkhaṃ. Seyyathāpi manussāti
manussānaṃ hi kālena sukhaṃ hoti, kālena dukkhaṃ.
Ekacce ca devāti kāmāvacaradevā. Tesampi kālena sukhaṃ hoti,
kālena dukkhaṃ. Tesaṃ hi hīnatarānaṃ mahesakkhatarā devatā disvā
āsanā vuṭṭhātabbaṃ hoti, maggā ukkamitabbaṃ, pārutavatthaṃ
apanetabbaṃ, añjalikammaṃ kātabbanti taṃ sabbampi dukkhaṃ nāma hoti.
Ekacce ca vinipātikāti vemānikapetā. Te hi
kālena sampattiṃ anubhavanti kālena kammanti vokiṇṇasukhadukkhāva
honti. Iti imasmiṃ sutte tīṇi sucaritāni lokiyalokuttaramissakāni
kathitānīti veditabbāni.
|
- Có ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người chất chứa các thân hành có năo hại, chất chứa các khẩu hành có
năo hại, chất chứa các ư hành có năo hại. Sau khi chất chứa thân
hành có năo hại, chất chứa khẩu hành có năo hại, chất chứa ư hành có
năo hại, người ấy sanh trong thế giới có năo hại. V́ phải sanh trong
thế giới có năo hại, người ấy cảm giác các cảm xúc có năo hại. Người
ấy, v́ cảm giác các cảm xúc có năo hại, nên cảm giác các cảm thọ có
năo hại, nhất hướng đau khổ, như các chúng sanh ở trong địa ngục.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
chất chứa thân hành không có năo hại ... chất chứa ư hành không có
năo hại. Sau khi chất chứa thân hành không có năo hại ... chất chứa
ư hành không có năo hại, người ấy được sanh trong thế giới không có
năo hại. Được sanh trong thế giới không có năo hại, người ấy cảm
giác các cảm xúc không có năo hại. Do cảm giác các cảm xúc không có
năo hại, người ấy cảm giác các cảm thọ không có năo hại, nhất hướng
lạc, như chư Thiên ở Biến Tịnh Thiên.
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người
chất chứa thân hành có năo hại và không có năo hại ... chất chứa ư
hành có năo hại và không có năo hại. Sau khi chất chứa thân hành có
năo hại và không có năo hại ... , sau khi chất chứa ư hành có năo
hại và không có năo hại, được sanh vào thế giới có năo hại và không
có năo hại. Được sanh vào thế giới có năo hại và không có năo hại,
người ấy cảm giác các cảm xúc có năo hại và không có năo hại. Do cảm
giác các cảm xúc có năo hại và không có năo hại, người ấy cảm giác
các cảm thọ có năo hại và không có năo hại, xen lẫn lạc và khổ, ví
như loài Người, một loại chư Thiên và một loại sanh trong đọa xứ.
Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
|
4. Bahukārasuttaṃ
|
4. Bahukārasuttavaṇṇanā
|
24.-
Nhiều Lợi Ích
|
24.
‘‘Tayome , bhikkhave, puggalā puggalassa
bahukārā. Katame tayo? Yaṃ, bhikkhave, puggalaṃ āgamma puggalo
buddhaṃ saraṇaṃ gato hoti, dhammaṃ saraṇaṃ gato hoti, saṅghaṃ
saraṇaṃ gato hoti; ayaṃ, bhikkhave, puggalo imassa puggalassa
bahukāro.
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, yaṃ puggalaṃ āgamma puggalo ‘idaṃ dukkha’nti yathābhūtaṃ
pajānāti, ‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ
dukkhanirodho’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī
paṭipadā’ti yathābhūtaṃ pajānāti; ayaṃ, bhikkhave, puggalo imassa
puggalassa bahukāro.
‘‘Puna caparaṃ,
bhikkhave, yaṃ puggalaṃ āgamma puggalo āsavānaṃ khayā anāsavaṃ
cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā
upasampajja viharati; ayaṃ, bhikkhave, puggalo imassa puggalassa
bahukāro. Ime kho, bhikkhave, tayo puggalā puggalassa bahukārā.
‘‘Imehi ca pana,
bhikkhave, tīhi puggalehi imassa puggalassa natthañño puggalo
bahukāroti vadāmi. Imesaṃ pana, bhikkhave, tiṇṇaṃ puggalānaṃ iminā
puggalena na suppatikāraṃ vadāmi, yadidaṃ
abhivādanapaccuṭṭhānaañjalikammasāmī
cikammacīvarapiṇḍapātasenāsana-gilānapaccayabhesajjaparikkhārānuppadānenā’’ti.
Catutthaṃ.
|
24.
Catutthe tayome, bhikkhave,
puggalāti tayo ācariyapuggalā. Puggalassabahukārāti
antevāsikapuggalassa bahūpakārā. Buddhanti
sabbaññubuddhaṃ. Saraṇaṃ gato hotīti
avassayaṃ gato hoti. Dhammanti
satantikaṃ navalokuttaradhammaṃ. Saṅghanti
aṭṭhaariyapuggalasamūhaṃ. Idañca pana saraṇagamanaṃ
aggahitasaraṇapubbassa akatābhinivesassa vasena vuttaṃ. Iti imasmiṃ
sutte saraṇadāyako sotāpattimaggasampāpako arahattamaggasampāpakoti
tayo ācariyā bahukārāti āgatā, pabbajjādāyako buddhavacanadāyako
kammavācācariyo sakadāgāmimaggasampāpako anāgāmimaggasampāpakoti ime
ācariyā na āgatā, kiṃ ete na bahukārāti? No, na bahukārā. Ayaṃ pana
desanā duvidhena paricchinnā. Tasmā sabbepete bahukārā. Tesu
saraṇagamanasmiṃyeva akatābhiniveso vaṭṭati,
catupārisuddhisīlakasiṇaparikammavipassanāñāṇāni pana
paṭhamamaggasannissitāni honti, upari dve maggā ca phalāni ca
arahattamaggasannissitānīti veditabbāni.
Iminā puggalenāti iminā
antevāsikapuggalena. Na suppatikāraṃ vadāmīti
patikāraṃ kātuṃ na sukaranti vadāmi. Abhivādanādīsu anekasatavāraṃ
anekasahassavārampi hi pañcapatiṭṭhitena nipatitvā vandanto āsanā
vuṭṭhāya paccuggacchanto diṭṭhadiṭṭhakkhaṇe añjaliṃ paggaṇhanto
anucchavikaṃ sāmīcikammaṃ karonto divase divase cīvarasataṃ
cīvarasahassaṃ piṇḍapātasataṃ piṇḍapātasahassaṃ dadamāno
cakkavāḷapariyantena sabbaratanamayaṃ āvāsaṃ karonto
sappinavanītādinānappakāraṃ bhesajjaṃ anuppadajjamāno neva sakkoti
ācariyena katassa patikāraṃ nāma kātunti evamattho veditabbo.
|
- Có ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, làm nhiều lợi ích cho người khác. Thế nào là ba?
Do người nào, này các Tỷ-kheo, có
người được quy y Phật, quy y Pháp, quy y Tăng, người ấy là hạng
người làm lợi ích nhiều cho người kia. Đây là hạng người làm lợi ích
nhiều cho người khác.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do người
nào, người khác rơ biết: "Đây là khổ", rơ biết: "Đây là khổ tập", rơ
biết: "Đây là khổ diệt", rơ biết: "Đây là con đường đưa đến khổ
diệt", người ấy là hạng người làm lợi ích nhiều cho người kia. Đây
là hạng người làm lợi ích nhiều cho người khác.
Lại nữa, này các Tỷ-kheo, do người
nào, người khác đoạn trừ các lậu hoặc ngay trong hiện tại, với thắng
trí tự ḿnh chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải thoát,
tuệ giải thoát. Đây là hạng người làm lợi ích nhiều cho người khác.
Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, làm lợi ích nhiều cho người khác. Ta nói rằng không có một
người nào khác làm lợi ích nhiều hơn cho người bằng ba hạng người
này. Ta nói rằng người này không thể khéo trả ơn cho ba hạng người
kia, như đảnh lễ, đứng dậy, chắp tay, hành động thân thiện, bố thí
các vật dụng như y, đồ ăn khất thực, sàng tọa, thuốc trị bệnh ...
|
5.
Vajirūpamasuttaṃ
|
5.
Vajirūpamasuttavaṇṇanā
|
25.- Vết
Thương Làm Mủ
|
25.
‘‘Tayome , bhikkhave, puggalā santo
saṃvijjamānā lokasmiṃ . Katame tayo?
Arukūpamacitto puggalo, vijjūpamacitto puggalo, vajirūpamacitto
puggalo. Katamo ca, bhikkhave, arukūpamacitto puggalo? Idha,
bhikkhave, ekacco puggalo kodhano hoti upāyāsabahulo appampi
vutto samāno abhisajjati
kuppati byāpajjati patitthīyati kopañca dosañca appaccayañca
pātukaroti. Seyyathāpi, bhikkhave, duṭṭhāruko
[duṭṭhārukā (sī.)] kaṭṭhena vā kaṭhalāya
[kathalāya (syā. kaṃ. ka.), kaṭhalena-kathalena (aṭṭhakathā)]
vā ghaṭṭito [ghaṭṭitā (sī.)]
bhiyyosomattāya āsavaṃ deti [assavanoti (sī.)];
evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekacco puggalo kodhano hoti
upāyāsabahulo appampi vutto samāno abhisajjati kuppati byāpajjati
patitthīyati kopañca dosañca appaccayañca pātukaroti. Ayaṃ vuccati,
bhikkhave, arukūpamacitto puggalo.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, vijjūpamacitto puggalo? Idha, bhikkhave, ekacco puggalo
‘idaṃ dukkha’nti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhasamudayo’ti
yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodho’ti yathābhūtaṃ pajānāti,
‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṃ pajānāti.
Seyyathāpi bhikkhave, cakkhumā puriso rattandhakāratimisāyaṃ
vijjantarikāya rūpāni passeyya; evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekacco
puggalo ‘idaṃ dukkha’nti yathābhūtaṃ pajānāti…pe… ‘ayaṃ
dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṃ pajānāti. Ayaṃ vuccati,
bhikkhave, vijjūpamacitto puggalo.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, vajirūpamacitto puggalo? Idha, bhikkhave, ekacco puggalo
āsavānaṃ khayā anāsavaṃ cetovimuttiṃ paññāvimuttiṃ diṭṭheva dhamme
sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja viharati. Seyyathāpi,
bhikkhave, vajirassa natthi kiñci abhejjaṃ maṇi vā pāsāṇo vā;
evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekacco puggalo āsavānaṃ khayā…pe…
upasampajja viharati. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, vajirūpamacitto
puggalo. ‘Ime kho, bhikkhave, tayo puggalā santo saṃvijjamānā
lokasmi’’’nti [pu. pa. 102].
Pañcamaṃ.
|
25.
Pañcame arukūpamacittoti
purāṇavaṇasadisacitto. Vijjūpamacittoti
ittarakālobhāsanena vijjusadisacitto.
Vajirūpamacittoti kilesānaṃ
mūlaghātakaraṇasamatthatāya vajirena
sadisacitto. Abhisajjatīti laggati.
Kuppatīti kopavasena kuppati.
Byāpajjatīti pakatibhāvaṃ pajahati, pūtiko
hoti. Patitthīyatīti thinabhāvaṃ
thaddhabhāvaṃ āpajjati. Kopanti
dubbalakodhaṃ. Dosanti dussanavasena tato
balavataraṃ. Appaccayanti atuṭṭhākāraṃ
domanassaṃ. Duṭṭhārukoti purāṇavaṇo.
Kaṭṭhenāti daṇḍakakoṭiyā.
Kaṭhalenāti kapālena. Āsavaṃ detīti
aparāparaṃ savati. Purāṇavaṇo hi attano dhammatāyeva pubbaṃ lohitaṃ
yūsanti imāni tīṇi savati, ghaṭṭito pana tāni adhikataraṃ savati.
Evamevakhoti
ettha idaṃ opammasaṃsandanaṃ – duṭṭhāruko viya hi kodhanapuggalo,
tassa attano dhammatāya savanaṃ viya kodhanassapi attano dhammatāya
uddhumātassa viya caṇḍikatassa caraṇaṃ, kaṭṭhena vā kaṭhalāya vā
ghaṭṭanaṃ viya appamattaṃ vacanaṃ, bhiyyosomattāya savanaṃ viya
‘‘mādisaṃ nāma esa evaṃ vadatī’’ti bhiyyosomattāya uddhumāyanabhāvo
daṭṭhabbo.
Rattandhakāratimisāyanti
rattiṃ cakkhuviññāṇuppattinivāraṇena andhabhāvakaraṇe bahalatame.
Vijjantarikāyāti vijjuppattikkhaṇe. Idhāpi
idaṃ opammasaṃsandanaṃ – cakkhumā puriso viya hi yogāvacaro
daṭṭhabbo, andhakāraṃ viya sotāpattimaggavajjhā kilesā,
vijjusañcaraṇaṃ viya sotāpattimaggañāṇassa uppattikālo,
vijjantarikāya cakkhumato purisassa samantā rūpadassanaṃ viya
sotāpattimaggakkhaṇe nibbānadassanaṃ, puna
andhakārāvattharaṇaṃ viya sakadāgāmimaggavajjhā kilesā, puna
vijjusañcaraṇaṃ viya sakadāgāmimaggañāṇassa uppādo, vijjantarikāya
cakkhumato purisassa samantā rūpadassanaṃ viya sakadāgāmimaggakkhaṇe
nibbānadassanaṃ, puna andhakārāvattharaṇaṃ viya anāgāmimaggavajjhā
kilesā, puna vijjusañcaraṇaṃ viya anāgāmimaggañāṇassa uppādo,
vijjantarikāya cakkhumato purisassa samantā rūpadassanaṃ viya
anāgāmimaggakkhaṇe nibbānadassanaṃ veditabbaṃ.
Vajirūpamacittatāyapi
idaṃ opammasaṃsandanaṃ – vajiraṃ viya hi arahattamaggañāṇaṃ
daṭṭhabbaṃ, maṇigaṇṭhipāsāṇagaṇṭhi viya arahattamaggavajjhā kilesā,
vajirassa maṇigaṇṭhimpi vā pāsāṇagaṇṭhimpi vā vinivijjhitvā
agamanabhāvassa natthitā viya arahattamaggañāṇena acchejjānaṃ
kilesānaṃ natthibhāvo, vajirena nibbiddhavedhassa puna apatipūraṇaṃ
viya arahattamaggena chinnānaṃ kilesānaṃ puna anuppādo daṭṭhabboti.
|
- Có ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Hạng người với tâm
ví dụ như vết thương, với tâm ví dụ như chớp sáng, với tâm ví dụ như
kim cang.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người với tâm ví dụ như vết thương? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
người phẫn nộ, nhiều hiềm hận, dầu có bị nói chút ít, cũng tức tối
phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, biểu lộ sự phẫn nộ, sân hận và bực tức.
Ví như một vết thương đang làm mủ, nếu bị cây gậy hay một miếng sành
đánh phải, liền chảy mủ nhiều hơn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây
có người phẫn nộ và bực tức. Này các Tỷ kheo, đây gọi là hạng người
được ví dụ với vết thương đang làm mủ.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người với tâm được ví dụ như chớp sáng? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người như thật rơ biết: "Đây là khổ",.. như thật rơ biết
"Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Ví như một người có mắt, thấy
các sắc trong đêm tối mù mịt, khi có chớp sáng. Cũng vậy, này các
Tỷ-kheo, ở đây có người như thật rơ biết: "Đây là khổ", ... như thật
rơ biết: "Đây là con đường đưa đến khổ diệt". Này các Tỷ-kheo, đây
được gọi là hạng người với tâm được ví như chớp sáng.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người với tâm được ví dụ như kim cang? Ở đây, này các Tỷ-kheo,
có hạng người, nhờ đoạn tận các lậu hoặc, ngay trong hiện tại, tự
ḿnh với thắng trí, chứng ngộ, chứng đạt và an trú vô lậu tâm giải
thoát, tuệ giải thoát. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người, với
tâm được ví dụ như kim cang.
Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
|
6. Sevitabbasuttaṃ
|
6. Sevitabbasuttavaṇṇanā
|
26.- Cần
Phải Thân Cận
|
26.
‘‘Tayome , bhikkhave, puggalā santo
saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame tayo? Atthi, bhikkhave, puggalo na
sevitabbo na bhajitabbo na payirupāsitabbo. Atthi, bhikkhave,
puggalo sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo. Atthi, bhikkhave,
puggalo sakkatvā garuṃ katvā sevitabbo
bhajitabbo payirupāsitabbo. Katamo ca, bhikkhave, puggalo
na sevitabbo na bhajitabbo na payirupāsitabbo?
Idha, bhikkhave, ekacco puggalo hīno hoti sīlena samādhinā paññāya.
Evarūpo, bhikkhave, puggalo na sevitabbo na bhajitabbo na
payirupāsitabbo aññatra anuddayā aññatra anukampā.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, puggalo sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo? Idha,
bhikkhave, ekacco puggalo sadiso hoti sīlena samādhinā paññāya.
Evarūpo, bhikkhave, puggalo sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo.
Taṃ kissa hetu? Sīlasāmaññagatānaṃ sataṃ sīlakathā ca no bhavissati,
sā ca no pavattinī [pavattanī (sī. syā. kaṃ. pī.)
pu. pa. 122 passitabbaṃ] bhavissati, sā ca no phāsu
bhavissati. Samādhisāmaññagatānaṃ sataṃ samādhikathā ca no
bhavissati, sā ca no pavattinī bhavissati, sā ca no phāsu
bhavissati. Paññāsāmaññagatānaṃ sataṃ paññākathā ca no bhavissati,
sā ca no pavattinī bhavissati, sā ca no phāsu bhavissatīti. Tasmā
evarūpo puggalo sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, puggalo sakkatvā garuṃ katvā sevitabbo bhajitabbo
payirupāsitabbo? Idha, bhikkhave , ekacco
puggalo adhiko hoti sīlena samādhinā paññāya. Evarūpo, bhikkhave,
puggalo sakkatvā garuṃ katvā sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo.
Taṃ kissa hetu? Iti aparipūraṃ vā sīlakkhandhaṃ paripūressāmi,
paripūraṃ vā sīlakkhandhaṃ tattha tattha paññāya anuggahessāmi;
aparipūraṃ vā samādhikkhandhaṃ paripūressāmi, paripūraṃ vā
samādhikkhandhaṃ tattha tattha paññāya anuggahessāmi; aparipūraṃ vā
paññākkhandhaṃ paripūressāmi, paripūraṃ vā paññākkhandhaṃ tattha
tattha paññāya anuggahessāmīti. Tasmā evarūpo puggalo sakkatvā garuṃ
katvā sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo. Ime kho, bhikkhave, tayo
puggalā santo saṃvijjamānā lokasmi’’nti.
‘‘Nihīyati
puriso nihīnasevī,
Na ca hāyetha
kadāci tulyasevī;
Seṭṭhamupanamaṃ
udeti khippaṃ,
Tasmā attano
uttariṃ bhajethā’’ti. chaṭṭhaṃ;
|
26.
Chaṭṭhe sevitabboti upasaṅkamitabbo.
Bhajitabboti allīyitabbo.
Payirupāsitabboti santike nisīdanavasena punappunaṃ
upāsitabbo. Sakkatvā garuṃ katvāti
sakkārañceva garukārañca katvā. Hīno hoti sīlenātiādīsu
upādāyupādāya hīnatā veditabbā. Tattha yo hi pañca sīlāni rakkhati,
so dasa sīlāni rakkhantena na sevitabbo . Yo
dasa sīlāni rakkhati, so catupārisuddhisīlaṃ rakkhantena na
sevitabbo. Aññatra anuddayā aññatra anukampāti
ṭhapetvā anuddayañca anukampañca. Attano atthāyeva hi evarūpo
puggalo na sevitabbo, anuddayānukampāvasena pana taṃ upasaṅkamituṃ
vaṭṭati.
Sīlasāmaññagatānaṃ satanti
sīlena samānabhāvaṃ gatānaṃ santānaṃ. Sīlakathāca
no bhavissatīti evaṃ samānasīlānaṃ amhākaṃ sīlameva ārabbha
kathā bhavissati. Sā ca no pavattinī bhavissatīti
sā ca amhākaṃ kathā divasampi kathentānaṃ pavattissati na
paṭihaññissati. Sā ca no phāsu bhavissatīti
sā ca divasampi pavattamānā sīlakathā amhākaṃ phāsuvihāro
sukhavihāro bhavissati. Samādhipaññākathāsupi
eseva nayo.
Sīlakkhandhanti
sīlarāsiṃ. Tattha tattha paññāya anuggahessāmīti
ettha sīlassa asappāye anupakāradhamme vajjetvā sappāye
upakāradhamme sevanto tasmiṃ tasmiṃ ṭhāne sīlakkhandhaṃ paññāya
anuggaṇhāti nāma. Samādhipaññākkhandhesupi
eseva nayo. Nihīyatīti attano hīnataraṃ
puggalaṃ sevanto khāraparissāvane āsittaudakaṃ viya satataṃ samitaṃ
hāyati parihāyati. Tulyasevīti attanā
samānasevī. Seṭṭhamupanamanti seṭṭhaṃ
puggalaṃ oṇamanto. Udeti
khippanti khippameva vaḍḍhati. Tasmā attano
uttariṃ bhajethāti yasmā seṭṭhaṃ puggalaṃ upanamanto udeti
khippaṃ, tasmā attano uttaritaraṃ visiṭṭhataraṃ bhajetha.
|
- Có ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Có hạng người này,
này các Tỷ-kheo, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên
hầu hạ cúng dường. Có hạng người, này các Tỷ-kheo, nên thân cận gần
gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường. Có hạng người, này các
Tỷ-kheo, sau khi cung kính, tôn trọng, nên gần gũi, nên sống chung,
nên hầu hạ cúng dường.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ
cúng dường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người thấp kém về giới,
định, tuệ. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, không nên gần gũi,
không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường, trừ khi v́ ḷng
thương tưởng, v́ ḷng từ mẫn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng dường? Ở
đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người đồng đẳng với ḿnh về giới,
định, tuệ. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, nên gần gũi, nên
sống chung, nên hầu hạ cúng dường. V́ cớ sao? Với ư nghĩ: "(Cả hai)
thiện xảo về giới, câu chuyện của chúng ta sẽ thuộc về giới, được
diễn tiến (lợi ích) cho cả hai chúng ta, và sẽ làm cho hai chúng ta
được an lạc. (Cả hai) là thiện xảo về định ...... (Cả hai) là thiện
xảo về tuệ, câu chuyện của chúng ta sẽ thuộc về tuệ, được diễn tiến
(lợi ích) cho cả hai, và chúng sẽ làm cho hai chúng ta an lạc". Cho
nên, người như vậy nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng
dường.
Thế nào là hạng người, này các
Tỷ-kheo, sau khi cung kính, tôn trọng, nên gần gũi, nên sống chung,
nên hầu hạ cúng dường?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người thù thắng về giới, định và tuệ. Hạng người ấy, này các
Tỷ-kheo, sau khi cung kính, tôn trọng, cần phải gần gũi, cần phải
sống chung, cần phải hầu hạ cúng dường. V́ cớ sao? Với ư nghĩ: "Như
vậy, nếu giới chưa đầy đủ, ta sẽ làm đầy đủ, hay nếu giới được đầy
đủ, ta sẽ hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ. Hay nếu định
chưa đầy đủ, ta sẽ làm cho đầy đủ, hay nếu định được đầy đủ, ta sẽ
hỗ trợ thêm cho chỗ này chỗ kia với trí tuệ. Hay nếu tuệ chưa đầy
đủ, ta sẽ làm đầy đủ, hay nếu tuệ được đầy đủ, ta sẽ hỗ trợ thêm cho
chỗ này chỗ kia với trí tuệ". Cho nên, với hạng người này, sau khi
cung kính tôn trọng, nên gần gũi, nên sống chung, nên hầu hạ cúng
dường.
Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Người gần kẻ hạ liệt
Rồi cũng bị hạ liệt
Thân cận người đồng đẳng
Được khỏi bị thối đọa
Ai gần bậc thù thắng
Mau chóng được thăng tiến
Do vậy hăy sống chung
Bậc ưu thắng hơn ḿnh
|
7.
Jigucchitabbasuttaṃ
|
7. Jigucchitabbasuttavaṇṇanā
|
27.-
Đáng Ghê Tởm
|
27.
‘‘Tayome , bhikkhave, puggalā santo
saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame tayo? Atthi, bhikkhave, puggalo
jigucchitabbo na sevitabbo na bhajitabbo na payirupāsitabbo. Atthi,
bhikkhave, puggalo ajjhupekkhitabbo na sevitabbo na bhajitabbo na
payirupāsitabbo. Atthi, bhikkhave, puggalo sevitabbo bhajitabbo
payirupāsitabbo. Katamo ca, bhikkhave, puggalo jigucchitabbo na
sevitabbo na bhajitabbo na payirupāsitabbo? Idha
, bhikkhave, ekacco puggalo dussīlo hoti pāpadhammo asuci
saṅkassarasamācāro paṭicchannakammanto, assamaṇo samaṇapaṭiñño,
abrahmacārī brahmacāripaṭiñño, antopūti avassuto kasambujāto.
Evarūpo, bhikkhave, puggalo jigucchitabbo na sevitabbo na bhajitabbo
na payirupāsitabbo. Taṃ kissa hetu? Kiñcāpi, bhikkhave, evarūpassa
puggalassa na diṭṭhānugatiṃ āpajjati, atha kho naṃ pāpako kittisaddo
abbhuggacchati – ‘pāpamitto purisapuggalo pāpasahāyo
pāpasampavaṅko’ti. Seyyathāpi, bhikkhave, ahi gūthagato kiñcāpi na
daṃsati [ḍaṃsati (sī. syā.), ḍassati (pī.)],
atha kho naṃ makkheti; evamevaṃ kho, bhikkhave, kiñcāpi evarūpassa
puggalassa na diṭṭhānugatiṃ āpajjati, atha kho naṃ pāpako kittisaddo
abbhuggacchati – ‘pāpamitto purisapuggalo pāpasahāyo
pāpasampavaṅko’ti. Tasmā evarūpo puggalo jigucchitabbo na sevitabbo
na bhajitabbo na payirupāsitabbo.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, puggalo ajjhupekkhitabbo na sevitabbo na bhajitabbo na
payirupāsitabbo? Idha, bhikkhave, ekacco puggalo kodhano hoti
upāyāsabahulo , appampi vutto samāno
abhisajjati kuppati byāpajjati patitthīyati, kopañca dosañca
appaccayañca pātukaroti. Seyyathāpi, bhikkhave, duṭṭhāruko kaṭṭhena
vā kaṭhalāya vā ghaṭṭito bhiyyosomattāya āsavaṃ deti; evamevaṃ kho,
bhikkhave…pe… seyyathāpi, bhikkhave, tindukālātaṃ
kaṭṭhena vā kaṭhalāya vā ghaṭṭitaṃ
bhiyyosomattāya cicciṭāyati ciṭiciṭāyati; evamevaṃ kho bhikkhave…pe…
seyyathāpi, bhikkhave, gūthakūpo kaṭṭhena vā kaṭhalāya vā ghaṭṭito
bhiyyosomattāya duggandho hoti; evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekacco
puggalo kodhano hoti upāyāsabahulo, appampi
vutto samāno abhisajjati kuppati byāpajjati patitthīyati, kopañca
dosañca appaccayañca pātukaroti. Evarūpo, bhikkhave, puggalo
ajjhupekkhitabbo na sevitabbo na bhajitabbo na payirupāsitabbo. Taṃ
kissa hetu? Akkoseyyapi maṃ paribhāseyyapi maṃ anatthampi maṃ
kareyyāti. Tasmā evarūpo puggalo ajjhupekkhitabbo na sevitabbo na
bhajitabbo na payirupāsitabbo.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, puggalo sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo? Idha,
bhikkhave, ekacco puggalo sīlavā hoti kalyāṇadhammo. Evarūpo,
bhikkhave, puggalo sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo. Taṃ kissa
hetu? Kiñcāpi, bhikkhave, evarūpassa puggalassa na diṭṭhānugatiṃ
āpajjati, atha kho naṃ kalyāṇo kittisaddo abbhuggacchati –
‘kalyāṇamitto purisapuggalo kalyāṇasahāyo kalyāṇasampavaṅko’ti.
Tasmā evarūpo puggalo sevitabbo bhajitabbo payirupāsitabbo. ‘Ime
kho, bhikkhave, tayo puggalā santo saṃvijjamānā lokasmi’’’nti.
‘‘Nihīyati
puriso nihīnasevī,
Na ca hāyetha
kadāci tulyasevī;
Seṭṭhamupanamaṃ
udeti khippaṃ,
Tasmā attano
uttariṃ bhajethā’’ti. sattamaṃ;
|
27.
Sattame jigucchitabboti gūthaṃ viya
jigucchitabbo. Atha kho nanti atha kho
assa. Kittisaddoti kathāsaddo.
Evameva khoti ettha gūthakūpo viya
dussīlyaṃ daṭṭhabbaṃ. Gūthakūpe patitvā ṭhito dhammaniahi viya
dussīlapuggalo. Gūthakūpato uddhariyamānena tena ahinā purisassa
sarīraṃ āruḷhenāpi adaṭṭhabhāvo viya dussīlaṃ sevamānassāpi tassa
kiriyāya akaraṇabhāvo. Sarīraṃ gūthena makkhetvā
ahinā gatakālo viya dussīlaṃ sevamānassa
pāpakittisaddaabbhuggamanakālo veditabbo.
Tindukālātanti
tindukarukkhaalātaṃ. Bhiyyosomattāya cicciṭāyatīti
taṃ hi jhāyamānaṃ pakatiyāpi papaṭikāyo
muñcantaṃ cicciṭāti ‘‘ciṭiciṭā’’ti saddaṃ karoti, ghaṭṭitaṃ pana
adhimattaṃ karotīti attho. Evameva khoti
evamevaṃ kodhano attano dhammatāyapi uddhato caṇḍikato hutvā carati,
appamattakaṃ pana vacanaṃ sutakāle ‘‘mādisaṃ nāma evaṃ vadati evaṃ
vadatī’’ti atirekataraṃ uddhato caṇḍikato hutvā carati.
Gūthakūpoti gūthapuṇṇakūpo, gūtharāsiyeva
vā. Opammasaṃsandanaṃ panettha purimanayeneva veditabbaṃ.
Tasmā evarūpo puggalo ajjhupekkhitabbo na
sevitabboti yasmā kodhano atiseviyamāno atiupasaṅkamiyamānopi
kujjhatiyeva, ‘‘kiṃ iminā’’ti paṭikkamantepi kujjhatiyeva. Tasmā
palālaggi viya ajjhupekkhitabbo na sevitabbo na bhajitabbo. Kiṃ
vuttaṃ hoti? Yo hi palālaggiṃ atiupasaṅkamitvā tappati, tassa
sarīraṃ jhāyati. Yo atipaṭikkamitvā tappati, tassa sītaṃ na
vūpasammati. Anupasaṅkamitvā apaṭikkamitvā pana majjhattabhāvena
tappantassa sītaṃ vūpasammati, tasmā palālaggi viya kodhano puggalo
majjhattabhāvena ajjhupekkhitabbo, na
sevitabbo na bhajitabbo na payirupāsitabbo.
Kalyāṇamittoti
sucimitto. Kalyāṇasahāyoti sucisahāyo.
Sahāyā nāma sahagāmino saddhiṃcarā.
Kalyāṇasampavaṅkoti kalyāṇesu sucipuggalesu sampavaṅko,
tanninnatappoṇatappabbhāramānasoti attho.
|
- Có ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Có hạng người đáng
ghê tởm, không cần phải gần gũi, không cần phải sống chung, không
cần phải hầu hạ cúng dường. Có hạng người, này các Tỷ-kheo, cần phải
nh́n một cách thản nhiên, không cần gần gũi, không cần phải sống
chung, không cần phải hầu hạ cúng dường. Có hạng người, này các
Tỷ-kheo, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng
dường.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người đáng ghê tởm, không cần phải gần gũi, không cần phải sống
chung, không cần phải hầu hạ cúng dường? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có
hạng người ác giới, tính t́nh độc ác, sở hành bất tịnh, có những
hành vi che đậy, không phải là Sa-môn nhưng hiện tướng Sa-môn, không
sống Phạm hạnh, nhưng hiện tướng có Phạm hạnh, nội tâm hôi hám, đầy
những tham dục, tánh t́nh bất tịnh. Hạng người như vậy, này các
Tỷ-kheo, đáng ghê tởm, không cần phải gần gũi, không cần phải sống
chung, không cần phải hầu hạ cúng dường. V́ cớ sao? V́ rằng, dầu
không thuận theo một chút nào tri kiến của người như vậy, nhưng
tiếng xấu được đồn xa về người ấy là có bạn ác, có bằng hữu ác, tôn
sùng kẻ ác. Ví như, này các Tỷ-kheo, một con rắn đi vào trong đống
phân, dầu nó không cắn ai, người cũng bị (đống phân) làm cho ô uế.
Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, dầu không thuận theo một chút nào tri
kiến của người như vậy ... là tôn sùng kẻ ác. Cho nên, hạng người
như vậy đáng ghê tởm, không nên gần gũi, không nên sống chung, không
nên hầu hạ cúng dường.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người cần phải nh́n một cách thản nhiên, không nên gần gũi,
không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường? Ở đây, này các
Tỷ-kheo, có hạng người phẫn nộ, nhiều hiềm hận, dầu có bị nói chút
ít cũng tức tối, phẫn nộ, sân hận, sừng sộ, hiện rơ phẫn nộ, sân hận
và bực tức. Ví như, này các Tỷ-kheo, một vết thương làm mủ, nếu bị
cây gậy hay mảnh sành đánh phải, thời chảy mủ ra nhiều hơn. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, có hạng người phẫn nộ, ...... và bực tức. Ví
như, này các Tỷ-kheo, một que lửa bằng gỗ tindukà, nếu bị cây gậy
hay mảnh sành đánh phải, thời xịt lửa xịt khói ra nhiều hơn. Cũng
vậy, này các Tỷ-kheo, ... Ví như, này các Tỷ-kheo, một hố phân được
cây gậy hay mảnh sành quật vào, thời mùi hôi thối lại càng nhiều
hơn. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có hạng người phẫn nộ, sân hận và
bực tức. Hạng người như vậy, này các Tỷ-kheo, cần phải nh́n với cặp
mắt thản nhiên, không nên gần gũi, không nên sống chung, không nên
hầu hạ cúng dường. V́ cớ sao? V́ nghĩ rằng: "Người ấy có thể nhục mạ
ta. Người ấy có thể chửi mắng ta. Người ấy có thể làm hại ta." Cho
nên, hạng người như vậy cần phải nh́n một cách thản nhiên, không nên
gần gũi, không nên sống chung, không nên hầu hạ cúng dường.
Và như thế nào, này các Tỷ-kheo,
là hạng người cần gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng
dường?
Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người giữ giới, tánh t́nh hiền thiện. Người như vậy, này các
Tỷ-kheo, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng
dường. V́ cớ sao? V́ rằng, dầu không thuận theo chút nào tri kiến
của người như vậy, nhưng tiếng tốt được đồn xa về người ấy là có bạn
lành, là có bằng hữu lành, là tôn sùng kẻ lành. Cho nên, hạng người
như vậy, cần phải gần gũi, cần phải sống chung, cần phải hầu hạ cúng
dường.
Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Người gần kẻ hạ liệt
Rồi cũng bị hạ liệt
Thân cận người đồng đẳng
Được khỏi bị thối đọa
Ai gần bậc thù thắng
Mau chóng được thăng tấn
Do vậy hăy sống chung
Bậc ưu thắng hơn ḿnh
|
8.
Gūthabhāṇīsuttaṃ
|
8. Gūthabhāṇīsuttavaṇṇanā
|
28.- Nói
Như Hoa
|
28.
‘‘Tayome, bhikkhave, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ
. Katame tayo? Gūthabhāṇī, pupphabhāṇī,
madhubhāṇī. Katamo ca, bhikkhave, puggalo gūthabhāṇī? Idha,
bhikkhave, ekacco puggalo sabhaggato vā parisaggato vā
[sabhāgato vā parisāgato vā (syā. kaṃ.)]
ñātimajjhagato vā pūgamajjhagato vā rājakulamajjhagato vā abhinīto
sakkhipuṭṭho – ‘ehambho purisa, yaṃ jānāsi taṃ vadehī’ti. So
ajānaṃ vā āha ‘jānāmī’ti, jānaṃ vā āha ‘na
jānāmī’ti, apassaṃ vā āha ‘passāmī’ti, passaṃ vā āha ‘na
passāmī’ti [ma. ni. 1.440;
pu. pa. 91]; iti attahetu vā parahetu vā āmisakiñcikkhahetu
vā sampajānamusā bhāsitā hoti. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, puggalo
gūthabhāṇī.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, puggalo pupphabhāṇī? Idha, bhikkhave, ekacco puggalo
sabhaggato vā parisaggato vā ñātimajjhagato vā pūgamajjhagato vā
rājakulamajjhagato vā abhinīto sakkhipuṭṭho – ‘ehambho purisa, yaṃ
pajānāsi taṃ vadehī’ti, so ajānaṃ vā āha ‘na jānāmī’ti, jānaṃ vā āha
‘jānāmī’ti, apassaṃ vā āha ‘na passāmī’ti, passaṃ vā āha
‘passāmī’ti; iti attahetu vā parahetu vā āmisakiñcikkhahetu vā na
sampajānamusā bhāsitā hoti. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, puggalo
pupphabhāṇī.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, puggalo madhubhāṇī? Idha, bhikkhave, ekacco puggalo
pharusaṃ vācaṃ pahāya pharusāya vācāya paṭivirato hoti; yā sā vācā
nelā kaṇṇasukhā pemanīyā hadayaṅgamā porī bahujanakantā
bahujanamanāpā tathārūpiṃ vācaṃ bhāsitā hoti. Ayaṃ vuccati,
bhikkhave, puggalo madhubhāṇī. Ime kho, bhikkhave, tayo puggalā
santo saṃvijjamānā lokasmi’’nti. Aṭṭhamaṃ.
|
28.
Aṭṭhame gūthabhāṇīti yo gūthaṃ viya
duggandhakathaṃ katheti. Pupphabhāṇīti
yo pupphāni viya sugandhakathaṃ katheti.
Madhubhāṇīti yo madhu viya madhurakathaṃ
katheti. Sabhaggatoti sabhāya ṭhito.
Parisaggatoti gāmaparisāya ṭhito.
Ñātimajjhagatoti ñātīnaṃ majjhe ṭhito.
Pūgamajjhagatoti seṇīnaṃ majjhe ṭhito.
Rājakulamajjhagatoti rājakulassa majjhe
mahāvinicchaye ṭhito. Abhinītoti
pucchanatthāyānīto. Sakkhipuṭṭhoti sakkhiṃ
katvā pucchito. Ehambho purisāti
ālapanametaṃ. Attahetu vā parahetu vāti
attano vā parassa vā hatthapādādihetu vā dhanahetu vā.
Āmisakiñcikkhahetu vāti ettha
āmisanti lañjo adhippeto.
Kiñcikkhanti yaṃ vā taṃ vā appamattakaṃ antamaso
tittiriyavaṭṭakasappipiṇḍanavanītapiṇḍādimattakassa lañjassa hetūti
attho. Sampajānamusā bhāsitā hotīti
jānantoyeva musāvādaṃ kattā hoti.
Nelāti
elaṃ vuccati doso, nāssa elanti nelā,
niddosāti attho. ‘‘Nelaṅgo setapacchādo’’ti (udā. 65) ettha
vuttasīlaṃ viya. Kaṇṇasukhāti
byañjanamadhuratāya kaṇṇānaṃ sukhā, sūcivijjhanaṃ viya kaṇṇasūlaṃ na
janeti. Atthamadhuratāya sakalasarīre kopaṃ ajanetvā pemaṃ janetīti
pemanīyā. Hadayaṃ gacchati appaṭihaññamānā
sukhena cittaṃ pavisatīti hadayaṅgamā.
Guṇaparipuṇṇatāya pure bhavāti porī. Pure
saṃvaḍḍhanārī viya sukumārātipi porī. Purassa esātipi porī. Purassa
esāti nagaravāsīnaṃ kathāti attho. Nagaravāsino
hi yuttakathā honti , pitimattaṃ pitāti,
mātimattaṃ mātāti, bhātimattaṃ bhātāti vadanti. Evarūpī kathā bahuno
janassa kantā hotīti bahujanakantā.
Kantabhāveneva bahuno janassa manāpā cittavuddhikarāti
bahujanamanāpā.
|
- Có ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Hạng người nói như
phân, hạng người nói như hoa, hạng người nói như mật.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người nói như phân? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người khi
đi vào hội trường, hay đi vào hội chúng, hay khi đi đến giữa các
người bà con, hay khi đi đến giữa các người đồng một tổ hợp, hay đi
đến giữa cung vua, hay bị dẫn như là người làm chứng, được nói:
"Ngươi biết ǵ, hăy nói lên". Người ấy không biết, nói rằng: "Tôi có
biết"; có biết, nói rằng: "Tôi không biết"; không thấy, nói rằng:
"Tôi có thấy"; có thấy, nói rằng: "Tôi không thấy". Do v́ ḿnh hay
v́ người, hay v́ một vài lợi vật nhỏ, mà đă cố ư nói láo. Người như
vậy, này các Tỷ-kheo, được gọi là người nói như phân.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người nói như hoa? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người khi đi vào
hội trường, hay khi đi vào hội chúng, hay khi đi đến giữa các người
bà con, hay khi đi đến giữa các người đồng một tổ hợp, hay đi đến
cung vua, hay bị dẫn như là người làm chứng, được nói: "Ngươi biết
ǵ, hăy nói lên". Người ấy không biết, nói rằng: "Tôi không biết";
có biết, nói rằng: "Tôi có biết"; không thấy, nói rằng: "Tôi không
thấy"; có thấy, nói rằng: "Tôi có thấy". Không v́ ḿnh hay v́ người,
hay v́ một vài lợi vật nhỏ mà đă cố ư nói láo. Người như vậy, này
các Tỷ-kheo, được gọi là người nói như hoa.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người nói như mật? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người đoạn tận ác
ngữ, từ bỏ lời nói ác ngữ. Lời nói của người ấy không hại, tai ưa
nghe, khả ái, đi thẳng đến tâm, lễ độ, được nhiều người ưa thích,
được nhiều người thích ư, người ấy nói những lời như vậy. Này các
Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người nói như mật.
Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
|
9. Andhasuttaṃ
|
9. Andhasuttavaṇṇanā
|
29.- Mù
Ḷa
|
29.
‘‘Tayome, bhikkhave, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame
tayo? Andho, ekacakkhu, dvicakkhu. Katamo ca, bhikkhave, puggalo
andho? Idha, bhikkhave, ekaccassa puggalassa tathārūpaṃ cakkhu na
hoti yathārūpena cakkhunā anadhigataṃ vā
bhogaṃ adhigaccheyya adhigataṃ vā bhogaṃ phātiṃ kareyya
[phātikareyya (sī.)]; tathārūpampissa
cakkhu na hoti yathārūpena cakkhunā kusalākusale dhamme jāneyya,
sāvajjānavajje dhamme jāneyya, hīnappaṇīte dhamme jāneyya,
kaṇhasukkasappaṭibhāge dhamme jāneyya. Ayaṃ vuccati, bhikkhave,
puggalo andho.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, puggalo ekacakkhu? Idha, bhikkhave, ekaccassa puggalassa
tathārūpaṃ cakkhu hoti yathārūpena cakkhunā
anadhigataṃ vā bhogaṃ adhigaccheyya adhigataṃ
vā bhogaṃ phātiṃ kareyya; tathārūpaṃ panassa
[tathārūpampissa (syā. kaṃ. pī. ka.)] cakkhu na hoti
yathārūpena cakkhunā kusalākusale dhamme jāneyya, sāvajjānavajje
dhamme jāneyya, hīnappaṇīte dhamme jāneyya, kaṇhasukkasappaṭibhāge
dhamme jāneyya. Ayaṃ vuccati, bhikkhave,
puggalo ekacakkhu.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, puggalo dvicakkhu? Idha, bhikkhave, ekaccassa puggalassa
tathārūpaṃ cakkhu hoti yathārūpena cakkhunā anadhigataṃ vā bhogaṃ
adhigaccheyya, adhigataṃ vā bhogaṃ phātiṃ kareyya; tathārūpampissa
cakkhu hoti yathārūpena cakkhunā kusalākusale dhamme jāneyya;
sāvajjānavajje dhamme jāneyya, hīnappaṇīte dhamme jāneyya,
kaṇhasukkasappaṭibhāge dhamme jāneyya. Ayaṃ vuccati, bhikkhave,
puggalo dvicakkhu. ‘Ime kho, bhikkhave, tayo puggalā santo
saṃvijjamānā lokasmi’’’nti.
‘‘Na ceva bhogā
tathārūpā, na ca puññāni kubbati;
Ubhayattha
kaliggāho, andhassa hatacakkhuno.
‘‘Athāparāyaṃ
akkhāto, ekacakkhu ca puggalo;
Dhammādhammena
saṭhoso [saṃsaṭṭho (sī. syā. kaṃ. pī.), saṭhoti
(ka.)], bhogāni pariyesati.
‘‘Theyyena
kūṭakammena, musāvādena cūbhayaṃ;
Kusalo hoti
saṅghātuṃ [saṃhātuṃ (syā.)], kāmabhogī ca
mānavo;
Ito so nirayaṃ
gantvā, ekacakkhu vihaññati.
‘‘Dvicakkhu pana
akkhāto, seṭṭho purisapuggalo;
Dhammaladdhehi
bhogehi, uṭṭhānādhigataṃ dhanaṃ.
‘‘Dadāti
seṭṭhasaṅkappo, abyaggamānaso naro;
Upeti bhaddakaṃ
ṭhānaṃ, yattha gantvā na socati.
‘‘Andhañca
ekacakkhuñca, ārakā parivajjaye;
Dvicakkhuṃ
pana sevetha, seṭṭhaṃ purisapuggala’’nti.
navamaṃ;
|
29.
Navame cakkhu na hotīti paññācakkhu na
hoti. Phātiṃ kareyyāti phītaṃ vaḍḍhitaṃ
kareyya. Sāvajjānavajjeti sadosaniddose.
Hīnappaṇīteti adhamuttame.
Kaṇhasukkasappaṭibhāgeti kaṇhasukkāyeva
aññamaññaṃ paṭibāhanato paṭipakkhavasena sappaṭibhāgāti vuccanti.
Ayaṃ panettha saṅkhepo – kusale dhamme ‘‘kusalā dhammā’’ti jāneyya,
akusale dhamme ‘‘akusalā dhammā’’ti jāneyya. Sāvajjādīsupi eseva
nayo. Kaṇhasukkasappaṭibhāgesu pana kaṇhadhamme
‘‘sukkasappaṭibhāgā’’ti jāneyya, sukkadhamme ‘‘kaṇhasappaṭibhāgā’’ti
yena paññācakkhunā jāneyya, tathārūpampissa cakkhu na hotīti. Iminā
nayena sesavāresupi attho veditabbo.
Na ceva bhogā tathārūpāti
tathājātikā bhogāpissa na honti. Na ca puññāni
kubbatīti puññāni ca na karoti. Ettāvatā bhoguppādanacakkhuno
ca puññakaraṇacakkhuno ca abhāvo vutto. Ubhayattha
kaliggāhoti idhaloke ca paraloke cāti ubhayasmimpi
aparaddhaggāho, parājayaggāho hotīti attho. Atha vā
ubhayattha kaliggāhoti ubhayesampi
diṭṭhadhammikasamparāyikānaṃ atthānaṃ kaliggāho, parājayaggāhoti
attho. Dhammādhammenāti
dasakusalakammapathadhammenapi dasaakusalakammapathaadhammenapi.
Saṭhoti kerāṭiko. Bhogāni
pariyesatīti bhoge gavesati. Theyyenakūṭakammena,
musāvādena cūbhayanti theyyādīsu ubhayena pariyesatīti attho.
Kathaṃ? Theyyena kūṭakammena ca pariyesati, theyyena musāvādena ca
pariyesati , kūṭakammena musāvādena ca
pariyesati. Saṅghātunti saṅgharituṃ.
Dhammaladdhehīti
dasakusalakammapathadhammaṃ akopetvā laddhehi.
Uṭṭhānādhigatanti vīriyena adhigataṃ.
Abyagghamānasoti nibbicikicchacitto.
Bhaddakaṃ ṭhānanti seṭṭhaṃ devaṭṭhānaṃ.
Na socatīti yasmiṃ ṭhāne antosokena na
socati.
|
- Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Người mù, người một
mắt, người có hai mắt.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
người mù? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người không có mắt để có thể
với mắt như vậy, thâu hoạch được tài sản chưa được thâu hoạch hay
làm cho tăng trưởng tài sản đă được thâu hoạch; không có mắt để có
thể với mắt như vậy, biết được pháp thiện và pháp bất thiện, có tội
và không tội, pháp liệt và thắng, pháp thuộc thành phần đen và
trắng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người mù.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có một mắt? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có mắt để có
thể với mắt như vậy, thâu hoạch được tài sản chưa được thâu hoạch
hay làm cho tăng trưởng tài sản đă được thâu hoạch; nhưng không có
mắt để có thể với mắt như vậy, biết được pháp thiện và pháp bất
thiện, có tội và không tội, pháp liệt và thắng, pháp thuộc thành
phần đen và trắng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người một mắt.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có hai mắt? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người có mắt để có
thể với mắt như vậy, thâu hoạch được tài sản chưa được thâu hoạch
hay làm cho tăng trưởng tài sản đă được thâu hoạch; và có mắt để có
thể với mắt như vậy, biết được pháp thiện và pháp bất thiện, có tội
và không tội, pháp liệt và thắng, pháp thuộc thành phần đen và
trắng. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người có hai mắt.
Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Kẻ mù, mắt bị hư
Cả hai đều bất hạnh
Vừa công đức không làm
Vừa không được tài sản
Thứ đến là hạng người
Được gọi là một mắt
Liên hệ pháp phi pháp
Tầm cầu các tài sản
Với trộm và man trá
Cùng với cả nói láo
Vừa khéo góp tài sản
Vừa giỏi hưởng dục lạc
Từ đây đến địa ngục
Người một mắt bị hại.
C̣n vị có hai mắt
Được gọi người tối thượng
Thâu hoạch các tài sản
Một cách đúng chánh pháp
Các tài sản đă có,
Tăng trưởng đúng chánh pháp
Bố thí, ư tốt đẹp
Không phân vân ngập ngừng
Được sanh chỗ hiền thiện
Đi chỗ ấy không sầu
Vậy hăy tránh thật xa
Người mù, người một mắt
Thân cận bậc hai mắt
Bậc tối thắng trượng phu!
|
10. Avakujjasuttaṃ
|
10. Avakujjasuttavaṇṇanā
|
30.- Lộn
Ngược
|
30.
‘‘Tayome , bhikkhave [pu.
pa. 107-108], puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame
tayo? Avakujjapañño puggalo, ucchaṅgapañño puggalo, puthupañño
puggalo. Katamo ca, bhikkhave, avakujjapañño puggalo? Idha,
bhikkhave, ekacco puggalo ārāmaṃ gantā hoti abhikkhaṇaṃ bhikkhūnaṃ
santike dhammassavanāya. Tassa bhikkhū dhammaṃ desenti ādikalyāṇaṃ
majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ,
kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsenti. So tasmiṃ
āsane nisinno tassā kathāya neva ādiṃ manasi karoti, na majjhaṃ
manasi karoti, na pariyosānaṃ manasi karoti; vuṭṭhitopi tamhā āsanā
tassā kathāya neva ādiṃ manasi karoti, na majjhaṃ manasi karoti, na
pariyosānaṃ manasi karoti. Seyyathāpi, bhikkhave, kumbho nikkujjo
[nikkujjo (sī. pī.)] tatra udakaṃ āsittaṃ
vivaṭṭati, no saṇṭhāti; evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekacco puggalo
ārāmaṃ gantā hoti abhikkhaṇaṃ bhikkhūnaṃ santike dhammassavanāya.
Tassa bhikkhū dhammaṃ desenti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ
pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ, kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ
brahmacariyaṃ pakāsenti. So tasmiṃ āsane nisinno tassā kathāya neva
ādiṃ manasi karoti, na majjhaṃ manasi karoti, na pariyosānaṃ manasi
karoti; vuṭṭhitopi tamhā āsanā tassā kathāya nevādiṃ manasi karoti,
na majjhaṃ manasi karoti, na pariyosānaṃ manasi karoti. Ayaṃ
vuccati, bhikkhave, avakujjapañño puggalo.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, ucchaṅgapañño puggalo? Idha, bhikkhave, ekacco puggalo
ārāmaṃ gantā hoti abhikkhaṇaṃ bhikkhūnaṃ santike dhammassavanāya.
Tassa bhikkhū dhammaṃ desenti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ
pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ, kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ
brahmacariyaṃ pakāsenti. So tasmiṃ āsane nisinno tassā kathāya
ādimpi manasi karoti, majjhampi manasi karoti, pariyosānampi manasi
karoti; vuṭṭhito ca kho tamhā āsanā tassā kathāya nevādiṃ manasi
karoti, na majjhaṃ manasi karoti, na pariyosānaṃ manasi karoti.
Seyyathāpi, bhikkhave, purisassa ucchaṅge nānākhajjakāni ākiṇṇāni –
tilā taṇḍulā modakā badarā. So tamhā āsanā
vuṭṭhahanto satisammosā pakireyya
. Evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekacco puggalo
ārāmaṃ gantā hoti abhikkhaṇaṃ bhikkhūnaṃ santike dhammassavanāya.
Tassa bhikkhū dhammaṃ desenti ādikalyāṇaṃ majjhekalyāṇaṃ
pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ, kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ
brahmacariyaṃ pakāsenti. So tasmiṃ āsane nisinno tassā kathāya
ādimpi manasi karoti, majjhampi manasi karoti, pariyosānampi manasi
karoti; vuṭṭhito ca kho tamhā āsanā tassā kathāya neva ādiṃ manasi
karoti, na majjhaṃ manasi karoti, na pariyosānaṃ manasi karoti. Ayaṃ
vuccati, bhikkhave, ucchaṅgapañño puggalo.
‘‘Katamo ca,
bhikkhave, puthupañño puggalo? Idha, bhikkhave, ekacco puggalo
ārāmaṃ gantā hoti abhikkhaṇaṃ bhikkhūnaṃ
santike dhammassavanāya. Tassa bhikkhū dhammaṃ desenti ādikalyāṇaṃ
majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ,
kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsenti. So tasmiṃ
āsane nisinno tassā kathāya ādimpi manasi karoti, majjhampi manasi
karoti, pariyosānampi manasi karoti; vuṭṭhitopi tamhā āsanā tassā
kathāya ādimpi manasi karoti, majjhampi manasi karoti, pariyosānampi
manasi karoti. Seyyathāpi, bhikkhave, kumbho ukkujjo tatra udakaṃ
āsittaṃ saṇṭhāti no vivaṭṭati; evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekacco
puggalo ārāmaṃ gantā hoti abhikkhaṇaṃ bhikkhūnaṃ santike
dhammassavanāya. Tassa bhikkhū dhammaṃ desenti ādikalyāṇaṃ
majjhekalyāṇaṃ pariyosānakalyāṇaṃ sātthaṃ sabyañjanaṃ,
kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariyaṃ pakāsenti. So tasmiṃ
āsane nisinno tassā kathāya ādimpi manasi karoti, majjhampi manasi
karoti, pariyosānampi manasi karoti; vuṭṭhitopi tamhā āsanā tassā
kathāya ādimpi manasi karoti, majjhampi manasi karoti, pariyosānampi
manasi karoti. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, puthupañño puggalo. ‘Ime
kho, bhikkhave, tayo puggalā santo saṃvijjamānā lokasmi’’’nti.
‘‘Avakujjapañño
puriso, dummedho avicakkhaṇo;
Abhikkhaṇampi ce
hoti, gantā bhikkhūna santike.
‘‘Ādiṃ
kathāya majjhañca, pariyosānañca tādiso;
Uggahetuṃ na
sakkoti, paññā hissa na vijjati.
‘‘Ucchaṅgapañño
puriso, seyyo etena
vuccati;
Abhikkhaṇampi ce
hoti, gantā bhikkhūna santike.
‘‘Ādiṃ kathāya
majjhañca, pariyosānañca tādiso;
Nisinno āsane
tasmiṃ, uggahetvāna byañjanaṃ;
Vuṭṭhito
nappajānāti, gahitaṃ hissa [gahitampissa (ka.)]
mussati.
‘‘Puthupañño ca
puriso, seyyo etehi [etena (ka.)] vuccati;
Abhikkhaṇampi ce
hoti, gantā bhikkhūna santike.
‘‘Ādiṃ kathāya
majjhañca, pariyosānañca tādiso;
Nisinno āsane
tasmiṃ, uggahetvāna byañjanaṃ.
‘‘Dhāreti
seṭṭhasaṅkappo, abyaggamānaso naro;
Dhammānudhammappaṭipanno, dukkhassantakaro siyā’’ti. dasamaṃ;
Puggalavaggo
tatiyo.
Tassuddānaṃ –
Samiddha
[kāyasakkhi (sī.), saviṭṭha (syā. kaṃ.), seṭṭha
(ka.)] -gilāna-saṅkhārā, bahukārā vajirena ca;
Sevi-jiguccha-gūthabhāṇī, andho ca avakujjatāti.
|
30.
Dasame avakujjapaññoti adhomukhapañño.
Ucchaṅgapaññoti ucchaṅgasadisapañño.
Puthupaññoti vitthārikapañño.
Ādikalyāṇantiādīsu ādīti
pubbapaṭṭhapanā. Majjhanti kathāvemajjhaṃ.
Pariyosānanti sanniṭṭhānaṃ. Itissa te
dhammaṃ kathentā pubbapaṭṭhapanepi kalyāṇaṃ bhaddakaṃ anavajjameva
katvā kathenti, vemajjhepi pariyosānepi. Ettha ca atthi desanāya
ādimajjhapariyosānāni, atthi sāsanassa. Tattha desanāya tāva
catuppadikagāthāya paṭhamapadaṃ ādi, dve padāni majjhaṃ,
avasānapadaṃ pariyosānaṃ. Ekānusandhikassa suttassa nidānaṃ ādi,
anusandhi majjhaṃ, idamavocāti appanā pariyosānaṃ.
Anekānusandhikassa paṭhamo anusandhi ādi, tato paraṃ eko vā aneke vā
majjhaṃ, pacchimo pariyosānaṃ. Ayaṃ tāva desanāya nayo. Sāsanassa
pana sīlaṃ ādi, samādhi majjhaṃ, vipassanā pariyosānaṃ. Samādhi vā
ādi, vipassanā majjhaṃ, maggo pariyosānaṃ. Vipassanā vā ādi, maggo
majjhaṃ, phalaṃ pariyosānaṃ. Maggo vā ādi, phalaṃ majjhaṃ, nibbānaṃ
pariyosānaṃ. Dve dve vā kayiramāne sīlasamādhayo ādi, vipassanāmaggā
majjhaṃ, phalanibbānāni pariyosānaṃ.
Sātthanti
sātthakaṃ katvā desenti.
Sabyañjananti akkharapāripūriṃ katvā desenti.
Kevalaparipuṇṇanti sakalaparipuṇṇaṃ anūnaṃ
katvā desenti. Parisuddhanti parisuddhaṃ
nijjaṭaṃ niggaṇṭhiṃ katvā desenti. Brahmacariyaṃ
pakāsentīti evaṃ desentā ca seṭṭhacariyabhūtaṃ
sikkhattayasaṅgahitaṃ ariyaṃ aṭṭhaṅgikaṃ maggaṃ pakāsenti.
Neva ādiṃ manasi karotīti neva
pubbapaṭṭhapanaṃ manasi karoti.
Kumbhoti ghaṭo.
Nikujjoti adhomukho ṭhapito.
Evameva khoti ettha kumbho nikujjo viya
avakujjapañño puggalo daṭṭhabbo, udakāsiñcanakālo
viya dhammadesanāya laddhakālo, udakassa
vivaṭṭanakālo viya tasmiṃ āsane nisinnassa uggahetuṃ asamatthakālo,
udakassa asaṇṭhānakālo viya vuṭṭhahitvā asallakkhaṇakālo veditabbo.
Ākiṇṇānīti pakkhittāni.
Satisammosāya pakireyyāti muṭṭhassatitāya
vikireyya. Evameva khoti ettha ucchaṅgo
viya ucchaṅgapañño puggalo daṭṭhabbo, nānākhajjakāni viya
nānappakāraṃ buddhavacanaṃ, ucchaṅge nānākhajjakāni khādantassa
nisinnakālo viya tasmiṃ āsane nisinnassa uggaṇhanakālo,
vuṭṭhahantassa satisammosā pakiraṇakālo viya tasmā āsanā vuṭṭhāya
gacchantassa asallakkhaṇakālo veditabbo.
Ukkujjoti uparimukho
ṭhapito. Saṇṭhātīti patiṭṭhahati.
Evameva khoti ettha uparimukho ṭhapito
kumbho viya puthupañño puggalo daṭṭhabbo, udakassa āsittakālo viya
desanāya laddhakālo, udakassa saṇṭhānakālo
viya tattha nisinnassa uggaṇhanakālo, no vivaṭṭanakālo viya vuṭṭhāya
gacchantassa sallakkhaṇakālo veditabbo.
Dummedhoti nippañño.
Avicakkhaṇoti saṃvidahanapaññāya rahito.
Gantāti gamanasīlo. Seyyo
etena vuccatīti etasmā puggalā uttaritaroti vuccati.
Dhammānudhammappaṭipannoti
navalokuttaradhammassa anudhammaṃ saha sīlena pubbabhāgapaṭipadaṃ
paṭipanno. Dukkhassāti vaṭṭadukkhassa.
Antakaro siyāti koṭikaro paricchedakaro
parivaṭumakaro bhaveyyāti.
Puggalavaggo
tatiyo.
|
- Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba? Hạng người với trí
tuệ lộn ngược, hạng người với trí tuệ bắp vế, hạng người với trí tuệ
rộng lớn.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
người với trí tuệ lộn ngược? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người
đi đến khu vườn (tinh xá) thường thường nghe pháp từ các Tỷ-kheo,
các vị Tỷ-kheo thuyết pháp cho người ấy, sơ thiện, trung thiện, hậu
thiện, có nghĩa, có văn, tŕnh bày Phạm hạnh hoàn toàn viên măn
thanh tịnh. Người ấy, tại chỗ ngồi ấy, đối với bài thuyết giảng ấy,
không có tác ư đến đoạn đầu, không có tác ư đến đoạn giữa, không có
tác ư đến đoạn cuối. Cũng vậy, khi người ấy từ chỗ ngồi ấy đứng lên,
đối với bài thuyết giảng ấy, người ấy không có tác ư đến đoạn đầu,
không có tác ư đến đoạn giữa, không có tác ư đến đoạn cuối. Ví như
này các Tỷ-kheo, một cái ghè bị lộn ngược, nước chứa trong ấy tuôn
chảy, không có dừng lại. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây, có hạng
người đi đến khu vườn ... không có tác ư đoạn cuối. Cũng vậy, khi
người ấy từ chỗ ngồi ấy đứng lên ... không có tác ư đoạn cuối. Này
các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người với trí tuệ lộn ngược.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
người với trí tuệ bắp vế? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người đi
đến khu vườn (tinh xá). Người ấy, tại chỗ ngồi ấy, đối với bài
thuyết giảng ấy, có tác ư đến đoạn đầu, có tác ư đến đoạn giữa, có
tác ư đến đoạn cuối. Nhưng khi người ấy từ chỗ ngồi ấy đứng dậy, đối
với bài thuyết giảng ấy, người ấy không có tác ư đến đoạn đầu, không
có tác ư đến đoạn giữa, không có tác ư đến đoạn cuối. Ví như này các
Tỷ-kheo, trên bắp vế của một người, các loại đồ ăn được chồng lên
như hạt mè, hột gạo, các loại kẹo và trái táo. Khi từ chỗ ngồi đứng
dậy, v́ vô ư, người ấy làm đổ văi tất cả. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo,
ở đây, có hạng người đi đến khu vườn ... Người ấy, tại chỗ ngồi ấy
... có tác ư đoạn cuối. Nhưng khi người ấy tại chỗ ngồi ấy đứng dậy
... không có tác ư đoạn cuối. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người
với trí tuệ bắp vế.
Và này các Tỷ-kheo, thế nào là
hạng người có trí tuệ rộng lớn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng
người đi đến khu vườn (tinh xá) ... tŕnh bày Phạm hạnh hoàn toàn
viên măn thanh tịnh. Tại chỗ ngồi ấy, vị ấy đối với bài thuyết giảng
ấy, có tác ư đến đoạn đầu ... có tác ư đến đoạn cuối. Cũng vậy, khi
vị ấy, từ chỗ ngồi ấy đứng lên, đối với bài thuyết giảng ấy, có tác
ư đến đoạn đầu ... có tác ư đến đoạn cuối. Ví như, này các Tỷ-kheo,
một cái ghè được dựng đứng, nước chứa trong ấy được giữ lại, không
có chảy đi. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, Ở đây, có hạng người đi đến
khu vườn (tinh xá) ... tŕnh bày Phạm hạnh hoàn toàn viên măn thanh
tịnh. Tại chỗ ngồi ấy, vị ấy đối với bài thuyết giảng ấy, có tác ư
đến đoạn đầu ... có tác ư đến đoạn cuối. Cũng vậy, khi vị ấy, từ chỗ
ngồi ấy đứng lên, đối với bài thuyết giảng ấy, có tác ư đến đoạn đầu
... có tác ư đến đoạn cuối. Này các Tỷ-kheo, đây gọi là hạng người
có trí tuệ rộng lớn.
Ba hạng người này, này các
Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.
Hạng trí tuệ lộn ngược
Không thông minh, không mắt
Họ thường thường đi đến
Đến gần các Tỷ-kheo
Đoạn đầu của bài giảng
Đoạn giữa và đoạn cuối
Họ không học được ǵ,
Họ không có trí tuệ
Hạng trí tuệ bắp vế
Được gọi là tốt hơn
Họ thường thường đi đến
Đến gần các Tỷ-kheo
Đoạn đầu của bài giảng
Đoạn giữa và đoạn cuối
Ngồi trên chỗ ḿnh ngồi
Nắm giữ được lời văn
Đứng dậy không hiểu rơ
Quên mất điều đă nắm
Bậc trí tuệ rộng lớn
Được gọi tốt hơn cả
Họ thường thường đi đến
Đến gần các Tỷ-kheo
Đoạn đầu của bài giảng
Đoạn giữa và đoạn cuối
Ngồi trên chỗ ḿnh ngồi
Nắm giữ được lời văn
Thọ tŕ điều được nghe
Suy tư điều tối thắng
Với ư không dao động
Là hạng người như vậy
Thực hành pháp, tùy pháp
Có thể đoạn khổ đau.
|
Phân đoạn song ngữ:
Nga Tuyet
Updated 30-5-2019
Mục Lục Kinh Tăng Chi Bộ
Pali Việt
Aṅguttaranikāya
Aṅguttaranikāya (aṭṭhakathā)
Kinh Tăng Chi Bộ
|