ANGUTTARA NIKAYA – TĂNG CHI BỘ KINH
Chương III - Ba Pháp (Tikanipātapāḷi)
CHÁNH KINH PALI
|
CHÚ GIẢI PALI
|
BẢN DỊCH VIỆT
|
Aṅguttaranikāyo
|
Aṅguttaranikāye
|
Tăng Chi Bộ
|
(6) 1.
Brāhmaṇavaggo
|
(6) 1.
Brāhmaṇavaggo
|
VI. Phẩm Các Bà-La-Môn
|
1.
Paṭhamadvebrāhmaṇasuttaṃ
52.
Atha kho dve brāhmaṇā jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayoanuppattā
vīsavassasatikā jātiyā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā
bhagavatā saddhiṃ sammodiṃsu. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ
vītisāretvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho te brāhmaṇā
bhagavantaṃ etadavocuṃ –
|
52.
Brāhmaṇavaggassa paṭhame jiṇṇāti jarājiṇṇā.
Vuddhāti vayovuddhā.
Mahallakāti jātimahallakā. Addhagatāti
tayo addhe atikkantā. Vayoanuppattāti
tatiyaṃ vayaṃ anuppattā. Yena bhagavā
tenupasaṅkamiṃsūti puttadāre attano vacanaṃ akaronte disvā
‘‘samaṇassa gotamassa santikaṃ gantvā niyyānikamaggaṃ
gavesissāmā’’ti cintetvā upasaṅkamiṃsu. Mayamassu,
bho gotama, brāhmaṇāti; bho gotama, mayaṃ brāhmaṇā na
khattiyā nāmaccā na gahapatikāti brāhmaṇabhāvaṃ jānāpetvā
jiṇṇātiādimāhaṃsu.
Akatabhīruttāṇāti akatabhayaparittāṇā. Avassayabhūtaṃ
patiṭṭhākammaṃ amhehi na katanti dassenti. Tagghāti
ekaṃsatthe nipāto, sampaṭicchanatthe vā. Ekantena tumhe evarūpā,
ahampi kho etaṃ sampaṭicchāmīti ca dasseti.
Upanīyatīti upasaṃharīyati. Ayaṃ hi jātiyā jaraṃ upanīyati,
jarāya byādhiṃ, byādhinā maraṇaṃ, maraṇena puna jātiṃ. Tena vuttaṃ –
‘‘upanīyatī’’ti.
Idāni yasmā te
brāhmaṇā mahallakattā pabbajitvāpi vattaṃ pūretuṃ na sakkhissanti,
tasmā ne pañcasu sīlesu patiṭṭhāpento bhagavā
yodha kāyena saṃyamotiādimāha. Tattha
kāyena saṃyamoti kāyadvārena saṃvaro. Sesesupi eseva nayo.
Taṃ tassa petassāti taṃ puññaṃ tassa
paralokaṃ gatassa tāyanaṭṭhena tāṇaṃ,
nilīyanaṭṭhena leṇaṃ, patiṭṭhānaṭṭhena
dīpo, avassayanaṭṭhena
saraṇaṃ, uttamagativasena parāyaṇañca
hotīti dasseti. Gāthā uttānatthāyeva. Evaṃ te brāhmaṇā tathāgatena
pañcasu sīlesu samādapitā yāvajīvaṃ pañca sīlāni rakkhitvā sagge
nibbattiṃsu.
|
51.- (a) Hai Người
- Có hai vị Bà-la-môn già yếu,
trưởng lăo, tuổi lớn, cuộc đời đă được trải qua, đă đến đoạn cuối
cuộc đời, đă 120 tuổi, đi đến Thế Tôn,
đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Những Bà-la-môn ấy
bạch Thế Tôn:
|
‘‘mayamassu, bho
gotama, brāhmaṇā jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayoanuppattā
vīsavassasatikā jātiyā; te camhā akatakalyāṇā akatakusalā
akatabhīruttāṇā. Ovadatu no bhavaṃ gotamo, anusāsatu no bhavaṃ
gotamo yaṃ amhākaṃ assa dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti.
|
- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi
là những Bà-la-môn già yếu, trưởng lăo, tuổi lớn, cuộc đời đă được
trải qua, đă đến đoạn cuối cuộc đời, đă 120 tuổi, nhưng chúng tôi
không làm điều lành, không làm điều thiện, không làm những điều để
chấm dứt các sợ hăi. Tôn giả Gotama hăy răn dạy chúng tôi, Tôn giả
Gotama hăy giảng dạy chúng tôi. Nhờ vậy, chúng tôi sẽ được hạnh
phúc, an lạc lâu dài.
|
‘‘Taggha tumhe,
brāhmaṇā, jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayoanuppattā
vīsavassasatikā jātiyā; te cattha akatakalyāṇā akatakusalā
akatabhīruttāṇā. Upanīyati kho ayaṃ, brāhmaṇā, loko jarāya byādhinā
maraṇena.
|
- Thật vậy, các ông là những Bà-la-môn già
yếu, trưởng lăo, tuổi lớn, cuộc đời đă được trải qua, đă đến đoạn
cuối cuộc đời, đă 120 tuổi, nhưng các Ông không làm điều lành, không
làm điều thiện, không làm những điều để chấm dứt các sợ hăi.
|
Evaṃ upanīyamāne
kho, brāhmaṇā, loke jarāya byādhinā maraṇena, yo idha kāyena saṃyamo
vācāya saṃyamo manasā saṃyamo, taṃ tassa petassa tāṇañca leṇañca
dīpañca saraṇañca parāyaṇañcā’’ti.
|
Thật vậy, này các Bà-la-môn, thế
giới này đă bị già, bệnh, chết dắt dẫn. Thế giới đă bị già, bệnh,
chết dắt dẫn như vậy, này các Bà-la-môn, thời chế ngự thân, chế ngự
lời nói, chế ngự ư trong đời này, đối với kẻ đă đi đến cơi chết,
phải là chỗ nương tựa, là hang trú ẩn, là ḥn cù lao (hay ngọn đèn),
là chỗ quy y và là đích xứ nó đến.
|
‘‘Upanīyati
jīvitamappamāyu,
Jarūpanītassa na
santi tāṇā;
Etaṃ bhayaṃ maraṇe
pekkhamāno,
Puññāni kayirātha
sukhāvahāni.
‘‘Yodha kāyena
saṃyamo, vācāya uda cetasā;
Taṃ tassa petassa
sukhāya hoti,
Yaṃ jīvamāno
pakaroti puñña’’nti. [saṃ. ni. 1.100]
paṭhamaṃ;
|
Đời sống bị dắt dẫn
Mạng sống chẳng là bao
Bị già kéo dẫn đi
Không có nơi nương tựa
Hăy luôn luôn quán tưởng
Sợ hăi tử vong này
Hăy làm các công đức
Đưa đến chơn an lạc.
Ở đây chế ngự thân,
Chế ngự lời và ư,
Kẻ ấy dầu có chết,
Cũng được hưởng an lạc,
V́ khi c̣n đang sống
Đă làm các công đức.
|
2.
Dutiyadvebrāhmaṇasuttaṃ
|
2.
Dutiyadvebrāhmaṇasuttavaṇṇanā
|
52.- (b) Hai Người
|
53.
Atha kho dve brāhmaṇā jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayoanuppattā
vīsavassasatikā jātiyā yena bhagavā tenupasaṅkamiṃsu; upasaṅkamitvā
bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdiṃsu. Ekamantaṃ nisinnā kho
te brāhmaṇā bhagavantaṃ etadavocuṃ –
|
53.
Dutiye bhājananti yaṃkiñci bhaṇḍakaṃ. Sesaṃ
paṭhame vuttanayeneva veditabbaṃ.
|
Rồi Bà-la-môn già yếu, trưởng lăo,
tuổi lớn, cuộc đời đă được trải qua, đă đến đoạn cuối cuộc đời, đă
120 tuổi, đi đến Thế Tôn,
đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Rồi Bà-la-môn ấy bạch
Thế Tôn:
|
‘‘mayamassu, bho
gotama, brāhmaṇā jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayoanuppattā
vīsavassasatikā jātiyā; te camhā akatakalyāṇā akatakusalā
akatabhīruttāṇā. Ovadatu no bhavaṃ gotamo, anusāsatu no bhavaṃ
gotamo yaṃ amhākaṃ assa dīgharattaṃ hitāya sukhāyā’’ti.
|
- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi
là những Bà-la-môn già yếu, trưởng lăo, tuổi lớn, cuộc đời đă được
trải qua, đă đến đoạn cuối cuộc đời, đă 120 tuổi, nhưng chúng tôi
không làm điều lành, không làm điều thiện, không làm những điều để
chấm dứt các sợ hăi. Tôn giả Gotama hăy răn dạy chúng tôi, Tôn giả
Gotama hăy giảng dạy chúng tôi. Nhờ vậy, chúng tôi sẽ được hạnh
phúc, an lạc lâu dài.
|
‘‘Taggha tumhe,
brāhmaṇā, jiṇṇā vuddhā mahallakā addhagatā vayoanuppattā
vīsavassasatikā jātiyā; te cattha akatakalyāṇā akatakusalā
akatabhīruttāṇā. Āditto kho ayaṃ, brāhmaṇā, loko jarāya byādhinā
maraṇena. Evaṃ āditte kho, brāhmaṇā, loke jarāya byādhinā maraṇena,
yo idha kāyena saṃyamo vācāya saṃyamo manasā saṃyamo, taṃ tassa
petassa tāṇañca leṇañca dīpañca saraṇañca parāyaṇañcā’’ti.
|
- Thật vậy, các ông là những
Bà-la-môn già yếu, trưởng lăo, tuổi lớn, cuộc đời đă được trải qua,
đă đến đoạn cuối cuộc đời, đă 120 tuổi, nhưng các Ông không làm điều
lành, không làm điều thiện, không làm những điều để chấm dứt các sợ
hăi. Thật vậy, này các Bà-la-môn, thế giới này đă bị già, bệnh, chết
dắt dẫn. Thế giới đă bị già, bệnh, chết dắt dẫn như vậy, này các
Bà-la-môn, thời chế ngự thân, chế ngự lời nói, chế ngự ư trong đời
này, đối với kẻ đă đi đến cơi chết, phải là chỗ nương tựa, là hang
trú ẩn, là ḥn cù lao (hay ngọn đèn), là chỗ quy y và là đích xứ nó
đến.
|
‘‘Ādittasmiṃ
agārasmiṃ, yaṃ nīharati bhājanaṃ;
Taṃ tassa hoti
atthāya, no ca yaṃ tattha ḍayhati.
‘‘Evaṃ āditto kho
[evaṃ ādīvito (sī. pī.), evaṃ ādittako (syā.
kaṃ.) saṃ. ni. 1.41] loko, jarāya maraṇena ca;
Nīharetheva
dānena, dinnaṃ hoti sunīhataṃ [sunibbhataṃ (ka.)].
‘‘Yodha kāyena
saṃyamo, vācāya uda cetasā;
Taṃ tassa petassa
sukhāya hoti,
Yaṃ jīvamāno
pakaroti puñña’’nti. dutiyaṃ;
|
Trong ngôi nhà bị cháy,
Đồ đạc được đem ra,
Đồ ấy lợi cho nó,
Không phải đồ bị cháy,
Cũng vậy đời bị cháy,
Do già chết thiêu đốt,
Nhờ bố thí tự cứu
Khéo cứu, đồ bố thí.
Ở đây, chế ngự thân,
Chế ngự lời và ư,
Kẻ ấy dầu có chết,
Cũng được hưởng an lạc,
V́ khi c̣n đang sống
Đă làm các công đức.
|
3.
Aññatarabrāhmaṇasuttaṃ
|
3.
Aññatarabrāhmaṇasuttavaṇṇanā
|
53.- Vị Bà-La-Môn
|
54.
Atha kho aññataro brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā
bhagavatā saddhiṃ sammodi…pe… ekamantaṃ nisinno kho so brāhmaṇo
bhagavantaṃ etadavoca –
|
54.
Tatiye sammodanīyanti sammodajananiṃ.
Sāraṇīyanti saritabbayuttakaṃ.
Vītisāretvāti pariyosāpetvā.
Kittāvatāti kittakena.
Sandiṭṭhiko dhammo hotīti sāmaṃ passitabbo hoti.
Akālikoti na kālantare phaladāyako.
Ehipassikoti ‘‘ehi passā’’ti evaṃ dassetuṃ
sakkāti āgamanīyapaṭipadaṃ pucchati. Opaneyyikoti
attano cittaṃ upanetabbo. Paccattaṃ veditabboti
sāmaṃyeva jānitabbo. Viññūhīti paṇḍitehi.
Pariyādinnacittoti
ādinnagahitaparāmaṭṭhacitto hutvā. Cetetīti
cinteti. Sesamettha uttānameva. Imasmiṃ pana sutte brāhmaṇena
lokuttaramaggo pucchito, satthārāpi soyeva kathito. So hi sāmaṃ
passitabbattā sandiṭṭhiko nāmāti.
|
Rồi một Bà-la-môn đi đến Thế Tôn,
sau khi đến,
đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn ấy bạch Thế Tôn:
|
‘‘‘sandiṭṭhiko
dhammo sandiṭṭhiko dhammo’ti, bho gotama, vuccati. Kittāvatā nu kho,
bho gotama, sandiṭṭhiko dhammo hoti akāliko ehipassiko opaneyyiko
[opanayiko (sī. syā. kaṃ. pī.) pañcamasuttassa
ṭīkā oloketabbā] paccattaṃ veditabbo viññūhī’’ti?
|
- Pháp là thiết thực hiện tại,
thưa Tôn giả Gotama, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, thưa
Tôn giả Gotama, pháp là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến
để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự ḿnh giác
hiểu?
|
‘‘Ratto kho, brāhmaṇa, rāgena
abhibhūto pariyādinnacitto attabyābādhāyapi ceteti, parabyābādhāyapi
ceteti, ubhayabyābādhāyapi ceteti, cetasikampi dukkhaṃ domanassaṃ
paṭisaṃvedeti. Rāge pahīne nevattabyābādhāyapi ceteti, na
parabyābādhāyapi ceteti, na ubhayabyābādhāyapi ceteti, na cetasikaṃ
dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. (Ratto kho…pe… kāyena duccaritaṃ
carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati. Rāge
pahīnā neva kāyena duccaritaṃ carati, na vācāya duccaritaṃ carati,
na manasā duccaritaṃ carati. Ratto kho…pe… attatthampi yathābhūtaṃ
nappajānāti, paratthampi yathābhūtaṃ nappajānāti, ubhayatthampi
yathābhūtaṃ nappajānāti. Rāge pahīne attatthampi yathābhūtaṃ
pajānāti, paratthampi yathābhūtaṃ pajānāti, ubhayatthampi
yathābhūtaṃ pajānāti.) [( ) etthantare pāṭho sī.
syā. kaṃ. pī. potthakesu na dissati, idhapi duṭṭhamūḷhavāresu]
Evampi kho, brāhmaṇa, sandiṭṭhiko dhammo hoti…pe….
|
- Bị tham ái làm say đắm, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại
ḿnh, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm
khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không
nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ
tâm ưu. Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không
có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người
trí tự ḿnh giác hiểu.
|
‘‘Duṭṭho kho,
brāhmaṇa, dosena abhibhūto pariyādinnacitto attabyābādhāyapi ceteti,
parabyābādhāyapi ceteti, ubhayabyābādhāyapi ceteti, cetasikampi
dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Dose pahīne nevattabyābādhāyapi
ceteti, na parabyābādhāyapi ceteti, na ubhayabyābādhāyapi ceteti, na
cetasikampi [na cetasikaṃ (sī. syā. ka.)]
dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Evampi kho, brāhmaṇa, sandiṭṭhiko
dhammo hoti…pe….
|
Bị sân làm uế nhiễm, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại
ḿnh, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm
khổ tâm ưu. Sân được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không
nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ
tâm ưu. Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không
có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người
trí tự ḿnh giác hiểu.
|
‘‘Mūḷho kho,
brāhmaṇa, mohena abhibhūto pariyādinnacitto attabyābādhāyapi ceteti,
parabyābādhāyapi ceteti, ubhayabyābādhāyapi ceteti, cetasikampi
dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Mohe pahīne nevattabyābādhāyapi
ceteti, na parabyābādhāyapi ceteti, na ubhayabyābādhāyapi ceteti, na
cetasikaṃ dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti . Evaṃ kho, brāhmaṇa,
sandiṭṭhiko dhammo hoti akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ
veditabbo viññūhī’’ti.
|
Bị si làm cho mê mờ, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại
ḿnh, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm
khổ tâm ưu. Si được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ
đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm
ưu. Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là thiết thực hiện tại, không có
thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí
tự ḿnh giác hiểu.
|
‘‘Abhikkantaṃ, bho
gotama, abhikkantaṃ, bho gotama! Seyyathāpi, bho gotama, nikkujjitaṃ
vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ
ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya – ‘cakkhumanto rūpāni
dakkhantī’ti; evamevaṃ bhotā gotamena anekapariyāyena dhammo
pakāsito. Esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ gacchāmi dhammañca
bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge
pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. Tatiyaṃ.
|
- Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng những
ǵ bị quăng ngă xuống, hay tŕnh bày cái ǵ bị che kín, hay chỉ
đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng tối để những
ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đă được Tôn giả
Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết giảng. Con nay xin quy y Tôn
giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm
đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
|
4.
Paribbājakasuttaṃ
55.
Atha kho aññataro brāhmaṇaparibbājako yena bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā…pe… ekamantaṃ nisinno kho so brāhmaṇaparibbājako
bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘‘sandiṭṭhiko dhammo sandiṭṭhiko dhammo’ti,
bho gotama, vuccati. Kittāvatā nu kho, bho gotama, sandiṭṭhiko
dhammo hoti akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo
viññūhī’’ti?
‘‘Ratto kho,
brāhmaṇa, rāgena abhibhūto pariyādinnacitto attabyābādhāyapi ceteti,
parabyābādhāyapi ceteti, ubhayabyābādhāyapi ceteti, cetasikampi
dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Rāge pahīne nevattabyābādhāyapi
ceteti, na parabyābādhāyapi ceteti, na
ubhayabyābādhāyapi ceteti, na cetasikampi dukkhaṃ domanassaṃ
paṭisaṃvedeti.
‘‘Ratto
kho, brāhmaṇa, rāgena abhibhūto
pariyādinnacitto kāyena duccaritaṃ carati, vācāya duccaritaṃ carati,
manasā duccaritaṃ carati. Rāge pahīne neva kāyena duccaritaṃ carati,
na vācāya duccaritaṃ carati, na manasā duccaritaṃ carati.
‘‘Ratto
kho, brāhmaṇa, rāgena abhibhūto
pariyādinnacitto attatthampi yathābhūtaṃ nappajānāti, paratthampi
yathābhūtaṃ nappajānāti, ubhayatthampi yathābhūtaṃ nappajānāti. Rāge
pahīne attatthampi yathābhūtaṃ pajānāti ,
paratthampi yathābhūtaṃ pajānāti, ubhayatthampi yathābhūtaṃ
pajānāti. Evampi kho, brāhmaṇa, sandiṭṭhiko dhammo hoti…pe….
‘‘Duṭṭho kho,
brāhmaṇa, dosena…pe… mūḷho kho, brāhmaṇa, mohena abhibhūto
pariyādinnacitto attabyābādhāyapi ceteti, parabyābādhāyapi ceteti,
ubhayabyābādhāyapi ceteti, cetasikampi dukkhaṃ domanassaṃ
paṭisaṃvedeti. Mohe pahīne nevattabyābādhāyapi ceteti, na
parabyābādhāyapi ceteti, na ubhayabyābādhāyapi ceteti, na cetasikaṃ
dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti.
‘‘Mūḷho kho,
brāhmaṇa, mohena abhibhūto pariyādinnacitto, kāyena duccaritaṃ
carati, vācāya duccaritaṃ carati, manasā duccaritaṃ carati. Mohe
pahīne neva kāyena duccaritaṃ carati, na vācāya duccaritaṃ carati,
na manasā duccaritaṃ carati.
‘‘Mūḷho kho,
brāhmaṇa, mohena abhibhūto pariyādinnacitto attatthampi yathābhūtaṃ
nappajānāti, paratthampi yathābhūtaṃ nappajānāti
, ubhayatthampi yathābhūtaṃ nappajānāti. Mohe pahīne attatthampi
yathābhūtaṃ pajānāti, paratthampi yathābhūtaṃ pajānāti,
ubhayatthampi yathābhūtaṃ pajānāti. Evaṃ kho, brāhmaṇa, sandiṭṭhiko
dhammo hoti akāliko ehipassiko opaneyyiko paccattaṃ veditabbo
viññūhī’’ti.
‘‘Abhikkantaṃ, bho
gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ
saraṇaṃ gata’’nti. Catutthaṃ.
|
4.
Paribbājakasuttavaṇṇanā
55.
Catutthe brāhmaṇaparibbājakoti
brāhmaṇajātiko paribbājako, na khattiyādijātiko.
Attatthampīti diṭṭhadhammikasamparāyikaṃ
lokiyalokuttaramissakaṃ attano atthaṃ.
|
54.- Bà-La-Môn Cư Sĩ
Rồi một Bà-la-môn du sĩ đi đến Thế
Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn du sĩ bạch Thế Tôn:
- Pháp là thiết thực hiện tại,
thưa Tôn giả Gotama, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, thưa
Tôn giả Gotama, pháp là thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến
để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự ḿnh giác
hiểu?
- Bị tham ái làm say đắm, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại
ḿnh, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm
khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không
nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ
tâm ưu.
Bị tham ái làm say đắm, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, vị ấy làm ác hạnh về
thân, làm ác hạnh về lời nói, làm ác hạnh về ư. Tham ái được đoạn
trừ, vị ấy không làm ác hạnh về thân, không làm ác hạnh về lời nói,
không làm ác hạnh về ư.
Bị tham ái làm say đắm, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, vị ấy không như thật rơ
biết lợi ích của ḿnh, không như thật rơ biết lợi ích của người,
không như thật rơ biết lợi ích của cả hai. Tham ái được đoạn trừ, vị
ấy như thật rơ biết lợi ích của ḿnh, như thật rơ biết lợi ích của
người, như thật rơ biết lợi ích của cả hai
Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là
thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, được người trí tự ḿnh giác hiểu.
Bị sân làm uế nhiễm, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại
ḿnh, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm
khổ tâm ưu. Sân được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không
nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ
tâm ưu.
Bị sân làm uế nhiễm, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, vị ấy làm ác hạnh về
thân, làm ác hạnh về lời nói, làm ác hạnh về ư. Sân được đoạn trừ,
vị ấy không làm ác hạnh về thân, không làm ác hạnh về lời nói ,
không làm ác hạnh về ư.
Bị sân làm uế nhiễm, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, vị ấy không như thật rơ
biết lợi ích của ḿnh, không như thật rơ biết lợi ích của người,
không như thật rơ biết lợi ích của cả hai. Sân được đoạn trừ, vị ấy
như thật rơ biết lợi ích của ḿnh, như thật rơ biết lợi ích của
người, như thật rơ biết lợi ích của cả hai
Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là
thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, được người trí tự ḿnh giác hiểu.
Bị si làm mê mờ, này Bà-la-môn, bị
chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại ḿnh, suy nghĩ
điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu.
Sân được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại
người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu.
Bị si làm cho mê mờ, này
Bà-la-môn, bị chinh phục,tâm bị xâm chiếm, nên làm ác hạnh về thân,
làm ác hạnh về lời nói, làm ác hạnh về ư. Si được đoạn trừ, thời
không làm ác hạnh về thân, không làm ác hạnh về lời nói, không làm
ác hạnh về ư.
Bị si làm cho mê mờ, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên không như thật rơ
biết lợi ích của ḿnh, không như thật rơ biết lợi ích của người,
không như thật rơ biết lợi ích của cả hai. Si được đoạn trừ, thời
như thật rơ biết lợi ích của ḿnh, như thật rơ biết lợi ích của
người, như thật rơ biết lợi ích của cả hai.
Như vậy, này Bà-la-môn, pháp là
thiết thực hiện tại, không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng
hướng thượng, được người trí tự ḿnh giác hiểu.
|
5. Nibbutasuttaṃ
56.
Atha kho jāṇussoṇi brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ
nisinno kho jāṇussoṇi brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘‘sandiṭṭhikaṃ nibbānaṃ sandiṭṭhikaṃ nibbāna’nti, bho gotama,
vuccati. Kittāvatā nu kho, bho gotama,
sandiṭṭhikaṃ nibbānaṃ hoti akālikaṃ ehipassikaṃ opaneyyikaṃ
paccattaṃ veditabbaṃ viññūhī’’ti?
‘‘Ratto
kho, brāhmaṇa, rāgena
abhibhūto pariyādinnacitto attabyābādhāyapi ceteti, parabyābādhāyapi
ceteti, ubhayabyābādhāyapi ceteti, cetasikampi dukkhaṃ domanassaṃ
paṭisaṃvedeti. Rāge pahīne nevattabyābādhāyapi ceteti, na
parabyābādhāyapi ceteti, na ubhayabyābādhāyapi ceteti, na
cetasikampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Evampi kho, brāhmaṇa,
sandiṭṭhikaṃ nibbānaṃ hoti.
‘‘Duṭṭho kho,
brāhmaṇa…pe… mūḷho kho, brāhmaṇa, mohena abhibhūto pariyādinnacitto
attabyābādhāyapi ceteti, parabyābādhāyapi ceteti, ubhayabyābādhāyapi
ceteti, cetasikampi dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Mohe pahīne
nevattabyābādhāyapi ceteti, na
parabyābādhāyapi ceteti, na ubhayabyābādhāyapi ceteti, na cetasikaṃ
dukkhaṃ domanassaṃ paṭisaṃvedeti. Evampi kho, brāhmaṇa, sandiṭṭhikaṃ
nibbānaṃ hoti.
‘‘Yato kho ayaṃ,
brāhmaṇa [yato ca kho ayaṃ brāhmaṇa (sī.), yato
kho brāhmaṇa akālikaṃ ehipassikaṃ opaneyyikaṃ paccattaṃ veditabbaṃ
(ka.)], anavasesaṃ rāgakkhayaṃ paṭisaṃvedeti, anavasesaṃ
dosakkhayaṃ paṭisaṃvedeti, anavasesaṃ mohakkhayaṃ paṭisaṃvedeti;
evaṃ kho, brāhmaṇa, sandiṭṭhikaṃ nibbānaṃ hoti akālikaṃ ehipassikaṃ
opaneyyikaṃ paccattaṃ veditabbaṃ viññūhī’’ti. ‘‘Abhikkantaṃ, bho
gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ
saraṇaṃ gata’’nti. Pañcamaṃ.
|
5.
Nibbutasuttavaṇṇanā
56.
Pañcame akālikanti na kālantare pattabbaṃ.
Opaneyyikanti paṭipattiyā upagantabbaṃ.
|
55.- Niết-bàn
Rồi Bà-la-môn Jànussoni đi đến Thế
Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
- Thiết thực hiện tại là Niết bàn,
thưa Tôn giả Gotama, được nói đến như vậy. Cho đến như thế nào, thưa
Tôn giả Gotama, Niết bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự ḿnh
giác hiểu?
- Bị tham ái làm say đắm, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại
ḿnh, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm
khổ tâm ưu. Tham ái được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không
nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ
tâm ưu. Như vậy, này Bà-la-môn, Niết bàn là thiết thực hiện tại,
không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự ḿnh giác hiểu.
Bị sân làm uế nhiễm, này
Bà-la-môn, bị chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại
ḿnh, suy nghĩ điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm
khổ tâm ưu. Sân được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không
nghĩ đến hại người, không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ
tâm ưu. Như vậy, này Bà-la-môn, Niết bàn là thiết thực hiện tại,
không có thời gian, đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được
người trí tự ḿnh giác hiểu.
Bị si làm mê mờ, này Bà-la-môn, bị
chinh phục, tâm bị xâm chiếm, nên suy nghĩ điều hại ḿnh, suy nghĩ
điều hại người, suy nghĩ điều hại cả hai, cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Si
được đoạn trừ, thời không nghĩ đến tự hại, không nghĩ đến hại người,
không nghĩ đến hại cả hai, không cảm thọ tâm khổ tâm ưu. Như vậy,
này Bà-la-môn, Niết bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự ḿnh
giác hiểu.
Khi vị ấy, này Bà-la-môn, cảm thọ
tham ái được đoạn tận, không có dư tàn, cảm thọ sân được đoạn tận,
không có dư tàn, cảm thọ si được đoạn tận, không có dư tàn. Như vậy,
này Bà-la-môn, Niết bàn là thiết thực hiện tại, không có thời gian,
đến để mà thấy, có khả năng hướng thượng, được người trí tự ḿnh
giác hiểu.
- Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng những
ǵ bị quăng ngă xuống, hay tŕnh bày cái ǵ bị che kín, hay chỉ
đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng tối để những
ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đă được Tôn giả
Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết giảng. Con nay xin quy y Tôn
giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm
đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
|
6. Palokasuttaṃ
57.
Atha kho aññataro brāhmaṇamahāsālo yena bhagavā tenupasaṅkami…pe…
ekamantaṃ nisinno kho so brāhmaṇamahāsālo bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘sutaṃ metaṃ, bho gotama, pubbakānaṃ brāhmaṇānaṃ vuddhānaṃ
mahallakānaṃ ācariyapācariyānaṃ bhāsamānānaṃ – ‘pubbe sudaṃ
[pubbassudaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] ayaṃ
loko avīci maññe phuṭo ahosi manussehi, kukkuṭasaṃpātikā
gāmanigamarājadhāniyo’ti. Ko nu kho, bho gotama, hetu ko paccayo
yenetarahi manussānaṃ khayo hoti, tanuttaṃ paññāyati, gāmāpi
agāmā honti
, nigamāpi anigamā honti, nagarāpi anagarā
honti, janapadāpi ajanapadā hontī’’ti?
‘‘Etarahi,
brāhmaṇa, manussā adhammarāgarattā visamalobhābhibhūtā
micchādhammaparetā. Te adhammarāgarattā visamalobhābhibhūtā
micchādhammaparetā tiṇhāni satthāni gahetvā aññamaññaṃ
[aññamaññassa (sabbattha)] jīvitā
voropenti, tena bahū manussā kālaṃ karonti. Ayampi kho
, brāhmaṇa, hetu ayaṃ paccayo yenetarahi
manussānaṃ khayo hoti, tanuttaṃ paññāyati, gāmāpi agāmā honti,
nigamāpi anigamā honti, nagarāpi anagarā honti, janapadāpi ajanapadā
honti.
‘‘Puna caparaṃ,
brāhmaṇa, etarahi manussā adhammarāgarattā visamalobhābhibhūtā
micchādhammaparetā. Tesaṃ adhammarāgarattānaṃ visamalobhābhibhūtānaṃ
micchādhammaparetānaṃ devo na sammādhāraṃ anuppavecchati. Tena
dubbhikkhaṃ hoti dussassaṃ setaṭṭhikaṃ salākāvuttaṃ. Tena bahū
manussā kālaṃ karonti. Ayampi kho, brāhmaṇa, hetu ayaṃ paccayo
yenetarahi manussānaṃ khayo hoti, tanuttaṃ paññāyati, gāmāpi agāmā
honti, nigamāpi anigamā honti, nagarāpi anagarā honti, janapadāpi
ajanapadā honti.
‘‘Puna caparaṃ,
brāhmaṇa, etarahi manussā adhammarāgarattā visamalobhābhibhūtā
micchādhammaparetā. Tesaṃ adhammarāgarattānaṃ visamalobhābhibhūtānaṃ
micchādhammaparetānaṃ yakkhā vāḷe amanusse ossajjanti
[ossajanti (sī.)], tena bahū manussā kālaṃ
karonti. Ayampi kho, brāhmaṇa, hetu ayaṃ paccayo yenetarahi
manussānaṃ khayo hoti, tanuttaṃ paññāyati, gāmāpi agāmā honti,
nigamāpi anigamā honti, nagarāpi anagarā honti, janapadāpi ajanapadā
hontī’’ti.
‘‘Abhikkantaṃ, bho
gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ
saraṇaṃ gata’’nti. Chaṭṭhaṃ.
|
6.
Palokasuttavaṇṇanā
57.
Chaṭṭhe ācariyapācariyānanti ācariyānañceva
ācariyācariyānañca. Avīci maññe phuṭo ahosīti
yathā avīci mahānirayo nirantaraphuṭo nerayikasattehi paripuṇṇo,
manussehi evaṃ paripuṇṇo hoti.
Kukkuṭasaṃpātikāti ekagāmassa
chadanapiṭṭhito uppatitvā itaragāmassa
chadanapiṭṭhe patanasaṅkhāto kukkuṭasaṃpāto
etāsu atthīti kukkuṭasaṃpātikā. Kukkuṭasaṃpādikātipi pāṭho,
gāmantarato gāmantaraṃ kukkuṭānaṃ padasā gamanasaṅkhāto
kukkuṭasaṃpādo etāsu atthīti attho. Ubhayampetaṃ ghananivāsataṃyeva
dīpeti. Adhammarāgarattāti rāgo nāma
ekanteneva adhammo, attano parikkhāresu pana uppajjamāno na
adhammarāgoti adhippeto, paraparikkhāresu uppajjamānova
adhammarāgoti. Visamalobhābhibhūtāti
lobhassa samakālo nāma natthi, ekantaṃ visamova esa. Attanā
pariggahitavatthumhi pana uppajjamāno samalobho nāma,
parapariggahitavatthumhi uppajjamānova visamoti adhippeto.
Micchādhammaparetāti
avatthupaṭisevanasaṅkhātena micchādhammena samannāgatā.
Devo na sammā dhāraṃ anuppavecchatīti
vassitabbayutte kāle vassaṃ na vassati. Dubbhikkhanti
dullabhabhikkhaṃ. Dussassanti
vividhasassānaṃ asampajjanena dussassaṃ.
Setaṭṭhikanti sasse sampajjamāne pāṇakā patanti, tehi
daṭṭhattā nikkhantanikkhantāni sālisīsāni setavaṇṇāni honti
nissārāni. Taṃ sandhāya vuttaṃ ‘‘setaṭṭhika’’nti.
Salākāvuttanti vapitaṃ vapitaṃ sassaṃ salākāmattameva
sampajjati, phalaṃ na detīti attho. Yakkhāti
yakkhādhipatino. Vāḷe amanusse ossajjantīti
caṇḍayakkhe manussapathe vissajjenti, te laddhokāsā mahājanaṃ
jīvitakkhayaṃ pāpenti.
|
56.- Người Giàu Có
Rồi một Bà-la-môn giàu có lớn đi
đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn giàu có lớn bạch Thế Tôn:
- Con có nghe, thưa Tôn giả
Gotama, các Bà-la-môn thuở xưa, các trưởng lăo lớn tuổi, bậc thầy
của các bậc Thầy nói rằng: "Thuở xưa, thế giới này quá sung măn, với
người, - người ta nghĩ như một vực sâu không có sóng, các làng, các
thị trấn, các kinh thành quá gần để một con gà trống có thể bước từ
chỗ này qua chỗ kia."
Do nhân ǵ, thưa Tôn giả Gotama,
do duyên ǵ, ngày nay loài người lại bị tiêu diệt, bị giảm thiểu
trông rơ như thế, các làng trở thành không phải làng, các thị trấn
trở thành không phải thị trấn, các thành phố trở thành không phải
thành phố, các quốc độ trở thành không phải quốc độ?
- Ngày nay, này Bà-la-môn, loài
người bị tham ái phi pháp làm cho say đắm, và bị ác tham chinh phục,
bị tà kiến chi phối. V́ bị tham ái phi pháp làm cho say đắm, v́ bị
ác tham chinh phục, v́ bị tà kiến chi phối, chúng cầm gươm sắc bén
sát hại lẫn nhau. Do vậy, nhiều người mạng chung. Đây là nhân, này
Bà-la-môn, đây là duyên, ngày nay loài người bị tiêu diệt, bị giảm
thiểu trông rơ như thế, các làng trở thành không phải làng, các thị
trấn trở thành không phải thị trấn, các thành phố trở thành không
phải thành phố, các quốc độ trở thành không quốc độ.
Lại nữa, này Bà-la-môn, ngày nay,
các loài người bị tham ái phi pháp làm cho say đắm, và bị ác tham
chinh phục, bị các tà kiến chi phối. V́ bị tham ái phi pháp làm cho
say đắm, v́ bị ác tham chinh phục, v́ bị tà kiến chi phối, trời
không mưa xuống đều đặn. V́ vậy, bữa ăn khó t́m, mùa màng hư mất,
trắng xóa với côn trùng, chỉ c̣n lại cọng dẹp. Do vậy, nhiều người
mạng chung. Đây là nhân, này Bà-la-môn, đây là duyên, v́ sao ngày
nay loài người bị tiêu diệt, bị giảm thiểu trông rơ như thế, các
làng trở thành không phải làng, các thị trấn trở thành không phải
thị trấn, các thành phố trở thành không phải thành phố, các quốc độ
trở thành không phải quốc độ.
Lại nữa, này Bà-la-môn, ngày nay,
các loài người bị tham ái phi pháp làm cho say đắm, và bị ác tham
chinh phục, bị các tà kiến chi phối. V́ bị tham ái phi pháp làm cho
say đắm, v́ bị ác tham chinh phục, v́ bị tà kiến chi phối, các loài
Yakkha (Dạ-xoa) thả ra các loài phi nhân dữ tợn. V́ vậy, nhiều người
mạng chung. Đây là nhân, này Bà-la-môn, đây là duyên, ngày nay loài
người bị tiêu diệt, bị giảm thiểu trông rơ như thế, các làng trở
thành không phải làng, các thị trấn trở thành không phải thị trấn,
các thành phố trở thành không phải thành phố, các quốc độ trở thành
không phải quốc độ.
- Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng những
ǵ bị quăng ngă xuống, hay tŕnh bày cái ǵ bị che kín, hay chỉ
đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng tối để những
ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đă được Tôn giả
Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết giảng. Con nay xin quy y Tôn
giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm
đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
|
7.
Vacchagottasuttaṃ
58.
Atha kho vacchagotto
[vacchaputto (ka.)] paribbājako yena bhagavā tenupasaṅkami
; upasaṅkamitvā bhagavatā
saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā
ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho vacchagotto paribbājako
bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘sutaṃ metaṃ, bho gotama, samaṇo gotamo
evamāha – ‘mayhameva dānaṃ dātabbaṃ , nāññesaṃ
dānaṃ dātabbaṃ; mayhameva sāvakānaṃ dānaṃ dātabbaṃ, nāññesaṃ
sāvakānaṃ dānaṃ dātabbaṃ; mayhameva dinnaṃ mahapphalaṃ, nāññesaṃ
dinnaṃ mahapphalaṃ; mayhameva sāvakānaṃ dinnaṃ mahapphalaṃ, nāññesaṃ
sāvakānaṃ dinnaṃ mahapphala’nti. Ye te, bho gotama, evamāhaṃsu
‘samaṇo gotamo evamāha mayhameva dānaṃ dātabbaṃ, nāññesaṃ dānaṃ
dātabbaṃ. Mayhameva sāvakānaṃ dānaṃ dātabbaṃ, nāññesaṃ sāvakānaṃ
dānaṃ dātabbaṃ. Mayhameva dinnaṃ mahapphalaṃ, nāññesaṃ dinnaṃ
mahapphalaṃ. Mayhameva sāvakānaṃ dinnaṃ mahapphalaṃ, nāññesaṃ
sāvakānaṃ dinnaṃ mahapphala’nti. Kacci te bhoto gotamassa
vuttavādino ca bhavantaṃ gotamaṃ abhūtena abbhācikkhanti, dhammassa
cānudhammaṃ byākaronti, na ca koci sahadhammiko vādānupāto
[vādānuvādo (ka.)] gārayhaṃ ṭhānaṃ
āgacchati? Anabbhakkhātukāmā hi mayaṃ bhavantaṃ gotama’’nti.
‘‘Ye te, vaccha,
evamāhaṃsu – ‘samaṇo gotamo evamāha – mayhameva dānaṃ dātabbaṃ…pe…
nāññesaṃ sāvakānaṃ dinnaṃ mahapphala’nti na me te vuttavādino.
Abbhācikkhanti ca pana maṃ [ca pana maṃ te (sī.
syā. kaṃ. pī.)] asatā abhūtena. Yo kho, vaccha, paraṃ dānaṃ
dadantaṃ vāreti so tiṇṇaṃ antarāyakaro hoti, tiṇṇaṃ pāripanthiko.
Katamesaṃ tiṇṇaṃ? Dāyakassa puññantarāyakaro
hoti, paṭiggāhakānaṃ lābhantarāyakaro hoti, pubbeva kho panassa attā
khato ca hoti upahato ca. Yo kho, vaccha, paraṃ dānaṃ dadantaṃ
vāreti so imesaṃ tiṇṇaṃ antarāyakaro hoti, tiṇṇaṃ pāripanthiko.
‘‘Ahaṃ kho pana,
vaccha, evaṃ vadāmi – ye hi te candanikāya vā oligalle vā pāṇā,
tatrapi yo thālidhovanaṃ [thālakadhovanaṃ (ka.)]
vā sarāvadhovanaṃ vā chaḍḍeti – ye tattha pāṇā
te tena yāpentūti, tato nidānampāhaṃ, vaccha, puññassa āgamaṃ
vadāmi. Ko pana vādo manussabhūte! Api cāhaṃ, vaccha, sīlavato
dinnaṃ mahapphalaṃ vadāmi, no tathā dussīlassa, so ca hoti
pañcaṅgavippahīno pañcaṅgasamannāgato.
‘‘Katamāni
pañcaṅgāni pahīnāni honti? Kāmacchando pahīno hoti, byāpādo pahīno
hoti , thinamiddhaṃ
pahīnaṃ hoti, uddhaccakukkuccaṃ pahīnaṃ hoti, vicikicchā pahīnā
hoti. Imāni pañcaṅgāni vippahīnāni honti.
‘‘Katamehi pañcahi
aṅgehi samannāgato hoti? Asekkhena sīlakkhandhena samannāgato hoti,
asekkhena samādhikkhandhena samannāgato hoti, asekkhena
paññākkhandhena samannāgato hoti, asekkhena vimuttikkhandhena
samannāgato hoti, asekkhena vimuttiñāṇadassanakkhandhena samannāgato
hoti; imehi pañcahi aṅgehi samannāgato hoti. Iti pañcaṅgavippahīne
pañcaṅgasamannāgate dinnaṃ mahapphalanti vadāmī’’ti.
‘‘Iti kaṇhāsu
setāsu, rohiṇīsu harīsu vā;
Kammāsāsu
sarūpāsu, gosu pārevatāsu vā.
‘‘Yāsu
kāsuci etāsu, danto jāyati puṅgavo;
Dhorayho
balasampanno, kalyāṇajavanikkamo;
Tameva bhāre
yuñjanti, nāssa vaṇṇaṃ parikkhare.
‘‘Evamevaṃ
manussesu, yasmiṃ kasmiñci jātiye;
Khattiye brāhmaṇe
vesse, sudde caṇḍālapukkuse.
‘‘Yāsu kāsuci
etāsu, danto jāyati subbato;
Dhammaṭṭho
sīlasampanno, saccavādī hirīmano.
‘‘Pahīnajātimaraṇo, brahmacariyassa kevalī;
Pannabhāro
visaṃyutto, katakicco anāsavo.
‘‘Pāragū
sabbadhammānaṃ, anupādāya nibbuto;
Tasmiṃyeva
[tasmiṃ ve (syā. kaṃ.)] viraje khette,
vipulā hoti dakkhiṇā.
‘‘Bālā
ca avijānantā, dummedhā
assutāvino;
Bahiddhā denti
dānāni, na hi sante upāsare.
‘‘Ye ca sante
upāsanti, sappaññe dhīrasammate;
Saddhā ca nesaṃ
sugate, mūlajātā patiṭṭhitā.
‘‘Devalokañca te
yanti, kule vā idha jāyare;
Anupubbena
nibbānaṃ, adhigacchanti paṇḍitā’’ti. sattamaṃ;
|
7.
Vacchagottasuttavaṇṇanā
58.
Sattame mahapphalanti mahāvipākaṃ.
Dhammassa cānudhammaṃ byākarontīti ettha
dhammo nāma kathitakathā,
anudhammo nāma kathitassa paṭikathanaṃ.
Sahadhammikoti sakāraṇo sahetuko.
Vādānupātoti vādassa anupāto, anupatanaṃ pavattīti attho.
Gārayhaṃṭhānanti
garahitabbayuttaṃ kāraṇaṃ. Idaṃ vuttaṃ hoti – bhotā gotamena vuttā
sakāraṇā vādappavatti kiñcipi gārayhaṃ kāraṇaṃ na āgacchatīti. Atha
vā tehi parehi vuttā sakāraṇā vādappavatti kiñci gārayhaṃ kāraṇaṃ na
āgacchatīti pucchati.
Antarāyakarohotīti
antarāyaṃ vināsaṃ kicchalābhakaṃ vilomakaṃ karoti.
Pāripanthikoti panthadūhanacoro. Khato ca
hotīti guṇakhananena khato hoti. Upahatoti
guṇupaghāteneva upahato.
Candanikāyāti
asucikalalakūpe. Oligalleti
niddhamanakalale. So cāti so sīlavāti
vuttakhīṇāsavo. Sīlakkhandhenāti
sīlarāsinā. Sesapadesupi eseva nayo. Ettha ca vimuttiñāṇadassanaṃ
vuccati paccavekkhaṇañāṇaṃ, taṃ asekkhassa pavattattā asekkhanti
vuttaṃ. Itarāni sikkhāpariyosānappattatāya sayampi asekkhāneva. Tāni
ca pana lokuttarāni, paccavekkhaṇañāṇaṃ lokiyaṃ.
Rohiṇīsūti
rattavaṇṇāsu. Sarūpāsūti attano vacchakehi
samānarūpāsu. Pārevatāsūti kapotavaṇṇāsu.
Dantoti nibbisevano.
Puṅgavoti usabho. Dhorayhoti
dhuravāho. Kalyāṇajavanikkamoti kalyāṇena
ujunā javena gantā. Nāssa vaṇṇaṃ parikkhareti
assa goṇassa sarīravaṇṇaṃ na upaparikkhanti, dhuravahanakammameva
pana upaparikkhanti. Yasmiṃ kasmiñci jātiyeti
yattha katthaci kulajāte. Yāsu kāsuci etāsūti
etāsu khattiyādippabhedāsu yāsu kāsuci jātīsu.
Brahmacariyassa kevalīti
brahmacariyassa kevalena samannāgato, paripuṇṇabhāvena yuttoti
attho. Khīṇāsavo hi sakalabrahmacārī nāma hoti. Tenetaṃ vuttaṃ.
Pannabhāroti
oropitabhāro, khandhabhāraṃ kilesabhāraṃ kāmaguṇabhārañca oropetvā
ṭhitoti attho. Katakiccoti catūhi maggehi
kiccaṃ katvā ṭhito. Pāragū sabbadhammānanti
sabbadhammā vuccanti pañcakkhandhā dvādasāyatanāni aṭṭhārasa
dhātuyo, tesaṃ sabbadhammānaṃ abhiññāpāraṃ, pariññāpāraṃ,
pahānapāraṃ, bhāvanāpāraṃ, sacchikiriyāpāraṃ, samāpattipārañcāti
chabbidhaṃ pāraṃ gatattā pāragū. Anupādāyāti
aggahetvā. Nibbutoti kilesasantāparahito.
Virajeti rāgadosamoharajarahite.
Avijānantāti
khettaṃ ajānantā. Dummedhāti
nippaññā. Assutāvinoti
khettavinicchayasavanena rahitā. Bahiddhāti
imamhā sāsanā bahiddhā. Na hi sante upāsareti
buddhapaccekabuddhakhīṇāsave uttamapurise na upasaṅkamanti.
Dhīrasammateti paṇḍitehi sammate
sambhāvite. Mūlajātā patiṭṭhitāti iminā
sotāpannassa saddhaṃ dasseti. Kule vā idha jāyareti
idha vā manussaloke khattiyabrāhmaṇavessakule jāyanti. Ayameva hi
tividhā kulasampatti nāma. Anupubbena nibbānaṃ,
adhigacchantīti sīlasamādhipaññāti ime guṇe pūretvā
anukkamena nibbānaṃ adhigacchantīti.
|
57.- Vacchagotta
Rồi du sĩ Vacchagotta đi đến Thế
Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên,
du sĩ Vacchagotta thưa với Thế Tôn:
- Tôi có được nghe, thưa Tôn giả
Gotama, người ta loan truyền rằng Sa-môn Gotama nói như sau: "Cần
phải bố thí cho Ta, không cần bố thí cho người khác. Cần phải bố thí
cho đệ tử của Ta, không cần phải bố thí cho đệ tử những người khác.
Bố thí cho Ta có quả lớn, bố thí cho những người khác không có quả
lớn. Bố thí cho các đệ tử của ta có quả lớn, bố thí cho những đệ tử
của người khác không có quả lớn!". Thưa Tôn giả Gotama, những ai nói
rằng Sa-môn nói như sau: "Cần phải bố thí cho Ta, không cần bố thí
cho người khác. Cần phải bố thí cho đệ tử của Ta, không cần phải bố
thí cho đệ tử những người khác. Bố thí cho Ta có quả lớn, bố thí cho
những người khác không có quả lớn. Bố thí cho các đệ tử của ta có
quả lớn, bố thí cho những đệ tử của người khác không có quả lớn!",
những người nói như vậy, có phải nói đúng lời nói của Tôn giả
Gotama, không có xuyên tạc Tôn giả Gotama với điều không thật? Có
phải họ nói như vậy là đúng pháp và thuận pháp, và những ai là người
đúng pháp, nói lời đúng pháp và thuận pháp, không có cơ hội để chỉ
trích? Họ không muốn xuyên tạc Tôn giả Gotama?
- Này Vaccha, những ai nói rằng
Sa-môn Gotama nói như sau: "Cần phải bố thí cho Ta, không cần bố thí
cho người khác. Cần phải bố thí cho đệ tử của Ta, không cần phải bố
thí cho đệ tử những người khác. Bố thí cho Ta có quả lớn, bố thí cho
những người khác không có quả lớn. Bố thí cho các đệ tử của ta có
quả lớn, bố thí cho những đệ tử của người khác không có quả lớn!",
những người ấy không nói đúng với lời nói của ta, họ đă xuyên tạc ta
với điều không thật, họ đă nói láo. Này Vaccha, ai ngăn chận người
khác bố thí, người ấy tạo ra ba chướng ngại pháp và đánh cắp mất ba
vật. Thế nào là ba?
Người ấy làm chướng ngại người cho
không được công đức, người ấy ngăn chặn người nhận không được bố
thí, và tự ngă người ấy trước đă mất gốc, lại càng bị thương tổn
hơn. Này Vaccha, ai ngăn chặn người cho không bố thí người khác, tạo
ra ba chướng ngại như vậy, và đánh cắp mất ba vật. Này Vaccha, ta
nói như sau: "Những ai đổ đồ phế thải trên mâm bàn, hay đồ rửa chén
bát vào hố phân hay hố rác rưởi với ư nghĩ để các loài hữu t́nh
trong ấy nhờ đấy được ăn để sống". Do nhân duyên ấy, này Vaccha, ta
nói có đem lại công đức, c̣n nói ǵ đối với loài người.
Lại nữa, này Vaccha, Ta tuyên bố
rằng, cho người có giới hạnh được quả lớn, cho người ác giới không
phải như vậy. Người có giới hạnh là người đă đoạn tận năm pháp và đă
đầy đủ năm pháp.
Thế nào là năm pháp đă được đoạn
tận? Dục tham đă được đoạn tận, sân đă được đoạn tận, hôn trầm thùy
miên đă được đoạn tận, trạo hối đă được đoạn tận, nghi đă được đoạn
tận, năm pháp này đă được đoạn tận.
Năm pháp nào đă được đầy đủ?
Đầy đủ vô học giới uẩn, đầy đủ vô
học định uẩn, đầy đủ vô học tuệ uẩn, đầy đủ vô học giải thoát uẩn,
đầy đủ vô học giải thoát tri kiến uẩn. Vị ấy được đầy đủ năm pháp
này. Ở đây, Ta tuyên bố rằng, bố thí cho người đoạn tận năm pháp,
đầy đủ năm pháp có quả lớn.
Như trong một đàn ḅ,
Có con đen, trắng, đỏ
Màu hung hay có đốm,
Có con màu bồ câu
Dầu con ḅ màu ǵ,
Kiếm được con ḅ thuần,
Con vật kéo sức mạnh,
Đẹp, lanh và hăng hái,
Mặc kệ nó màu ǵ,
Liền mắc vào gánh nặng,
Cũng vậy, giữa loài người,
Dầu có sinh chỗ nào,
Hoàng tộc, Bà-la-môn
Thương gia hay nô bộc,
Kẻ không có giai cấp,
Hay hạ cấp đổ phân,
Giữa những người như vậy.
Ai điều phục thuần thục,
Ngay thẳng, đủ giới đức
Nói thực, biết tàm quư,
Sanh tử đă đoạn tận,
Phạm hạnh được vẹn toàn
Gánh nặng đă hạ xuống,
Không c̣n bị trói buộc,
Việc cần làm đă làm,
Không c̣n bị lậu hoặc,
Đă đến bờ bên kia,
Không chấp pháp tịch tịnh,
Phước điền ấy vô cấu.
Quả lớn đáng cúng dường;
Như kẻ ngu không biết,
Thiếu trí, ít nghe nhiều,
Chỉ bố thí bên ngoài,
Không đến gần kẻ thiện,
Những ai gần kẻ thiện,
Có tuệ, tôn bực hiền
Họ tin bậc Thiện Thệ,
An trú tận gốc rễ.
Sanh Thiên hay ở đây
Được sanh gia đ́nh tốt
Bậc trí tuần tự tiến
Chứng được cảnh Niết-bàn.
|
8. Tikaṇṇasuttaṃ
59.
Atha kho tikaṇṇo brāhmaṇo yena bhagavā
tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ…pe… ekamantaṃ nisinno
kho tikaṇṇo brāhmaṇo bhagavato sammukhā
tevijjānaṃ sudaṃ brāhmaṇānaṃ vaṇṇaṃ bhāsati – ‘‘evampi tevijjā
brāhmaṇā, itipi tevijjā brāhmaṇā’’ti.
‘‘Yathā kathaṃ
pana, brāhmaṇa, brāhmaṇā brāhmaṇaṃ tevijjaṃ paññāpentī’’ti? ‘‘Idha,
bho gotama, brāhmaṇo ubhato sujāto hoti mātito ca pitito ca,
saṃsuddhagahaṇiko yāva sattamā pitāmahayugā, akkhitto anupakkuṭṭho
jātivādena, ajjhāyako, mantadharo, tiṇṇaṃ vedānaṃ pāragū
sanighaṇḍukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ itihāsapañcamānaṃ, padako,
veyyākaraṇo, lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anavayoti. Evaṃ kho, bho
gotama, brāhmaṇā tevijjaṃ paññāpentī’’ti.
‘‘Aññathā kho,
brāhmaṇa, brāhmaṇā brāhmaṇaṃ tevijjaṃ paññapenti, aññathā ca pana
ariyassa vinaye tevijjo hotī’’ti. ‘‘Yathā kathaṃ pana, bho gotama,
ariyassa vinaye tevijjo hoti? Sādhu me bhavaṃ gotamo tathā dhammaṃ
desetu yathā ariyassa vinaye tevijjo hotī’’ti. ‘‘Tena hi, brāhmaṇa,
suṇāhi, sādhukaṃ manasi karohi; bhāsissāmī’’ti. ‘‘Evaṃ, bho’’ti kho
tikaṇṇo brāhmaṇo bhagavato paccassosi. Bhagavā etadavoca –
‘‘Idha
, brāhmaṇa, bhikkhu vivicceva kāmehi vivicca
akusalehi dhammehi savitakkaṃ savicāraṃ vivekajaṃ pītisukhaṃ
paṭhamaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Vitakkavicārānaṃ vūpasamā
ajjhattaṃ sampasādanaṃ cetaso ekodibhāvaṃ avitakkaṃ avicāraṃ
samādhijaṃ pītisukhaṃ dutiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Pītiyā
ca virāgā upekkhako ca viharati sato ca
sampajāno, sukhañca kāyena paṭisaṃvedeti yaṃ taṃ ariyā
ācikkhanti – ‘upekkhako satimā sukhavihārī’ti
tatiyaṃ jhānaṃ upasampajja viharati. Sukhassa ca pahānā dukkhassa ca
pahānā, pubbeva somanassadomanassānaṃ atthaṅgamā adukkhamasukhaṃ
upekkhāsatipārisuddhiṃ catutthaṃ jhānaṃ
upasampajja viharati.
‘‘So evaṃ samāhite
citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte
kammaniye ṭhite āneñjappatte pubbenivāsānussatiñāṇāya cittaṃ
abhininnāmeti. So anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati, seyyathidaṃ
– ekampi jātiṃ dvepi jātiyo tissopi jātiyo catassopi jātiyo pañcapi
jātiyo dasapi jātiyo vīsampi jātiyo tiṃsampi jātiyo cattārīsampi
jātiyo paññāsampi jātiyo jātisatampi jātisahassampi
jātisatasahassampi, anekepi saṃvaṭṭakappe anekepi vivaṭṭakappe
anekepi saṃvaṭṭavivaṭṭakappe – ‘amutrāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto
evaṃvaṇṇo evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī evamāyupariyanto, so
tato cuto amutra udapādiṃ. Tatrāpāsiṃ evaṃnāmo evaṃgotto evaṃvaṇṇo
evamāhāro evaṃsukhadukkhappaṭisaṃvedī evamāyupariyanto, so tato cuto
idhūpapanno’ti. Iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ
anussarati. Ayamassa paṭhamā vijjā adhigatā hoti; avijjā vihatā,
vijjā uppannā; tamo vihato, āloko uppanno yathā taṃ appamattassa
ātāpino pahitattassa viharato.
‘‘So evaṃ samāhite
citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte
kammaniye ṭhite āneñjappatte sattānaṃ
cutūpapātañāṇāya cittaṃ abhininnāmeti. So dibbena cakkhunā
visuddhena atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne
hīne paṇīte suvaṇṇe dubbaṇṇe, sugate duggate yathākammūpage satte
pajānāti – ‘ime vata bhonto sattā kāyaduccaritena samannāgatā…pe…
manoduccaritena samannāgatā ariyānaṃ upavādakā micchādiṭṭhikā
micchādiṭṭhikammasamādānā, te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ
duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapannā. Ime vā
pana bhonto sattā kāyasucaritena samannāgatā, vacīsucaritena
samannāgatā, manosucaritena samannāgatā
ariyānaṃ anupavādakā sammādiṭṭhikā
sammādiṭṭhikammasamādānā, te kāyassa bhedā paraṃ maraṇā sugatiṃ
saggaṃ lokaṃ upapannā’ti. Iti dibbena cakkhunā visuddhena
atikkantamānusakena satte passati cavamāne upapajjamāne hīne paṇīte
suvaṇṇe dubbaṇṇe, sugate duggate yathākammūpage satte pajānāti.
Ayamassa dutiyā vijjā adhigatā hoti; avijjā vihatā, vijjā uppannā;
tamo vihato, āloko uppanno yathā taṃ appamattassa ātāpino
pahitattassa viharato.
‘‘So evaṃ samāhite
citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte
kammaniye ṭhite āneñjappatte āsavānaṃ khayañāṇāya cittaṃ
abhininnāmeti. So ‘idaṃ dukkha’nti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ
dukkhasamudayo’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodho’ti
yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti
yathābhūtaṃ pajānāti; ‘ime āsavā’ti
yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ āsavasamudayo’ti yathābhūtaṃ pajānāti,
‘ayaṃ āsavanirodho’ti yathābhūtaṃ pajānāti, ‘ayaṃ āsavanirodhagāminī
paṭipadā’ti yathābhūtaṃ pajānāti. Tassa evaṃ jānato evaṃ passato
kāmāsavāpi cittaṃ vimuccati, bhavāsavāpi cittaṃ vimuccati,
avijjāsavāpi cittaṃ vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti.
‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ
itthattāyā’ti pajānāti. Ayamassa tatiyā vijjā adhigatā hoti; avijjā
vihatā, vijjā uppannā; tamo vihato, āloko uppanno yathā taṃ
appamattassa ātāpino pahitattassa viharato’’ti.
‘‘Anuccāvacasīlassa, nipakassa ca jhāyino;
Cittaṃ yassa
vasībhūtaṃ, ekaggaṃ susamāhitaṃ.
‘‘Taṃ ve tamonudaṃ
dhīraṃ, tevijjaṃ maccuhāyinaṃ;
Hitaṃ
devamanussānaṃ, āhu sabbappahāyinaṃ.
‘‘Tīhi vijjāhi
sampannaṃ, asammūḷhavihārinaṃ;
Buddhaṃ
antimadehinaṃ [antimasārīraṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)],
taṃ namassanti gotamaṃ.
[dha. pa. 423; itivu. 99]
‘‘Pubbenivāsaṃ yo vedī,
saggāpāyañca passati;
Atho jātikkhayaṃ
patto, abhiññāvosito muni.
‘‘Etāhi tīhi
vijjāhi, tevijjo hoti brāhmaṇo;
Tamahaṃ vadāmi
tevijjaṃ, nāññaṃ lapitalāpana’’nti.
‘‘Evaṃ
kho, brāhmaṇa, ariyassa
vinaye tevijjo hotī’’ti. ‘‘Aññathā, bho gotama, brāhmaṇānaṃ tevijjo,
aññathā ca pana ariyassa vinaye tevijjo hoti. Imassa ca pana, bho
gotama, ariyassa vinaye tevijjassa brāhmaṇānaṃ tevijjo kalaṃ
nāgghati soḷasiṃ’’.
‘‘Abhikkantaṃ, bho
gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ
saraṇaṃ gata’’nti. Aṭṭhamaṃ.
|
8.
Tikaṇṇasuttavaṇṇanā
59.
Aṭṭhame tikaṇṇoti
tassa nāmaṃ. Upasaṅkamīti ‘‘samaṇo kira
gotamo paṇḍito, gacchissāmi tassa santika’’nti cintetvā
bhuttapātarāso mahājanaparivuto upasaṅkami.
Bhagavato sammukhāti dasabalassa purato nisīditvā.
Vaṇṇaṃ bhāsatīti kasmā bhāsati? So kira ito
pubbe tathāgatassa santikaṃ agatapubbo. Athassa etadahosi – ‘‘buddhā
nāma durāsadā, mayi paṭhamataraṃ akathente katheyya vā na vā. Sace
na kathessati, atha maṃ samāgamaṭṭhāne kathentaṃ
evaṃ vakkhanti ‘tvaṃ idha kasmā kathesi, yena te samaṇassa
gotamassa santikaṃ gantvā vacanamattampi na laddha’nti. Tasmā ‘evaṃ
me ayaṃ garahā muccissatī’’’ti maññamāno bhāsati. Kiñcāpi
brāhmaṇānaṃ vaṇṇaṃ bhāsati, tathāgatassa pana ñāṇaṃ ghaṭṭessāmīti
adhippāyeneva bhāsati. Evampi tevijjā brāhmaṇāti
tevijjakabrāhmaṇā evaṃpaṇḍitā evaṃdhīrā evaṃbyattā evaṃbahussutā
evaṃvādino, evaṃsammatāti attho. Itipīti
iminā tesaṃ paṇḍitādiākāraparicchedaṃ dasseti. Ettakena kāraṇena
paṇḍitā…pe… ettakena kāraṇena sammatāti ayañhi ettha attho.
Yathā kathaṃ pana brāhmaṇāti
ettha yathāti kāraṇavacanaṃ,
kathaṃ panāti pucchāvacanaṃ. Idaṃ vuttaṃ
hoti – kathaṃ pana, brāhmaṇa, brāhmaṇā tevijjaṃ
paññāpenti. Yathā evaṃ sakkā hoti jānituṃ, taṃ kāraṇaṃ vadehīti.
Taṃ sutvā brāhmaṇo ‘‘jānanaṭṭhāneyeva maṃ sammāsambuddho pucchi, no
ajānanaṭṭhāne’’ti attamano hutvā idha, bho gotamātiādimāha.
Tattha ubhatoti dvīhipi pakkhehi.
Mātito ca pitito cāti yassa mātā brāhmaṇī,
mātu mātā brāhmaṇī, tassāpi mātā brāhmaṇī. Pitā brāhmaṇo, pitu pitā
brāhmaṇo, tassāpi pitā brāhmaṇo, so ubhato sujāto mātito ca pitito
ca. Saṃsuddhagahaṇikoti yassa saṃsuddhā
mātu gahaṇī, kucchīti attho. ‘‘Samavepākiniyā gahaṇiyā’’ti pana
ettha kammajatejodhātu gahaṇīti vuccati.
Yāva sattamā pitāmahayugāti
ettha pitu pitā pitāmaho, pitāmahassa yugaṃ pitāmahayugaṃ.
Yuganti āyuppamāṇaṃ vuccati.
Abhilāpamattameva cetaṃ, atthato pana pitāmahoyeva pitāmahayugaṃ.
Tato uddhaṃ sabbepi pubbapurisā pitāmahaggahaṇeneva gahitā. Evaṃ
yāva sattamo puriso, tāva saṃsuddhagahaṇiko, atha
vā akkhitto anupakkuṭṭho jātivādenāti
dasseti. Akkhittoti ‘‘apanetha etaṃ, kiṃ
iminā’’ti evaṃ akkhitto anavakkhitto. Anupakkuṭṭhoti
na upakkuṭṭho, na akkosaṃ vā nindaṃ vā pattapubbo. Kena kāraṇenāti?
Jātivādena. ‘‘Itipi hīnajātiko eso’’ti
evarūpena vacanenāti attho.
Ajjhāyakoti idaṃ ‘‘na
dānime jhāyanti, na dānime jhāyantīti kho, vāseṭṭha, ajjhāyakā
ajjhāyakāteva tatiyaṃ akkharaṃ upanibbatta’’nti (dī. ni. 3.132) evaṃ
paṭhamakappikakāle jhānavirahitānaṃ brāhmaṇānaṃ garahavacanaṃ
uppannaṃ. Idāni pana taṃ ajjhāyatīti ajjhāyako, mante parivattetīti
iminā atthena pasaṃsāvacanaṃ katvā voharanti. Mante dhāretīti
mantadharo.
Tiṇṇaṃ vedānanti
irubbedayajubbedasāmabbedānaṃ. Oṭṭhapahatakaraṇavasena pāraṃ gatoti
pāragū. Saha nighaṇḍunā ca keṭubhena ca
sanighaṇḍukeṭubhānaṃ. Nighaṇḍūti
nāmanighaṇḍurukkhādīnaṃ vevacanapakāsakasatthaṃ.
Keṭubhanti kiriyākappavikappo kavīnaṃ upakārāya satthaṃ. Saha
akkharappabhedena
sākkharappabhedānaṃ. Akkharappabhedoti sikkhā ca nirutti ca.
Itihāsapañcamānanti āthabbaṇavedaṃ
catutthaṃ katvā itiha āsa, itiha āsāti īdisavacanapaṭisaṃyutto
purāṇakathāsaṅkhāto khattavijjāsaṅkhāto vā itihāso pañcamo etesanti
itihāsapañcamā. Tesaṃ itihāsapañcamānaṃ vedānaṃ.
Padaṃ
tadavasesañca byākaraṇaṃ adhīyati vedeti cāti
padako veyyākaraṇo. Lokāyataṃ vuccati vitaṇḍavādasatthaṃ.
Mahāpurisalakkhaṇanti mahāpurisānaṃ
buddhādīnaṃ lakkhaṇadīpakaṃ dvādasasahassaganthapamāṇaṃ satthaṃ,
yattha soḷasasahassagāthāpadaparimāṇā buddhamantā nāma ahesuṃ, yesaṃ
vasena ‘‘iminā lakkhaṇena samannāgatā buddhā nāma honti
, iminā paccekabuddhā, dve aggasāvakā, asīti
mahāsāvakā, buddhamātā, buddhapitā, aggupaṭṭhākā, aggupaṭṭhāyikā,
rājā cakkavattī’’ti ayaṃ viseso ñāyati. Anavayoti
imesu lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu anūno paripūrakārī, avayo na
hotīti vuttaṃ hoti. Avayo nāma yo tāni atthato ca ganthato ca
sandhāretuṃ na sakkoti. Atha vā anavayoti
anu avayo, sandhivasena ukāralopo. Anu avayo paripuṇṇasippoti attho.
Tenahīti
idaṃ bhagavā naṃ āyācantaṃ disvā ‘‘idānissa pañhaṃ kathetuṃ kālo’’ti
ñatvā āha. Tassattho – yasmā maṃ āyācasi, tasmā suṇāhīti.
Vivicceva kāmehītiādi visuddhimagge
(visuddhi. 1.70) vitthāritameva. Idha panetaṃ tissannaṃ vijjānaṃ
pubbabhāgapaṭipattidassanatthaṃ vuttanti veditabbaṃ. Tattha dvinnaṃ
vijjānaṃ anupadavaṇṇanā ceva bhāvanānayo ca visuddhimagge (visuddhi.
2.402 ādayo) vitthāritova.
Paṭhamā vijjāti
paṭhamaṃ uppannāti paṭhamā, viditakaraṇaṭṭhena vijjā. Kiṃ viditaṃ
karoti? Pubbenivāsaṃ. Avijjāti tasseva
pubbenivāsassa aviditakaraṇaṭṭhena tappaṭicchādako moho vuccati.
Tamoti sveva moho paṭicchādakaṭṭhena tamoti
vuccati. Ālokoti sāyeva vijjā
obhāsakaraṇaṭṭhena ālokoti vuccati. Ettha ca vijjā adhigatāti ayaṃ
attho . Sesaṃ pasaṃsāvacanaṃ. Yojanā panettha
ayamassa vijjā adhigatā, athassa adhigatavijjassa avijjā vihatā
vinaṭṭhāti attho. Kasmā? Yasmā vijjā uppannā. Itarasmimpi padadvaye
eseva nayo. Yathā tanti ettha
yathāti opammaṃ, tanti
nipātamattaṃ. Satiyā avippavāsena appamattassa.
Vīriyātāpena ātāpino. Kāye ca jīvite ca
anapekkhatāya pahitattassa. Pesitattassāti
attho. Idaṃ vuttaṃ hoti – yathā appamattassa ātāpino pahitattassa
viharato avijjā vihaññeyya, vijjā uppajjeyya. Tamo vihaññeyya, āloko
uppajjeyya, evameva tassa avijjā vihatā ,
vijjā uppannā. Tamo vihato, āloko uppanno. Etassa tena
padhānānuyogassa anurūpameva phalaṃ laddhanti.
Cutūpapātakathāyaṃ
vijjāti dibbacakkhuñāṇavijjā.
Avijjāti sattānaṃ
cutipaṭisandhippaṭicchādikā avijjā. Sesaṃ vuttanayameva.
Tatiyavijjāya
so evaṃ samāhite citteti vipassanāpādakaṃ
catutthajjhānacittaṃ veditabbaṃ. Āsavānaṃ
khayañāṇāyāti arahattamaggañāṇatthāya. Arahattamaggo hi
āsavavināsanato āsavānaṃ khayoti vuccati, tatra cetaṃ ñāṇaṃ tattha
pariyāpannattāti. Cittaṃ abhininnāmetīti
vipassanācittaṃ abhinīharati. So idaṃ dukkhanti
evamādīsu ettakaṃ dukkhaṃ, na ito bhiyyoti sabbampi dukkhasaccaṃ
sarasalakkhaṇappaṭivedhena yathābhūtaṃ pajānāti paṭivijjhati, tassa
ca dukkhassa nibbattikaṃ taṇhaṃ ‘‘ayaṃ dukkhasamudayo’’ti,
tadubhayampi yaṃ ṭhānaṃ patvā nirujjhati , taṃ
tesaṃ apavattiṃ nibbānaṃ ‘‘ayaṃ dukkhanirodho’’ti. Tassa ca
sampāpakaṃ ariyamaggaṃ ‘‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’’ti
sarasalakkhaṇappaṭivedhena yathābhūtaṃ pajānāti paṭivijjhatīti
evamattho veditabbo.
Evaṃ sarūpato
saccāni dassetvā idāni kilesavasena pariyāyato dassento
ime āsavātiādimāha. Tassa
evaṃ jānato evaṃ passatoti tassa bhikkhuno evaṃ jānantassa
evaṃ passantassa. Saha vipassanāya koṭippattaṃ maggaṃ kathesi.
Kāmāsavāti kāmāsavato.
Vimuccatīti iminā maggakkhaṇaṃ dasseti. Maggakkhaṇe hi cittaṃ
vimuccati, phalakkhaṇe vimuttaṃ hoti.
Vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇanti iminā
paccavekkhaṇañāṇaṃ dasseti. Khīṇā jātītiādīhi
tassa bhūmiṃ. Tena hi ñāṇena so paccavekkhanto khīṇā jātītiādīni
pajānāti. Katamā panassa jāti khīṇā, kathañca
naṃ pajānātīti? Na tāvassa atītā jāti khīṇā pubbeva khīṇattā, na
anāgatā, anāgate vāyāmābhāvato, na paccuppannā, vijjamānattā. Yā
pana maggassa abhāvitattā uppajjeyya ekacatupañcavokārabhavesu
ekacatupañcakkhandhappabhedā jāti, sā maggassa bhāvitattā
anuppādadhammataṃ āpajjanena khīṇā. Taṃ so maggabhāvanāya
pahīnakilese paccavekkhitvā kilesābhāve vijjamānampi kammaṃ
āyatiappaṭisandhikaṃ hotīti jānanto pajānāti.
Vusitanti vutthaṃ
parivutthaṃ, kataṃ caritaṃ niṭṭhitanti attho.
Brahmacariyanti maggabrahmacariyaṃ. Puthujjanakalyāṇakena hi
saddhiṃ satta sekkhā brahmacariyavāsaṃ vasanti nāma, khīṇāsavo
vutthavāso. Tasmā so attano brahmacariyavāsaṃ paccavekkhanto
‘‘vusitaṃ brahmacariya’’nti pajānāti. Kataṃ
karaṇīyanti catūsu saccesu catūhi maggehi
pariññāpahānasacchikiriyābhāvanābhisamayavasena soḷasavidhampi
kiccaṃ niṭṭhāpitanti attho. Puthujjanakalyāṇakādayo hi taṃ kiccaṃ
karonti, khīṇāsavo katakaraṇīyo. Tasmā so attano karaṇīyaṃ
paccavekkhanto ‘‘kataṃ karaṇīya’’nti pajānāti.
Nāparaṃ itthattāyāti puna itthabhāvāya, evaṃ
soḷasavidhakiccabhāvāya kilesakkhayāya vā maggabhāvanākiccaṃ me
natthīti pajānāti. Atha vā itthattāyāti
itthabhāvato, imasmā evaṃ pakārā idāni vattamānakkhandhasantānā
aparaṃ khandhasantānaṃ mayhaṃ natthi, ime pana pañcakkhandhā
pariññātā tiṭṭhanti chinnamūlakā rukkhā viya. Te
carimakaviññāṇanirodhena anupādāno viya jātavedo nibbāyissantīti
pajānāti. Idha vijjāti
arahattamaggañāṇavijjā. Avijjāti
catusaccappaṭicchādikā avijjā. Sesaṃ vuttanayameva.
Anuccāvacasīlassāti
yassa sīlaṃ kālena hāyati, kālena vaḍḍhati, so uccāvacasīlo nāma
hoti. Khīṇāsavassa pana sīlaṃ
ekantavaḍḍhitameva. Tasmā so anuccāvacasīlo nāma hoti.
Vasībhūtanti
vasippattaṃ. Susamāhitanti suṭṭhu
samāhitaṃ, ārammaṇamhi suṭṭhapitaṃ. Dhīranti
dhitisampannaṃ. Maccuhāyinanti maccuṃ
jahitvā ṭhitaṃ. Sabbappahāyinanti sabbe
pāpadhamme pajahitvā ṭhitaṃ. Buddhanti
catusaccabuddhaṃ. Antimadehinanti
sabbapacchimasarīradhārinaṃ. Taṃ namassanti gotamanti
taṃ gotamagottaṃ buddhasāvakā namassanti. Atha vā gotamabuddhassa
sāvakopi gotamo, taṃ gotamaṃ devamanussā namassantīti attho.
Pubbenivāsanti
pubbenivutthakkhandhaparamparaṃ. Yovetīti
yo aveti avagacchati. Yovedītipi pāṭho. Yo avedi, viditaṃ pākaṭaṃ
katvā ṭhitoti attho. Saggāpāyañca passatīti
cha kāmāvacare nava brahmaloke cattāro ca apāye passati.
Jātikkhayaṃ pattoti arahattaṃ patto.
Abhiññāvositoti jānitvā kiccavosānena
vosito. Munīti moneyyena samannāgato
khīṇāsavamuni. Etāhīti heṭṭhā niddiṭṭhāhi
pubbenivāsañāṇādīhi. Nāññaṃ lapitalāpananti
yo panañño tevijjoti aññehi lapitavacanamattameva lapati, tamahaṃ
tevijjoti na vadāmi, attapaccakkhato ñatvā parassapi tisso vijjā
kathentamevāhaṃ tevijjoti vadāmīti attho. Kalanti
koṭṭhāsaṃ. Nāgghatīti na pāpuṇāti. Idāni
brāhmaṇo bhagavato kathāya pasanno pasannākāraṃ karonto
abhikkantantiādimāha.
|
58.- Tikanna
1-6
Rồi Bà-la-môn Tikanna đi đến Thế
Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn Tikanna, trước mặt Thế Tôn, tán thán các bậc Bà-la-môn có
đầy đủ ba minh.
- Phải, này Bà-la-môn, họ là các
bậc có ba minh. Phải, các Bà-la-môn có ba minh. Cho đến như thế nào,
này Bà-la-môn, các Bà-la-môn diễn tả ba minh của các Bà-la-môn?
- Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, vị
Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh cho
đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị một dèm pha
nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, nhà phúng tụng, nhà tŕ chú,
thông hiểu ba tập Veda với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú giải
và các cổ truyện là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm, biện
tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của các vị đại nhân. Như
vậy, thưa Tôn giả Gotama, các vị Bà-la-môn diễn tả ba minh các vị
Bà-la-môn.
- Thật là khác, này Bà-la-môn, các
Bà-la-môn diễn tả ba minh của các Bà-la-môn. Thật là khác ba minh
trong luật của bậc thánh.
- Như thế nào, thưa Tôn giả
Gotama, là ba minh trong giới luật của bậc thánh? Lành thay, nếu Tôn
giả Gotama thuyết pháp cho chúng tôi về ba minh trong Luật của bậc
Thánh.
- Vậy Bà-la-môn hăy nghe và khéo
tác ư, ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Tikana vâng đáp Thế Tôn.
Thế Tôn nói như sau:
- Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo ly
dục, ly các pháp ác, bất thiện, chứng đạt và an trú Thiền thứ nhất,
một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Làm cho tịnh
chỉ tầm và tứ, vị ấy chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một trạng
thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh, nhất tâm. Ly
hỷ, trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà các bậc
thánh gọi là xả niệm lạc trú, vị ấy chứng đạt và an trú Thiền thứ
ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, vị ấy chứng đạt và
an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm thanh tịnh.
3- Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
b́nh thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng minh. Vị ấy
nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời,
năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi
đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời.
Nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy
nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này,
giai cấp như thế này, khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế
này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ
ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế
này, khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết
tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây."
Như vậy, vị ấy nhớ đến nhiều đời
sống quá khứ, cùng với các nét đại cương và các nét chi tiết. Đây là
minh thứ nhất đă đạt được, vô minh diệt, minh khởi, bóng tối diệt,
ánh sáng sanh, đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh
cần.
4.-Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
b́nh thản như vậy, vị Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh
tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy
sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng, chúng sanh người
hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ
bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.Các chúng sanh này làm những ác
hạnh về thân, ngữ, ư, phỉ báng các bậc thánh, theo tà kiến, tạo các
nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung,
phải sanh vào cơi dữ, ác thú đọa xứ, địa ngục. C̣n những chúng sanh
này làm những thiện hạnh về thân, ngữ, ư, không phỉ báng các bậc
thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người
này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cơi thiện, cơi
trời, cơi đời này.
Như vậy, vị ấy với thiên nhăn
thuần tịnh, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng,
chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu,
người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Đây là minh
thứ hai đă đạt được, vô minh diệt, minh khởi, bóng tối diệt, ánh
sáng sanh, đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
5.-Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
b́nh thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy
biết như thật: "Đây là khổ", biết như thật: "Đây là nguyên nhân của
khổ", biết như thật: "Đây là khổ diệt", biết như thật: "Đây là con
đường đưa đến khổ diệt". Biết như thật: "Đây là những lậu hoặc",
biết như thật: "Đây là nguyên nhân các lậu hoặc", biết như thật:
"Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là con đường
đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc".
Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức
như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát
khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát như vậy, khởi lên sự
hiểu biết: "Ta đă giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đă tận, Phạm hạnh
đă thành, việc cần làm đă làm, sau đời hiện tại, không có đời sống
nào khác nữa". Đây là minh thứ ba đă đạt được, vô minh diệt, minh
khởi, bóng tối diệt, ánh sáng sanh, đối với vị an trú không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần.
6.-
Giới hạnh không cao thấp
Khôn khéo và thiền tịnh,
Với tâm được chinh phục,
Nhứt tâm, khéo định tĩnh,
Bậc trí đoạn mê ám,
Ba minh, diệt tử thần,
Vị ấy được tôn xưng,
Đại hạnh cho Trời Người,
Bậc "Đoạn tận tất cả",
Đầy đủ cả ba minh
An trú không mê vọng,
Đức Phật, bậc Giác Ngộ,
Bậc chứng thân tối hậu,
Chúng lễ Gotama.
Ai biết được đời trước,
Thấy Thiên giới, đọa giới,
Vị ấy là đạo sĩ,
Đoạn sanh, đạt thắng trí
Vị Bà-la-môn nào,
Chứng được ba minh này,
Ta gọi là ba minh
Không như thường được gọi.
Như vậy, này Bà-la-môn, là ba minh
trong Luật của bậc Thánh.
- Thật khác, thưa Tôn giả Gotama,
là ba minh của các Bà-la-môn! Thật khác là ba minh trong Luật của
bậc Thánh! Và thưa Tôn giả Gotama, người có được ba minh của các
Bà-la-môn không sánh bằng một phần mười sáu của vị chứng ba minh
trong Luật của bậc Thánh.
|
9. Jāṇussoṇisuttaṃ
60.
Atha kho jāṇussoṇi brāhmaṇo yena bhagavā tenupasaṅkami;
upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ…pe… ekamantaṃ nisinno kho jāṇussoṇi
brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘yassassu, bho gotama, yañño vā
saddhaṃ vā thālipāko vā deyyadhammaṃ vā, tevijjesu brāhmaṇesu dānaṃ
dadeyyā’’ti. ‘‘Yathā kathaṃ pana, brāhmaṇa, brāhmaṇā tevijjaṃ
paññapentī’’ti? ‘‘Idha kho, bho gotama, brāhmaṇo ubhato sujāto hoti
mātito ca pitito ca saṃsuddhagahaṇiko yāva sattamā pitāmahayugā
akkhitto anupakkuṭṭho jātivādena, ajjhāyako mantadharo, tiṇṇaṃ
vedānaṃ pāragū sanighaṇḍukeṭubhānaṃ sākkharappabhedānaṃ
itihāsapañcamānaṃ, padako, veyyākaraṇo, lokāyatamahāpurisalakkhaṇesu
anavayoti. Evaṃ kho, bho gotama, brāhmaṇā tevijjaṃ paññapentī’’ti.
‘‘Aññathā kho,
brāhmaṇa, brāhmaṇā brāhmaṇaṃ tevijjaṃ paññapenti, aññathā ca pana
ariyassa vinaye tevijjo hotī’’ti. ‘‘Yathā kathaṃ pana, bho gotama,
ariyassa vinaye tevijjo hoti? Sādhu me bhavaṃ gotamo tathā dhammaṃ
desetu yathā ariyassa vinaye tevijjo hotī’’ti
. ‘‘Tena hi, brāhmaṇa, suṇāhi , sādhukaṃ
manasi karohi; bhāsissāmī’’ti . ‘‘Evaṃ,
bho’’ti kho jāṇussoṇi brāhmaṇo bhagavato paccassosi. Bhagavā
etadavoca –
‘‘Idha pana,
brāhmaṇa, bhikkhu vivicceva kāmehi…pe… catutthaṃ jhānaṃ upasampajja
viharati.
‘‘So evaṃ samāhite
citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese
mudubhūte kammaniye ṭhite āneñjappatte
pubbenivāsānussatiñāṇāya cittaṃ abhininnāmeti. So anekavihitaṃ
pubbenivāsaṃ anussarati, seyyathidaṃ – ekampi jātiṃ dvepi jātiyo…pe…
iti sākāraṃ sauddesaṃ anekavihitaṃ pubbenivāsaṃ anussarati. Ayamassa
paṭhamā vijjā adhigatā hoti; avijjā vihatā, vijjā uppannā; tamo
vihato, āloko uppanno yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa
viharato.
‘‘So evaṃ samāhite
citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte
kammaniye ṭhite āneñjappatte sattānaṃ cutūpapātañāṇāya cittaṃ
abhininnāmeti. So dibbena cakkhunā visuddhena
atikkantamānusakena…pe… yathākammūpage satte pajānāti. Ayamassa
dutiyā vijjā adhigatā hoti; avijjā vihatā, vijjā uppannā; tamo
vihato, āloko uppanno yathā taṃ appamattassa ātāpino pahitattassa
viharato.
‘‘So evaṃ samāhite
citte parisuddhe pariyodāte anaṅgaṇe vigatūpakkilese mudubhūte
kammaniye ṭhite āneñjappatte āsavānaṃ khayañāṇāya cittaṃ
abhininnāmeti. So ‘idaṃ dukkha’nti yathābhūtaṃ pajānāti…pe…
‘ayaṃ dukkhanirodhagāminī paṭipadā’ti
yathābhūtaṃ pajānāti; ‘ime āsavā’ti yathābhūtaṃ pajānāti…pe… ‘ayaṃ
āsavanirodhagāminī paṭipadā’ti yathābhūtaṃ pajānāti. Tassa evaṃ
jānato evaṃ passato kāmāsavāpi cittaṃ
vimuccati, bhavāsavāpi cittaṃ vimuccati, avijjāsavāpi cittaṃ
vimuccati; vimuttasmiṃ vimuttamiti ñāṇaṃ hoti. ‘Khīṇā jāti, vusitaṃ
brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’ti pajānāti.
Ayamassa tatiyā vijjā adhigatā hoti; avijjā vihatā, vijjā uppannā;
tamo vihato , āloko uppanno yathā taṃ
appamattassa ātāpino pahitattassa viharato’’ti.
‘‘Yo
sīlabbatasampanno, pahitatto samāhito;
Cittaṃ yassa
vasībhūtaṃ, ekaggaṃ susamāhitaṃ.
[dha. pa. 423; itivu. 99]
‘‘Pubbenivāsaṃ yo vedī, saggāpāyañca passati;
Atho jātikkhayaṃ
patto, abhiññāvosito muni.
‘‘Etāhi
tīhi vijjāhi, tevijjo hoti brāhmaṇo;
Tamahaṃ vadāmi
tevijjaṃ, nāññaṃ lapitalāpana’’nti.
‘‘Evaṃ kho,
brāhmaṇa, ariyassa vinaye tevijjo hotī’’ti. ‘‘Aññathā, bho gotama,
brāhmaṇānaṃ tevijjo, aññathā ca pana ariyassa vinaye tevijjo hoti.
Imassa ca, bho gotama, ariyassa vinaye tevijjassa brāhmaṇānaṃ
tevijjo kalaṃ nāgghati soḷasiṃ’’.
‘‘Abhikkantaṃ, bho
gotama…pe… upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ
saraṇaṃ gata’’nti. Navamaṃ.
|
9.
Jāṇussoṇisuttavaṇṇanā
60.
Navame yassassūti yassa bhaveyyuṃ.
Yaññotiādīsu yajitabboti yañño,
deyyadhammassetaṃ nāmaṃ. Saddhanti
matakabhattaṃ. Thālipākoti
varapurisānaṃ dātabbayuttaṃ bhattaṃ. Deyyadhammanti
vuttāvasesaṃ yaṃkiñci deyyadhammaṃ nāma. Tevijjesu
brāhmaṇesu dānaṃ dadeyyāti sabbametaṃ dānaṃ tevijjesu
dadeyya, tevijjā brāhmaṇāva paṭiggahetuṃ yuttāti dasseti. Sesamettha
heṭṭhā vuttanayamevāti.
|
59. - Jànussoni
1-4
Rồi có Bà-la-môn Jànussoni đi đến
Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn Jànussoni bạch Thế Tôn:
- Ai làm lễ tế đàn, thưa Tôn giả
Gotama, hay ai làm lễ cúng linh, hay ai có bố thí, cần phải bố thí
các vật ấy cho các vị Bà-la-môn có ba minh.
Cho đến như thế nào, này
Bà-la-môn, các vị Bà-la-môn diễn tả một Bà-la-môn có ba minh?
Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, vị
Bà-la-môn thiện sanh cả từ mẫu hệ và phụ hệ, huyết thống thanh tịnh
cho đến bảy đời tổ phụ, không bị một vết nhơ nào, không bị môt dèm
pha nào về vấn đề huyết thống thọ sanh, nhà phúng tụng, nhà tŕ chú,
thông hiểu ba tập Vệ đà với danh nghĩa, lễ nghi, ngữ nguyên, chú
giải, và các cổ truyện là thứ năm, thông hiểu ngữ pháp và văn phạm,
biện tài về thuận thế (tự nhiên học) và tướng của vị Đại nhân. Như
vậy, thưa Tôn giả Gotama, các Bà-la-môn diễn tả ba minh của các
Bà-la-môn.
- Thật là khác, này Bà-la-môn, các
Bà-la-môn diễn tả ba minh của các Bà-la-môn. Thật là khác, ba minh
trong Luật của bậc Thánh.
- Như thế nào, thưa Tôn giả
Gotama, là ba minh trong giới Luật của bậc Thánh? Lành thay, nếu Tôn
giả Gotama thuyết giảng cho chúng tôi về ba minh trong giới Luật của
bậc Thánh.
- Vậy Bà-la-môn hăy nghe và khéo
tác ư. Ta sẽ giảng.
- Thưa vâng, Tôn giả.
Bà-la-môn Jànussoni vâng đáp Thế
Tôn. Thế Tôn nói như sau:
2- Ở đây, này Bà-la-môn, Tỷ-kheo
ly dục, ly các pháp ác, bất thiện, chứng đạt và an trú Thiền thứ
nhất, một trạng thái hỷ lạc do ly dục sanh, với tầm với tứ. Làm cho
tịnh chỉ tầm và tứ, vị ấy chứng đạt và an trú Thiền thứ hai, một
trạng thái hỷ lạc do định sanh, không tầm không tứ, nội tĩnh, nhất
tâm. Ly hỷ, trú xả, chánh niệm, tỉnh giác, thân cảm sự lạc thọ mà
các bậc thánh gọi là xả niệm lạc trú, vị ấy chứng đạt và an trú
Thiền thứ ba. Xả lạc, xả khổ, diệt hỷ ưu đă cảm thọ trước, vị ấy
chứng đạt và an trú Thiền thứ tư, không khổ, không lạc, xả niệm
thanh tịnh.
Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
b́nh thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến túc mạng minh. Vị ấy
nhớ đến các đời sống quá khứ, như một đời, hai đời, ba đời, bốn đời,
năm đời, mười đời, hai mươi đời, ba mươi đời, bốn mươi đời, năm mươi
đời, một trăm đời, hai trăm đời, một ngàn đời, một trăm ngàn đời.
Nhiều hoại kiếp, nhiều thành kiếp, nhiều hoại và thành kiếp. Vị ấy
nhớ rằng: "Tại chỗ kia, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này,
giai cấp như thế này, khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế
này. Sau khi chết tại chỗ kia, ta được sanh ra tại chỗ nọ. Tại chỗ
ấy, ta có tên như thế này, ḍng họ như thế này, giai cấp như thế
này, khổ lạc như thế này, tuổi thọ đến mức như thế này. Sau khi chết
tại chỗ nọ, ta được sanh ra ở đây." Như vậy, vị ấy nhớ đến
nhiều đời sống quá khứ, cùng với các nét đại cương và các nét chi
tiết. Đây là minh thứ nhất đă đạt được, vô minh diệt, minh khởi,
bóng tối diệt, ánh sáng sanh, đối với vị an trú không phóng dật,
nhiệt tâm, tinh cần.
3- Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
b́nh thản như vậy, vị Tỷ-kheo dẫn tâm, hướng tâm đến trí tuệ về sanh
tử của chúng sanh. Vị ấy với thiên nhăn thuần tịnh, siêu nhân, thấy
sự sống và chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng, chúng sanh người
hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu, người may mắn, kẻ
bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ.Các chúng sanh này làm những ác
hạnh về thân, ngữ, ư, phỉ báng các bậc thánh, theo tà kiến, tạo các
nghiệp theo tà kiến. Những người này, sau khi thân hoại mạng chung,
phải sanh vào cơi dữ, ác thú đọa xứ, địa ngục. C̣n những chúng sanh
này làm những thiện hạnh về thân, ngữ, ư, không phỉ báng các bậc
thánh, theo chánh kiến, tạo các nghiệp theo chánh kiến. Những người
này, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh lên các cơi thiện, cơi
trời, cơi đời này.
Như vậy, vị ấy với thiên nhăn
thuần tịnh, thấy sự sống chết của chúng sanh. Vị ấy biết rơ rằng,
chúng sanh người hạ liệt, kẻ cao sang, người đẹp đẽ, kẻ thô xấu,
người may mắn, kẻ bất hạnh, đều do hạnh nghiệp của họ. Đây là minh
thứ hai đă đạt được, vô minh diệt, minh khởi, bóng tối diệt, ánh
sáng sanh, đối với vị an trú không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần.
4.- Với tâm định tĩnh, thuần tịnh,
không cấu nhiễm, không phiền năo, nhu nhuyến, dễ sử dụng, vững chắc,
b́nh thản như vậy, vị ấy dẫn tâm, hướng tâm đến lậu tận trí. Vị ấy
biết như thật: "Đây là khổ", biết như thật: "Đây là nguyên nhân của
khổ", biết như thật: "Đây là khổ diệt", biết như thật: "Đây là con
đường đưa đến khổ diệt". Biết như thật: "Đây là những lậu hoặc",
biết như thật: "Đây là nguyên nhân các lậu hoặc", biết như thật:
"Đây là sự diệt trừ các lậu hoặc", biết như thật: "Đây là con đường
đưa đến sự diệt trừ các lậu hoặc".
Nhờ hiểu biết như vậy, nhận thức
như vậy, tâm của vị ấy thoát khỏi dục lậu, thoát khỏi hữu lậu, thoát
khỏi vô minh lậu. Đối với tự thân đă giải thoát như vậy, khởi lên sự
hiểu biết: "Ta đă giải thoát". Vị ấy biết: "Sanh đă tận, Phạm hạnh
đă thành, việc cần làm đă làm, sau đời hiện tại, không có đời sống
nào khác nữa". Đây là minh thứ ba đă đạt được, vô minh diệt, minh
khởi, bóng tối diệt, ánh sáng sanh, đối với vị an trú không phóng
dật, nhiệt tâm, tinh cần.
Ai đầy đủ giới hạnh
Tinh cần và định tĩnh
Với tầm được chinh phục
Nhứt tâm khéo định tĩnh
Ai biết được đời trước
Thấy Thiên giới đọa xứ
Vị ấy là đạo sĩ
Đoạn sanh, đạt thắng trí
Vị Bà-la-môn nào,
Chứng được ba minh này,
Ta gọi là ba minh
Không như thường được gọi.
Như vậy, này Bà-la-môn, là ba minh
trong Luật của bậc Thánh.
- Thật thế, thưa Tôn giả Gotama,
là ba minh của các Bà-la-môn! Thật khác, là ba minh trong Luật của
bậc Thánh! Và thưa Tôn giả Gotama, người có được ba minh của các
Bà-la-môn không sánh bằng một phần mười sáu của vị chứng ba minh
trong Luật của bậc Thánh!
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama!
Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng những ǵ bị
quăng ngă xuống, hay tŕnh bày cái ǵ bị che kín, hay chỉ đường cho
người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng tối để những ai có mắt
có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đă được Tôn giả Gotama dùng
nhiều phương tiện thuyết giảng. Con nay xin quy y Tôn giả Gotama,
quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm đệ tử cư
sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
|
10.
Saṅgāravasuttaṃ
61.
Atha kho saṅgāravo brāhmaṇo yena bhagavā
tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavatā saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ
kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi.
Ekamantaṃ nisinno kho saṅgāravo brāhmaṇo bhagavantaṃ etadavoca –
‘‘mayamassu, bho gotama, brāhmaṇā nāma. Yaññaṃ yajāmapi yajāpemapi.
Tatra, bho gotama, yo ceva yajati [yo ceva yaññaṃ
yajati (syā. kaṃ.)] yo ca yajāpeti sabbe te anekasārīrikaṃ
puññappaṭipadaṃ paṭipannā honti, yadidaṃ yaññādhikaraṇaṃ. Yo
panāyaṃ, bho gotama, yassa vā tassa vā kulā agārasmā anagāriyaṃ
pabbajito ekamattānaṃ dameti, ekamattānaṃ sameti, ekamattānaṃ
parinibbāpeti, evamassāyaṃ ekasārīrikaṃ puññappaṭipadaṃ paṭipanno
hoti, yadidaṃ pabbajjādhikaraṇa’’nti.
‘‘Tena hi,
brāhmaṇa, taññevettha paṭipucchissāmi. Yathā te khameyya tathā naṃ
byākareyyāsi. Taṃ kiṃ maññasi, brāhmaṇa, idha tathāgato loke
uppajjati arahaṃ sammāsambuddho
vijjācaraṇasampanno sugato lokavidū anuttaro purisadammasārathi
satthā devamanussānaṃ buddho bhagavā. So evamāha – ‘ethāyaṃ maggo
ayaṃ paṭipadā yathāpaṭipanno ahaṃ anuttaraṃ brahmacariyogadhaṃ sayaṃ
abhiññā sacchikatvā pavedemi; etha [etaṃ (ka.)],
tumhepi tathā paṭipajjatha, yathāpaṭipannā tumhepi anuttaraṃ
brahmacariyogadhaṃ sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja
viharissathā’ti. Iti ayañceva [sayaṃ ceva (ka.)]
satthā dhammaṃ deseti, pare ca tathatthāya
paṭipajjanti, tāni kho pana honti anekānipi satāni anekānipi
sahassāni anekānipi satasahassāni.
‘‘Taṃ kiṃ maññasi,
brāhmaṇa, iccāyaṃ evaṃ sante ekasārīrikā vā puññappaṭipadā hoti
anekasārīrikā vā, yadidaṃ pabbajjādhikaraṇa’’nti? ‘‘Iccāyampi
[iccāyante (ka.)],
bho gotama, evaṃ sante anekasārīrikā puññappaṭipadā hoti, yadidaṃ
pabbajjādhikaraṇa’’nti.
Evaṃ vutte āyasmā
ānando saṅgāravaṃ brāhmaṇaṃ etadavoca – ‘‘imāsaṃ te, brāhmaṇa,
dvinnaṃ paṭipadānaṃ katamā paṭipadā khamati appatthatarā ca
appasamārambhatarā ca mahapphalatarā ca
mahānisaṃsatarā cā’’ti? Evaṃ vutte saṅgāravo brāhmaṇo āyasmantaṃ
ānandaṃ etadavoca – ‘‘seyyathāpi bhavaṃ gotamo bhavaṃ cānando. Ete
me pujjā, ete me pāsaṃsā’’ti.
Dutiyampi kho
āyasmā ānando saṅgāravaṃ brāhmaṇaṃ etadavoca – ‘‘na kho tyāhaṃ,
brāhmaṇa, evaṃ pucchāmi – ‘ke vā te pujjā ke vā te pāsaṃsā’ti? Evaṃ
kho tyāhaṃ, brāhmaṇa, pucchāmi – ‘imāsaṃ te, brāhmaṇa, dvinnaṃ
paṭipadānaṃ katamā paṭipadā khamati appatthatarā ca
appasamārambhatarā ca mahapphalatarā ca mahānisaṃsatarā cā’’’ti?
Dutiyampi kho saṅgāravo brāhmaṇo āyasmantaṃ ānandaṃ etadavoca –
‘‘seyyathāpi bhavaṃ gotamo bhavaṃ cānando. Ete me pujjā, ete me
pāsaṃsā’’ti.
Tatiyampi kho
āyasmā ānando saṅgāravaṃ brāhmaṇaṃ etadavoca – ‘‘na kho tyāhaṃ,
brāhmaṇa, evaṃ pucchāmi – ‘ke vā te pujjā ke vā te pāsaṃsā’ti? Evaṃ
kho tyāhaṃ, brāhmaṇa, pucchāmi – ‘imāsaṃ te, brāhmaṇa, dvinnaṃ
paṭipadānaṃ katamā paṭipadā khamati appatthatarā ca
appasamārambhatarā ca mahapphalatarā ca
mahānisaṃsatarā cā’’’ti? Tatiyampi kho saṅgāravo brāhmaṇo āyasmantaṃ
ānandaṃ etadavoca – ‘‘seyyathāpi bhavaṃ gotamo bhavaṃ cānando. Ete
me pujjā, ete me pāsaṃsā’’ti.
Atha
kho bhagavato etadahosi – ‘‘yāva tatiyampi kho
saṅgāravo brāhmaṇo ānandena sahadhammikaṃ pañhaṃ puṭṭho saṃsādeti
[ma. ni. 1.337] no vissajjeti. Yaṃnūnāhaṃ
parimoceyya’’nti. Atha kho bhagavā saṅgāravaṃ brāhmaṇaṃ etadavoca –
‘‘kā nvajja, brāhmaṇa, rājantepure rājapurisānaṃ
[rājaparisāyaṃ (sī. syā. kaṃ. pī.)] sannisinnānaṃ
sannipatitānaṃ antarākathā udapādī’’ti? ‘‘Ayaṃ khvajja, bho gotama,
rājantepure rājapurisānaṃ sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ antarākathā
udapādi – ‘pubbe sudaṃ appatarā ceva bhikkhū ahesuṃ bahutarā ca
uttari manussadhammā iddhipāṭihāriyaṃ dassesuṃ; etarahi pana
bahutarā ceva bhikkhū appatarā ca uttari manussadhammā
iddhipāṭihāriyaṃ dassentī’ti. Ayaṃ khvajja, bho gotama, rājantepure
rājapurisānaṃ sannisinnānaṃ sannipatitānaṃ antarākathā udapādī’’ti.
[paṭi. ma. 3.30; dī. ni. 1.483]
‘‘Tīṇi kho imāni, brāhmaṇa, pāṭihāriyāni. Katamāni tīṇi?
Iddhipāṭihāriyaṃ, ādesanāpāṭihāriyaṃ ,
anusāsanīpāṭihāriyaṃ. Katamañca, brāhmaṇa, iddhipāṭihāriyaṃ? Idha,
brāhmaṇa, ekacco anekavihitaṃ iddhividhaṃ paccanubhoti – ‘ekopi
hutvā bahudhā hoti, bahudhāpi hutvā eko hoti; āvibhāvaṃ, tirobhāvaṃ;
tirokuṭṭaṃ tiropākāraṃ tiropabbataṃ asajjamāno gacchati, seyyathāpi
ākāse; pathaviyāpi ummujjanimujjaṃ karoti, seyyathāpi udake; udakepi
abhijjamāne gacchati, seyyathāpi pathaviyaṃ; ākāsepi pallaṅkena
kamati, seyyathāpi pakkhī sakuṇo; imepi candimasūriye evaṃmahiddhike
evaṃmahānubhāve pāṇinā parimasati [parāmasati
(dī. ni. 1.484; paṭi. ma. 1.102] parimajjati, yāva
brahmalokāpi kāyena vasaṃ vatteti’. Idaṃ vuccati, brāhmaṇa,
iddhipāṭihāriyaṃ .
‘‘Katamañca,
brāhmaṇa, ādesanāpāṭihāriyaṃ? Idha, brāhmaṇa, ekacco nimittena
ādisati – ‘evampi te mano, itthampi te mano, itipi te citta’nti. So
bahuṃ cepi ādisati tatheva taṃ hoti, no aññathā.
‘‘Idha
pana, brāhmaṇa, ekacco na heva kho nimittena
ādisati , api ca kho manussānaṃ vā amanussānaṃ
vā devatānaṃ vā saddaṃ sutvā ādisati – ‘evampi te mano, itthampi te
mano, itipi te citta’nti. So bahuṃ cepi ādisati tatheva taṃ hoti, no
aññathā.
‘‘Idha pana,
brāhmaṇa, ekacco na heva kho nimittena ādisati napi manussānaṃ vā
amanussānaṃ vā devatānaṃ vā saddaṃ sutvā ādisati, api ca kho
vitakkayato vicārayato vitakkavipphārasaddaṃ sutvā ādisati – ‘evampi
te mano, itthampi te mano, itipi te citta’nti. So bahuṃ cepi ādisati
tatheva taṃ hoti, no aññathā.
‘‘Idha pana,
brāhmaṇa, ekacco na heva kho nimittena ādisati, napi manussānaṃ vā
amanussānaṃ vā devatānaṃ vā saddaṃ sutvā ādisati, napi vitakkayato
vicārayato vitakkavipphārasaddaṃ sutvā ādisati, api ca kho avitakkaṃ
avicāraṃ samādhiṃ samāpannassa cetasā ceto paricca pajānāti – ‘yathā
imassa bhoto manosaṅkhārā paṇihitā imassa
cittassa anantarā amuṃ nāma vitakkaṃ vitakkessatī’ti. So bahuṃ cepi
ādisati tatheva taṃ hoti, no aññathā. Idaṃ vuccati, brāhmaṇa,
ādesanāpāṭihāriyaṃ.
‘‘Katamañca,
brāhmaṇa, anusāsanīpāṭihāriyaṃ? Idha, brāhmaṇa
, ekacco evamanusāsati – ‘evaṃ vitakketha, mā evaṃ
vitakkayittha; evaṃ manasi karotha, mā evaṃ manasākattha; idaṃ
pajahatha, idaṃ upasampajja viharathā’ti. Idaṃ vuccati, brāhmaṇa,
anusāsanīpāṭihāriyaṃ. Imāni kho, brāhmaṇa, tīṇi pāṭihāriyāni. Imesaṃ
te, brāhmaṇa, tiṇṇaṃ pāṭihāriyānaṃ katamaṃ pāṭihāriyaṃ khamati
abhikkantatarañca paṇītatarañcā’’ti?
‘‘Tatra, bho
gotama, yadidaṃ [yamidaṃ (syā. kaṃ. pī.)]
pāṭihāriyaṃ idhekacco anekavihitaṃ iddhividhaṃ paccanubhoti…pe… yāva
brāhmalokāpi kāyena vasaṃ vatteti, idaṃ, bho gotama, pāṭihāriyaṃ
yova [yo ca (syā. kaṃ. pī. ka.)] naṃ
karoti sova [soca ca (syā. kaṃ pī. ka.)]
naṃ paṭisaṃvedeti, yova [yo ca (syā. kaṃ. pī.
ka.)] naṃ karoti tasseva [tassameva (sī.
ka.), tassa ceva (syā. kaṃ. pī.)] taṃ hoti. Idaṃ me, bho
gotama, pāṭihāriyaṃ māyāsahadhammarūpaṃ viya khāyati.
‘‘Yampidaṃ
, bho gotama, pāṭihāriyaṃ idhekacco nimittena
ādisati – ‘evampi te mano, itthampi te mano, itipi te citta’nti, so
bahuṃ cepi ādisati tatheva taṃ hoti, no aññathā. Idha pana, bho
gotama, ekacco na heva kho nimittena ādisati, api ca kho manussānaṃ
vā amanussānaṃ vā devatānaṃ vā saddaṃ sutvā ādisati…pe… napi
manussānaṃ vā amanussānaṃ vā devatānaṃ vā saddaṃ sutvā ādisati, api
ca kho vitakkayato vicārayato vitakkavipphārasaddaṃ sutvā
ādisati…pe… napi vitakkayato vicārayato vitakkavipphārasaddaṃ sutvā
ādisati, api ca kho avitakkaṃ avicāraṃ samādhiṃ samāpannassa cetasā
ceto paricca pajānāti – ‘yathā imassa bhoto
manosaṅkhārā paṇihitā imassa cittassa anantarā amhaṃ nāma vitakkaṃ
vitakkessatī’ti, so bahuṃ cepi ādisati tatheva
taṃ hoti, no aññathā. Idampi, bho gotama, pāṭihāriyaṃ yova naṃ
karoti sova naṃ paṭisaṃvedeti, yova naṃ karoti tasseva taṃ hoti.
Idampi me, bho gotama, pāṭihāriyaṃ māyāsahadhammarūpaṃ viya khāyati.
‘‘Yañca kho idaṃ,
bho gotama, pāṭihāriyaṃ idhekacco evaṃ anusāsati – ‘evaṃ vitakketha
, mā evaṃ vitakkayittha; evaṃ manasi karotha,
mā evaṃ manasākattha; idaṃ pajahatha, idaṃ upasampajja viharathā’ti.
Idameva, bho gotama, pāṭihāriyaṃ khamati imesaṃ tiṇṇaṃ pāṭihāriyānaṃ
abhikkantatarañca paṇītatarañca.
‘‘Acchariyaṃ, bho
gotama, abbhutaṃ, bho gotama! Yāvasubhāsitamidaṃ bhotā gotamena
imehi ca mayaṃ tīhi pāṭihāriyehi samannāgataṃ bhavantaṃ gotamaṃ
dhārema. Bhavañhi gotamo anekavihitaṃ iddhividhaṃ paccanubhoti…pe…
yāva brahmalokāpi kāyena vasaṃ vatteti, bhavañhi gotamo avitakkaṃ
avicāraṃ samādhiṃ samāpannassa cetasā ceto paricca pajānāti – ‘yathā
imassa bhoto manosaṅkhārā paṇihitā imassa cittassa anantarā amuṃ
nāma vitakkaṃ vitakkessatī’ti. Bhavañhi gotamo evamanusāsati – ‘evaṃ
vitakketha, mā evaṃ vitakkayittha; evaṃ manasi karotha, mā evaṃ
manasākattha; idaṃ pajahatha, idaṃ upasampajja viharathā’’’ti.
‘‘Addhā
kho tyāhaṃ, brāhmaṇa, āsajja upanīya vācā
bhāsitā; api ca tyāhaṃ byākarissāmi. Ahañhi, brāhmaṇa, anekavihitaṃ
iddhividhaṃ paccanubhomi…pe… yāva brahmalokāpi kāyena vasaṃ vattemi.
Ahañhi , brāhmaṇa, avitakkaṃ avicāraṃ samādhiṃ
samāpannassa cetasā ceto paricca pajānāmi – ‘yathā imassa bhoto
manosaṅkhārā paṇihitā, imassa cittassa anantarā amuṃ nāma vitakkaṃ
vitakkessatī’ti. Ahañhi, brāhmaṇa, evamanusāsāmi – ‘evaṃ vitakketha,
mā evaṃ vitakkayittha; evaṃ manasi karotha, mā evaṃ manasākattha;
idaṃ pajahatha, idaṃ upasampajja viharathā’’’ti.
‘‘Atthi pana, bho
gotama, añño ekabhikkhupi yo imehi tīhi pāṭihāriyehi samannāgato,
aññatra bhotā gotamenā’’ti? ‘‘Na kho, brāhmaṇa, ekaṃyeva sataṃ na
dve satāni na tīṇi satāni na cattāri satāni na pañca satāni, atha
kho bhiyyova, ye [te (ka.) passa ma. ni. 2.195]
bhikkhū imehi tīhi pāṭihāriyehi samannāgatā’’ti. ‘‘Kahaṃ pana, bho
gotama, etarahi te bhikkhū viharantī’’ti? ‘‘Imasmiṃyeva
kho, brāhmaṇa, bhikkhusaṅghe’’ti.
‘‘Abhikkantaṃ, bho
gotama, abhikkantaṃ, bho gotama! Seyyathāpi bho gotama, nikkujjitaṃ
vā ukkujjeyya, paṭicchannaṃ vā vivareyya, mūḷhassa vā maggaṃ
ācikkheyya, andhakāre vā telapajjotaṃ dhāreyya
– ‘cakkhumanto rūpāni dakkhantī’ti, evamevaṃ bhotā gotamena
anekapariyāyena dhammo pakāsito. Esāhaṃ bhavantaṃ gotamaṃ saraṇaṃ
gacchāmi, dhammañca bhikkhusaṅghañca. Upāsakaṃ maṃ bhavaṃ gotamo
dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. Dasamaṃ.
Brāhmaṇavaggo
paṭhamo.
Tassuddānaṃ –
Dve
brāhmaṇā caññataro, paribbājakena nibbutaṃ;
Palokavaccho
tikaṇṇo, soṇi saṅgāravena cāti.
|
10. Saṅgāravasuttavaṇṇanā
61.
Dasame saṅgāravoti
evaṃnāmako rājagahanagare jiṇṇapaṭisaṅkharaṇakārako
āyuttakabrāhmaṇo. Upasaṅkamīti
bhuttapātarāso hutvā mahājanaparivuto upasaṅkami.
Mayamassūti ettha assūti
nipātamattaṃ, mayaṃ, bho gotama, brāhmaṇā
nāmāti idameva atthapadaṃ. Yaññaṃ yajāmāti
bāhirasamaye sabbacatukkena sabbaṭṭhakena sabbasoḷasakena
sabbadvattiṃsāya sabbacatusaṭṭhiyā sabbasatena sabbapañcasatenāti ca
evaṃ pāṇaghātapaṭisaṃyutto yañño nāma hoti. Taṃ sandhāyevamāha.
Anekasārīrikanti anekasarīrasambhavaṃ.
Yadidanti yā esā.
Yaññādhikaraṇanti yajanakāraṇā ceva yājanakāraṇā cāti attho.
Ekasmiñhi bahūnaṃ dadantepi dāpentepi bahūsupi bahūnaṃ dentesupi
dāpentesupi puññapaṭipadā anekasārīrikā nāma hoti. Taṃ sandhāyetaṃ
vuttaṃ. Tuyhañca tuyhañca yajāmīti vadantassāpi tvañca tvañca
yajāhīti āṇāpentassāpi ca anekasārīrikāva hoti. Tampi sandhāyetaṃ
vuttaṃ. Yassa vā tassa vāti yasmā vā tasmā
vā. Ekamattānaṃ dametīti attano
indriyadamanavasena ekaṃ attānameva dameti.
Ekamattānaṃ sametīti attano rāgādisamanavasena ekaṃ
attānameva sameti. Parinibbāpetīti
rāgādiparinibbāneneva parinibbāpeti.
Evamassāyanti evaṃ santepi ayaṃ.
Evamidaṃ
brāhmaṇassa kathaṃ sutvā satthā cintesi – ‘‘ayaṃ brāhmaṇo
pasughātakasaṃyuttaṃ mahāyaññaṃ anekasārīrikaṃ puññapaṭipadaṃ
vadeti, pabbajjāmūlakaṃ pana puññuppattipaṭipadaṃ ekasārīrikanti
vadeti. Nevāyaṃ ekasārīrikaṃ jānāti, na anekasārīrikaṃ, handassa
ekasārīrikañca anekasārīrikañca paṭipadaṃ desessāmī’’ti upari
desanaṃ vaḍḍhento tena hi brāhmaṇātiādimāha.
Tattha yathā te khameyyāti yathā tuyhaṃ
rucceyya. Idha tathāgato loke uppajjatītiādi
visuddhimagge vitthāritameva. Ethāyaṃ maggoti
etha tumhe, ahamanusāsāmi, ayaṃ maggo. Ayaṃ
paṭipadāti tasseva vevacanaṃ. Yathā
paṭipannoti yena maggena paṭipanno.
Anuttaraṃ brahmacariyogadhanti arahattamaggasaṅkhātassa
brahmacariyassa anuttaraṃ ogadhaṃ uttamapatiṭṭhābhūtaṃ nibbānaṃ.
Iccāyanti iti ayaṃ.
Appaṭṭhatarāti yattha
bahūhi veyyāvaccakarehi vā upakaraṇehi vā attho natthi.
Appasamārambhatarāti yattha bahūnaṃ
kammacchedavasena pīḷāsaṅkhāto samārambho
natthi. Seyyathāpi bhavaṃ gotamo
, bhavaṃ cānando, ete me pujjāti yathā bhavaṃ gotamo,
bhavañcānando, evarūpā mama pūjitā, tumheyeva dve janā mayhaṃ pujjā
ca pāsaṃsā cāti imamatthaṃ sandhāyetaṃ vadati. Tassa kira evaṃ ahosi
– ‘‘ānandatthero maṃyeva imaṃ pañhaṃ kathāpetukāmo, attano kho pana
vaṇṇe vutte padussanako nāma natthī’’ti. Tasmā pañhaṃ akathetukāmo
vaṇṇabhaṇanena vikkhepaṃ karonto evamāha.
Nakho tyāhanti
na kho te ahaṃ. Theropi kira cintesi – ‘‘ayaṃ brāhmaṇo pañhaṃ
akathetukāmo parivattati, imaṃ pañhaṃ etaṃyeva kathāpessāmī’’ti.
Tasmā naṃ evamāha.
Sahadhammikanti
sakāraṇaṃ. Saṃsādetīti saṃsīdāpeti.
No vissajjetīti na katheti.
Yaṃnūnāhaṃ parimoceyyanti yaṃnūnāhaṃ
ubhopete vihesato parimoceyyaṃ. Brāhmaṇo hi ānandena pucchitaṃ
pañhaṃ akathento viheseti, ānandopi brāhmaṇaṃ akathentaṃ kathāpento.
Iti ubhopete vihesato mocessāmīti cintetvā evamāha.
Kā nvajjāti kā nu ajja.
Antarākathā udapādīti aññissā kathāya antarantare katarā
kathā uppajjīti pucchati. Tadā kira rājantepure tīṇi pāṭihāriyāni
ārabbha kathā udapādi, taṃ pucchāmīti satthā evamāha. Atha brāhmaṇo
‘‘idāni vattuṃ sakkhissāmī’’ti rājantepure uppannaṃ kathaṃ ārocento
ayaṃ khvajja, bho gotamātiādimāha. Tattha
ayaṃ khvajjāti ayaṃ kho ajja.
Pubbe sudanti ettha sudanti
nipātamattaṃ. Uttari manussadhammāti
dasakusalakammapathasaṅkhātā manussadhammā uttariṃ.
Iddhipāṭihāriyaṃ dassesunti bhikkhācāraṃ
gacchantā ākāseneva gamiṃsu ceva āgamiṃsu cāti evaṃ pubbe pavattaṃ
ākāsagamanaṃ sandhāyevamāha. Etarahi pana bahutarā
ca bhikkhūti idaṃ so brāhmaṇo ‘‘pubbe bhikkhū ‘cattāro
paccaye uppādessāmā’ti maññe evamakaṃsu, idāni paccayānaṃ
uppannabhāvaṃ ñatvā soppena ceva pamādena ca vītināmentī’’ti
laddhiyā evamāha.
Pāṭihāriyānīti
paccanīkapaṭiharaṇavasena pāṭihāriyāni.
Iddhipāṭihāriyanti ijjhanavasena iddhi,
paṭiharaṇavasena pāṭihāriyaṃ, iddhiyeva pāṭihāriyaṃ
iddhipāṭihāriyaṃ. Itaresupi eseva nayo.
Anekavihitaṃ iddhividhantiādīnaṃ attho ceva
bhāvanānayo ca visuddhimagge (visuddhi. 2.365) vitthāritova.
Nimittenaādisatīti
āgatanimittena vā gatanimittena vā ṭhitanimittena vā ‘‘idaṃ nāma
bhavissatī’’ti katheti. Tatridaṃ vatthu – eko kira rājā tisso muttā
gahetvā purohitaṃ pucchi ‘‘kiṃ me, ācariya, hatthe’’ti. So ito cito
ca olokesi, tena ca samayena ekā sarabū ‘‘makkhikaṃ gahessāmī’’ti
pakkhantā, gahaṇakāle makkhikā palātā. So makkhikāya muttattā
‘‘muttā mahārājā’’ti āha. Muttā tāva hontu, kati muttāti. So puna
nimittaṃ olokesi. Athāvidūre kukkuṭo tikkhattuṃ saddaṃ nicchāresi.
Brāhmaṇo ‘‘tisso mahārājā’’ti āha. Evaṃ ekacco āgatanimittena
katheti. Etenupāyena gataṭhitanimittehipi kathanaṃ veditabbaṃ.
Evampi te manoti evaṃ tava mano somanassito
vā domanassito vā kāmavitakkādisaṃyutto vāti. Dutiyaṃ tasseva
vevacanaṃ. Itipi te cittanti itipi tava
cittaṃ, imañca imañca atthaṃ cintayamānaṃ pavattatīti attho.
Bahuṃ cepi ādisatīti bahuṃ cepi katheti.
Tatheva taṃ hotīti yathā kathitaṃ, tatheva
hoti.
Amanussānanti
yakkhapisācādīnaṃ. Devatānanti
cātumahārājikādīnaṃ. Saddaṃ sutvāti aññassa
cittaṃ ñatvā kathentānaṃ sutvā.
Vitakkavipphārasaddanti vitakkavipphāravasena uppannaṃ
vippalapantānaṃ suttappamattādīnaṃ saddaṃ. Sutvāti
taṃ sutvā. Yaṃ vitakkayato tassa so saddo uppanno, tassa vasena
‘‘evampi te mano’’tiādisati.
Tatrimāni vatthūni
– eko kira manusso ‘‘aṭṭaṃ karissāmī’’ti gāmā nagaraṃ gacchanto
nikkhantaṭṭhānato paṭṭhāya
‘‘vinicchayasabhāyaṃ rañño ca rājamahāmattānañca idaṃ kathessāmi
idaṃ kathessāmī’’ti vitakkento rājakulaṃ gato viya rañño purato
ṭhito viya aṭṭakārakena saddhiṃ kathento viya
ca ahosi, tassa taṃ vitakkavipphāravasena niccharantaṃ saddaṃ sutvā
eko puriso ‘‘kenaṭṭhena gacchasī’’ti āha. Aṭṭakammenāti. Gaccha,
jayo te bhavissatīti. So gantvā aṭṭaṃ katvā jayameva pāpuṇi.
Aparopi thero
moḷiyagāme piṇḍāya cari. Atha naṃ nikkhamantaṃ ekā dārikā aññavihitā
na addasa. So gāmadvāre ṭhatvā nivattitvā oloketvā taṃ disvā
vitakkento agamāsi. Gacchantoyeva ca ‘‘kiṃ nu kho kurumānā dārikā na
addasā’’ti vacībhedaṃ akāsi. Passe ṭhito eko puriso sutvā ‘‘tumhe,
bhante, moḷiyagāme caritthā’’ti āha.
Manosaṅkhārāpaṇihitāti
cittasaṅkhārā suṭṭhapitā. Vitakkessatīti
vitakkayissati pavattayissatīti pajānāti. Pajānanto ca āgamanena
jānāti, pubbabhāgena jānāti, antosamāpattiyaṃ cittaṃ apaloketvā
jānāti. Āgamanena jānāti nāma
kasiṇaparikammakāleyeva ‘‘yenākārenesa kasiṇabhāvanaṃ āraddho
paṭhamajjhānaṃ vā…pe… catutthajjhānaṃ vā aṭṭha vā samāpattiyo
nibbattessatī’’ti jānāti. Pubbabhāgena jānāti
nāma paṭhamavipassanāya āraddhāyayeva jānāti, ‘‘yenākārena esa
vipassanaṃ āraddho sotāpattimaggaṃ vā nibbattessati…pe…
arahattamaggaṃ vā nibbattessatī’’ti jānāti.
Antosamāpattiyaṃ cittaṃ oloketvā jānāti nāma – ‘‘yenākārena
imassa manosaṅkhārā suṭṭhapitā, imassa nāma cittassa anantarā imaṃ
nāma vitakkaṃ vitakkessati, ito vuṭṭhitassa etassa hānabhāgiyo vā
samādhi bhavissati ṭhitibhāgiyo vā
visesabhāgiyo vā nibbedhabhāgiyo vā, abhiññāyo vā nibbattessatī’’ti
jānāti. Tattha puthujjano cetopariyañāṇalābhī puthujjanānaṃyeva
cittaṃ jānāti, na ariyānaṃ. Ariyesupi heṭṭhimo uparimassa cittaṃ na
jānāti, uparimo pana heṭṭhimassa jānāti. Etesu ca sotāpanno
sotāpattiphalasamāpattiṃ samāpajjati…pe… arahā
arahattaphalasamāpattiṃ samāpajjati. Uparimo heṭṭhimaṃ na
samāpajjati. Tesañhi heṭṭhimā heṭṭhimā samāpatti tatravattiyeva
hoti. Tatheva taṃhotīti
etaṃ ekaṃsena tatheva hoti. Cetopariyañāṇavasena ñātañhi
aññathābhāvi nāma natthi.
Evaṃ vitakkethāti evaṃ
nekkhammavitakkādayo pavattentā vitakketha. Mā
evaṃ vitakkayitthāti evaṃ kāmavitakkādayo pavattentā mā
vitakkayittha. Evaṃ manasi karothāti evaṃ
aniccasaññameva, dukkhasaññādīsu vā aññataraṃ manasi karotha.
Mā evanti niccantiādinā nayena mā manasā
karittha. Idanti idaṃ pañcakāmaguṇarāgaṃ
pajahatha. Idañca upasampajjāti idaṃ
catumaggaphalappabhedaṃ lokuttaradhammameva upasampajja pāpuṇitvā
nipphādetvā viharatha.
Māyāsahadhammarūpaṃ viya khāyatīti
māyāya samānakāraṇajātikaṃ viya hutvā upaṭṭhāti. Māyākāropi hi
udakaṃ gahetvā telaṃ karoti, telaṃ gahetvā udakanti evaṃ anekarūpaṃ
māyaṃ dasseti. Idampi pāṭihāriyaṃ tathārūpamevāti.
Idampi me, bho gotama, pāṭihāriyaṃ māyāsahadhammarūpaṃ viya khāyatīti
cintāmaṇikavijjāsarikkhakataṃ sandhāya evaṃ āha. Cintāmaṇikavijjaṃ
jānantāpi hi āgacchantameva disvā ‘‘ayaṃ idaṃ
nāma vitakkento āgacchatī’’ti jānanti. Tathā ‘‘idaṃ nāma vitakkento
ṭhito, idaṃ nāma vitakkento nisinno, idaṃ nāma vitakkento
nipanno’’ti jānanti.
Abhikkantataranti
sundarataraṃ. Paṇītataranti
uttamataraṃ. Bhavañhi gotamo avitakkaṃ avicāranti
idha brāhmaṇo avasesaṃ ādesanāpāṭihāriyaṃ bāhirakanti na gaṇhi.
Idañca pana sabbaṃ so brāhmaṇo tathāgatassa vaṇṇaṃ kathentoyeva āha.
Addhā kho tyāyanti ekaṃseneva tayā ayaṃ.
Āsajja upanīya vācā bhāsitāti mama guṇe
ghaṭṭetvā mameva guṇānaṃ santikaṃ upanītā vācā bhāsitā.
Apica tyāhaṃ byākarissāmīti apica te
ahameva kathessāmīti. Sesaṃ uttānatthamevāti.
Brāhmaṇavaggo
paṭhamo.
|
60.- Sangàrava
1-7
- Rồi có Bà-la-môn Sangàrava đi
đến Thế Tôn, sau khi đến,
đảnh lễ, nói lên những lời chào đón thăm hỏi thân hữu rồi ngồi xuống
một bên. Ngồi xuống một bên,
Bà-la-môn Sangàrava bạch Thế Tôn:
- Thưa Tôn giả Gotama, chúng tôi
làm lễ tế đàn và khuyên các người khác làm lễ tế đàn. Ở đây, thưa
Tôn giả Gotama, ai làm lễ tế đàn và ai khuyên các người khác làm lễ
tế đàn, tất cả đều thực hành con đường đưa đến công đức cho nhiều
người, tức là kết quả của tế đàn. Thưa Tôn giả Gotama, ai xuất gia,
từ bỏ gia tộc, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh, chỉ nhiếp phục
một tự ngă của ḿnh, chỉ an tịnh một tự ngă của ḿnh, chỉ làm cho
một tự ngă chứng được Niết-bàn. Như vậy, người ấy thực hành con
đường đưa đến công đức chỉ có một ḿnh, tức là kết quả của sự xuất
gia.
- Vậy này Bà-la-môn, ở đây, Ta sẽ
hỏi Ông. Ông kham nhẫn như thế nào, hăy như vậy trả lời. Ông nghĩ
như thế nào, này Bà-la-môn, ở đây, Thế Tôn xuất hiện ở đời, bậc
A-la-hán, Chánh Đẳng Giác, Minh Hạnh Túc, Thiên Tuệ, Thế Gian Giải,
Vô Thượng Sĩ, Điều Ngự Trượng Phu, Thiên Nhân Sư, Phật, Thế Tôn. Vị
ấy nói như sau: "Đây là con đường, đây là đạo lộ, nhờ thực hành con
đường này, Ta đă thể nhập vô thượng Phạm hạnh, tự ḿnh với thắng
trí, chứng đạt, an trú và tuyên thuyết. Các người hăy đến! Hăy như
vậy thực hành! Các người sẽ thể nhập vô thượng Phạm hạnh, tự ḿnh
với thắng trí, chứng đạt và an trú". Như vậy, vị Đạo sư này thuyết
pháp, và các người khác như thật hành tŕ. Số người như vậy là hàng
trăm, hàng ngàn, hàng trăm ngàn. Ông nghĩ thế nào, này Bà-la-môn, sự
việc là như vậy, thời con đường đưa đến công đức này ảnh hưởng chỉ
đến một người hay ảnh hưởng đến nhiều người, tức là kết quả của sự
xuất gia?
- Sự việc này là như vậy, thưa Tôn
giả Gotama, con đường đưa đến công đức này là ảnh hưởng đến nhiều
người, tức là kết quả của sự xuất gia.
Được nghe nói như vậy, Tôn giả
Ananda nói với Bà-la-môn Sangàrava:
- Trong hai con đường, này
Bà-la-môn, con đường nào, Ông có thể kham nhẫn là giản dị hơn, ít
khó chịu hơn, kết quả lớn hơn và lợi ích hơn?
Được nói như vậy, Bà-la-môn
Sangàrava nói với Tôn giả Ananda:
- Như Tôn giả Gotama và Tôn giả
Ananda, cả hai đối với tôi là đáng kính lễ và đáng tán thán.
Lần thứ hai, Tôn giả Ananda nói
với Bà-la-môn Sangàrava:
- Này Bà-la-môn, Ta không hỏi Ông
như vậy: "Những ai là đáng đảnh lễ, hay những ai là đáng tán thán?"
Này Bà-la-môn, như thế này Ta hỏi Ông: "Này Bà-la-môn, trong hai con
đường này, con đường nào Ông có thể kham nhẫn là giản dị hơn, ít khó
chịu hơn, kết quả lớn hơn, lợi ích lớn hơn?"
Lần thứ hai, Bà-la-môn Sangàrava
nói với Tôn giả Ananda:
- Như Tôn giả Gotama và Tôn giả
Ananda, cả hai đối với tôi là đáng đảnh lễ và đáng tán thán.
Lần thứ ba, Tôn giả Ananda nói với
Bà-la-môn Sangàrava:
- Này Bà-la-môn, Ta không hỏi Ông
như vậy: "Những ai là đáng kính lễ, hay những ai là đáng tán thán?
"Này Bà-la-môn, như thế này Ta hỏi Ông: "Này Bà-la-môn, trong hai
con đường này, con đường nào Ông có thể kham nhẫn là giản dị hơn, ít
khó chịu hơn, kết quả lớn hơn, lợi ích lớn hơn?"
Lần thứ ba, Bà-la-môn Sangàrava
nói với Tôn giả Ananda:
- Như Tôn giả Gotama và Tôn giả
Ananda, cả hai đối với tôi là đáng kính lễ và đáng tán thán.
3. Rồi Thế Tôn suy nghĩ như sau:
"Cho đến lần thứ ba, Bà-la-môn Sangàrava, được hỏi một câu đúng pháp
lại tránh né, không trả lời. Vậy Ta hăy giải tỏa việc này".
Rồi Thế Tôn nói với Bà-la-môn
Sangàrava:
- Này Bà-la-môn, câu chuyện ǵ đă
khởi lên hôm nay trong cung điện Nhà Vua, khi hội chúng nhà vua ngồi
tụ họp lại?
- Thưa Tôn giả Gotama, hôm nay,
trong cung điện nhà vua, câu chuyện như sau đă khởi lên, khi hội
chúng nhà vua ngồi tụ họp lại: "Thuở xưa, các Tỷ-kheo ít hơn, nhưng
nhiều hơn là các pháp thượng nhân, các thần thông thần biến được thị
hiện. Ngày nay, các Tỷ-kheo nhiều hơn, nhưng ít hơn là các pháp
thượng nhân, các thần thông thần biến được thị hiện." Thưa Tôn giả
Gotama, đấy là câu chuyện đă khởi lên hôm nay trong cung điện nhà
vua, khi hội chúng nhà vua ngồi tụ họp lại.
4. - Này Bà-la-môn, có ba loại
thần thông. Thế nào là ba? Thần thông biến hóa, thần thông kư
thuyết, thần thông giáo hóa, và Bà-la-môn, thế nào là thần thông
biến hóa?
Ở đây, này Bà-la-môn, có người
chứng được các loại thần thông, một thân hiện ra nhiều thân, nhiều
thân hiện ra một thân, hiện h́nh, biến h́nh, đi ngang qua vách qua
tường, qua núi như đi ngang qua hư không, độn thổ, trồi lên ngang
qua đất liền như ở trong nước, đi trên nước, không nứt rẽ ra như
trên đất liền, ngồi kiết già, đi trên hư không như con chim, với bàn
tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt trời, những vật có đại oai lực, đại
oai thần như vậy, có thể tự thân bay đến cơi Phạm Thiên.
5. Và này Bà-la-môn, thế nào là
thần thông kư thuyết?
Ở đây, này Bà-la-môn, có người nói
lên nhờ tướng: "Như vầy là ư của Ông, như thế này là ư của Ông, như
thế này là tà tâm của Ông". Nếu vị ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ là
như vậy, không có ǵ khác.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người nói
lên không nhờ tướng, nhưng nghe tiếng của loài người hay của phi
nhân, hay của Chư Thiên, liền nói lên: "Như vầy là ư của Ông, như
thế này là ư của Ông, như thế này là tà tâm của Ông". Nếu vị ấy nói
lên nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có ǵ khác.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người nói
lên không nhờ tướng, cũng không nhờ nghe tiếng của loài người hay
của phi nhân, hay của Chư Thiên, nhưng sau khi nghe được tiếng tŕnh
bày rơ ràng và có suy tư; sau khi suy tầm và suy tư liền nói lên:
"Như vầy là ư của Ông, như thế này là ư của Ông, như thế này là tâm
của Ông". Nếu vị ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có
ǵ khác.
Ở đây, này Bà-la-môn, có người
không nói lên nhờ tướng, không nói lên nhờ nghe tiếng của loài người
hay của phi nhân, hay của Chư Thiên, không nói lên sau khi nghe được
tiếng tŕnh bày rơ ràng và có suy tư, sau khi suy tầm và suy tư.
Những thành tựu định không tầm không tứ, với tâm của ḿnh biết rơ
tâm của người khác tùy theo hành ư của vị Tôn giả này hướng đến chỗ
nào, thời tâm của vị này lập tức suy tầm đến chỗ ấy. Nếu vị ấy nói
lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có ǵ khác. Này Bà-la-môn,
đây gọi là thần thông kư thuyết.
6. Và như thế nào, này Bà-la-môn,
là thần thông giáo hóa?
Ở đây, này Bà-la-môn, có người
giáo giới như sau: "Hăy suy nghĩ như thế này, chớ suy nghĩ như vậy!
Hăy tác ư như thế này, chớ tác ư như vậy! Hăy từ bỏ cái này! Hăy đạt
đến cái này và an trú!". Này Bà-la-môn, đây gọi là thần thông giáo
hóa. Này Bà-la-môn, có ba loại thần thông này.
Trong ba loại thần thông này, Ông
có thể chấp nhận loại thần thông nào là hy hữu hơn, thù diệu hơn?
- Ở đây, thưa Tôn giả Gotama, loại
thần thông này: Ở đây có người chứng được các loại thần thông, một
thân hiện ra nhiều thân, nhiều thân hiện ra một thân, hiện h́nh,
biến h́nh, đi ngang qua vách qua tường, qua núi như đi ngang qua hư
không, độn thổ, trồi lên ngang qua đất liền như ở trong nước, đi
trên nước, không nứt rẽ ra như trên đất liền, ngồi kiết già, đi trên
hư không như con chim, với bàn tay, chạm và rờ mặt trăng và mặt
trời, những vật có đại oai lực, đại oai thần như vậy, có thể tự thân
bay đến cơi Phạm Thiên. Loại thần thông này, thưa Tôn giả Gotama, ai
làm loại thần thông ấy, người ấy tự kinh nghiệm lấy. Ai làm thần
thông ấy, tự ḿnh có được thần thông ấy. Loại thần thông này, đối
với tôi, được xem tánh chất như là huyễn hóa.
C̣n loại thần thông này, thưa Tôn
giả Gotama: Ở đây có người nói lên nhờ tướng: "Như vầy là ư của Ông,
như thế này là ư của Ông, như thế này là tâm của Ông". Nếu vị ấy nói
lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có ǵ khác. Có người nói
lên không nhờ tướng, nhưng nghe tiếng của loài người hay của phi
nhân, hay của Chư Thiên, liền nói lên: "Như vầy là ư của Ông, như
thế này là ư của Ông, như thế này là tâm của Ông". Nếu vị ấy nói lên
nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có ǵ khác. Có người nói lên không
nhờ tướng, cũng không nhờ nghe tiếng của loài người hay của phi
nhân, hay của Chư Thiên, nhưng sau khi nghe được tiếng tŕnh bày rơ
ràng và có suy tư; sau khi suy tầm và suy tư liền nói lên: "Như vầy
là ư của Ông, như thế này là ư của Ông, như thế này là tâm của Ông".
Nếu vị ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có ǵ khác.
Có người không nói lên nhờ tướng, không nói lên nhờ nghe tiếng của
loài người hay của phi nhân, hay của Chư Thiên, không nói lên sau
khi nghe được tiếng tŕnh bày rơ ràng và có suy tư, sau khi suy tầm
và suy tư. Những thành tựu định không tầm không tứ, với tâm của ḿnh
biết rơ tâm của người khác tùy theo hành ư của vị Tôn giả này hướng
đến chỗ nào, thời tâm của vị này lập tức suy tầm đến chỗ ấy. Nếu vị
ấy nói lên có nhiều, cũng chỉ là như vậy, không có ǵ khác. Loại
thần thông này, thưa Tôn giả Gotama, ai làm loại thần thông ấy,
người ấy tự kinh nghiệm lấy. Ai làm thần thông ấy, tự ḿnh có được
thần thông ấy. Loại thần thông này, đối với tôi, được xem tánh chất
như là huyễn hóa.
C̣n loại thần thông này, thưa Tôn
giả Gotama: Ở đây có người giáo giới như sau: "Hăy suy nghĩ như thế
này, chớ suy nghĩ như vậy! Hăy tác ư như thế này, chớ tác ư như vậy!
Hăy từ bỏ cái này! Hăy đạt đến cái này và an trú". Loại thần thông
này, thưa Tôn giả Gotama, tôi có thể chấp nhận là hy hữu hơn và thù
diệu hơn trong ba loại thần thông.
Thật là vi diệu, thưa Tôn giả
Gotama! Thật là hy hữu, thưa Tôn giả Gotama! Vấn đề này được Tôn giả
Gotama khéo nói như vậy, Chúng tôi thọ tŕ rằng Tôn giả Gotama có
thành tựu cả ba loại thần thông này. Thật vậy, Tôn giả Gotama có thể
chứng được nhiều loại thần thông ... Thật vậy, Tôn giả Gotama thành
tựu được định không tầm không tứ, với tâm của ḿnh rơ biết tâm của
người khác, tùy theo ư hành của vị Tôn giả này hướng đến chỗ nào,
thời tâm của vị này lập tức suy tầm đến chỗ ấy. Thật vậy, Tôn giả
Gotama giáo giới như sau: "Hăy suy nghĩ như thế này, chớ suy nghĩ
như vậy! Hăy tác ư như vậy, chớ tác ư như vậy! Hăy từ bỏ cái này,
hăy đạt đến cái này và an trú!".
7. -Thật vậy, này Bà-la-môn, lời
nói của Ông trước như là chống ta, sau xích lại gần ta. Và Ta sẽ trả
lời cho Ông. Này Bà-la-môn, Ta chứng được nhiều loại thần thông, một
thân hiện ra nhiều thân, ... Này Bà-la-môn, ta thành tựu được định
không tầm không tứ, với tâm của ḿnh rơ biết tâm của người khác, tùy
theo ư hành của Ta hướng đến chỗ nào, thời tâm của Ta lập tức suy
tầm đến chỗ ấy. Này Bà-la-môn, Ta có thể giáo giới như sau: "Hăy suy
nghĩ như thế này, chớ suy nghĩ như vậy. Hăy tác ư như vậy, chớ tác ư
như vậy! Hăy từ bỏ cái này, hăy đạt được cái này và an trú!".
- Thưa Tôn giả Gotama, có một
Tỷ-kheo nào khác, cũng thành tựu được ba loại thần thông này, ngoài
Tôn giả Gotama?
- Này Bà-la-môn, không phải chỉ có
một trăm, hai trăm, ba trăm, bốn trăm, năm trăm mà c̣n nhiều hơn nữa
các Tỷ-kheo thành tựu được ba loại thần thông này.
- Nhưng thưa Tôn giả Gotama, nay
các Tỳ kheo ấy hiện ở đâu?
- Này Bà-la-môn, trong chúng
Tỷ-kheo này.
- Thật vi diệu thay, Tôn giả
Gotama! Thật vi diệu thay, Tôn giả Gotama! Như người dựng đứng những
ǵ bị quăng ngă xuống, hay tŕnh bày cái ǵ bị che kín, hay chỉ
đường cho người bị lạc hướng, hay cầm đèn sáng vào bóng tối để những
ai có mắt có thể thấy sắc. Cũng vậy, Chánh pháp đă được Tôn giả
Gotama dùng nhiều phương tiện thuyết giảng. Con nay xin quy y Tôn
giả Gotama, quy y Pháp, quy y Tăng. Mong Tôn giả Gotama nhận con làm
đệ tử cư sĩ, từ nay cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.
|
Phân đoạn song ngữ:
Nga Tuyet
Updated 30-5-2019
Mục Lục Kinh Tăng Chi Bộ
Pali Việt
Aṅguttaranikāya
Aṅguttaranikāya (aṭṭhakathā)
Kinh Tăng Chi Bộ
|