ANGUTTARA NIKAYA – TĂNG CHI BỘ KINH

Chương III - Ba Pháp (Tikanipātapāḷi)

 

CHÁNH KINH PALI

CHÚ GIẢI PALI

BẢN DỊCH VIỆT

Aṅguttaranikāyo

Aṅguttaranikāye

Tăng Chi Bộ

(13) 3. Kusināravaggo

(13) 3. Kusināravaggo

XIII. Phẩm Kusinàra

1. Kusinārasuttaṃ

1. Kusinārasuttavaṇṇanā

121. Tại Kusinàra

124. Ekaṃ samayaṃ bhagavā kusinārāyaṃ viharati baliharaṇe vanasaṇḍe. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.

124. Tatiyassa paṭhame kusinārāyanti evaṃnāmake nagare. Baliharaṇe vanasaṇḍeti evaṃnāmake vanasaṇḍe. Tattha kira bhūtabalikaraṇatthaṃ baliṃ haranti, tasmā baliharaṇanti vuccati. Ākaṅkhamānoti icchamāno. Sahatthāti sahatthena. Sampavāretīti alaṃ alanti vācāya ceva hatthavikārena ca paṭikkhipāpeti. Sādhu vata māyanti sādhu vata maṃ ayaṃ. Gathitoti taṇhāgedhena gathito. Mucchitoti taṇhāmucchanāyayeva mucchito. Ajjhopannoti taṇhāya gilitvā pariniṭṭhapetvā pavatto. Anissaraṇapaññoti chandarāgaṃ pahāya saṃkaḍḍhitvā paribhuñjanto nissaraṇapañño nāma hoti, ayaṃ na tādiso, sacchandarāgo paribhuñjatīti anissaraṇapañño. Sukkapakkho vuttavipariyāyena veditabbo. Nekkhammavitakkādayo panettha missakā kathitāti veditabbā.

Một thời Thế Tôn trú ở Kusinàra, tại khóm rừng Bariharana. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

- Này các Tỷ-kheo.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn,

Bhagavā etadavoca –

‘‘Idha, bhikkhave, bhikkhu aññataraṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā upanissāya viharati. Tamenaṃ gahapati vā gahapatiputto vā upasaṅkamitvā svātanāya bhattena nimanteti . Ākaṅkhamāno, bhikkhave, bhikkhu adhivāseti. So tassā rattiyā accayena pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena tassa gahapatissa vā gahapatiputtassa vā nivesanaṃ tenupasaṅkamati; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdati. Tamenaṃ so gahapati vā gahapatiputto vā paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappeti sampavāreti.

Thế Tôn nói như sau:

- Ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn. Rồi người gia chủ hay con người gia chủ đi đến vị ấy mời mai lại dùng cơm. Nếu muốn, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhận lời. Sau khi đêm ấy đă măn, Tỷ-kheo ấy vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát và đi đến trú xứ người gia chủ hay con người gia chủ. Sau khi đến, vị ấy ngồi xuống trên chỗ đă soạn sẵn. Rồi người gia chủ hay con người gia chủ tự tay đứng mời và làm cho thỏa măn Tỷ-kheo ấy với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm.

‘‘Tassa evaṃ hoti – ‘sādhu vata myāyaṃ gahapati vā gahapatiputto vā paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappeti sampavāretī’ti.

Vị ấy suy nghĩ: "Thật tốt lành thay, người gia chủ hay con người gia chủ này tự tay đứng mời và làm thỏa măn ta với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm!

Evampissa hoti – ‘aho vata māyaṃ gahapati vā gahapatiputto vā āyatimpi evarūpena paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappeyya sampavāreyyā’ti!

"Rồi vị ấy suy nghĩ như sau: "Mong rằng người gia chủ hay con người gia chủ này trong tương lai, tự tay đứng mời và làm thỏa măn ta với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm!".

So taṃ piṇḍapātaṃ gathito [gadhito (syā. kaṃ. ka.)] mucchito ajjhosanno [ajjhāpanno (sī. ka.) ajjhopanno (ṭīkā)] anādīnavadassāvī anissaraṇapañño paribhuñjati.

Vị ấy thọ hưởng món ăn khất thực ấy, tham dính say đắm, đam trước, không thấy sự nguy hại, không thấy được sự xuất ly.

So tattha kāmavitakkampi vitakketi, byāpādavitakkampi vitakketi, vihiṃsāvitakkampi vitakketi.

Vị ấy ở đây khởi lên suy tầm về dục, khởi lên sự suy tầm về sân, khởi lên sự suy tầm về hại.

Evarūpassāhaṃ, bhikkhave, bhikkhuno dinnaṃ na mahapphalanti vadāmi. Taṃ kissa hetu?

Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng bố thí cho Tỷ-kheo như vậy không có quả lớn. V́ cớ sao?

 Pamatto hi, bhikkhave, bhikkhu viharati.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo sống phóng dật.

‘‘Idha pana, bhikkhave, bhikkhu aññataraṃ gāmaṃ vā nigamaṃ vā upanissāya viharati.

Nhưng ở đây, này các Tỷ-kheo, một Tỷ-kheo sống dựa vào một làng hay một thị trấn.

Tamenaṃ gahapati vā gahapatiputto vā upasaṅkamitvā svātanāya bhattena nimanteti.

Rồi một gia chủ hay con người gia chủ đi đến vị ấy mời mai lại dùng cơm.

 Ākaṅkhamāno, bhikkhave, bhikkhu adhivāseti.

Nếu muốn, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo nhận lời.

So tassā rattiyā accayena pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya yena tassa gahapatissa vā gahapatiputtassa vā nivesanaṃ tenupasaṅkamati;

Sau khi đêm ấy đă măn, Tỷ-kheo ấy vào buổi sáng, đắp y, cầm y bát và đi đến trú xứ người gia chủ hay con người gia chủ.

upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdati.

Sau khi đến, vị ấy ngồi xuống trên chỗ đă soạn sẵn.

Tamenaṃ so gahapati vā gahapatiputto vā paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappeti sampavāreti.

Rồi người gia chủ hay con người gia chủ tự tay đứng mời và làm cho thỏa măn Tỷ-kheo ấy với các món ăn thượng vị loại cứng và loại mềm.

‘‘Tassa na evaṃ hoti – ‘sādhu vata myāyaṃ gahapati vā gahapatiputto vā paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappeti sampavāretī’ti.

Vị ấy không có suy nghĩ: "Thật tốt lành thay, người gia chủ hay con người gia chủ này tự tay đứng mời và làm thỏa măn ta với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm!".

Evampissa na hoti – ‘aho vata māyaṃ gahapati vā gahapatiputto vā āyatimpi evarūpena paṇītena khādanīyena bhojanīyena sahatthā santappeyya sampavāreyyā’ti!

Rồi vị ấy không suy nghĩ như sau: "Mong rằng người gia chủ hay con người gia chủ này trong tương lai, tự tay đứng mời và làm thỏa măn ta với các món ăn thượng vị, loại cứng và loại mềm!".

So taṃ piṇḍapātaṃ agathito amucchito anajjhosanno ādīnavadassāvī nissaraṇapañño paribhuñjati.

 Vị ấy thọ hưởng món ăn khất thực ấy, không tham dính, không say đắm, không đam trước, thấy được sự nguy hại, thấy được sự xuất ly.

So tattha nekkhammavitakkampi vitakketi, abyāpādavitakkampi vitakketi, avihiṃsāvitakkampi vitakketi.

Vị ấy ở đây khởi lên suy tầm về viễn ly, khởi lên sự suy tầm về vô sân, khởi lên sự suy tầm về vô hại.

Evarūpassāhaṃ, bhikkhave, bhikkhuno dinnaṃ mahapphalanti vadāmi. Taṃ kissa hetu?

 Này các Tỷ-kheo, Ta nói rằng bố thí cho Tỷ-kheo như vậy có quả lớn. V́ cớ sao?

Appamatto hi, bhikkhave, bhikkhu viharatī’’ti. Paṭhamaṃ.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không sống phóng dật.

2. Bhaṇḍanasuttaṃ

2. Bhaṇḍanasuttavaṇṇanā

122.- Tranh Luận

125. ‘‘Yassaṃ, bhikkhave, disāyaṃ bhikkhū bhaṇḍanajātā kalahajātā vivādāpannā aññamaññaṃ mukhasattīhi vitudantā viharanti, manasi kātumpi me esā, bhikkhave, disā na phāsu hoti, pageva gantuṃ!

125. Dutiye pajahiṃsūti pajahanti. Bahulamakaṃsūti punappunaṃ karonti. Idhāpi tayo vitakkā missakāva kathitā.

 

- Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với binh khí miệng lưỡi, thật không thoải mái cho ta, này các Tỷ-kheo, khi nghĩ đến phương hướng ấy, c̣n nói ǵ đến chỗ ấy.

Niṭṭhamettha gacchāmi – ‘addhā te āyasmanto tayo dhamme pajahiṃsu, tayo dhamme bahulamakaṃsu [bahulīmakaṃsu (syā. kaṃ. pī.)].

Ở đây, Ta đi đến kết luận như sau: "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đă từ bỏ ba pháp và đă làm quá nhiều ba pháp".

Katame tayo dhamme pajahiṃsu?

Ba pháp họ đă từ bỏ là ǵ?

Nekkhammavitakkaṃ, abyāpādavitakkaṃ, avihiṃsāvitakkaṃ – ime tayo dhamme pajahiṃsu.

Viễn ly tầm, vô sân tầm, bất hại tầm. Ba pháp này họ đă từ bỏ.

Katame tayo dhamme bahulamakaṃsu?

Ba pháp ǵ họ đă làm quá nhiều?

Kāmavitakkaṃ, byāpādavitakkaṃ, vihiṃsāvitakkaṃ – ime tayo dhamme bahulamakaṃsu’.

Dục tầm, sân tầm, hại tầm. Ba pháp này họ đă làm quá nhiều.

Yassaṃ, bhikkhave, disāyaṃ bhikkhū bhaṇḍanajātā kalahajātā vivādāpannā aññamaññaṃ mukhasattīhi vitudantā viharanti, manasi kātumpi me esā, bhikkhave, disā na phāsu hoti, pageva gantuṃ!

Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống cạnh tranh, luận tranh, đấu tranh, đả thương nhau với binh khí miệng lưỡi, thật không thoải mái cho ta, này các Tỷ-kheo, khi nghĩ đến phương hướng ấy, c̣n nói ǵ đến chỗ ấy.

Niṭṭhamettha gacchāmi – ‘addhā te āyasmanto ime tayo dhamme pajahiṃsu, ime tayo dhamme bahulamakaṃsu’’’.

Ở đây, Ta đi đến kết luận như sau: "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đă từ bỏ ba pháp này và đă làm quá nhiều ba pháp này".

‘‘Yassaṃ pana, bhikkhave, disāyaṃ bhikkhū samaggā sammodamānā avivadamānā khīrodakībhūtā aññamaññaṃ piyacakkhūhi sampassantā viharanti, gantumpi me esā, bhikkhave, disā phāsu hoti, pageva manasi kātuṃ!

Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống ḥa hợp, hoan hỷ, không đấu tranh nhau, như sữa và nước lẫn lộn, nh́n nhau với cặp mắt ái kính, này các Tỷ-kheo, đi đến phương hướng ấy thật thoải mái cho ta, c̣n nói ǵ nghĩ đến phương hướng ấy.

Niṭṭhamettha gacchāmi – ‘addhā te āyasmanto tayo dhamme pajahiṃsu, tayo dhamme bahulamakaṃsu.

Ở đây, Ta đi đến kết luận như sau: "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đă từ bỏ ba pháp này và đă làm quá nhiều ba pháp này".

Katame tayo dhamme pajahiṃsu?

Ba pháp họ đă từ bỏ là ǵ?

Kāmavitakkaṃ , byāpādavitakkaṃ, vihiṃsāvitakkaṃ – ime tayo dhamme pajahiṃsu.

Dục tầm, sân tầm, hại tầm. Ba pháp này họ đă từ bỏ.

Katame tayo dhamme bahulamakaṃsu?

Ba pháp ǵ họ đă làm quá nhiều?

Nekkhammavitakkaṃ, abyāpādavitakkaṃ, avihiṃsāvitakkaṃ – ime tayo dhamme bahulamakaṃsu’.

Viễn ly tầm, vô sân tầm, bất hại tầm.

Yassaṃ , bhikkhave, disāyaṃ bhikkhū samaggā sammodamānā avivadamānā khīrodakībhūtā aññamaññaṃ piyacakkhūhi sampassantā viharanti, gantumpi me esā, bhikkhave, disā phāsu hoti, pageva manasi kātuṃ!

Tại phương hướng nào, này các Tỷ-kheo, các Tỷ-kheo sống ḥa hợp, hoan hỷ, không đấu tranh nhau, như sữa và nước lẫn lộn, nh́n nhau với cặp mắt ái kính, này các Tỷ-kheo, đi đến phương hướng ấy thật thoải mái cho ta, c̣n nói ǵ nghĩ đến phương hướng ấy.

  Niṭṭhamettha gacchāmi – ‘addhā te āyasmanto ime tayo dhamme pajahiṃsu, ime tayo dhamme bahulamakaṃsū’’’ti. Dutiyaṃ.

 Ở đây, Ta đi đến kết luận như sau: "Thật vậy, các Tỷ-kheo ấy đă từ bỏ ba pháp này và đă làm quá nhiều ba pháp này".

3. Gotamakacetiyasuttaṃ

 

123.- Điện Thờ Gotama

126. Ekaṃ samayaṃ bhagavā vesāliyaṃ viharati gotamake cetiye. Tatra kho bhagavā bhikkhū āmantesi – ‘‘bhikkhavo’’ti. ‘‘Bhadante’’ti te bhikkhū bhagavato paccassosuṃ.

3. Gotamakacetiyasuttavaṇṇanā

126. Tatiye gotamake cetiyeti gotamakayakkhassa bhavane. Tathāgato hi paṭhamabodhiyaṃ vīsati vassāni kadāci cāpāle cetiye, kadāci sārandade, kadāci bahuputte, kadāci gotamaketi evaṃ yebhuyyena devakulesuyeva vihāsi. Imasmiṃ pana kāle vesāliṃ upanissāya gotamakassa yakkhassa bhavanaṭṭhāne vihāsi. Tena vuttaṃ – ‘‘gotamake cetiye’’ti. Etadavocāti etaṃ ‘‘abhiññāyāha’’ntiādikaṃ suttaṃ avoca.

Idañca bhagavatā suttaṃ atthuppattiyaṃ vuttanti veditabbaṃ. Kataraatthuppattiyanti? Mūlapariyāyaatthuppattiyaṃ (ma. ni. 1.1 ādayo). Sambahulā kira brāhmaṇapabbajitā attanā uggahitabuddhavacanaṃ nissāya jānanamadaṃ uppādetvā dhammassavanaggaṃ na gacchanti – ‘‘sammāsambuddho kathento amhehi ñātameva kathessati, no aññāta’’nti. Bhikkhū tathāgatassa ārocesuṃ. Satthā te bhikkhū pakkosāpetvā mukhapaṭiññaṃ gahetvā mūlapariyāyaṃ desesi. Te bhikkhū desanāya neva āgataṭṭhānaṃ, na gataṭṭhānaṃ addasaṃsu. Apassantā ‘‘sammāsambuddho ‘mayhaṃ kathā niyyātī’ti mukhasampattameva kathetī’’ti cintayiṃsu. Satthā tesaṃ manaṃ jānitvā imaṃ suttantaṃ ārabhi.

Tattha abhiññāyāti ‘‘ime pañcakkhandhā, dvādasāyatanāni, aṭṭhārasa dhātuyo, bāvīsatindriyāni, cattāri saccāni, nava hetū, satta phassā, satta vedanā, satta cetanā, satta saññā, satta cittānī’’ti jānitvā paṭivijjhitvā paccakkhaṃ katvā, tathā – ‘‘ime cattāro satipaṭṭhānā’’tiādinā nayena te te dhamme jānitvā paṭivijjhitvā paccakkhameva katvāti attho. Sanidānanti sappaccayameva katvā kathemi, no appaccayaṃ. Sappāṭihāriyanti paccanīkapaṭiharaṇena sappāṭihāriyameva katvā kathemi, no appāṭihāriyaṃ. Alañca pana voti yuttañca pana tumhākaṃ. Tuṭṭhiyāti ‘‘sammāsambuddho bhagavā, svākkhāto dhammo, suppaṭipanno saṅgho’’ti tīṇi ratanāni guṇato anussarantānaṃ tumhākaṃ yuttameva tuṭṭhiṃ kātunti attho. Sesapadadvayepi eseva nayo.

Akampitthāti chahi ākārehi akampittha. Evarūpo hi pathavikampo bodhimaṇḍepi ahosi. Bodhisatte kira dakkhiṇadisābhāgena bodhimaṇḍaṃ abhiruḷhe dakkhiṇadisābhāgo heṭṭhā avīciṃ pāpuṇanto viya ahosi, uttarabhāgo uggantvā bhavaggaṃ abhihananto viya. Pacchimadisaṃ gate pacchimabhāgo heṭṭhā avīciṃ pāpuṇanto viya ahosi, pācīnabhāgo uggantvā bhavaggaṃ abhihananto viya. Uttaradisaṃ gate uttaradisābhāgo heṭṭhā avīciṃ pāpuṇanto viya, dakkhiṇadisābhāgo uggantvā bhavaggaṃ abhihananto viya. Pācīnadisaṃ gate pācīnadisābhāgo heṭṭhā avīciṃ pāpuṇanto viya, pacchimabhāgo uggantvā bhavaggaṃ abhihananto viya. Bodhirukkhopi sakiṃ heṭṭhā avīciṃ pāpuṇanto viya, sakiṃ uggantvā bhavaggaṃ abhihananto viya. Tasmimpi divase evaṃ chahi ākārehi cakkavāḷasahassī mahāpathavī akampittha.

Một thời, Thế Tôn trú ở Vesàli, tại điện thờ Gotama. Tại đấy, Thế Tôn gọi các Tỷ-kheo:

- Này các Tỷ-kheo.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

Các Tỷ-kheo ấy vâng đáp Thế Tôn,

Bhagavā etadavoca –

‘‘Abhiññāyāhaṃ, bhikkhave, dhammaṃ desemi, no anabhiññāya.

Thế Tôn nói như sau:

- Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp với thắng trí, không phải với không thắng trí.

Sanidānāhaṃ, bhikkhave, dhammaṃ desemi, no anidānaṃ.

Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp với nhân duyên, không phải với không nhân duyên.

Sappāṭihāriyāhaṃ, bhikkhave, dhammaṃ desemi, no appāṭihāriyaṃ.

Này các Tỷ-kheo, Ta thuyết pháp với thần thông, không phải với không thần thông.

Tassa mayhaṃ, bhikkhave, abhiññāya dhammaṃ desayato no anabhiññāya, sanidānaṃ dhammaṃ desayato no anidānaṃ, sappāṭihāriyaṃ dhammaṃ desayato no appāṭihāriyaṃ, karaṇīyo ovādo, karaṇīyā anusāsanī. Alañca pana vo, bhikkhave, tuṭṭhiyā, alaṃ attamanatāya, alaṃ somanassāya – ‘sammāsambuddho bhagavā, svākkhāto dhammo, suppaṭipanno saṅgho’’’ti.

Này các Tỷ-kheo, do v́ Ta thuyết pháp có thắng trí, không phải với không thắng trí; do v́ Ta thuyết pháp có nhân duyên, không phải không có nhân duyên; do v́ Ta thuyết pháp có thần thông, không phải không có thần thông, nên giáo giới cần phải làm, giảng dạy cần phải làm.

Thật là vừa đủ, này các Tỷ-kheo, để các Thầy bằng ḷng. Thật là vừa đủ để các Thầy hân hoan. Thật là vừa đủ để các Thầy hoan hỷ, Chánh Đẳng Giác là Thế Tôn! Pháp được Thế Tôn khéo thuyết, khéo hành tŕ là chúng Tăng!

Idamavoca bhagavā. Attamanā te bhikkhū bhagavato bhāsitaṃ abhinandunti. Imasmiñca pana veyyākaraṇasmiṃ bhaññamāne sahassī lokadhātu akampitthāti. Tatiyaṃ.

Thế Tôn thuyết giảng như vậy. Các Tỷ-kheo ấy hoan hỷ lời Thế Tôn giảng. Trong khi lời thuyết giảng này được nói lên, một ngàn thế giới đều rung động.

4. Bharaṇḍukālāmasuttaṃ

4. Bharaṇḍukālāmasuttavaṇṇanā

124. Bharandu

127. Ekaṃ samayaṃ bhagavā kosalesu cārikaṃ caramāno yena kapilavatthu tadavasari.

127. Catutthe kevalakappanti sakalakappaṃ. Anvāhiṇḍantoti vicaranto. Nāddasāti kiṃ kāraṇā na addasa? Ayaṃ kira bharaṇḍu kālāmo sakyānaṃ aggapiṇḍaṃ khādanto vicarati. Tassa vasanaṭṭhānaṃ sampattakāle ekā dhammadesanā samuṭṭhahissatīti ñatvā bhagavā evaṃ adhiṭṭhāsi, yathā añño āvasatho na paññāyittha. Tasmā na addasa. Purāṇasabrahmacārīti porāṇako sabrahmacārī. So kira āḷārakālāmakāle tasmiṃyeva assame ahosi, taṃ sandhāyevamāha. Santharaṃ paññāpehīti santharitabbaṃ santharāhīti attho. Santharaṃ paññāpetvāti kappiyamañcake paccattharaṇaṃ paññāpetvā. Kāmānaṃ pariññaṃ paññāpetīti ettha pariññā nāma samatikkamo, tasmā kāmānaṃ samatikkamaṃ paṭhamajjhānaṃ paññāpeti. Na rūpānaṃ pariññanti rūpānaṃ samatikkamabhūtaṃ arūpāvacarasamāpattiṃ na paññāpeti. Na vedanānaṃ pariññanti vedanānaṃ samatikkamaṃ nibbānaṃ na paññāpeti. Niṭṭhāti gati nipphatti. Udāhu puthūti udāhu nānā.

1. Một thời, Thế Tôn đang du hành giữa dân chúng Kosala và đi đến Kapilavatthu.

Assosi kho mahānāmo sakko – ‘‘bhagavā kira kapilavatthuṃ anuppatto’’ti. Atha kho mahānāmo sakko yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitaṃ kho mahānāmaṃ sakkaṃ bhagavā etadavoca –

Họ Thích Mahànàma nghe tin Thế Tôn đă đến Kapilavatthu. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn; sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma đang đứng một bên:

‘‘Gaccha, mahānāma, kapilavatthusmiṃ, tathārūpaṃ āvasathaṃ jāna yatthajja mayaṃ ekarattiṃ vihareyyāmā’’ti. ‘‘Evaṃ , bhante’’ti

- Hăy đi, này Mahànàma và t́m xem ở Kapilavatthu có chỗ nào, tại chỗ ấy, hôm nay chúng ta sẽ trú lại một đêm.

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

kho mahānāmo sakko bhagavato paṭissutvā kapilavatthuṃ pavisitvā kevalakappaṃ kapilavatthuṃ anvāhiṇḍanto [āhiṇḍanto (syā. kaṃ.)] nāddasa kapilavatthusmiṃ tathārūpaṃ āvasathaṃ yatthajja bhagavā ekarattiṃ vihareyya.

Atha kho mahānāmo sakko yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca –

Họ Thích Mahànàma vâng đáp Thế Tôn, đi vào Kapilavatthu, đi khắp toàn vùng Kapilavatthu và không thấy một chỗ nào, Thế Tôn có thể trú một đêm. Rồi họ Thích Mahànàma đi đến Thế Tôn, sau khi đến bạch Thế Tôn:

 

‘‘natthi, bhante, kapilavatthusmiṃ tathārūpo āvasatho yatthajja bhagavā ekarattiṃ vihareyya. Ayaṃ, bhante, bharaṇḍu kālāmo bhagavato purāṇasabrahmacārī. Tassajja bhagavā assame ekarattiṃ viharatū’’ti.

2. - Bạch Thế Tôn, ở Kapilavatthu không có chỗ nào, tại đây, hôm nay Thế Tôn có thể trú một đêm. Nhưng có Bharandu, người Kàlàmà này, trước tu Phạm hạnh với Thế Tôn. Hôm nay, Thế Tôn hăy ở một đêm tại am thất của vị ấy.

‘‘Gaccha, mahānāma, santharaṃ paññapehī’’ti.

- Này Mahànàma, hăy đi và trải một tấm thảm cho ta ở đó.

‘‘Evaṃ, bhante’’ti

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

kho mahānāmo sakko bhagavato paṭissutvā yena bharaṇḍussa kālāmassa assamo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā santharaṃ paññāpetvā udakaṃ ṭhapetvā pādānaṃ dhovanāya yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ etadavoca –

Họ Thích Mahànàma vâng đáp Thế Tôn, đi đến am thất của Bharandu người Kàlàmà, sau khi đến, trải tấm thảm, đặt nước để rửa chân, rồi đi đến Thế Tôn, sau khi đến, bạch Thế Tôn:

‘‘santhato, bhante, santhāro, udakaṃ ṭhapitaṃ pādānaṃ dhovanāya. Yassadāni, bhante, bhagavā kālaṃ maññatī’’ti.

- Bạch Thế Tôn, tấm thảm đă trải, nước để rửa chân đă sẵn sàng, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn hăy làm ǵ Ngài nghĩ là phải thời!

Atha kho bhagavā yena bharaṇḍussa kālāmassa assamo tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā paññatte āsane nisīdi. Nisajja kho bhagavā pāde pakkhālesi.

3. Rồi Thế Tôn đi đến am thất của Bharandu người Kàlàmà, sau khi đến, ngồi xuống chỗ đă soạn sẵn. Sau khi ngồi, Thế Tôn rửa chân.

Atha kho mahānāmassa sakkassa etadahosi – ‘‘akālo kho ajja bhagavantaṃ payirupāsituṃ. Kilanto bhagavā. Sve dānāhaṃ bhagavantaṃ payirupāsissāmī’’ti bhagavantaṃ abhivādetvā padakkhiṇaṃ katvā pakkāmi.

Rồi họ Thích Mahànàma nghĩ như sau: "Nay không phải thời để hầu hạ Thế Tôn. Thế Tôn đang mệt mỏi. Ngày mai ta sẽ đến hầu hạ Thế Tôn". Nghĩ vậy xong bèn đảnh lễ Thế Tôn, thân phía hữu hướng về ngài rồi đi ra.

Atha kho mahānāmo sakko tassā rattiyā accayena yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho mahānāmaṃ sakkaṃ bhagavā etadavoca –

Họ Thích Mahànàma, sau khi đêm ấy đă măn, đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma đang ngồi một bên:

‘‘tayo khome, mahānāma, satthāro santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame tayo?

4. - Này Mahànàma, có ba vị đạo sư có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba?

Idha, mahānāma, ekacco satthā kāmānaṃ pariññaṃ paññāpeti; na rūpānaṃ pariññaṃ paññāpeti, na vedanānaṃ pariññaṃ paññāpeti.

Ở đây, này Mahànàma, có vị đạo sư tŕnh bày sự biến tri của các dục vọng, nhưng không tŕnh bày sự biến tri của các sắc, không tŕnh bày sự biến tri của các cảm thọ.

Idha pana, mahānāma, ekacco satthā kāmānaṃ pariññaṃ paññāpeti , rūpānaṃ pariññaṃ paññāpeti; na vedanānaṃ pariññaṃ paññāpeti.

Ở đây, này Mahànàma, có vị đạo sư tŕnh bày sự biến tri của các dục vọng, tŕnh bày sự biến tri của các sắc, nhưng không tŕnh bày sự biến tri của các cảm thọ.

Idha pana, mahānāma, ekacco satthā kāmānaṃ pariññaṃ paññāpeti, rūpānaṃ pariññaṃ paññāpeti, vedanānaṃ pariññaṃ paññāpeti.

Nhưng ở đây, này Mahànàma, có vị đạo sư tŕnh bày sự biến tri của các dục vọng, tŕnh bày sự biến tri của các sắc, tŕnh bày sự biến tri của các cảm thọ.

Ime kho, mahānāma, tayo satthāro santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. ‘Imesaṃ, mahānāma, tiṇṇaṃ satthārānaṃ ekā niṭṭhā udāhu puthu niṭṭhā’’’ti?

Này Mahànàma, có ba vị đạo sư này có mặt, xuất hiện ở đời. Trong ba vị này, này Mahànàma, kết luận là một hay là sai khác?

Evaṃ vutte bharaṇḍu kālāmo mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca – ‘‘ekāti, mahānāma, vadehī’’ti.

5. Khi được nói như vậy, Bharandu, người Kàlàmà, nói với họ Thích Mahànàma:

- Này Mahànàma, hăy nói là một.

Evaṃ vutte bhagavā mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca – ‘‘nānāti, mahānāma, vadehī’’ti.

Khi nghe nói vậy, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma:

- Này Mahànàma, hăy nói là khác.

Dutiyampi kho bharaṇḍu kālāmo mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca – ‘‘ekāti, mahānāma, vadehī’’ti.

 Lần thứ hai, Brahandu, người Kàlàmà nói với họ Thích Mahànàma:

- Này Mahànàma, hăy nói là một.

Dutiyampi kho bhagavā mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca – ‘‘nānāti, mahānāma, vadehī’’ti.

Lần thứ hai, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma:

- Này Mahànàma, hăy nói là khác.

Tatiyampi kho bharaṇḍu kālāmo mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca – ‘‘ekāti, mahānāma , vadehī’’ti.

Lần thứ ba Brahandu, người Kàlàmà nói với họ Thích Mahànàma:

- Này Mahànàma, hăy nói là một.

Tatiyampi kho bhagavā mahānāmaṃ sakkaṃ etadavoca – ‘‘nānāti, mahānāma, vadehī’’ti.

Lần thứ ba, Thế Tôn nói với họ Thích Mahànàma:

- Này Mahànàma, hăy nói là khác.

Atha kho bharaṇḍu kālāmassa etadahosi – ‘‘mahesakkhassa vatamhi mahānāmassa sakkassa sammukhā samaṇena gotamena yāvatatiyaṃ apasādito. Yaṃnūnāhaṃ kapilavatthumhā pakkameyya’’nti.

6. Rồi Bharandu, người Kàlàmà suy nghĩ như sau: "Trước mặt họ Thích Mahànàma có thế lực lớn này, ta bị Sa-môn Gotama nói trái ngược cho đến lần thứ ba. Vậy ta hăy rời khỏi Kapilavatthu".

    Atha kho bharaṇḍu kālāmo kapilavatthumhā pakkāmi. Yaṃ kapilavatthumhā pakkāmi tathā pakkantova ahosi na puna paccāgacchīti. Catutthaṃ.

Rồi Bharandu người Kàlàmà đi ra khỏi Kapilavatthu, một sự ra đi khỏi Kapilavatthu, không bao giờ có trở lại nữa.

5. Hatthakasuttaṃ

5. Hatthakasuttavaṇṇanā

125.- Hatthaka

128. Ekaṃ samayaṃ bhagavā sāvatthiyaṃ viharati jetavane anāthapiṇḍikassa ārāme.

128. Pañcame abhikkantāya rattiyāti ettha abhikkantasaddo khayasundarābhirūpaabbhanumodanādīsu dissati. Tattha ‘‘abhikkantā, bhante, ratti, nikkhanto paṭhamo yāmo, ciranisinno bhikkhusaṅgho, uddisatu, bhante, bhagavā bhikkhūnaṃ pātimokkha’’nti evamādīsu khaye dissati. ‘‘Ayaṃ imesaṃ catunnaṃ puggalānaṃ abhikkantataro ca paṇītataro cā’’ti evamādīsu (a. ni. 4.100) sundare.

‘‘Ko me vandati pādāni, iddhiyā yasasā jalaṃ;

Abhikkantena vaṇṇena, sabbā obhāsayaṃ disā’’ti. (vi. va. 857) –

Evamādīsu abhirūpe. ‘‘Abhikkantaṃ, bho gotamā’’ti evamādīsu (pārā. 15) abbhanumodane. Idha pana sundare. Tena abhikkantāya rattiyāti iṭṭhāya kantāya manāpāya rattiyāti vuttaṃ hoti. Abhikkantavaṇṇāti idha abhikkantasaddo abhirūpe, vaṇṇasaddo pana chavithutikulavaggakāraṇasaṇṭhānapamāṇarūpāyatanādīsu dissati. Tattha ‘‘suvaṇṇavaṇṇosi bhagavā’’ti evamādīsu (ma. ni. 2.399; su. ni. 553) chaviyaṃ. ‘‘Kadā saññūḷhā pana te gahapati samaṇassa gotamassa vaṇṇā’’ti evamādīsu (ma. ni. 2.77) thutiyaṃ. ‘‘Cattārome, bho gotama, vaṇṇā’’ti evamādīsu (dī. ni. 3.115) kulavagge. ‘‘Atha kena nu vaṇṇena, gandhatthenoti vuccatī’’ti evamādīsu (saṃ. ni. 1.234) kāraṇe. ‘‘Mahantaṃ hatthirājavaṇṇaṃ abhinimminitvā’’ti evamādīsu (saṃ. ni. 1.138) saṇṭhāne. ‘‘Tayo pattassa vaṇṇā’’ti evamādīsu (pārā. 602) pamāṇe. ‘‘Vaṇṇo gandho raso ojā’’ti evamādīsu rūpāyatane. So idha chaviyā daṭṭhabbo. Tena abhikkantavaṇṇāti abhirūpacchavi, iṭṭhavaṇṇā manāpavaṇṇāti vuttaṃ hoti.

Kevalakappanti ettha kevalasaddo anavasesayebhuyyābyāmissānatirekadaḷhatthavisaṃyogādianekattho. Tathā hissa ‘‘kevalaparipuṇṇaṃ parisuddhaṃ brahmacariya’’nti evamādīsu (pārā. 1) anavasesatā attho. ‘‘Kevalakappā ca aṅgamagadhā pahūtaṃ khādanīyaṃ bhojanīyaṃ ādāya upasaṅkamissantī’’ti evamādīsu (mahāva. 43) yebhuyyatā. ‘‘Kevalassa dukkhakkhandhassa samudayo hotī’’ti evamādīsu (vibha. 225) abyāmissatā. ‘‘Kevalaṃ saddhāmattakaṃ nūna ayamāyasmā’’ti evamādīsu (mahāva. 244) anatirekatā. ‘‘Āyasmato, bhante, anuruddhassa bāhiyo nāma saddhivihāriko kevalakappaṃ saṅghabhedāya ṭhito’’ti evamādīsu (a. ni. 4.243) daḷhatthatā. ‘‘Kevalī vusitavā uttamapurisoti vuccatī’’ti evamādīsu (saṃ. ni. 3.57) visaṃyogo. Idha pana anavasesatā atthoti adhippetā.

Kappasaddo panāyaṃ abhisaddahanavohārakālapaññattichedanavikappalesasamantabhāvādianekattho. Tathā hissa ‘‘okappaniyametaṃ bhoto gotamassa, yathā taṃ arahato sammāsambuddhassā’’ti evamādīsu (ma. ni. 1.387) abhisaddahanamattho. ‘‘Anujānāmi, bhikkhave, pañcahi samaṇakappehi phalaṃ paribhuñjitu’’nti evamādīsu (cūḷava. 250) vohāro. ‘‘Yena sudaṃ niccakappaṃ viharāmī’’ti evamādīsu (ma. ni. 1.387) kālo. ‘‘Iccāyasmā kappo’’ti evamādīsu (su. ni. 1098; cūḷani. kappamāṇavapucchā 117, kappamāṇavapucchāniddeso 61) paññatti . ‘‘Alaṅkato kappitakesamassū’’ti evamādīsu (jā. 2.22.1368; vi. va. 1094) chedanaṃ. ‘‘Kappati dvaṅgulakappo’’ti evamādīsu (cūḷava. 446) vikappo. ‘‘Atthi kappo nipajjitu’’nti evamādīsu (a. ni. 8.80) leso. ‘‘Kevalakappaṃ veḷuvanaṃ obhāsetvā’’ti evamādīsu (saṃ. ni. 1.94) samantabhāvo. Idha panassa samantabhāvo attho adhippeto. Tasmā kevalakappaṃ jetavananti ettha anavasesaṃ samantato jetavananti attho.

Obhāsetvāti ābhāya pharitvā. Vālukāyāti saṇhāya vālukāya. Na saṇṭhātīti na patiṭṭhāti. Oḷārikanti brahmadevatāya hi pathaviyaṃ patiṭṭhānakāle attabhāvo oḷāriko māpetuṃ vaṭṭati pathavī vā, tasmā evamāha. Dhammāti iminā pubbe uggahitabuddhavacanaṃ dasseti. Nappavattino ahesunti sajjhāyamūḷhakā vācā parihīnāyeva ahesuṃ. Appaṭivānoti anivatto anukkaṇṭhito.

Dassanassāti cakkhuviññāṇena dassanassa. Upaṭṭhānassāti catūhi paccayehi upaṭṭhānassa. Adhisīlanti dasavidhaṃ sīlaṃ. Tañhi pañcasīlaṃ upādāya adhisīlanti vuccati. Avihaṃ gatoti avihabrahmaloke nibbattosmīti dasseti.

1. Một thời Thế Tôn trú ở Sàvatthi, tại Jetanava, khu vườn của Anàthapindika.

Atha kho hatthako devaputto abhikkantāya rattiyā abhikkantavaṇṇo kevalakappaṃ jetavanaṃ obhāsetvā yena bhagavā tenupasaṅkami;

Rồi Thiên tử Hatthaka, sau khi đêm đă gần tàn, với dung sắc thù thắng chói sáng toàn vùng Jetanava đi đến Thế Tôn.

upasaṅkamitvā – ‘‘bhagavato purato ṭhassāmī’’ti osīdatimeva saṃsīdatimeva [osīdati ceva saṃsīdati ca (sī. pī.), osīdati saṃsīdati (syā. kaṃ.)], na sakkoti saṇṭhātuṃ. Seyyathāpi nāma sappi vā telaṃ vā vālukāya āsittaṃ osīdatimeva saṃsīdatimeva, na saṇṭhāti;

Sau khi đến, vị ấy nghĩ: "Ta sẽ đứng thẳng trước Thế Tôn", nhưng vị ấy ch́m xuống, lún xuống, không có thể đứng thẳng; ví như thục tô hay dầu đổ trên cát, ch́m xuống, lún xuống, không thể giữ lại.

 evamevaṃ hatthako devaputto – ‘‘bhagavato purato ṭhassāmī’’ti osīdatimeva saṃsīdatimeva, na sakkoti saṇṭhātuṃ.

Cũng vậy, Thiên tử Hatthaka nghĩ rằng: "Ta sẽ đứng thẳng trước mặt Thế Tôn", nhưng vị ấy ch́m xuống, lún xuống, không thể đứng thẳng.

Atha kho bhagavā hatthakaṃ devaputtaṃ etadavoca – ‘‘oḷārikaṃ, hatthaka, attabhāvaṃ abhinimmināhī’’ti .

2. Rồi Thế Tôn nói với Thiên tử Hatthaka:

- Này Hatthaka, hăy hóa thành một tự thể thô xấu.

‘‘Evaṃ, bhante’’ti,

- Thưa vâng, bạch Thế Tôn.

kho hatthako devaputto bhagavato paṭissutvā oḷārikaṃ attabhāvaṃ abhinimminitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ aṭṭhāsi. Ekamantaṃ ṭhitaṃ kho hatthakaṃ devaputtaṃ bhagavā etadavoca –

Thiên tử Hatthaka vâng đáp Thế Tôn sau khi hóa thành một tự thể thô xấu, đảnh lễ Thế Tôn rồi đứng một bên. Thế Tôn nói với Thiên tử Hatthaka đang đứng một bên:

‘‘Ye te, hatthaka, dhammā pubbe manussabhūtassa pavattino ahesuṃ, api nu te te dhammā etarahi pavattino’’ti?

- Này Hatthaka, các pháp được diễn tiến trước kia, khi Ông c̣n làm người, các pháp ấy được diễn tiến hiện nay đối với Ông không?

‘‘Ye ca me, bhante, dhammā pubbe manussabhūtassa pavattino ahesuṃ, te ca me dhammā etarahi pavattino;

- Bạch Thế Tôn, các pháp được diễn tiến trước kia, khi con c̣n làm người, các pháp ấy có được diễn tiến hiện nay với con.

ye ca me, bhante, dhammā pubbe manussabhūtassa nappavattino ahesuṃ, te ca me dhammā etarahi pavattino.

Và bạch Thế Tôn, có các pháp không được diễn tiến trước kia, khi con c̣n làm người, các pháp ấy có được diễn tiến hiện nay đối với con.

Seyyathāpi, bhante, bhagavā etarahi ākiṇṇo viharati bhikkhūhi bhikkhunīhi upāsakehi upāsikāhi rājūhi rājamahāmattehi titthiyehi titthiyasāvakehi;

Ví như, bạch Thế Tôn, nay Thế Tôn sống, được các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ni, nam cư sĩ, nữ cư sĩ, các vua chúa, các đại thần của vua, các ngoại đạo, các đệ tử ngoại đạo đoanh vây.

evamevaṃ kho ahaṃ, bhante, ākiṇṇo viharāmi devaputtehi.

Cũng vậy, bạch Thế Tôn, con sống được các Thiên tử đoanh vây.

Dūratopi, bhante, devaputtā āgacchanti hatthakassa devaputtassa santike ‘dhammaṃ sossāmā’ti.

Từ xa, bạch Thế Tôn, các Thiên tử đi đến, nghĩ rằng: "Chúng ta hăy đến nghe pháp từ Thiên tử Hatthaka".

Tiṇṇāhaṃ, bhante, dhammānaṃ atitto appaṭivāno kālaṅkato. Katamesaṃ tiṇṇaṃ?

Có ba pháp, bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ, con chết con vẫn c̣n ân hận luyến tiếc. Thế nào là ba?

Bhagavato ahaṃ, bhante, dassanassa atitto appaṭivāno kālaṅkato; saddhammasavanassāhaṃ, bhante, atitto appaṭivāno kālaṅkato; saṅghassāhaṃ, bhante, upaṭṭhānassa atitto appaṭivāno kālaṅkato. Imesaṃ kho ahaṃ, bhante, tiṇṇaṃ dhammānaṃ atitto appaṭivāno kālaṅkato’’ti.

Bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ được thấy Thế Tôn, con chết con vẫn c̣n ân hận luyến tiếc. Bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ được nghe Diệu pháp, con chết con vẫn c̣n ân hận luyến tiếc. Bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ được phục vụ hầu hạ chúng Tăng, con chết con vẫn c̣n ân hận luyến tiếc.

‘‘Nāhaṃ bhagavato dassanassa, tittimajjhagā [titti tittisambhavaṃ (ka.)] kudācanaṃ;

Saṅghassa upaṭṭhānassa, saddhammasavanassa ca.

‘‘Adhisīlaṃ sikkhamāno, saddhammasavane rato;

Tiṇṇaṃ dhammānaṃ atitto, hatthako avihaṃ gato’’ti. pañcamaṃ;

Có ba pháp này, bạch Thế Tôn, con cảm thấy không bao giờ vừa đủ. Con chết con vẫn c̣n ân hận luyến tiếc.

Con thấy không vừa đủ
Khi được gặp Thế Tôn
Được phục vụ chúng Tăng
Được lắng nghe Diệu pháp
Học tập tăng thượng giới
Thích thú nghe Diệu pháp
Do đối với ba pháp
Cảm thấy không vừa đủ
Thiên tử Hatthaka
Được sanh vô phiền thiên

6. Kaṭuviyasuttaṃ

6. Kaṭuviyasuttavaṇṇanā

126.- Thối Nát.

129. Ekaṃ samayaṃ bhagavā bārāṇasiyaṃ viharati isipatane migadāye.

129. Chaṭṭhe goyogapilakkhasminti gāvīnaṃ vikkayaṭṭhāne uṭṭhitapilakkhassa santike. Rittassādanti jhānasukhābhāvena rittassādaṃ. Bāhirassādanti kāmaguṇasukhavasena bāhirassādaṃ. Kaṭuviyanti ucchiṭṭhaṃ. Āmagandhenāti kodhasaṅkhātena vissagandhena. Avassutanti tintaṃ. Makkhikāti kilesamakkhikā. Nānupatissantīti uṭṭhāya na anubandhissanti. Nānvāssavissantīti anubandhitvā na khādissanti. Saṃvegamāpādīti sotāpanno jāto.

Kaṭuviyakatoti ucchiṭṭhakato. Ārakā hotīti dūre hoti. Vighātasseva bhāgavāti dukkhasseva bhāgī. Caretīti carati gacchati. Dummedhoti duppañño. Imasmiṃ sutte vaṭṭameva kathitaṃ, gāthāsu vaṭṭavivaṭṭaṃ kathitanti. Sattame vaṭṭameva bhāsitaṃ.

1. Một thời, Thế Tôn trú ở Bàrànasi, tại Isipatana vườn Nai

Atha kho bhagavā pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya bārāṇasiṃ piṇḍāya pāvisi.

Rồi Thế Tôn vào buổi sáng đắp y, cầm y bát, đi vào Ba-la-nại để khất thực.

Addasā kho bhagavā goyogapilakkhasmiṃ [goyogamilakkhasmiṃ (syā. kaṃ. ka.)] piṇḍāya caramāno [caramānaṃ (ka.)] aññataraṃ bhikkhuṃ rittassādaṃ bāhirassādaṃ muṭṭhassatiṃ asampajānaṃ asamāhitaṃ vibbhantacittaṃ pākatindriyaṃ. Disvā taṃ bhikkhuṃ etadavoca

Thế Tôn, trong khi đi khất thực tại Goyogapilakkha, gần cây sung, chỗ cột đàn ḅ, thấy một Tỷ-kheo hưởng thọ hương vị trống không, không có Thiền định, hưởng thọ hương vị hướng ngoại của vật dục, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, với tâm tán loạn, với các căn phóng túng. Thấy vậy, Thế Tôn liền nói với vị Tỷ-kheo ấy:

‘‘Mā kho tvaṃ, bhikkhu, attānaṃ kaṭuviyamakāsi.

- Này Tỷ-kheo, này Tỷ-kheo! Thầy chớ có làm cho tự ngă trở thành thối nát.

Taṃ vata bhikkhu kaṭuviyakataṃ attānaṃ āmagandhena [āmagandhe (sī. syā. kaṃ. pī.)] avassutaṃ makkhikā nānupatissanti nānvāssavissantīti [nānubandhissanti (ka.)], netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’’ti.

Này Tỷ-kheo, ai làm cho tự ngă thối nát đầy ứ, thoát ra toàn mùi hôi thối, rồi mong rằng các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không có chiếm cứ, sự kiện như vậy không xảy ra.

Atha kho so bhikkhu bhagavatā iminā ovādena ovadito saṃvegamāpādi.

2. Tỷ-kheo ấy được Thế Tôn giáo giới với lời giáo giới như vậy, cảm thấy xúc động mạnh.

Atha kho bhagavā bārāṇasiyaṃ piṇḍāya caritvā pacchābhattaṃ piṇḍapātapaṭikkanto bhikkhū āmantesi –

Rồi Thế Tôn, sau khi đi khất thực ở Ba-la-nại xong, sau bữa ăn, sau khi đi khất thực trở về, bảo các Tỷ-kheo:

‘‘Idhāhaṃ, bhikkhave, pubbaṇhasamayaṃ nivāsetvā pattacīvaramādāya bārāṇasiṃ piṇḍāya pāvisiṃ.

- Này các Tỷ-kheo, ở đây, sau khi đắp y vào buổi sáng, Ta cầm lấy y bát, đi vào Ba-la-nại để khất thực.

Addasaṃ kho ahaṃ, bhikkhave, goyogapilakkhasmiṃ piṇḍāya caramāno aññataraṃ bhikkhuṃ rittassādaṃ bāhirassādaṃ muṭṭhassatiṃ asampajānaṃ asamāhitaṃ vibbhantacittaṃ pākatindriyaṃ. Disvā taṃ bhikkhuṃ etadavocaṃ –

Này các Tỷ-kheo, trong khi đi khất thực tại Goyogapilakkha, Ta thấy một Tỷ-kheo hưởng thọ hương vị trống không, không có Thiền định, hưởng thọ hương vị hướng ngoại của vật dục, thất niệm, không tỉnh giác, không định tĩnh, với tâm tán loạn, với các căn phóng túng. Thấy vậy, Ta liền nói với vị Tỷ-kheo ấy:

‘‘‘Mā kho tvaṃ, bhikkhu, attānaṃ kaṭuviyamakāsi.

"Này Tỷ-kheo, này Tỷ-kheo! Thầy chớ có làm cho tự ngă trở thành thối nát.

Taṃ vata bhikkhu kaṭuviyakataṃ attānaṃ āmagandhena avassutaṃ makkhikā nānupatissanti nānvāssavissantīti, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’ti.

Này Tỷ-kheo, ai làm cho tự ngă thối nát đầy ứ, thoát ra toàn mùi hôi thối, rồi mong rằng: "Các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không có chiếm cứ, sự kiện như vậy không xảy ra"".

Atha kho, bhikkhave, so bhikkhu mayā iminā ovādena ovadito saṃvegamāpādī’’ti.

Này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo ấy được ta giáo giới với lời giáo giới này, cảm thấy xúc động mạnh.

Evaṃ vutte aññataro bhikkhu bhagavantaṃ etadavoca – ‘‘kiṃ nu kho, bhante, kaṭuviyaṃ? Ko āmagandho? Kā makkhikā’’ti?

3. Khi nghe nói như vậy, một Tỷ-kheo bạch Thế Tôn:

- Bạch Thế Tôn, thối nát cái ǵ, mùi hôi thối cái ǵ, các loài ruồi lằng là ǵ?

‘‘Abhijjhā kho, bhikkhu, kaṭuviyaṃ; byāpādo āmagandho; pāpakā akusalā vitakkā makkhikā.

- Tham cầu, này các Tỷ-kheo, là thối nát; sân là mùi hôi thối, các suy tầm ác bất thiện là ruồi lằng.

Taṃ vata, bhikkhu, kaṭuviyakataṃ attānaṃ āmagandhena avassutaṃ makkhikā nānupatissanti nānvāssavissantīti, netaṃ ṭhānaṃ vijjatī’’ti.

Này các Tỷ-kheo, ai làm cho các tự ngă thối nát, đầy ứ, thoát ra mùi hôi thối, rồi mong rằng: "Các loài ruồi lằng sẽ không bu đậu, sẽ không chiếm cứ", sự kiện như vậy không xảy ra.

‘‘Aguttaṃ cakkhusotasmiṃ, indriyesu asaṃvutaṃ;

Makkhikānupatissanti , saṅkappā rāganissitā.

‘‘Kaṭuviyakato bhikkhu, āmagandhe avassuto;

Ārakā hoti nibbānā, vighātasseva bhāgavā.

‘‘Gāme vā yadi vāraññe, aladdhā samathamattano [samamattano (sī. syā. kaṃ.), sammamattano (pī.)];

Pareti [careti (syā. ka.)] bālo dummedho, makkhikāhi purakkhato.

‘‘Ye ca sīlena sampannā, paññāyūpasameratā;

Upasantā sukhaṃ senti, nāsayitvāna makkhikā’’ti. chaṭṭhaṃ;

Tai mắt không giữ ǵn
Các căn không pḥng hộ
Ruồi lằng sẽ bu đậu
Các tư duy tham ái
Tỷ-kheo làm thối nát
Đầy ứ những mùi hôi
Xa thay là Niết-bàn!
Chịu phần về bất hạnh
Tại làng hay trong rừng
Tự ngă không an tịnh
Kẻ ngu và không trí
Đi đứng đầy ruồi lằng
Ai đầy đủ giới luật
Thích tịch tịnh trí tuệ
Sống an tịnh hạnh phúc
Mọi ruồi lằng diệt trừ

7. Paṭhamaanuruddhasuttaṃ

 

127. Anuruddha (1)

130. Atha kho āyasmā anuruddho yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā anuruddho bhagavantaṃ etadavoca –

 

1. Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Thế Tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế Tôn rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Anuruddha bạch Thế Tôn:

‘‘idhāhaṃ, bhante, dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena yebhuyyena passāmi mātugāmaṃ kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjamānaṃ. Katihi nu kho, bhante, dhammehi samannāgato mātugāmo kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjatī’’ti?

 

- Ở đây, bạch Thế Tôn, với thiên nhăn thanh tịnh siêu nhân, con thấy phần lớn các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Do đầy đủ với bao nhiêu pháp, bạch Thế Tôn, các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục?

 ‘‘Tīhi kho, anuruddha, dhammehi samannāgato mātugāmo kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjati. Katamehi tīhi?

 

 2. - Do đầy đủ ba pháp, này Anuruddha, các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục. Thế nào là ba?

Idha, anuruddha, mātugāmo pubbaṇhasamayaṃ maccheramalapariyuṭṭhitena cetasā agāraṃ ajjhāvasati, majjhanhikasamayaṃ issāpariyuṭṭhitena cetasā agāraṃ ajjhāvasati, sāyanhasamayaṃ kāmarāgapariyuṭṭhitena cetasā agāraṃ ajjhāvasati . Imehi kho, anuruddha, tīhi dhammehi samannāgato mātugāmo kāyassa bhedā paraṃ maraṇā apāyaṃ duggatiṃ vinipātaṃ nirayaṃ upapajjatī’’ti. Sattamaṃ.

 

Ở đây, này Anuruddha, nữ nhân vào buổi sáng sống ở trong nhà, tâm bị ám ảnh bởi cấu uế của xan lẫn; vào buổi trưa sống ở trong nhà, tâm bị ám ảnh bởi cấu uế của tật đố; vào buổi chiều sống ở trong nhà, tâm bị ám ảnh cấu uế của dục tham. Do đầy đủ với ba pháp này, này Anuruddha các nữ nhân, sau khi thân hoại mạng chung, phải sanh vào cơi dữ, ác thú, đọa xứ, địa ngục.

8. Dutiyaanuruddhasuttaṃ

8. Dutiyaanuruddhasuttavaṇṇanā

128.- Anuruddha (2)

131. Atha kho āyasmā anuruddho yenāyasmā sāriputto tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā āyasmatā sāriputtena saddhiṃ sammodi. Sammodanīyaṃ kathaṃ sāraṇīyaṃ vītisāretvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinno kho āyasmā anuruddho āyasmantaṃ sāriputtaṃ etadavoca –

131. Aṭṭhame idaṃ te mānasminti ayaṃ te navavidhena vaḍḍhitamānoti attho. Idaṃ te uddhaccasminti idaṃ tava uddhaccaṃ cittassa uddhatabhāvo. Idaṃte kukkuccasminti idaṃ tava kukkuccaṃ.

 

1. Rồi Tôn giả Anuruddha đi đến Tôn giả Sàriputta, sau khi đến, nói lên với Tôn giả Sàriputta những lời chào đón hỏi thăm thân hữu rồi ngồi xuống một bên. Ngồi xuống một bên, Tôn giả Anuruddha nói với Tôn giả Sàriputta:

‘‘idhāhaṃ, āvuso sāriputta, dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena sahassaṃ lokaṃ olokemi. Āraddhaṃ kho pana me vīriyaṃ asallīnaṃ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā [apammuṭṭhā (sī.), apamuṭṭhā (syā. kaṃ.)], passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṃ cittaṃ ekaggaṃ. Atha ca pana me nānupādāya [na anupādāya (sī. syā. kaṃ. pī.)] āsavehi cittaṃ vimuccatī’’ti.

- Thưa Tôn giả Sàriputta, với thiên nhăn thanh tịnh siêu nhiên, tôi có thể nh́n một ngàn thế giới. Phấn chấn là tinh tấn của tôi; không có thụ động, niệm được an trú, không có thất niệm; tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt; tâm được định tĩnh nhất tâm. Tuy vậy, tâm của tôi chưa được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có không chấp thủ.

‘‘Yaṃ kho te, āvuso anuruddha, evaṃ hoti – ‘ahaṃ dibbena cakkhunā visuddhena atikkantamānusakena sahassaṃ lokaṃ volokemī’ti, idaṃ te mānasmiṃ. Yampi te, āvuso anuruddha, evaṃ hoti – ‘āraddhaṃ kho pana me vīriyaṃ asallīnaṃ, upaṭṭhitā sati asammuṭṭhā, passaddho kāyo asāraddho, samāhitaṃ cittaṃ ekagga’nti, idaṃ te uddhaccasmiṃ. Yampi te, āvuso anuruddha, evaṃ hoti – ‘atha ca pana me nānupādāya āsavehi cittaṃ vimuccatī’ti, idaṃ te kukkuccasmiṃ. Sādhu vatāyasmā anuruddho ime tayo dhamme pahāya, ime tayo dhamme amanasikaritvā amatāya dhātuyā cittaṃ upasaṃharatū’’ti.

2. Này Hiền giả Anuruddha, Hiền giả suy nghĩ như sau: "Với thiên nhăn thanh tịnh siêu nhân, tôi có thể nh́n một ngàn thế giới". Đây là kiêu mạn của Hiền giả. Này Hiền giả Anuruddha, nếu Hiền giả suy nghĩ như sau: "Phấn chấn là tinh tấn của tôi; không có thụ động, niệm được an trú, không có thất niệm; tâm được khinh an, không có cuồng nhiệt; tâm được định tĩnh nhất tâm", đây là trạo cử của Hiền giả. Này Hiền giả Anuruddha, Hiền giả suy nghĩ như sau: "Tuy vậy, tâm của tôi chưa được giải thoát khỏi các lậu hoặc, không có không chấp thủ"; đây là hối quá của Hiền giả. Lành thay, nếu Tôn giả Anuruddha đoạn trừ ba pháp này, không tác ư ba pháp này, hăy chú tâm vào giới bất tử.

Atha kho āyasmā anuruddho aparena samayena ime tayo dhamme pahāya, ime tayo dhamme amanasikaritvā amatāya dhātuyā cittaṃ upasaṃhari [upasaṃhāsi (syā. kaṃ. pī.), upasaṃharati (ka.)]. Atha kho āyasmā anuruddho eko vūpakaṭṭho appamatto ātāpī pahitatto viharanto nacirasseva – yassatthāya kulaputtā sammadeva agārasmā anagāriyaṃ pabbajanti, tadanuttaraṃ – brahmacariyapariyosānaṃ diṭṭheva dhamme sayaṃ abhiññā sacchikatvā upasampajja vihāsi. ‘‘Khīṇā jāti, vusitaṃ brahmacariyaṃ, kataṃ karaṇīyaṃ, nāparaṃ itthattāyā’’ti abbhaññāsi. Aññataro ca panāyasmā anuruddho arahataṃ ahosīti. Aṭṭhamaṃ.

3. Rồi Tôn giả Anuruddha, sau môt thời gian, sau khi đoạn trừ ba pháp này, sau khi không tác ư ba pháp này, chú tâm vào giới bất tử. Rồi Tôn giả Anuruddha sống một ḿnh, an tịnh, không phóng dật, nhiệt tâm, tinh cần, không bao lâu đạt được mục đích mà một thiện nam tử chơn chánh xuất gia, từ bỏ gia đ́nh, sống không gia đ́nh. Chính là vô thượng cứu cánh Phạm hạnh, ngay trong hiện tại, tự ḿnh với thắng trí, sau khi chứng ngộ, chứng đạt, vị ấy an trú. Vị ấy chứng tri: "Sanh đă tận, Phạm hạnh đă thành, các việc nên làm đă làm, không c̣n trở lui trạng thái này nữa. Tôn giả Anuruddha trở thành một vị A-la-hán nữa.

9. Paṭicchannasuttaṃ

9. Paṭicchannasuttavaṇṇanā

129.- Che Giấu

132. ‘‘Tīṇimāni, bhikkhave, paṭicchannāni āvahanti [vahanti (sī. syā. kaṃ. pī.)], no vivaṭāni. Katamāni tīṇi?

132. Navame āvahantīti niyyanti. Paṭicchanno āvahatīti paṭicchannova hutvā niyyāti. Vivaṭo virocatīti ettha ekato ubhato attato sabbatthakatoti catubbidhā vivaṭatā veditabbā. Tattha ekato vivaṭaṃ nāma asādhāraṇasikkhāpadaṃ. Ubhato vivaṭaṃ nāma sādhāraṇasikkhāpadaṃ. Attato vivaṭaṃ nāma paṭiladdhadhammaguṇo. Sabbatthakavivaṭaṃ nāma tepiṭakaṃ buddhavacanaṃ.

1. - Này các Tỷ-kheo, có ba pháp này được che giấu khi thực hành, không có hiển lộ. Thế nào là ba?

Mātugāmo, bhikkhave, paṭicchanno āvahati, no vivaṭo; brāhmaṇānaṃ, bhikkhave, mantā paṭicchannā āvahanti, no vivaṭā ; micchādiṭṭhi, bhikkhave, paṭicchannā āvahati, no vivaṭā. Imāni kho, bhikkhave, tīṇi paṭicchannāni āvahanti, no vivaṭāni.

Sở hành của nữ nhân, này các Tỷ-kheo, được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ. Chú thuật của Bà-la-môn, này các Tỷ-kheo, được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ. Tà kiến, này các Tỷ-kheo, được che dấu khi thực hành, không có hiển lộ. Ba pháp này, này các Tỷ-kheo, được che giấu khi thực hành, không có hiển lộ.

‘‘Tīṇimāni , bhikkhave, vivaṭāni virocanti, no paṭicchannāni. Katamāni tīṇi? Candamaṇḍalaṃ, bhikkhave, vivaṭaṃ virocati, no paṭicchannaṃ; sūriyamaṇḍalaṃ, bhikkhave, vivaṭaṃ virocati, no paṭicchannaṃ; tathāgatappavedito dhammavinayo, bhikkhave, vivaṭo virocati, no paṭicchanno.

2. Này các Tỷ-kheo, ba pháp này chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Vành tṛn của mặt trăng, này các Tỷ-kheo, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Vành tṛn của mặt trời, này các Tỷ-kheo, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu. Pháp và Luật được Thế Tôn tuyên thuyết, này các Tỷ-kheo, chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu.

Imāni kho, bhikkhave, tīṇi vivaṭāni virocanti, no paṭicchannānī’’ti. Navamaṃ.

Ba pháp này chói sáng, được hiển lộ, không có che giấu.

10. Lekhasuttaṃ

10. Lekhasuttavaṇṇanā

130.- Chữ Viết Trên Đá, Trên Đất, Trên Nước.

133. ‘‘Tayome, bhikkhave, puggalā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame tayo?

133. Dasame abhiṇhanti abhikkhaṇaṃ nirantaraṃ. Āgāḷhenāti gāḷhena kakkhaḷena. Pharusenāti pharusavacanena. Gāḷhaṃ katvā pharusaṃ katvā vuccamānopīti attho. Amanāpenāti manaṃ anallīyantena avaḍḍhantena. Sandhiyatimevāti ghaṭiyatiyeva. Saṃsandatimevāti nirantarova hoti. Sammodatimevāti ekībhāvameva gacchati. Sesaṃ sabbattha uttānamevāti.

Kusināravaggo tatiyo.

1. - Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời. Thế nào là ba?

Pāsāṇalekhūpamo puggalo, pathavilekhūpamo puggalo, udakalekhūpamo puggalo.

Hạng người như chữ viết trên đá, hạng người như chữ viết trên đất, hạng người như chữ viết trên nước.

Katamo ca, bhikkhave, pāsāṇalekhūpamo puggalo?

Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như chữ viết trên đá?

Idha, bhikkhave, ekacco puggalo abhiṇhaṃ kujjhati. So ca khvassa kodho dīgharattaṃ anuseti.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này tiếp tục lâu dài.

Seyyathāpi, bhikkhave, pāsāṇe lekhā na khippaṃ lujjati vātena vā udakena vā, ciraṭṭhitikā hoti;

Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên đá không bị gió hay nước tẩy xóa mau chóng, được tồn tại lâu dài.

evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekacco puggalo abhiṇhaṃ kujjhati. So ca khvassa kodho dīgharattaṃ anuseti. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, pāsāṇalekhūpamo puggalo.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người như chữ được viết trên đá.

‘‘Katamo ca, bhikkhave, pathavilekhūpamo puggalo?

2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như chữ viết trên đất?

Idha, bhikkhave, ekacco puggalo abhiṇhaṃ kujjhati. So ca khvassa kodho na dīgharattaṃ anuseti.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này không tiếp tục lâu dài.

Seyyathāpi, bhikkhave, pathaviyā lekhā khippaṃ lujjati vātena vā udakena vā, na ciraṭṭhitikā hoti;

Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên đất bị gió hay nước tẩy xóa mau chóng, không có tồn tại lâu dài.

evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekacco puggalo abhiṇhaṃ kujjhati. So ca khvassa kodho na dīgharattaṃ anuseti. Ayaṃ vuccati, bhikkhave, pathavilekhūpamo puggalo.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có người luôn luôn phẫn nộ và phẫn nộ của người này không có tiếp tục lâu dài. Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người như chữ được viết trên đất.

‘‘Katamo ca, bhikkhave, udakalekhūpamo puggalo?

3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là hạng người như chữ viết trên nước?

Idha, bhikkhave, ekacco puggalo āgāḷhenapi vuccamāno pharusenapi vuccamāno amanāpenapi vuccamāno sandhiyatimeva [… yeva (syā. kaṃ.) … ceva (pī.)] saṃsandatimeva [… yeva (syā. kaṃ.) … ceva (pī.)] sammodatimeva [… yeva (syā. kaṃ.) … ceva (pī.)].

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có người dầu bị nói một cách kịch liệt, dầu có bị nói một cách ác độc, dầu có bị nói một cách thô lỗ, tuy vậy vẫn dễ dàng ḥa hợp, thân thiện, và hoan hỷ.

Seyyathāpi, bhikkhave, udake lekhā khippaṃyeva paṭivigacchati, na ciraṭṭhitikā hoti;

Này các Tỷ-kheo, ví như chữ viết trên nước được mau chóng biến mất, không có tồn tại lâu dài.

evamevaṃ kho, bhikkhave, idhekacco puggalo āgāḷhenapi vuccamāno pharusenapi vuccamāno amanāpenapi vuccamāno sandhiyatimeva saṃsandatimeva sammodatimeva.

Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có người dầu bị nói một cách kịch liệt, dầu có bị nói một cách ác độc, dầu có bị nói một cách thô lỗ, tuy vậy vẫn dễ dàng ḥa hợp, thân thiện, và hoan hỷ.

Ayaṃ vuccati, bhikkhave, udakalekhūpamo puggalo.

Này các Tỷ-kheo, đây được gọi là hạng người như chữ được viết trên nước.

Ime kho, bhikkhave, tayo puggalā santo saṃvijjamānā lokasmi’’nti [pu. pa. 115]. Dasamaṃ.

Kusināravaggo terasamo.

Tassuddānaṃ –

Kusinārabhaṇḍanā ceva, gotamabharaṇḍuhatthako;

Kaṭuviyaṃ dve anuruddhā, paṭicchannaṃ lekhena te dasāti.

Ba hạng người này, này các Tỷ-kheo, có mặt, xuất hiện ở đời.

 

Phân đoạn song ngữ: Nga Tuyet

Updated 6-6-2019 

 

 

Mục Lục Kinh Tăng Chi Bộ Pali Việt

 


 

Aṅguttaranikāya

 

Aṅguttaranikāya (aṭṭhakathā)

 

Kinh Tăng Chi Bộ