ANGUTTARA NIKAYA – TĂNG CHI BỘ KINH

Chương IV - Bốn Pháp (Catukkanipātapāḷi)

 

CHÁNH KINH PALI

CHÚ GIẢI PALI

BẢN DỊCH VIỆT

(12) 2. Kesivaggo

(12) 2. Kesivaggo

XII. Phẩm Kesi

1. Kesisuttaṃ

1. Kesisuttavaṇṇanā

(I) (111) Kesi

111. Atha kho kesi assadammasārathi yena bhagavā tenupasaṅkami; upasaṅkamitvā bhagavantaṃ abhivādetvā ekamantaṃ nisīdi. Ekamantaṃ nisinnaṃ kho kesiṃ assadammasārathiṃ bhagavā etadavoca –

111. Dutiyassa paṭhame kesīti tassa nāmaṃ. Assadamme sāretīti assadammasārathi. Saṇhenapi vinetītiādīsu tassa anucchavikaṃ sakkāraṃ katvā subhojanaṃ bhojetvā madhurapānaṃ pāyetvā muduvacanena samudācaritvā damento saṇhena dameti nāma, jāṇubandhanamukhabandhanādīhi ceva patodavijjhanakasābhighātapharusavacanehi ca damento pharusena dameti nāma, kālena kālaṃ tadubhayaṃ karonto saṇhapharusena dameti nāma.

 

1. Rồi Kesi, người đánh xe điều phục ngựa đi đến Thế tôn, sau khi đến, đảnh lễ Thế tôn rồi ngồi xuống một bên. Thế tôn nói với Kesi, người đánh xe điều phục ngựa đang ngồi một bên:

‘‘tvaṃ khosi, kesi, paññāto assadammasārathīti [saññāto assadammasārathi (sī. syā. kaṃ. pī.)]. Kathaṃ pana tvaṃ, kesi, assadammaṃ vinesī’’ti?

2. - Này Kesi, Ông là người đánh xe điều phục ngựa, có chế ngự. Và này Kesi, Ông nhiếp phục ngựa như thế nào?

‘‘Ahaṃ kho, bhante, assadammaṃ saṇhenapi vinemi, pharusenapi vinemi , saṇhapharusenapi vinemī’’ti.

- Bạch Thế tôn, con nhiếp phục ngựa đáng được điều phục với lời nói mềm mỏng; con nhiếp phục ngựa đáng được điều phục với lời thô ác; con nhiếp phục ngựa đáng được điều phục với lời nói mềm mỏng và thô ác.

‘‘Sace te, kesi, assadammo saṇhena vinayaṃ na upeti, pharusena vinayaṃ na upeti, saṇhapharusena vinayaṃ na upeti, kinti naṃ karosī’’ti?

- Này Kesi, nếu con ngựa đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không chịu nhiếp phục với lời nói thô ác, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và thô ác, thời Ông làm ǵ với con ngựa ấy?

‘‘Sace me, bhante, assadammo saṇhena vinayaṃ na upeti, pharusena vinayaṃ na upeti, saṇhapharusena vinayaṃ na upeti; hanāmi naṃ, bhante. Taṃ kissa hetu?

- Bạch Thế tôn, nếu con ngựa đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không chịu nhiếp phục với lời nói thô ác, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và thô ác của con, thời bạch Thế tôn, con giết nó. V́ sao?

Mā me ācariyakulassa avaṇṇo ahosī’’ti.

V́ mong rằng nó không làm mất danh dự cho gia đ́nh thầy của con!

‘‘Bhagavā pana, bhante, anuttaro purisadammasārathi. Kathaṃ pana, bhante, bhagavā purisadammaṃ vinetī’’ti?

Nhưng bạch Thế tôn, Thế tôn là bậc Vô thượng, đánh xe điều ngự những ai đáng được điều ngự, như thế nào Thế tôn nhiếp phục những ai đáng được điều phục?

 ‘‘Ahaṃ kho, kesi, purisadammaṃ saṇhenapi vinemi, pharusenapi vinemi, saṇhapharusenapi vinemi.

3 - Này Kesi, Ta nhiếp phục người đáng được nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, Ta nhiếp phục với lời nói cứng rắn, Ta nhiếp phục với lời nói vừa mềm mỏng, vừa cứng rắn.

Tatridaṃ, kesi, saṇhasmiṃ – iti kāyasucaritaṃ iti kāyasucaritassa vipāko, iti vacīsucaritaṃ iti vacīsucaritassa vipāko, iti manosucaritaṃ iti manosucaritassa vipāko, iti devā, iti manussāti.

Tại đây, này Kesi, đây là với lời nói mềm mỏng: Đây là thân làm thiện, đây là quả báo thân làm thiện. Đây là lời nói thiện, đây là quả báo lời nói thiện. Đây là ư nghĩ thiện, đây là quả báo ư nghĩ thiện, Đây là chư Thiên. Đây là loài Người.

Tatridaṃ, kesi, pharusasmiṃ – iti kāyaduccaritaṃ iti kāyaduccaritassa vipāko, iti vacīduccaritaṃ iti vacīduccaritassa vipāko, iti manoduccaritaṃ iti manoduccaritassa vipāko, iti nirayo, iti tiracchānayoni, iti pettivisayo’’ti.

Tại đây, này Kesi, đây là với lời nói cứng rắn: Đây là thân làm ác, đây là quả báo thân làm ác. Đây là lời nói ác, đây là quả báo lời nói ác. Đây là ư nghĩ ác, đây là quả báo ư nghĩ ác. Đây là địa ngục. Đây là loài bàng sanh. Đây là loại ngạ quỷ.

‘‘Tatridaṃ, kesi, saṇhapharusasmiṃ – iti kāyasucaritaṃ iti kāyasucaritassa vipāko, iti kāyaduccaritaṃ iti kāyaduccaritassa vipāko, iti vacīsucaritaṃ iti vacīsucaritassa vipāko, iti vacīduccaritaṃ iti vacīduccaritassa vipāko, iti manosucaritaṃ iti manosucaritassa vipāko, iti manoduccaritaṃ iti manoduccaritassa vipāko, iti devā, iti manussā, iti nirayo, iti tiracchānayoni, iti pettivisayo’’ti.

Tại đây, này Kesi, đây là lời nói vừa mềm mỏng vừa cứng rắn: Đây là thân làm thiện, đây là quả báo thân làm thiện. Đây là thân làm ác, đây là quả báo thân làm ác. Đây là lời nói thiện, đây là quả báo lời nói thiện. Đây là lời nói ác, đây là quả báo lời nói ác. Đây là ư nghĩ thiện, đây là quả báo ư nghĩ thiện. Đây là ư nghĩ ác, đây là quả báo ư nghĩ ác. Đây là chư Thiên. Đây là loài Người. Đây là địa ngục. Đây là loài bàng sanh. Đây là ngạ quỷ.

‘‘Sace te, bhante, purisadammo saṇhena vinayaṃ na upeti, pharusena vinayaṃ na upeti, saṇhapharusena vinayaṃ na upeti, kinti naṃ bhagavā karotī’’ti?

- Bạch Thế tôn, nếu người đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng của Thế tôn, không chịu nhiếp phục với lời nói cứng rắn, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và cứng rắn, thời Thế tôn làm ǵ với người ấy?

‘‘Sace me, kesi, purisadammo saṇhena vinayaṃ na upeti, pharusena vinayaṃ na upeti, saṇhapharusena vinayaṃ na upeti, hanāmi naṃ, kesī’’ti.

- Này Kesi, nếu người đáng được điều phục không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng của Ta, không chịu nhiếp phục với lời nói cứng rắn, không chịu nhiếp phục với lời nói vừa mềm mỏng vừa cứng rắn, này Kesi, thời Ta giết hại người ấy!

‘‘Na kho, bhante, bhagavato pāṇātipāto kappati. Atha ca pana bhagavā evamāha – ‘hanāmi, naṃ kesī’’’ti!

4. - Nhưng bạch Thế tôn, sát sanh không xứng đáng với Thế tôn. Tuy vậy, Thế tôn nói: "Này Kesi, Ta giết hại người ấy".

‘‘Saccaṃ, kesi! Na tathāgatassa pāṇātipāto kappati. Api ca yo purisadammo saṇhena vinayaṃ na upeti, pharusena vinayaṃ na upeti, saṇhapharusena vinayaṃ na upeti, na taṃ tathāgato vattabbaṃ anusāsitabbaṃ maññati, nāpi viññū sabrahmacārī vattabbaṃ anusāsitabbaṃ maññanti. Vadho heso, kesi, ariyassa vinaye – yaṃ na tathāgato vattabbaṃ anusāsitabbaṃ maññati, nāpi viññū sabrahmacārī vattabbaṃ anusāsitabbaṃ maññantī’’ti.

- Thấy vậy, này Kesi, sát sanh không xứng đáng với Như Lai. Nhưng người đáng được điều phục ấy không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng, không chịu nhiếp phục với lời nói cứng rắn, không chịu nhiếp phục với lời nói mềm mỏng và cứng rắn, Như Lai nghĩ rằng người ấy không xứng đáng để được nói đến, để được giáo giới. Và các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng người ấy không xứng đáng để được nói đến, để được giáo giới. Bị giết hại, này Kesi là con người này, trong giới luật của bậc Thánh, bị Như Lai nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới, bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới.

‘‘So hi nūna, bhante, suhato hoti – yaṃ na tathāgato vattabbaṃ anusāsitabbaṃ maññati, nāpi viññū sabrahmacārī vattabbaṃ anusāsitabbaṃ maññantīti. Abhikkantaṃ, bhante, abhikkantaṃ, bhante…pe… upāsakaṃ maṃ, bhante, bhagavā dhāretu ajjatagge pāṇupetaṃ saraṇaṃ gata’’nti. Paṭhamaṃ.

- Bạch Thế tôn, người ấy bị bậc Thiện Thệ giết hại là người nào bị Như Lai nghĩ rằng không xứng đáng được nói đến, không xứng đáng được giáo giới, bị các vị đồng Phạm hạnh có trí nghĩ rằng không đáng được nói đến, không đáng được giáo giới. Thật vi diệu thay, bạch Thế tôn! Thật vi diệu thay, bạch Thế tôn! ... bắt đầu từ nay, mong Thế tôn nhận con làm đệ tử cư sĩ, cho đến mạng chung, con trọn đời quy ngưỡng.

2. Javasuttaṃ

2. Javasuttavaṇṇanā

(II) (112) Tốc Độ

112. ‘‘Catūhi , bhikkhave, aṅgehi samannāgato rañño bhadro assājānīyo rājāraho hoti rājabhoggo, rañño aṅganteva saṅkhaṃ gacchati. Katamehi catūhi?

112. Dutiye ajjavenāti ujukabhāvena. Javenāti padavegena. Khantiyāti adhivāsanakkhantiyā. Soraccenāti sucibhāvasīlena. Puggalaguṇaṅgesu javenāti ñāṇajavena. Sesamettha uttānatthameva.

 

1. - Thành tựu với bốn chi phần, này các Tỷ-kheo, một con ngựa thuần thục hiền thiện của vua, xứng đáng cho nhà vua, là vật sở hữu của vua, được xem là biểu tượng của vua. Thế nào là bốn?

Ajjavena, javena, khantiyā, soraccena – imehi kho, bhikkhave, catūhi aṅgehi samannāgato rañño bhadro assājānīyo rājāraho hoti, rājabhoggo, rañño aṅganteva saṅkhaṃ gacchati.

 

‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhave, catūhi dhammehi samannāgato bhikkhu āhuneyyo hoti…pe… anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa. Katamehi catūhi?

2. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu với bốn pháp, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng được tôn trọng, xứng đáng được chắp tay, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là với bốn?

Ajjavena, javena, khantiyā, soraccena – imehi kho, bhikkhave, catūhi dhammehi samannāgato bhikkhu āhuneyyo hoti…pe… anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’’ti. Dutiyaṃ.

Với trực tánh, với tốc độ, với kham nhẫn, với thiện ngôn.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng được tôn trọng, xứng đáng được chắp tay, xứng đáng được cúng dường, là ruộng phước vô thượng ở đời.

3. Patodasuttaṃ

3. Patodasuttavaṇṇanā

 (III) (113) Gậy Thúc Ngựa

113. ‘‘Cattārome , bhikkhave, bhadrā assājānīyā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame cattāro?

113. Tatiye patodacchāyanti vijjhanatthaṃ ukkhittassa patodassa chāyaṃ. Saṃvijjatīti ‘‘javo me gahetabbo’’ti sallakkhaṇavasena saṃvijjati. Saṃvegaṃ āpajjatīti saṃvegaṃ paṭipajjati lomavedhaviddhoti lomakūpe patodavedhena viddhamatto. Cammavedhaviddhoti chavicammaṃ chindantena patodavedhena viddho. Aṭṭhivedhaviddhoti aṭṭhiṃ bhindantena vedhena viddho. Kāyenāti nāmakāyena. Paramasaccanti nibbānaṃ. Sacchikarotīti passati. Paññāyāti sahavipassanāya maggapaññāya.

 

1. - Có bốn loài ngựa hiền thiện thuần thục này, này các Tỷ-kheo, có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Idha, bhikkhave, ekacco bhadro assājānīyo patodacchāyaṃ disvā saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati – ‘kiṃ nu kho maṃ ajja assadammasārathi kāraṇaṃ kāressati, kimassāhaṃ [kathamassāhaṃ (ka.)] paṭikaromī’ti!

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa liền bị dao động, kích thích nghĩ rằng: "Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm ǵ, và ta đáp ứng thế nào?"

Evarūpopi, bhikkhave, idhekacco bhadro assājānīyo hoti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loại ngựa hiền thiện thuần thục.

Ayaṃ, bhikkhave, paṭhamo bhadro assājānīyo santo saṃvijjamāno lokasmiṃ.

Này các Tỷ-kheo, đây là loại ngựa hiền thiện thuần thục thứ nhất, có mặt, hiện hữu ở đời.

‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, idhekacco bhadro assājānīyo na heva kho patodacchāyaṃ disvā saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati, api ca kho lomavedhaviddho saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati – ‘kiṃ nu kho maṃ ajja assadammasārathi kāraṇaṃ kāressati, kimassāhaṃ paṭikaromī’ti!

2. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích. Nhưng khi bị gậy thúc ngựa đâm vào lông, nó liền bị dao động, kích thích, nghĩ rằng: "Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm ǵ, và ta đáp ứng thế nào?"

Evarūpopi, bhikkhave, idhekacco bhadro assājānīyo hoti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục.

Ayaṃ, bhikkhave, dutiyo bhadro assājānīyo santo saṃvijjamāno lokasmiṃ.

Này các Tỷ-kheo, đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục thứ hai, có mặt, hiện hữu ở đời.

‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, idhekacco bhadro assājānīyo na heva kho patodacchāyaṃ disvā saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati nāpi lomavedhaviddho saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati, api ca kho cammavedhaviddho saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati – ‘kiṃ nu kho maṃ ajja assadammasārathi kāraṇaṃ kāressati, kimassāhaṃ paṭikaromī’ti!

3. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích. Khi bị gậy thúc ngựa đâm vào lông, nó không bị dao động, kích thích. Nhưng khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt, liền bị dao động, kích thích, nghĩ rằng: "Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm ǵ và ta đáp ứng thế nào?"

Evarūpopi, bhikkhave, idhekacco bhadro assājānīyo hoti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục.

Ayaṃ, bhikkhave, tatiyo bhadro assājānīyo santo saṃvijjamāno lokasmiṃ.

Này các Tỷ-kheo, đây là loài ngựa hiền thiện thuần thục thứ ba, có mặt, hiện hữu ở đời.

‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, idhekacco bhadro assājānīyo na heva kho patodacchāyaṃ disvā saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati nāpi lomavedhaviddho saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati nāpi cammavedhaviddho saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati, api ca kho aṭṭhivedhaviddho saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati – ‘kiṃ nu kho maṃ ajja assadammasārathi kāraṇaṃ kāressati, kimassāhaṃ paṭikaromī’ti !

4. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có loài ngựa hiền thiện thuần thục, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, không bị dao động, kích thích; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào lông, không bị dao động, kích thích; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt, không bị dao động, kích thích; bị cây gậy thúc ngựa đâm vào xương, bị dao động, kích thích, nghĩ rằng: "Hôm nay, người đánh xe điều ngự ngựa sẽ bảo ta làm ǵ và ta đáp ứng thế nào?"

Evarūpopi, bhikkhave, idhekacco bhadro assājānīyo hoti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục.

Ayaṃ, bhikkhave, catuttho bhadro assājānīyo santo saṃvijjamāno lokasmiṃ.

Này các Tỷ-kheo, đây là loài ngựa hiền thiện, thuần thục thứ tư, có mặt, hiện hữu ở đời.

Ime kho, bhikkhave, cattāro bhadrā assājānīyā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ.

Này các Tỷ-kheo, có bốn loài ngựa hiền thiện, thuần thục, có mặt, hiện hữu ở đời.

‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhave, cattārome bhadrā purisājānīyā santo saṃvijjamānā lokasmiṃ. Katame cattāro?

5. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người hiền thiện, thuần thục này có mặt, hiện hữu ở đời. Thế nào là bốn?

Idha, bhikkhave, ekacco bhadro purisājānīyo suṇāti – ‘amukasmiṃ nāma gāme vā nigame vā itthī vā puriso vā dukkhito vā kālaṅkato [kālakato (sī. syā. kaṃ. pī.)] vā’ti. So tena saṃvijjati, saṃvegaṃ āpajjati. Saṃviggo yoniso padahati. Pahitatto kāyena ceva paramasaccaṃ [paramatthasaccaṃ (ka.) ma. ni. 2.183 passitabbaṃ] sacchikaroti, paññāya ca ativijjha passati.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, có hạng người hiền thiện, thuần thục nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay bị mạng chung; người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lư tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ được tối thắng sự thật; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy.

Seyyathāpi so, bhikkhave, bhadro assājānīyo patodacchāyaṃ disvā saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati; tathūpamāhaṃ, bhikkhave, imaṃ bhadraṃ purisājānīyaṃ vadāmi.

Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện, thuần thục ấy, thấy bóng cây gậy thúc ngựa, bị dao động kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy.

Evarūpopi, bhikkhave, idhekacco bhadro purisājānīyo hoti. Ayaṃ, bhikkhave, paṭhamo bhadro purisājānīyo santo saṃvijjamāno lokasmiṃ.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ nhất có mặt, hiện hữu ở đời.

‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, idhekacco bhadro purisājānīyo na heva kho suṇāti – ‘amukasmiṃ nāma gāme vā nigame vā itthī vā puriso vā dukkhito vā kālaṅkato vā’ti, api ca kho sāmaṃ passati itthiṃ vā purisaṃ vā dukkhitaṃ vā kālaṅkataṃ vā. So tena saṃvijjati, saṃvegaṃ āpajjati. Saṃviggo yoniso padahati. Pahitatto kāyena ceva paramasaccaṃ sacchikaroti, paññāya ca ativijjha passati.

6. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện, thuần thục không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị đau khổ hay bị mệnh chung, nhưng khi tự ḿnh thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ đau hay mệnh chung, người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lư tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy.

Seyyathāpi so, bhikkhave, bhadro assājānīyo lomavedhaviddho saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati; tathūpamāhaṃ, bhikkhave, imaṃ bhadraṃ purisājānīyaṃ vadāmi.

Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào da, bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy.

Evarūpopi, bhikkhave, idhekacco bhadro purisājānīyo hoti. Ayaṃ, bhikkhave, dutiyo bhadro purisājānīyo santo saṃvijjamāno lokasmiṃ.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ hai có mặt, hiện hữu ở đời.

‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, idhekacco bhadro purisājānīyo na heva kho suṇāti – ‘amukasmiṃ nāma gāme vā nigame vā itthī vā puriso vā dukkhito vā kālaṅkato vā’ti, nāpi sāmaṃ passati itthiṃ vā purisaṃ vā dukkhitaṃ vā kālaṅkataṃ vā, api ca khvassa ñāti vā sālohito vā dukkhito vā hoti kālaṅkato vā. So tena saṃvijjati, saṃvegaṃ āpajjati. Saṃviggo yoniso padahati. Pahitatto kāyena ceva paramasaccaṃ sacchikaroti, paññāya ca ativijjha passati.

7. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện, thuần thục không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay bị mệnh chung, không có tự ḿnh thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ đau hay mệnh chung. Nhưng, khi có một người bà con hay người đồng một huyết thống khổ đau hay bị mệnh chung, người ấy do vậy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lư tinh cần. Do tinh cần, với thân vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy.

Seyyathāpi so, bhikkhave, bhadro assājānīyo cammavedhaviddho saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati; tathūpamāhaṃ, bhikkhave, imaṃ bhadraṃ purisājānīyaṃ vadāmi.

Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào thịt, bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy.

Evarūpopi, bhikkhave, idhekacco bhadro purisājānīyo hoti. Ayaṃ, bhikkhave, tatiyo bhadro purisājānīyo santo saṃvijjamāno lokasmiṃ.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ ba có mặt, hiện hữu ở đời.

‘‘Puna caparaṃ, bhikkhave, idhekacco bhadro purisājānīyo na heva kho suṇāti – ‘amukasmiṃ nāma gāme vā nigame vā itthī vā puriso vā dukkhito vā kālaṅkato vā’ti, nāpi sāmaṃ passati itthiṃ vā purisaṃ vā dukkhitaṃ vā kālaṅkataṃ vā, nāpissa ñāti vā sālohito vā dukkhito vā hoti kālaṅkato vā, api ca kho sāmaññeva phuṭṭho hoti sārīrikāhi vedanāhi dukkhāhi tibbāhi [tippāhi (sī. pī.)] kharāhi kaṭukāhi asātāhi amanāpāhi pāṇaharāhi. So tena saṃvijjati, saṃvegaṃ āpajjati. Saṃviggo yoniso padahati. Pahitatto kāyena ceva paramasaccaṃ sacchikaroti, paññāya ca ativijjha passati.

8. Lại nữa, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện thuần thục không có nghe tại một làng hay thị trấn kia, có người đàn bà hay người đàn ông bị khổ đau hay mệnh chung, không có tự ḿnh thấy người đàn bà hay người đàn ông khổ đau hay bị mệnh chung, không có người bà con hay người đồng một huyết thống khổ đau hay bị mệnh chung. Nhưng khi tự ḿnh cảm xúc những cảm thọ về thân khổ đau, nhói đau, chói đau, mănh liệt, kịch liệt, không phải khả hỷ, không khả ư, đoạt mạng sống, vị ấy bị dao động, kích thích. Bị kích thích, vị ấy như lư tinh cần. Do tinh cần, với thân, vị ấy chứng ngộ được sự thật tối thắng; với trí tuệ, vị ấy sau khi thể nhập, thấy được sự thật ấy.

Seyyathāpi so, bhikkhave, bhadro assājānīyo aṭṭhivedhaviddho saṃvijjati saṃvegaṃ āpajjati; tathūpamāhaṃ, bhikkhave, imaṃ bhadraṃ purisājānīyaṃ vadāmi.

Ví như, này các Tỷ-kheo, con ngựa hiền thiện thuần thục ấy, khi bị cây gậy thúc ngựa đâm vào xương mới bị dao động, kích thích, Ta nói rằng, này các Tỷ-kheo, con người hiền thiện thuần thục này giống như ví dụ ấy.

Evarūpopi, bhikkhave, idhekacco bhadro purisājānīyo hoti. Ayaṃ, bhikkhave, catuttho bhadro purisājānīyo santo saṃvijjamāno lokasmiṃ.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, ở đây có hạng người hiền thiện thuần thục. Này các Tỷ-kheo, đây là hạng người hiền thiện thuần thục thứ tư có mặt, hiện hữu ở đời.

Ime kho, bhikkhave, cattāro bhadrā purisājānīyā santo saṃvijjamānā lokasmi’’nti. Tatiyaṃ.

Này các Tỷ-kheo, có bốn hạng người hiền thiện thuần thục này có mặt, hiện hữu ở đời.

4. Nāgasuttaṃ

4. Nāgasuttavaṇṇanā

(IV) (114) Con Voi

114. ‘‘Catūhi, bhikkhave, aṅgehi samannāgato rañño nāgo rājāraho hoti rājabhoggo, rañño aṅganteva saṅkhaṃ gacchati. Katamehi catūhi?

114. Catutthe aṭṭhiṃ katvāti aṭṭhiko hutvā. Tiṇavaninnādasaddānanti ettha tiṇavoti ḍiṇḍimo, ninnādasaddoti sabbesampi ekatomissito mahāsaddo. Ḍaṃsādīsu ḍaṃsāti piṅgalamakkhikā, makasā makasāva. Khippaññeva gantā hotīti sīlasamādhipaññāvimuttivimuttiñāṇadassanāni pūretvā sīghameva gantā hoti.

 

1. - Thành tựu bốn chi phần này, này các Tỷ-kheo, con voi của vua xứng đáng cho vua, là tài sản của Vua, được xem là biểu tượng của vua. Thế nào là bốn?

Idha, bhikkhave, rañño nāgo sotā ca hoti, hantā ca, khantā ca, gantā ca.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của vua biết nghe, biết sát hại, biết nhẫn, biết đi đến.

‘‘Kathañca, bhikkhave, rañño nāgo sotā hoti?

2. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết nghe?

Idha, bhikkhave, rañño nāgo yamenaṃ hatthidammasārathi kāraṇaṃ kāreti – yadi vā katapubbaṃ yadi vā akatapubbaṃ – taṃ aṭṭhiṃ katvā [aṭṭhikatvā (sī. syā. kaṃ. pī.) a. ni. 5.140] manasi katvā sabbacetasā [sabbaṃ cetaso (sabbattha)] samannāharitvā ohitasoto suṇāti.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của vua, khi người nài sai làm một công tác, hoặc đă làm từ trước hay chưa làm từ trước, sau khi nhiệt tâm tác ư, hoàn toàn chú tâm lóng tai và lắng nghe.

Evaṃ kho, bhikkhave, rañño nāgo sotā hoti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết nghe.

‘‘Kathañca, bhikkhave, rañño nāgo hantā hoti?

3. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết sát hại?

Idha, bhikkhave, rañño nāgo saṅgāmagato hatthimpi hanati, hatthāruhampi hanati, assampi hanati, assāruhampi hanati , rathampi hanati, rathikampi hanati, pattikampi hanati.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của vua sau khi đi đến chiến trận, giết voi, giết người cưỡi voi, giết ngựa, giết người cưỡi ngựa, giết hại xe, giết hại người cưỡi xe, giết các bộ binh.

Evaṃ kho, bhikkhave, rañño nāgo hantā hoti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết sát hại.

‘‘Kathañca, bhikkhave, rañño nāgo khantā hoti?

4. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết kham nhẫn?

Idha bhikkhave, rañño nāgo saṅgāmagato khamo hoti sattippahārānaṃ asippahārānaṃ usuppahārānaṃ pharasuppahārānaṃ [‘‘pharasuppahārāna’’nti idaṃ padaṃ syāmapotthake natthi. ma. ni. 3.217 passitabbaṃ] bheripaṇavasaṅkhatiṇavaninnādasaddānaṃ.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của vua sau khi đi đến chiến trường, chịu đựng cây giáo đâm, chịu đựng kiếm chém, chịu đựng tên bắn, chịu đựng búa chặt, chịu đựng tiếng trống lớn, tiếng thanh la, tiếng tù và, tiếng trống nhỏ và các tiếng ồn ào khác.

Evaṃ kho, bhikkhave, rañño nāgo khantā hoti.

‘‘Kathañca, bhikkhave, rañño nāgo gantā hoti?

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết kham nhẫn.

5. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là con voi của vua biết đi đến?

Idha, bhikkhave, rañño nāgo yamenaṃ hatthidammasārathi disaṃ peseti – yadi vā gatapubbaṃ yadi vā agatapubbaṃ – taṃ khippameva gantā hoti.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, con voi của vua, khi người nài sai đi đến hướng nào, hoặc trước kia đă có đi hay trước kia không có đi, liền đi đến chỗ ấy một cách mau mắn.

Evaṃ kho, bhikkhave, rañño nāgo gantā hoti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua biết đi đến.

Imehi kho, bhikkhave, catūhi aṅgehi samannāgato rañño nāgo rājāraho hoti rājabhoggo, rañño aṅganteva saṅkhaṃ gacchati.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, là con voi của vua xứng đáng là của vua, là tài sản của vua, đi đến làm biểu tượng của vua.

‘‘Evamevaṃ kho, bhikkhave, catūhi dhammehi samannāgato bhikkhu āhuneyyo hoti …pe… anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassa. Katamehi catūhi? Idha, bhikkhave, bhikkhu sotā ca hoti, hantā ca, khantā ca, gantā ca.

6. Cũng vậy, này các Tỷ-kheo, thành tựu với bốn pháp, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng được tôn trọng, xứng đáng được chắp tay, xứng đáng được cúng dường, là ruộng phước vô thượng ở đời. Thế nào là bốn? Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo biết nghe, biết sát hại, biết kham nhẫn, biết đi đến.

 ‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu sotā hoti?

7. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết nghe?

Idha, bhikkhave, bhikkhu tathāgatappavedite dhammavinaye desiyamāne aṭṭhiṃ katvā manasi katvā sabbacetasā samannāharitvā ohitasoto dhammaṃ suṇāti.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo khi Pháp và Luật do Như Lai thuyết giảng, sau khi nhiệt tâm tác ư hoàn toàn, chú tâm và lắng nghe.

Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu sotā hoti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết nghe.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu hantā hoti?

8. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết sát hại?

Idha, bhikkhave, bhikkhu uppannaṃ kāmavitakkaṃ nādhivāseti pajahati vinodeti (hanati) [( ) natthi sī. syā. pī. potthakesu. a. ni. 4.164 paṭipadāvagge catutthasutte pana ‘‘sametī’’ti padaṃ sabbatthapi dissati] byantīkaroti anabhāvaṃ gameti, uppannaṃ byāpādavitakkaṃ…pe… uppannaṃ vihiṃsāvitakkaṃ…pe… uppannuppanne pāpake akusale dhamme nādhivāseti pajahati vinodeti hanati byantīkaroti anabhāvaṃ gameti.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo không có chấp nhận dục tầm đă khởi lên, từ bỏ, gạn lọc, chấm dứt, làm cho không hiện hữu, không có chấp nhận sân tầm đă khởi lên ... không có chấp nhận hại tầm đă khởi lên, từ bỏ, gạn lọc, chấm dứt, làm cho không hiện hữu.

Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu hantā hoti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết sát hại.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu khantā hoti?

9. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết kham nhẫn?

Idha, bhikkhave, bhikkhu khamo hoti sītassa uṇhassa jighacchāya pipāsāya, ḍaṃsamakasavātātapasarīsapasamphassānaṃ duruttānaṃ durāgatānaṃ vacanapathānaṃ uppannānaṃ sārīrikānaṃ vedanānaṃ dukkhānaṃ tibbānaṃ kharānaṃ kaṭukānaṃ asātānaṃ amanāpānaṃ pāṇaharānaṃ adhivāsakajātiko hoti.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo kham nhẫn lạnh, kham nhẫn nóng, kham nhẫn đói, khát, sự xúc chạm của ruồi, muỗi, gió, sức nóng mặt trời, các loài ḅ sát, kham nhẫn những cách nói chửi mắng, phỉ báng, chịu đựng các cảm thọ về thân, khổ đau, nhói đau, mănh liệt, không khả hỷ, không khả ư, chết điếng người.

Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu khantā hoti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết kham nhẫn.

‘‘Kathañca, bhikkhave, bhikkhu gantā hoti?

10. Và này các Tỷ-kheo, thế nào là Tỷ-kheo biết đi?

Idha, bhikkhave, bhikkhu yāyaṃ disā agatapubbā iminā dīghena addhunā yadidaṃ sabbasaṅkhārasamatho sabbūpadhipaṭinissaggo taṇhākkhayo virāgo nirodho nibbānaṃ, taṃ khippaññeva gantā hoti.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo theo phương hướng nào từ trước chưa từng đi, tại đấy, mọi hành được chỉ tịnh, mọi sanh y được từ bỏ, ái được đoạn diệt. Niết-bàn, vị ấy đi đến chỗ ấy một cách mau chóng.

Evaṃ kho, bhikkhave, bhikkhu gantā hoti.

Như vậy, này các Tỷ-kheo, là Tỷ-kheo biết đi.

Imehi kho, bhikkhave, catūhi dhammehi samannāgato bhikkhu āhuneyyo hoti…pe… anuttaraṃ puññakkhettaṃ lokassā’’ti. Catutthaṃ.

Thành tựu với bốn pháp này, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo xứng đáng được cung kính, xứng đáng được tôn trọng, xứng đáng được chắp tay, xứng đáng được cúng dường, là ruộng phước vô thượng ở đời.

5. Ṭhānasuttaṃ

5. Ṭhānasuttavaṇṇanā

(V) (115) Các Trường Hợp

 115. ‘‘Cattārimāni, bhikkhave, ṭhānāni. Katamāni cattāri?

115. Pañcame ṭhānānīti kāraṇāni. Anatthāya saṃvattatīti ahitāya avaḍḍhiyā saṃvattati. Ettha ca paṭhamaṃ opātakkhaṇanamacchabandhanasandhicchedanādibhedaṃ sadukkhaṃ savighātaṃ pāpakammaṃ veditabbaṃ, dutiyaṃ samajīvikānaṃ gihīnaṃ pupphacchaḍḍakādikammaṃ sudhākoṭṭana-gehacchādanaasuciṭṭhānasammajjanādikammañca veditabbaṃ, tatiyaṃ surāpānagandhavilepanamālāpiḷandhanādikammañceva assādavasena pavattaṃ pāṇātipātādikammañca veditabbaṃ, catutthaṃ dhammassavanatthāya gamanakāle suddhavatthacchādana-mālāgandhādīnaṃ ādāya gamanaṃ cetiyavandanaṃ bodhivandanaṃ madhuradhammakathāsavanaṃ pañcasīlasamādānanti evamādīsu somanassasampayuttaṃ kusalakammaṃ veditabbaṃ. Purisathāmeti purisassa ñāṇathāmasmiṃ. Sesadvayepi eseva nayo.

 

- Này các Tỷ-kheo, có bốn trường hợp này. Thế nào là bốn?

Atthi, bhikkhave, ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati.

Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm không thích ư, đưa đến không lợi ích cho người làm.

Atthi, bhikkhave, ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ atthāya saṃvattati.

Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm không thích ư, đưa đến lợi ích cho người làm.

Atthi, bhikkhave, ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati.

Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm được thích ư, không đưa đến lợi ích cho người làm.

Atthi, bhikkhave, ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ atthāya saṃvattati.

Có trường hợp, này các Tỷ-kheo, làm được thích ư, đưa đến lợi ích cho người làm.

‘‘Tatra, bhikkhave, yamidaṃ [yadidaṃ (syā. kaṃ. ka.)] ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati – idaṃ, bhikkhave, ṭhānaṃ ubhayeneva na kattabbaṃ maññati [paññāyati (?)].

2. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm không thích ư; không đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện không nên làm.

Yampidaṃ [yadidaṃ (ka.)] ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; imināpi naṃ [taṃ (sī. pī.) syāmapotthake natthi] na kattabbaṃ maññati.

Trường hợp này làm không thích ư, đây là trường hợp nghĩ rằng không nên làm.

Yampidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati; imināpi naṃ [taṃ (pī.) sī. syā. potthakesu natthi] na kattabbaṃ maññati.

Trường hợp làm không đem lại lợi ích cho người làm, đây là trường hợp nghĩ rằng không nên làm.

Idaṃ, bhikkhave, ṭhānaṃ ubhayeneva na kattabbaṃ maññati.

Đây là trường hợp, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện không nên làm.

‘‘Tatra, bhikkhave, yamidaṃ ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ atthāya saṃvattati – imasmiṃ, bhikkhave, ṭhāne bālo ca paṇḍito ca veditabbo purisathāme purisavīriye purisaparakkame.

3. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm không thích ư, nhưng đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, người ta có thể biết kẻ ngu, bậc trí, về sức kiên tŕ của con người, tinh tấn của con người, nỗ lực của con người.

Na, bhikkhave, bālo iti paṭisañcikkhati – ‘kiñcāpi kho idaṃ ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; atha carahidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ atthāya saṃvattatī’ti.

Và này các Tỷ-kheo, người ngu không suy xét rằng: "Dầu trường hợp này không thích ư, nhưng trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm".

So taṃ ṭhānaṃ na karoti. Tassa taṃ ṭhānaṃ akayiramānaṃ anatthāya saṃvattati. Paṇḍito ca kho, bhikkhave, iti paṭisañcikkhati – ‘kiñcāpi kho idaṃ ṭhānaṃ amanāpaṃ kātuṃ; atha carahidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ atthāya saṃvattatī’ti.

Người ấy không làm trường hợp này. Do không làm trường hợp này, nên không đưa lại lợi ích cho người ấy. C̣n người trí, này các Tỷ-kheo, suy xét rằng: "Dầu trường hợp này làm không được thích ư, nhưng trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm".

So taṃ ṭhānaṃ karoti. Tassa taṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ atthāya saṃvattati.

Người ấy làm trường hợp này. Do làm trường hợp này, nên đem lại lợi ích cho người ấy.

‘‘Tatra, bhikkhave, yamidaṃ [yadidaṃ (syā. kaṃ.)] ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ; tañca kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati – imasmimpi, bhikkhave, ṭhāne bālo ca paṇḍito ca veditabbo purisathāme purisavīriye purisaparakkame.

4. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm được thích ư, nhưng không đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, người ta có thể biết kẻ ngu, bậc trí, về sức kiên tŕ của con người, tinh tấn của con người, nỗ lực của con người.

Na, bhikkhave, bālo iti paṭisañcikkhati – ‘kiñcāpi kho idaṃ ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ; atha carahidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ anatthāya saṃvattatī’ti.

Này các Tỷ-kheo, người ngu không suy xét rằng: "Dầu trường hợp này, làm được thích ư, nhưng trường hợp này không đem lại lợi ích cho người làm".

So taṃ ṭhānaṃ karoti. Tassa taṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ anatthāya saṃvattati.

Người ấy làm trường hợp này không đem lại lợi ích cho người làm. Người ấy làm trường hợp này, và trường hợp này không đem lại lợi ích cho người ấy.

Paṇḍito ca kho, bhikkhave, iti paṭisañcikkhati – ‘kiñcāpi kho idaṃ ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ; atha carahidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ anatthāya saṃvattatī’ti.

C̣n người trí, này các Tỷ-kheo, suy xét như sau: "Dầu trường hợp này làm được thích ư, nhưng không đem lại lợi ích cho người làm".

So taṃ ṭhānaṃ na karoti. Tassa taṃ ṭhānaṃ akayiramānaṃ atthāya saṃvattati.

Vị ấy không làm trường hợp này, do không làm trường hợp này, nên đem lại lợi ích cho người ấy.

‘‘Tatra, bhikkhave, yamidaṃ ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ, tañca kayiramānaṃ atthāya saṃvattati – idaṃ, bhikkhave, ṭhānaṃ ubhayeneva kattabbaṃ maññati.

5. Tại đây, này các Tỷ-kheo, trường hợp này làm được thích ư, và đem lại lợi ích cho người làm; trong trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện đều nên làm.

Yampidaṃ ṭhānaṃ manāpaṃ kātuṃ, imināpi naṃ kattabbaṃ maññati;

Trường hợp này, làm được thích ư, đây là trường hợp nghĩ rằng cần phải làm.

yampidaṃ ṭhānaṃ kayiramānaṃ atthāya saṃvattati, imināpi naṃ kattabbaṃ maññati.

Trường hợp này đem lại lợi ích cho người làm, đây là trường hợp nghĩ rằng cần phải làm.

Idaṃ, bhikkhave, ṭhānaṃ ubhayeneva kattabbaṃ maññati.

Trường hợp này, này các Tỷ-kheo, nghĩ rằng về cả hai phương diện đều phải làm.

Imāni kho, bhikkhave, cattāri ṭhānānī’’ti. Pañcamaṃ.

Này các Tỷ-kheo, có bốn trường hợp này.

6. Appamādasuttaṃ

6. Appamādasuttavaṇṇanā

(VI) (116) Không Phóng Dật

116. ‘‘Catūhi, bhikkhave, ṭhānehi appamādo karaṇīyo. Katamehi catūhi?

116. Chaṭṭhe yato khoti yadā kho. Samparāyikassāti desanāmattametaṃ, khīṇāsavo pana neva samparāyikassa, na diṭṭhadhammikassa maraṇassa bhāyati. Sova idha adhippeto. Keci pana ‘‘sammādiṭṭhi bhāvitāti vacanato sotāpannaṃ ādiṃ katvā sabbepi ariyā adhippetā’’ti vadanti.

 

1. - Trong bốn trường hợp, này các Tỷ-kheo, cần phải không phóng dật. Thế nào là bốn?

Kāyaduccaritaṃ, bhikkhave, pajahatha, kāyasucaritaṃ bhāvetha; tattha ca mā pamādattha. Vacīduccaritaṃ, bhikkhave, pajahatha, vacīsucaritaṃ bhāvetha; tattha ca mā pamādattha. Manoduccaritaṃ, bhikkhave, pajahatha, manosucaritaṃ bhāvetha; tattha ca mā pamādattha. Micchādiṭṭhiṃ, bhikkhave, pajahatha, sammādiṭṭhiṃ bhāvetha ; tattha ca mā pamādattha.

Hăy từ bỏ thân làm ác, này các Tỷ-kheo, hăy tu tập thân làm lành, và ở đây chớ có phóng dật. Hăy từ bỏ lời nói ác, này các Tỷ-kheo, hăy tu tập lời nói lành, và ở đây chớ có phóng dật. Hăy từ bỏ ư nghĩ ác, này các Tỷ-kheo, hăy tu tập ư nghĩ lành, và ở đây chớ có phóng dật. Hăy từ bỏ tà kiến, này các Tỷ-kheo, hăy tu tập chánh kiến, và ở đây chớ có phóng dật.

‘‘Yato kho, bhikkhave, bhikkhuno kāyaduccaritaṃ pahīnaṃ hoti kāyasucaritaṃ bhāvitaṃ, vacīduccaritaṃ pahīnaṃ hoti vacīsucaritaṃ bhāvitaṃ, manoduccaritaṃ pahīnaṃ hoti manosucaritaṃ bhāvitaṃ, micchādiṭṭhi pahīnā hoti sammādiṭṭhi bhāvitā, so na bhāyati samparāyikassa maraṇassā’’ti. Chaṭṭhaṃ.

2. Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đă từ bỏ thân làm ác, tu tập thân làm lành ... (như trên) ... đă từ bỏ tà kiến, đă tu tập chánh kiến, vị ấy không sợ hăi về đời sau, về chết.

7. Ārakkhasuttaṃ

7. Ārakkhasuttavaṇṇanā

(VII) (117) Hộ Tŕ

117. ‘‘Catūsu, bhikkhave, ṭhānesu attarūpena appamādo sati cetaso ārakkho karaṇīyo. Katamesu catūsu?

117. Sattame attarūpenāti attano anurūpena anucchavikena, hitakāmenāti attho. Rajanīyesūti rāgassa paccayabhūtesu. Dhammesūti sabhāvesu, iṭṭhārammaṇesūti attho. Evaṃ sabbattha nayo veditabbo. Na rajjatīti diṭṭhivasena na rajjati. Sesapadesupi eseva nayo. Na ca pana samaṇavacanahetupi gacchatīti samaṇānaṃ paravādīnaṃ vacanahetupi attano diṭṭhiṃ pahāya tesaṃ diṭṭhivasena na gacchatīti attho. Idhāpi khīṇāsavova adhippeto.

 

1. - Trong bốn trường hợp, này các Tỷ-kheo, không phóng dật, niệm và tâm hộ tŕ cần phải làm do tự ḿnh. Thế nào là bốn?

‘Mā me rajanīyesu dhammesu cittaṃ rajjī’ti attarūpena appamādo sati cetaso ārakkho karaṇīyo; ‘mā me dosanīyesu dhammesu cittaṃ dussī’ti attarūpena appamādo sati cetaso ārakkho karaṇīyo; ‘mā me mohanīyesu dhammesu cittaṃ muyhī’ti attarūpena appamādo sati cetaso ārakkho karaṇīyo; ‘mā me madanīyesu dhammesu cittaṃ majjī’ti attarūpena appamādo sati cetaso ārakkho karaṇīyo.

Với ư nghĩ: "Mong rằng đối với các pháp khiến cho tham đắm, tâm ta chớ có tham đắm!", không phóng dật, niệm và tâm hộ tŕ cần phải làm do tự ḿnh. Với ư nghĩ: "Mong rằng đối với các pháp khiến cho sân hận, tâm ta chớ có sân hận!", không phóng dật, niệm ... do tự ḿnh. Với ư nghĩ: "Mong rằng đối với các pháp khiến cho si mê, tâm ta chớ có si mê!", không phóng dật, niệm ... do tự ḿnh. Với ư nghĩ: "Mong rằng đối với các pháp khiến cho say đắm, tâm ta chớ có say đắm!", không phóng dật, niệm và tâm hộ tŕ cần phải làm do tự ḿnh.

‘‘Yato kho, bhikkhave, bhikkhuno rajanīyesu dhammesu cittaṃ na rajjati vītarāgattā, dosanīyesu dhammesu cittaṃ na dussati vītadosattā, mohanīyesu dhammesu cittaṃ na muyhati vītamohattā, madanīyesu dhammesu cittaṃ na majjati vītamadattā, so na chambhati na kampati na vedhati na santāsaṃ āpajjati, na ca pana samaṇavacanahetupi gacchatī’’ti. Sattamaṃ.

2. Khi nào, này các Tỷ-kheo, Tỷ-kheo đối với các pháp khiến cho tham đắm, tâm không tham đắm, tự ngă được ly tham; đối với các pháp khiến cho sân hận, tâm không sân hận, tự ngă được ly sân; đối với các pháp khiến cho si mê, tâm không si mê, tự ngă được ly si; đối với các pháp khiến cho say đắm, tâm không say đắm, tự ngă được ly đắm say; thời vị ấy không có sợ hăi, không có dao động, không có hốt hoảng, không rơi vào hoảng sợ, không có đi do nhân các Sa-môn có nói ǵ.

8. Saṃvejanīyasuttaṃ

8-10. Saṃvejanīyādisuttattayavaṇṇanā

(VIII) (118) Xúc Động

118. ‘‘Cattārimāni, bhikkhave, saddhassa kulaputtassa dassanīyāni saṃvejanīyāni ṭhānāni. Katamāni cattāri?

118-120. Aṭṭhame dassanīyānīti passitabbayuttakāni. Saṃvejanīyānīti saṃvegajanakāni. Navame jātibhayanti jātiṃ ārabbha uppajjanakabhayaṃ. Sesapadesupi eseva nayo. Dasame aggibhayanti aggiṃ paṭicca uppajjanakabhayaṃ. Sesapadesupi eseva nayo.

Kesivaggo dutiyo.

1. - Có bốn trú xứ, này các Tỷ-kheo, khi một tín nam thấy cần phải xúc động mănh liệt. Thế nào là bốn?

‘Idha tathāgato jāto’ti, bhikkhave, saddhassa kulaputtassa dassanīyaṃ saṃvejanīyaṃ ṭhānaṃ.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai sanh. Đây là trú xứ khi một tín nam thấy, cần phải xúc động mănh liệt.

‘Idha tathāgato anuttaraṃ sammāsambodhiṃ abhisambuddho’ti, bhikkhave, saddhassa kulaputtassa dassanīyaṃ saṃvejanīyaṃ ṭhānaṃ.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai đă giác ngộ Vô Thượng Chánh Đẳng Giác. Đây là trú xứ khi một tín nam thấy, cần phải xúc động mănh liệt.

‘Idha tathāgato anuttaraṃ dhammacakkaṃ pavattesī’ti, bhikkhave, saddhassa kulaputtassa dassanīyaṃ saṃvejanīyaṃ ṭhānaṃ.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai chuyển pháp luân vô thượng. Đây là trú xứ khi một tín nam thấy, cần phải xúc động mănh liệt.

‘Idha tathāgato anupādisesāya nibbānadhātuyā parinibbuto’ti , bhikkhave, saddhassa kulaputtassa dassanīyaṃ saṃvejanīyaṃ ṭhānaṃ.

Ở đây, này các Tỷ-kheo, Như Lai đă nhập Niết-bàn giới, không có dư. Đây là trú xứ khi một tín nam thấy, cần phải xúc động mănh liệt.

Imāni kho, bhikkhave, cattāri saddhassa kulaputtassa dassanīyāni saṃvejanīyāni ṭhānānī’’ti. Aṭṭhamaṃ.

Có bốn trú xứ, này các Tỷ-kheo, khi một tín nam thấy cần phải xúc động mănh liệt.

9. Paṭhamabhayasuttaṃ

(IX) (119) Sợ Hăi (1)

119. ‘‘Cattārimāni , bhikkhave, bhayāni. Katamāni cattāri?

- Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ hăi này. Thế nào là bốn?

Jātibhayaṃ, jarābhayaṃ, byādhibhayaṃ, maraṇabhayaṃ –

Sợ hăi về sanh, sợ hăi về già, sợ hăi về bệnh, sợ hăi về chết.

imāni kho, bhikkhave, cattāri bhayānī’’ti. Navamaṃ.

- Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ hăi này.

10. Dutiyabhayasuttaṃ

(X) (120) Sợ Hăi (2)

120. ‘‘Cattārimāni, bhikkhave, bhayāni. Katamāni cattāri?

- Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ hăi này. Thế nào là bốn?

Aggibhayaṃ, udakabhayaṃ, rājabhayaṃ, corabhayaṃ –

Sợ hăi về lửa, sợ hăi về nước, sợ hăi về vua, sợ hăi về ăn trộm.

imāni kho, bhikkhave, cattāri bhayānī’’ti. Dasamaṃ.

Kesivaggo dutiyo.

Tassuddānaṃ –

Kesi javo patodo ca, nāgo ṭhānena pañcamaṃ;

Appamādo ca ārakkho, saṃvejanīyañca dve bhayāti.

- Này các Tỷ-kheo, có bốn sự sợ hăi này.

 

 

Phân đoạn song ngữ: Nga Tuyet

Updated 6-6-2019 

 

 

Mục Lục Kinh Tăng Chi Bộ Pali Việt

 


 

Aṅguttaranikāya

 

Aṅguttaranikāya (aṭṭhakathā)

 

Kinh Tăng Chi Bộ